11. PHẨM ÐẠI
(Phần Ðầu)
117. KINH NHU NHUYẾN[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Chính Ta ngày trước ra đi xuất gia học đạo là ra đi từ chỗ ưu du, từ chỗ thong dong nhàn nhã, từ đời sống cực kỳ êm dịu[02]. Khi Ta còn ở nhà, phụ vương Duyệt-đầu-đàn[03] tạo cho Ta đủ thứ cung điện; cung điện để ở vào mùa Xuân, cung điện để ở vào mùa Hạ, cung điện để ở vào mùa Đông.
“Bởi Ta thích du ngoạn nên cách điện không xa, người lại tạo không biết bao nhiêu là ao sen[04]:
ao hoa sen xanh, ao hoa sen hồng, ao hoa sen đỏ, ao hoa sen trắng.
Trong các ao đó trồng đủ các loại hoa dưới nước: hoa sen xanh, hoa sen
hồng, hoa sen đỏ và hoa sen trắng. Nước luôn luôn đầy, hoa luôn luôn
trổ, mà những người sai dịch chăm sóc không thông suốt được hết.
“Bởi Ta thích du ngoạn nên trên bờ ao trồng các loại hoa: hoa
Tu-ma-na, hoa Bà-sư, hoa Chiêm-bặc, hoa Tu-kiền-đề, hoa Ma-đầu-kiền-đề,
hoa A-đề-mưu-đa, hoa Ba-la-đầu[05].
“Bởi Ta thích du ngoạn nên người sai bốn người tắm rửa cho Ta. Tắm
rửa cho Ta rồi lại xoa hương chiên-đàn đỏ vào khắp thân Ta. Xoa hương
vào thân Ta rồi lại khoác vào mình Ta chiếc áo lụa thật mới. Trên, dưới,
trong, ngoài đều mới mẻ. Suốt ngày đêm luôn luôn cầm lọng[06] che cho Ta, không để cho Thái tử đêm phải nhiễm sương, ngày bị nắng háp.
“Như nhà dân thường được ăn đại mạch thô, cơm gạo tẻ, cháo đậu, gừng[07],
cho đó là đồ ăn bậc nhất, nhưng người sai dịch thấp nhất của phụ vương
Duyệt-đầu-đàn của Ta lại cho như vậy là rất dở, chỉ ăn nếp trắng[08] và hào soạn mới cho là đồ ăn bậc nhất.
“Lại nữa, nếu có cầm thú nơi đồng ruộng, loại cầm thú ngon nhất như
Đề-đế-la-hòa-tra, Kiếp-tân-xà-la, Hề-mễ-hà, Lê-nê-xa, Thi-la-mễ[09]. Các loại cầm thú nơi đồng ruộng, loại cầm thú ngon nhất như vậy Ta thường được ăn.
“Ta nhớ khi xưa, lúc còn ở với phụ vương Duyệt-đầu-đàn, suốt bốn
tháng hạ, mỗi khi lên trên chánh điện đều không có người nam; chỉ toàn
là kỹ nữ để cùng vui chơi, không hề trở xuống.
“Rồi khi Ta muốn đến viên quán thì liền có ba mươi danh kỵ thượng
thặng được tuyển chọn với những hàng đại thuẫn đi dẫn đường hộ tống
trước sau, không kể những tiểu tiết khác.
“Ta có như ý túc đó[10] và sự êm dịu cực kỳ này.
“Ta còn nhớ khi xưa, lúc Ta thăm ruộng[11],
người làm ruộng nghỉ ngơi trên đám ruộng, Ta đi đến dưới gốc cây
Diêm-phù ngồi kiết già, ly dục, ly pháp ác bất thiện, có giác, có quán,
hỷ lạc do viễn ly sanh, chứng đắc được Sơ thiền, thành tựu và an trụ. Ta
nghĩ rằng: ‘Phàm phu ngu si không đa văn, tự có sẵn tật bệnh, không
thoát khỏi tật bệnh, nhưng thấy người tật bệnh thì ghê tởm, khinh bỉ,
không yêu, không thích, mà không tự quán sát mình’.
“Rồi Ta lại nghĩ: ‘Ta tự có sẵn tật bệnh, không thoát khỏi tật bệnh.
Nếu Ta thấy người tật bệnh mà ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích,
Ta không nên như vậy, vì Ta cũng có trường hợp này’. Quán sát như vậy
rồi thì tâm cống cao phát khởi do không có tật bệnh liền tự tiêu diệt.
“Ta lại nghĩ rằng: ‘Phàm phu ngu si không đa văn, tự có sẵn sự già,
không thoát khỏi sự già, nhưng thấy người già cả thì ghê tởm, khinh bỉ,
không yêu, không thích, mà không tự quán sát mình’.
“Rồi Ta lại nghĩ: ‘Ta tự có sẵn sự già, không thoát khỏi sự già. Nếu
Ta thấy người già cả mà ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, Ta
không nên như vậy, vì Ta cũng có trường hợp này’. Quán sát như vậy rồi
thì tâm cống cao phát khởi do chưa đến tuổi già liền tự tiêu diệt.
“Phàm phu ngu si không đa văn, vì chưa bị tật bệnh nên tâm tự cao, tự
phụ, rồi do tham dục mà sanh si ám, không tu tập phạm hạnh. Phàm phu
ngu si không đa văn vì còn trẻ trung nên tự cao tự phụ, không tu tập
phạm hạnh, rồi tham dục mà sanh si ám. Phàm phu ngu si không đa văn vì
còn thọ mạng nên tự cao tự phụ, phóng dật, rồi do tham dục mà sanh si
ám, không tu tập phạm hạnh.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:
- Tuổi già, tật bệnh
- Và sự tử vong
- Là pháp có sẵn
- Người ngu khinh nhờn
- Nếu ta miệt thị
- Tưởng mình không vướng
- Thật chẳng hợp lý
- Vì đó sự thường
- Ai hành như thế
- Biết pháp ly sanh
- Không bệnh, còn trẻ
- Tưởng thọ kiêu căng
- Đoạn trừ kiêu ngạo
- Vô dục bình an
- Ai hiểu như vậy
- Nơi dục sợ gì!
- Được vô hữu tưởng
- Tịnh hạnh thanh tu.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01]
Bản Hán, quyển 29. Tương đương Pāli: A.iii.38 Sukhumāla; A.ii.39 Mada.
- [02]
Tùng ưu du, thung dung nhàn lạc, cực nhu nhuyến 從 優 遊 從 容 閑 樂
極 柔 軟. Pāli: sukhumālo parasakhumālo accanta sukhumālo, êm dịu, rất êm
dịu, vô cùng êm dịu.
- [03] Duyệt-đầu-đàn 悅 頭 檀, tức vua Tịnh Phạn, Pāli: Suddhodana.
- [04]
Hoa trì 華 池. Pāli: Pokkharanī.
- [05]
Hoa Tu-ma-na 修 摩 那, hoa Bà-sư 婆 師, hoa Chiêm-bặc 瞻 蔔, hoa
Tu-kiền-đề 修 犍 提, hoa Ma-đầu-kiền-đề 摩 頭 犍 提, hoa A-đề-mưu-đa 阿 提 牟 多,
hoa Ba-la-đầu 波 羅 頭. Bản Pāli không đề cập các loại hoa này.
- [06]
Tán cái 繖 蓋, đúng ra phải nói “bạch tán cái”, biểu hiện của vương gia. Pāli: setachattā.
- [07]
Hán: thô quảng [勹/鹿] [麥+廣], mạch phạn 麥 飯, đậu canh 豆 羹, khương thái 薑
菜. Pāli: kaṇājakaṃ bhojanaṃ… vilaṅgadutiyaṃ, cháo tấm và sữa chua.
- [08] Hán: canh lương 粳 糧.
- [09]
Đề-đế-la-hòa-tra 提 帝 邏 惒 吒; Pāli: tittirapatta (?), một loại
chim trĩ, hay chim chá-cô. Kiếp-tân-xà-la 劫 賓 闍 邏, Pāli: kapinjala (?),
chim trĩ. Hề-mễ-hà 奚 米 何, Pāli: hamsa (?), chim nhạn. Lê-nê-xa 犁 泥 奢,
Thi-la-mễ 施 羅 米, không tìm ra tương đương âm Pāli. Trong bản Pāli không
đề cập các loại thực phẩm này.
- [10]
Như ý túc 如 意 足 (Pāli: iḍhi-pāda), thường dịch là thần
thông. Đây có nghĩa là quyền lực. Đoạn trên. kể bốn quyền lực của thiếu
niên con nhà phú quý: gấm vóc lụa là, cung điện cho các mùa, vườn hoa
tráng lệ, và thức ăn thượng hạng.
- [11]
Xem cht.15 Kinh 32.
-ooOoo-
118. KINH LONG TƯỢNG[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, ở tại Đông viên giảng đường Lộc mẫu[02].
Bấy giờ vào lúc xế trưa, Đức Thế Tôn từ chỗ tĩnh tọa đứng dậy, bước ra khỏi tịnh thất và nói:
“Ô-đà-di[03], Ta và ngươi hãy đi đến Đông hà để tắm[04].”
Tôn giả Ô-đà-di đáp:
“Kính
vâng.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn cùng với Tôn giả Ô-đà-di đi đến Đông hà,
cởi bỏ y phục trên bờ sông rồi xuống nước tắm. Tắm xong, lên bờ lau mình
và mặc y phục vào.
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc có một con voi chúa tên là Niệm[05], đang lội ngang qua Đông hà với tất cả các loại kỹ nhạc được tấu lên. Dân chúng trông thấy nói rằng:
“Đây phải chăng là rồng trong loài rồng, là Đại long vương hay là con gì vậy?[06]“
Tôn giả Ô-đà-di chắp tay hướng về Đức Phật bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con voi thân hình to lớn cho nên dân chúng trông
thấy nói rằng: ‘Đây phải chăng là rồng trong loài rồng, là Đại long
vương hay là con gì vậy?’
Đức Thế Tôn nói:
“Đúng vậy, Ô-đà-di! Đúng vậy, Ô-đà-di, con voi có thân hình to
lớn nên dân chúng trông thấy nói rằng: ‘Đây phải chăng là rồng trong
loài rồng, là Đại long vương hay là con gì vậy?’
“Này Ô-đà-di, ngựa, lạc đà, trâu, lừa, rắn[07],
người, cây cối... nếu có thân hình to lớn, này Ô-đà-di, dân chúng trông
thấy cũng nói rằng: ‘Đây phải chăng là rồng trong loài rồng, là Đại
long vương hay là con gì vậy?’
“Ô-đà-di, nếu Trời, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí (hay bất cứ ai)
từø người cho đến trời ở trên đời này mà không làm hại bằng thân, miệng,
ý, Ta nói vị ấy chính là rồng[08].
“Ô-đà-di, Như Lai ở trong thế gian này bao gồm Trời, Ma, Phạm,
Sa-môn, Phạm chí (hay bất cứ ai) từ người cho đến trời đều không dùng
thân, miệng, ý để làm hại, cho nên Ta được gọi là rồng.”
Khi ấy, Tôn giả Ô-đà-di chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch:
“Bạch Thế Tôn, mong Đức Thế Tôn gia trì cho con thêm uy lực.
Mong Đức Thiện Thệ gia trì cho con thêm uy lực để con được ở trước Phật,
bằng bài tụng liên hệ đến rồng[09] mà tán thán Đức Thế Tôn.”
Đức Thế Tôn nói:
“Tùy ý ngươi muốn.”
Khi ấy Tôn giả Ô-đà-di ở trước Đức Phật, dùng bài tụng liên hệ đến rồng tán thán Đức Thế Tôn rằng:
- Chánh
giác sanh nhân gian,
- Tự chế ngự, đắc định.
- Phạm hạnh bước vững vàng,
- Bình an, tâm ý tĩnh.
- Nhân loại đều xưng tôn;
- Vượt ngoài tất cả pháp.
- Chư Thiên đều kính ngưỡng;
- Chí Chân, Bậc Vô Trước.
- Từ rừng, bỏ rừng đi;
- Siêu việt toàn kết sử;
- Xả dục, sống vô dục,
- Vàng ròng trong khối đá.
- Mặt trời trên hư không,
- Tối thượng giữa loài rồng,
- Vang lừng danh Chánh Giác,
- Hy-mã điệp muôn trùng.
- Tuyệt đối không não hại,
- Đại long, thật Đại long;
- Chắc thật, đây tối thượng,
- Rồng thiêng giữa loài rồng!
- Ôn nhuần và vô hại,
- Hai chân rồng là đây.
- Khổ hạnh và phạm hạnh,
- Là bước đi của rồng.
- Rồng thiêng, tay là tín;
- Hai đức, xả là ngà;
- Tuệ đầu và niệm cổ;
- Phân biệt pháp, tư duy;
- Bụng lớn, chứa muôn pháp;
- Độc cư: đôi cánh tay;
- Rồng tu quán hơi thở;
- Nội tĩnh, tâm tinh chuyên;
- Chánh định, đi hay đứngï;
- Nằm thiền, ngồi cũng thiền;
- Định ý, hằng định ý;
- Là pháp thường của long.
- Thọ thực nhà thanh tịnh;
- Nhà bất tịnh không ăn;
- Ác bất tịnh, không thọ,
- Quay đi như Sư tử.
- Sở đắc những cúng dường,
- Từ tâm nên nạp thọ.
- Long thực, do tín thí;
- Vừa đủ, không đắm say.
- Đoạn trừ mọi kết sử,
- Giải thoát mọi đường dây.
- Tâm không, không trói buộc,
- Vạn nẻo bước du hành.
- Chẳng khác loài sen trắng,
- Nước sanh, nước nuôi lớn;
- Bùn lầy không nhiễm trước;
- Tuyệt sắc, hương ngào ngạt.
- Cũng vậy, tối thượng giác,
- Sanh thành trong thế gian;
- Tịnh diệu, dục không vương,
- Như hoa không nhiễm nước.
- Ví như ngọn lửa hừng;
- Bớt củi, ngọn tắt dần.
- Củi hết rồi lửa tắt;
- Như vậy lửa diệt tàn.
- Kẻ trí nói dụ này,
- Nghĩa ấy mong thấu triệt;
- Là điều long sở tri,
- Long tụng, long sở thuyết.
- Triệt đoạn dâm dục, sân,
- Trừ si, vô lậu tịnh;
- Long xả bỏ hậu thân,
- Đó là long diệt tận.
Phật thuyết như vậy. Tôn giả Ô-đà-di sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tham chiếu Pāli: A. Vi.43 Nāga; Thag. 689-704.
- [02]
Đông viên Lộc tử mẫu giảng đường 東 園 鹿 子 母 講 堂. Pāli:
Pubbārama Migāgamātu-pāsāda, giảng đường đượcc xây dựng bởi bà Visakhā,
mẹ của Miga.
- [03]
Ô-đà-di 烏 陀 夷. Pāli: Udāyi, cũng gọi là Mahā-udāyi, hay Pandita-udāyi, con của một người Bà-la-môn ở Kapilavatthu.
- [04] Đông hà 東 河. Pāli: Pubbakotthaka. Bản Pāli nói: Phật gọi ngài A-nan đi tắm.
- [05]
Long tượng danh viết Niệm 龍 象 名 曰 念. Pāli: Seto nāma nāgo (Seta, bản Hán đọc là Sati).
- [06]
Long trung long, vi đại long vương, vi thị thùy 龍 中 龍 為 大 龍 王 為 是 誰. Pāli: Nāgo vata, bho, nāgo. “Rồng kìa, các ngài, rồng kìa!”
- [07]
Nguyên Hán: hung hành 胸 行, đi bằng bụng, Pāli: Uragam, loài bò sát hay con rắn.
- [08]
Bất dĩ thân khẩu ý hại (...) thị long 不 以 身 口 意 害 是 龍. Pāli
nói: Āgum na kāgoti kāyena vācāya manasā, tam ahaṃ nāgo ti brūmi, ai
không làm ác bằng thân, miệng, ý; Ta nói người đó là nāga.
- [09]
Long tương ưng tụng 龍 相 應 頌.
-ooOoo-
119. KINH THUYẾT XỨ[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Ở đây có ba thuyết xứ[02], chứ không phải bốn hay năm. Nếu Tỳ-kheo sau khi thấy, nhân sự thấy đó nói mà nói[03] rằng: ‘Ta thấy, nghe, hiểu, biết’, Tỳ-kheo nói mà nói rằng: ‘Đây là điều tôi biết’.
“Những gì là ba? Tỳ-kheo nhân vấn đề quá khứ nói mà nói[04]
như vầy: ‘Trong thời quá khứ có’. Tỳ-kheo nhân vấn đề vị lai nói mà nói
như vầy: ‘Trong thời vị lai có’. Tỳ-kheo nhân vấn đề hiện tại nói mà
nói như vầy: ‘Trong thời hiện tại có’.
“Đó gọi là ba thuyết xứ chứ không phải bốn hay năm. Nếu Tỳ-kheo
sau khi thấy, nhân sự thấy đó nói mà nói rằng: ‘Ta thấy, nghe, hiểu
biết’. Tỳ-kheo nói mà nói rằng: ‘Đây là điều tôi biết’. Do điều được
thuyết, khéo tập được nghĩa, do không thuyết, không khéo tập được nghĩa.
“Hiền Thánh đệ tử với hai tai nhất tâm nghe pháp. Vị ấy sau khi
với hai tai nhất tâm nghe pháp, đoạn một pháp, tu một pháp, tự thân
chứng đắc[05]
một pháp. Vị ấy sau khi đã đoạn được một pháp, tu một pháp, tự thân
chứng đắc một pháp rồi, liền được chánh định. Hiền Thánh đệ tử sau khi
đã được chánh định, liền đoạn trừ hết tất cả dâm, nộ, si. Như vậy là
Hiền Thánh đệ tử chứng đắc tâm giải thoát, giải thoát rồi liền biết mình
đã giải thoát, biết đúng như thật rằng: ‘Sự sanh của ta đã dứt, phạm
hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.
“Do điều được nói[06]
nên có bốn trường hợp để quan sát người, rằng Hiền giả này có thể cùng
nói, hoặc không thể cùng nói. Nếu Hiền giả này với câu hỏi xác quyết mà
không trả lời xác quyết, với câu hỏi phân biệt mà không trả lời phân
biệt, với câu hỏi phản vấn mà không trả lời phản vấn, với câu hỏi xả trí
vấn mà không trả lời xả trí[07]. Như vậy, Hiền giả này không thể cùng nói, cũng không thể cùng thảo luận.
“Nếu Hiền giả này với câu hỏi xác quyết mà trả lời xác quyết, với
câu hỏi phân biệt mà trả lời phân biệt, với câu hỏi phản vấn mà trả lời
phản vấn, với câu hỏi xả trí vấn mà trả lời xả trí. Như vậy, Hiền giả
này có thể cùng nói, cũng có thể cùng thảo luận.
“Lại nữa, do điều được nói nên lại có bốn trường hợp để quan sát
người, rằng Hiền giả này có thể cùng nói, hoặc không thể cùng nói. Nếu
Hiền giả này không an trụ trên xứ phi xứ, không an trụ trên sở tri,
không an trụ trên thuyết dụ, không an trụ trên đạo tích[08]; như vậy thì Hiền giả này không thể cùng nói, cũng không thể cùng thảo luận.
“Nếu Hiền giả này an trụ trên xứ phi xứ, an trụ trên sở tri, an
trụ trên thuyết dụ, an trụ trên đạo tích; như vậy thì Hiền giả này có
thể cùng nói, cũng có thể cùng thảo luận.
“Do điều được nói, với lời nói trầm tĩnh[09], xả bỏ sở kiến của mình, xả bỏ ý kết oán, xả bỏ tham dục, xả bỏ sân nhuế, xả bỏ si ám, xả bỏ kiêu mạn, xả bỏ bất ngữ[10], xả bỏ tật đố, không háo thắng, không ép người, không chấp chặt khuyết điểm, nói nghĩa nói pháp[11].
Sau khi nói nghĩa nói pháp, khuyên dạy, rồi lại khuyên dạy cho bỏ[12],
tự mình hoan hỷ, khiến người kia cùng hoan hỷ. Thuyết nghĩa như vậy,
thuyết sự như vậy, là Thánh thuyết nghĩa, là Thánh thuyết sự[13]; nghĩa là đã cứu cánh tận diệt hết lậu.”
Rồi thì, Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:
- Luận tranh và luận nghị,
- Ý tạp, lòng cống cao;
- Nghịch Thánh, chê Thánh đức,
- Mong cầu khuyết điểm nhau,
- Khai thác lỗi bất cẩn,
- Khăng khăng khuất phục người,
- Đối địch đều háo thắng;
- Thánh không nói như vậy.
- Nếu mong thành luận nghị,
- Người trí biết tùy thời,
- Có pháp và có nghĩa,
- Chư Thánh luận như vậy.
- Người trí nói như vậy,
- Không cãi, không cống cao,
- Ý không biết nhàm đủ,
- Không kết, không oán thù;
- Tùy thuận, không điên đảo;
- Mỗi lời hợp chánh tri.
- Khéo nói thì có thể
- Trọn không lời xấu xa;
- Không luận vì luận tranh,
- Không tùy người thách đố;
- Biết xứ và thuyết xứ,
- Là điều được luận bàn.
- Đây là lời Thánh nhân;
- Người trí, hai mục đích[14],
- Cho đời này bình an,
- Cho đời sau khoái lạc.
- Nên biết người thông đạt,
- Thuyết phi đảo, phi thường[15].
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01]
Tương đương Pāli: A.iii.67 Kathāvatthu. Kinh số 86 ở trên cùng tên với kinh này.
- [02]
Thuyết xứ 說 處. Pāli: tīni kathāvatthūni, “ba luận sự”. Tam ngôn y 三 言 依, xem Tập dị 3 (Đại 26, tr. 378 c - 78 a).
- [03]
Thuyết nhi thuyết 說 而 說. Pāli: Katham katheyya, có thể nói về vấn đề.
- [04]
Nhân quá khứ thuyết nhi thuyết 因 過 去 說 而 說. Pāli: atītam vā
addhānam ārabbha katham katheyya, có thể nói về vấn đề liên hệ thời quá
khứ.
- [05] Hán: tác chứng 作 證.
- [06] Nhân sở thuyết 因 所 說. Pāli: Kathāsampayogena, bằng sự liên hệ với ngôn thuyết.
- [07] Nhất hướng luận 一 向 論 (ekaṃsavyākaranīyam), phân biệt luận 分 別 論
(vibhajjhavyākaranīyam), cật luận 詰 論(paṭipucchāvyākarannīyam),
chỉ luận 止 論 (thapanīyam), Bốn trường hợp đặt câu hỏi và phải trả lời,
bốn ký vấn (Tập dị 8, Đại 26 tr. 401a-11a): Nhất hướng ký vấn, phân biệt
ký vấn, phản cật ký vấn, xả trí ký vấn. - [08]Xứ
phi xứ 處 非 處 (Pāli: thānāthāna), (không được xác định là) hợp lý hay
không hợp lý; sở tri 所 知 (Pāli: parikappa) (có hay không có) chủ đích;
thuyết dụ 說 喻 (Pāli: aññātavāda) ngôn ngữ được chấp thuận (của bậc trí);
đạo tích (Pāli:paṭipadā), thực tiễn (được xác định bằng thực tiễn hành
động).
- [09]
Chỉ tức khẩu hành 止 息 口 行.
- [10] Hán: bất ngữ 不 語, không rõ nghĩa. Có lẽ Pāli: dubbhāsitaṃ, lời nói khó nghe, ác ngữ.
- [11]
Hán: nghĩa thuyết pháp thuyết 義 說 法 說. Pāli: atthavādī dhammavādī, lời nói hữu ích, lời nói đúng pháp.
- [12]
Hán: giáo phục giáo chỉ 教 復 教 止.Có lẽ Pāli: sataṃ ve hoti mantanā, được lưu ý và thật sự được khuyến cáo.
- [13]
Pāli: evaṃ kho ariyā mantenti, esā ariyāna mantanā, “Các Thánh đàm luận như vậy; đó là những điều được các Thánh đàm luận”.
- [14]
Hán: câu đắc nghĩa 俱 得 義, được lợi (nghĩa) cả hai đường.
- [15]
Pāli: etad aññāya medhāvī na samusseyya, sau khi nhận thức được điều đó, bậc trí không nói lời khoa đại.
-ooOoo-
120. KINH THUYẾT VÔ THƯỜNG[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Sắc là vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã[02]. Thọ[03]
cũng vô thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Tưởng cũng là vô
thường, vô thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Hành cũng là vô thường, vô
thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Thức cũng là vô thường, vô thường nên
khổ, khổ nên phi ngã.
“Như vậy là sắc vô thường; thọ, tưởng, hành, thức vô thường, vô
thường nên khổ, khổ nên phi ngã. Đa văn Thánh đệ tử hãy nên quán sát như
vậy, hãy tu tập bảy đạo phẩm[04], vô ngại, chánh tư, chánh niệm[05].
Vị ấy đã biết như vậy, thấy như vậy rồi thì tâm giải thoát dục lậu, tâm
giải thoát hữu lậu, vô minh lậu. Giải thoát rồi liền biết mình đã giải
thoát; biết đúng như thật rằng: ‘Sự sanh của ta đã dứt, phạm hạnh đã
vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Nếu có chúng
sanh và chín trú xứ của chúng sanh[06], cho đến cõi đệ nhất hữu
với hành còn tàn dư, tức cõi hữu tưởng vô tưởng xứ[07],
ở trong khoang trung gian đó, là bậc đệ nhất, là tối đại, là tối thắng,
là tối thượng, là tối tôn, là tối diệu; đó chính là vị A-la-hán ở trong
đời. Vì sao vậy? Vì trên đời này, A-la-hán đã được an ổn khoái lạc.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:
- Vô trước[08], đệ nhất lạc;
- Đoạn dục, ái đã trừ,
- Vĩnh viễn lìa ngã mạn,
- Bứt tung màn lưới si[09].
- Người không bị lay chuyển,
- Tâm chẳng bợn mảy trần,
- Thế gian không đắm nhiễm,
- Vô lậu, phạm hạnh thành,
- Thấu triệt năm ấm thân,
- Cảnh giới bảy thiện pháp[10],
- Chốn đại hùng du hành,
- Lìa xa mọi khủng bố,
- Thành tựu báu thất giác[11],
- Học đủ ba môn học,
- Thượng bằng hữu tôn xưng[12];
- Chân chánh con của Phật;
- Thành tựu mười chi đạo[13].
- Đại long định kiên cố,
- Đấng bậc nhất trong đời;
- Vị này không hữu ái;
- Vạn cảnh không lay chuyển;
- Giải thoát hữu tương lai;
- Đoạn sanh, lão, bệnh, tử;
- Lậu diệt, việc làm xong;
- Phát khởi vô học trí[14];
- Tận cùng tối hậu thân[15];
- Tối thắng thanh tịnh hạnh;
- Tâm không do bởi người[16];
- Đối các phương trên dưới,
- Vị ấy không hỷ lạc;
- Thường rống tiếng sư tử,
- Vô thượng giác trên đời.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli S.xxii.76 Arahanta-sutta.
- [02] Hán: phi thần 非 神, chỉ thần ngã, tự ngã, hay linh hồn. Xem cht.5 dưới.
- [03]
Hán: giác 覺. Pāli: vedāna.
- [04] Bản Nguyên-Minh: ba mươi bảy đạo phẩm. Bản Pāli, không có chi tiết này.
- [05]
Pāli: yad anattā taṃ n’etam mama, n’eso aham asmi na m’eso
attā, ti evam etaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ,“ cái gì là vô
ngã, cần phải được nhận thức một cách như thực bằng chánh trí rằng: cái
này không phải của ta; ta không phải là cái này; cái này không phải là
tự ngã của ta”.
- [06] Hán: hữu tình cư, chỗ chúng sanh cư ngụ. Pāli: sattāvasā.
- [07]
Hán: hữu tưởng vô tưởng xứ hành dư đệ nhất hữu 有 想 無 想 處 行 餘 第 一 有, chỉ
Hữu đỉnh thiên, cõi cao nhất trong tam hữu, tức cõi Phi tưởng phi phi
tưởng xứ, tầng thứ tư của vô sắc định. Pāli: yāvatā sattāvasā, yāvatā
bhaggaṃ, cho đến các cảnh vức của hữu tình, cho đến chóp đỉnh của (ba)
Hữu.
- [08] Vô trước 無 著, dịch nghĩa từ A-la-hán. Pāli: sukhino vata arahanta, A-la-hán thật sự an lạc.
- [09]
Vô minh võng 無 明 網, Pāli: mohajāla.
- [10]
Cảnh giới thất thiện pháp 境 界 七 善 法. Pāli:
sattasadhammagocarā, sở hành là bảy diệu (chánh) pháp. Xem Tập dị 17
(Đại 26, tr.437a), “bảy diệu pháp: tín, tàm,quý, tinh tấn, niệm, định,
tuệ.”
- [11]
Thất bảo giác 七 覺 寶. Pāli: Sattaratanā, ở đây chỉ bảy giác chi: trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.
- [12]
Thượng bằng hữu 上 朋 友. Pāli: không rõ.
- [13]
Thập chi đạo 十 支 道, tức mười vô học chi; Tập dị 20 (Đại 26,
tr.452c): 1. Vô học chánh kiến; ...; 8. Vô học chánh định; 9. Vô học
chánh giải thoát; 10. Vô học chánh trí. Pāli: dasahaṅga.
- [14]
Vô học trí. Pāli: asekhañāṇā.
- [15]
Tối hậu thân. Pāli: antimoyaṃ samussayo.
- [16]
Bất do tha 不 由 他, tự tri, tự chứng ngộ, không do kẻ khác. Pāli: aparapaccāya, không nương theo người khác.
-ooOoo-
121. KINH THỈNH THỈNH[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa[02] cùng với chúng Tỳ-kheo gồm năm trăm vị an cư mùa mưa.
Bấy giờ vào ngày mười lăm trong tháng[03], là ngày Đức Thế Tôn nói Tùng giải thoát[04] vào giờ Tự tứ[05]. Ngài đến trước chúng Tỳ-kheo trải tọa cụ ngồi xuống rồi nói với các Tỳ-kheo:
“Ta[06]
là Phạm Chí, đã chứng đắc tịch diệt, thành Vô Thượng Y Vương, thọ thân
này của Ta là thân tối hậu. Ta là Phạm Chí, sau khi đã chứng đắc tịch
diệt, thành Vô Thượng Y Vương, thọ thân này của Ta là thân tối hậu, thì
các ngươi là con chân chánh của Ta, thọ sanh từ miệng, hóa sanh từ pháp.
Các ngươi là con chân chánh của Ta, thọ sanh từ miệng, hóa sanh từ
pháp, thì các ngươi hãy dạy dỗ lẫn nhau, răn dạy lẫn nhau.”
Bấy giờ Tôn giả Xá-lê Tử cũng đang hiện diện trong chúng. Khi ấy,
Tôn giả Xá-lê Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai, sửa y, chắp tay
hướng về Thế Tôn, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, như Thế Tôn vừa nói: ‘Ta là Phạm Chí đã chứng đắc
tịch diệt, thành Vô Thượng Y Vương, thọ thân này của Ta là thân tối hậu.
Ta là Phạm Chí, sau khi đã chứng đắc tịch diệt, thành Vô Thượng Y
Vương, thọ thân này của Ta là thân tối hậu, thì các ngươi là con chân
chánh của Ta, thọ sanh từ miệng, hóa sanh từ pháp. Các ngươi là con chân
chánh của Ta, thọ sanh từ miệng, hóa sanh từ pháp, thì các ngươi hãy
dạy dỗ lẫn nhau, răn dạy lẫn nhau’. Bạch Thế Tôn, đối với những ai chưa
điều ngự, Thế Tôn khiến cho điều ngự; những ai chưa tịch tĩnh, khiến cho
tịch tĩnh[07];
những ai chưa độ thoát, khiến cho độ thoát; những ai chưa giải thoát
khiến cho giải thoát; những ai chưa tịch diệt, khiến cho tịch diệt, chưa
đắc
đạo khiến cho đắc đạo, chưa thi thiết phạm hạnh khiến cho thi thiết
phạm hạnh. Thế Tôn là Bậc Tri Đạo, Giác Đạo, Thức Đạo, Thuyết Đạo[08].
Đệ tử của Thế Tôn sau đó được đắc pháp, lãnh thọ khuyến giáo, lãnh thọ
khiển trách. Sau khi lãnh thọ khuyến giáo, lãnh thọ khiển trách sẽ vâng
theo lời dạy của Thế Tôn mà nhất hướng tu hành, được tự tại như ý, khéo
biết Chánh pháp. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không phiền gì con đối với thân,
khẩu, ý hành chăng?”
Khi ấy, Thế Tôn nói:
“Này Xá-lê Tử, Ta không phiền gì đối với thân, khẩu, ý hành của
thầy cả. Vì sao vậy? Này Xá-lê Tử, thầy là bậc thông tuệ, đại tuệ, tốc
tuệ, tiệp tuệ, lợi tuệ, quảng tuệ, thân tuệ, xuất yếu tuệ, minh đạt tuệ[09].
Này Xá-lê Tử, thầy đã thành tựu thật tuệ. Này Xá-lê Tử, ví như vua
Chuyển luân vương có vị thái tử không trái phạm lời khuyên dạy, tất bái
lãnh sự truyền thừa của phụ vương và sau này cũng có thể truyền thừa
lại. Cũng vậy, này Xá-lê Tử, Ta chuyển vận pháp luân, thầy cũng có thể
chuyển vận pháp luân. Này Xá-lê Tử, vì vậy nên Ta không phiền gì về
thân, khẩu, ý hành của thầy.”
Tôn giả Xá-lê Tử chắp tay hướng về Thế Tôn, thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không phiền gì về thân, khẩu, ý hành của
con; nhưng bạch Thế Tôn, Thế Tôn có phiền gì về thân, khẩu, ý hành của
năm trăm thầy Tỳ-kheo chăng?”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Xá-lê Tử, Ta cũng không phiền gì về thân, khẩu, ý hành của
năm trăm Tỳ-kheo này. Vì sao vậy? Này Xá-lê Tử, năm trăm Tỳ-kheo này đều
đã chứng đắc vô trước, dứt trừ các lậu, phạm hạnh đã vững, điều cần làm
đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, hữu kết đã tận và đã đạt được
thiện nghĩa, chánh trí, chánh giải thoát; chỉ trừ một Tỳ-kheo[10]
mà trước kia Ta đã thọ ký cho rằng: ngay trong đời này sẽ chứng đắc cứu
cánh trí, biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã
vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Này Xá-lê Tử,
vì vậy nên Ta không phiền gì về thân, khẩu, ý hành của năm trăm Tỳ-kheo
này.”
Tôn giả Xá-lê Tử ba lần lặp lại chắp tay hướng về Đức Thế Tôn thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không phiền gì về thân, khẩu, ý hành của
con và cũng không phiền gì về thân, khẩu, ý hành của năm trăm Tỳ-kheo
này. Như vậy, bạch Thế Tôn, trong số năm trăm Tỳ-kheo này, có bao nhiêu
thầy đã chứng đắc ba minh đạt[11]? Bao nhiêu thầy đã chứng đắc câu giải thoát[12]? Bao nhiêu thầy đã chứng đắc tuệ giải thoát[13]?”
Thế Tôn nói:
“Này Xá-lê Tử, trong số năm trăm Tỳ-kheo này, chín mươi Tỳ-kheo
đã chứng đắc ba minh đạt; chín mươi Tỳ-kheo đã chứng đắc câu giải thoát;
còn các Tỳ-kheo kia đều chứng đắc tuệ giải thoát. Này Xá-lê Tử, trong
chúng này không có nhánh, không có cành lá, cũng không có đốt, mà chỉ có
lõi chắc thật, thanh tịnh, đều đã chân chánh trụ vị.”
Bấy giờ, Tôn giả Bàng-kỳ-xá[14]
cũng hiện có ở trong chúng. Khi ấy Tôn giả Bàng-kỳ-xá liền từ chỗ ngồi
đứng dậy, trịch vai áo, chắp tay hướng về Thế Tôn thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, mong Đức Thế Tôn gia trì cho con thêm uy lực. Mong
Đức Thiện Thệ gia trì cho con thêm uy lực để con được ở trước Phật và
chúng Tỳ-kheo, bằng sự tương ưng như nghĩa[15] mà làm bài tụng tán thán.
Đức Thế Tôn nói:
“Bàng-kỳ-xá, ngươi cứ tùy ý.”
Khi ấy, Tôn giả Bàng-kỳ-xá ở trước Đức Phật và chúng Tỳ-kheo, bằng sự tương ưng như nghĩa mà tán tụng như vầy:
- Hôm nay ngày Rằm tự tứ,
- Hội tọa Tăng chúng năm trăm;
- Đoạn tận buộc ràng kiết sử,
- Tiên nhân vô ngại vô sanh.
- Thanh tịnh ngời quang minh,
- Giải thoát tất cả hữu;
- Dứt sanh, lão, bệnh, tử;
- Lậu diệt, việc làm xong.
- Diệt hối và nghi kết,
- Mạn, hữu lậu đã trừ,
- Nhổ tuyệt gai ái kết,
- Thành Vô thượng Y sư.
- Dõng mãnh như sư tử,
- Khủng bố đã dứt trừ,
- Đã vượt sự sanh tử,
- Diệt lậu tận, vô dư.
- Ví như Chuyển luân vương,
- Quần thần vây xung quanh,
- Thống lãnh toàn cõi đất,
- Suốt đại dương vô cùng.
- Đấng Đại Hùng tối thắng,
- Bậc Thượng Chủ, Thượng Tôn;
- Đệ tử hằng cung kính,
- Tam minh, ngoài tử sanh.
- Tất cả là con Phật;
- Cành, lá đã loại bỏ;
- Chuyển pháp luân vô thượng;
- Kính lạy Đấng Tối Tôn.
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01]
Phụ chú trong bản Hán: “chữ 請 sau đọc là tỉnh”. Tương đương
Pāli: S. vii.7 Pavāraṇa (tự tứ). Tham chiếu, No.99 (1212) Tạp A-hàm 45,
kinh số 45 (Đại 2, tr.330); No.100 (228) Biệt dịch Tạp 12 (Đại 2, tr.
457a); No.61. Phật Thuyết Thọ Tân Tuế Kinh, Trúc Pháp Hộ dịch (Đại 1,
tr.858; No.62 Phật Thuyếùt Tân Tuế Kinh, Trúc Đàm-vô-lan dịch; No.63.
Phật Thuyết Giải Hạ Kinh, Tống Pháp Hiền dịch.
- [02] No.61, 62 và Pāli: Xá-vệ, Đông viên, Lộc tử mẫu giảng đường (Sāvatthi, Pubbārama, Migāramātupāsāda).
- [03]
No.61, ngày rằm tháng bảy.
- [04]
Tùng giải thoát 從 解 脫, tức Biệt giải thoát. Pāli: Pāṭimokkha.
- [05] Tương
thỉnh thỉnh thời 相 請 請 時, “trong khi hỏi lẫn nhau”, được dịch nghĩa như
vậy, vì trong lễ Tự tứ, các Tỳ-kheo chỉ điểm lẫn nhau những điều luật.
Pāli: Pavāraṇā. Các bản dịch khác là “thọ tuế”, tức sau ba tháng an cư,
Tỳ-kheo được tính một tuổi hạ.
- [06] Trong
bản Pāli và các bản Hán kia đều có ghi lời tự tứ của Đức Thế Tôn như
vầy: “Này các Tỳ-kheo, bây giờ Ta tự tứ (tức yêu cầu chỉ điểm, hoặc nói
là “thọ tuế”), các thầy có khiển trách gì Ta đối với thân, khẩu chăng?”.
(Handa dāni, bhikkhave, pavāremi. Ka ca ma kinci garahatha kāyikam vā
vācasikam vā).
- [07]
Hán: tức 息, và chỉ tức 止 息.
- [08] Tri
Đạo, Giác Đạo, Thức Đạo, Thuyết Đạo 知 道 覺 道 識 道 說 道. No.63: Như Lai đã
nhận thức toàn diện về Chánh đạo, tuyên thuyết hoàn hảo về Chánh đạo,
khai thị Chánh đạo.
- [09] Thông
tuệ 聰 慧 (Pāli: paiḍṇta), đại tuệ 大 慧 (Pāli: mahāpaññā), tốc tuệ 速 慧
(Pāli: hāsapañña), tiệp tuệ 捷 慧 (Pāli: javapañña), lợi tuệ 利 慧 (Pāli:
tikkhapañña), quảng tuệ 廣 慧 (Pāli: putthu pañña), thâm tuệ 深 慧 (Pāli:
không đề cập), xuất yếu tuệ 出 要 慧 (Pāli: không đề cập), minh đạt tuệ 明 達
慧 (Pāli: nibbedhikā).
- [10]
Chỉ Tôn giả A-nan, bấy giờ chưa chứng đắc lậu tận.
- [11]Tam minh đạt 三 明 達, tức tam minh.
- [12]
Câu giải thoát, hay Câu phần giải thoát, Pāli:
ubhatobhāgavimutta, vị A-la-hán có Tuệ giải thoát đồng thời có Diệt tận
định. Về Câu giải thoát, Tuệ giải thoát, xem kinh số 127 và 195.
- [13]
Tuệ giải thoát, xem cht. trên.
- [14]
Bàng-kỳ-xá 傍 耆 舍, Vangīsa, thuộc một gia đình Bà-la-môn rất thông suốt các tập Vệ-đà, do quán bất tịnh mà đắc quả A-la-hán.
- [15]
Hán: tương ưng như nghĩa 相 應 如 義. Pāli: sāruppāhi gāthāhi abhitthavi, tán thán bằng những bài kệ thích ứng.
-ooOoo-
122. KINH CHIÊM-BA[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Phật du hóa tại Chiêm-ba, ở bên hồ Hằng-già[02].
Bấy giờ là ngày mười lăm trong tháng, là ngày Thế Tôn thuyết Tùng
giải thoát, trải tọa ngồi trước chúng Tỳ-kheo. Khi Đức Thế Tôn ngồi
xong, liền nhập định và bằng tha tâm trí Ngài quan sát tâm đại chúng.
Khi quan sát tâm đại chúng rồi, cho đến lúc hết buổi đầu hôm, Ngài vẫn
ngồi im lặng.
Bấy giờ có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai, sửa y chắp tay hướng về Đức Phật thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, đã hết buổi đầu hôm, Phật và chúng Tỳ-kheo tập
trung ngồi đây đã lâu, mong Đức Thế Tôn nói thuyết Tùng giải thoát.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn im lặng không trả lời.
Thế rồi, cho đến phần giữa đêm, Đức Thế Tôn vẫn ngồi im lặng.
Tỳ-kheo kia lại lần nữa, từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa y, chắp tay
hướng về Đức Phật và thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, buổi đầu hôm đã qua, phần giữa đêm cũng sắp hết;
Phật và chúng Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã lâu, mong Đức Thế Tôn nói
thuyết Tùng giải thoát.”
Đức Thế Tôn lại một lần nữa không trả lời.
Thế rồi, cho đến phần cuối đêm, Đức Thế Tôn vẫn ngồi im lặng.
Tỳ-kheo kia lại lần thứ ba từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai sửa y, chắp
tay hướng về Đức Thế Tôn mà thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, buổi đầu hôm đã qua, phần giữa đêm cũng chấm dứt,
rồi buổi cuối đêm cũng sắp hết, trời gần về sáng, không bao lâu nữa, mặt
trời sẽ mọc; Phật và chúng Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã quá lâu, mong
Đức Thế Tôn nói thuyết Tùng giải thoát.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo vị Tỳ-kheo kia:
“Trong chúng này có một thầy Tỳ-kheo làm đã việc bất tịnh.”
Lúc đó Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng đang ở trong chúng. Rồi
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền suy nghĩ thế này: “Vì Tỳ-kheo nào mà Đức
Thế Tôn nói trong chúng này có một thầy Tỳ-kheo đã làm việc bất tịnh? Ta
nên nhập định có hình thức như thế, nhân trong định có hình thức như
thếá, bằng tha tâm trí mà quan sát tâm niệm đại chúng.”
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nhập định có hình thức như thế, nhân
trong định có hình thức như thế, bằng tha tâm trí mà quan sát tâm niệm
đại chúng.
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền biết vị Tỳ-kheo mà vì vị ấy Đức
Thế Tôn nói trong chúng này có một thầy Tỳ-kheo đã làm việc bất tịnh.
Rồi thì, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên xuất định, đi đến trước vị Tỳ-kheo ấy, nắm tay kéo đi, mở cửa lôi ra bên ngoài mà nói:
“Này người ngu si, hãy đi xa đi, đừng sống ở đây, không được trở
lại hội họp với đại chúng Tỳ-kheo, từ nay trở đi ông không phải là
Tỳ-kheo nữa.”
Ngài đóng cửa, gài chốt then lại, rồi trở về chỗ Đức Phật, cúi đầu sát lạy chân Phật, rồi ngồi sang một bên mà thưa:
“Vị Tỳ-kheo mà vì vị ấy Đức Thế Tôn nói trong chúng này có một
Tỳ-kheo đã làm việc bất tịnh; con đã đuổi vị ấy đi rồi. Bạch Thế Tôn,
buổi đầu hôm đã qua, phần giữa đêm cũng chấm dứt, rồi buổi cuối đêm cũng
sắp hết, trời gần về sáng, không bao lâu nữa, mặt trời sẽ mọc; Phật và
chúng Tỳ-kheo tập trung ngồi đây đã quá lâu, mong Đức Thế Tôn nói thuyết
Tùng giải thoát.”
Đức Thế Tôn nói:
“Này Đại Mục-kiền-liên, kẻ ngu si sẽ mắc đại tội nếu gây phiền
nhiễu cho Đức Thế Tôn và chúng Tỳ-kheo. Này Đại Đại Mục-kiền-liên, nếu
Đức Như Lai ở giữa chúng bất tịnh mà thuyết Tùng giải thoát thì đầu
người kia sẽ vỡ thành bảy mãnh. Do đó, này Đại Mục-kiền-liên, từ nay về
sau các thầy hãy thuyết Tùng giải thoát, Đức Như Lai không thuyết Tùng
giải thoát nữa. Vì sao như thế?[03]
“Vì như vầy, này Đại Mục-kiền-liên, hoặc có người ngu si khi vào lúc ra đều với chánh tri[04];
khi co lúc duỗi, khi cúi lúc ngẩng đều khéo phân biệt quán sát; nghi
dung chững chạc, khoác tăng-già-lê ngay ngắn; cầm y, bát chỉnh tề[05];
đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng đều biết rõ ràng, tợ
như bậc Phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của bậc Phạm hạnh chân
chánh thì kẻ ấy không biết được.
“Này Đại Mục-kiền-liên, nếu các bậc Phạm hạnh biết được kẻ ấy, sẽ
nghĩ rằng: ‘Đây là sự ô uế đối với Sa-môn, là sự ô nhục đối với Sa-môn,
là sự đáng ghét đối với Sa-môn, là gai nhọn đối với Sa-môn’. Sau khi
biết rồi liền cùng nhau tẫn xuất người ấy[06]. Vì sao vậy? Vì không muốn các bậc Phạm hạnh phải bị nhiễm ô.
“Này Đại Mục-kiền-liên, ví như trong ruộng lúa dé, hoặc ruộng lúa
tẻ đang tươi tốt của Cư sĩ kia có sanh loại cỏ tên là cỏ uế mạch[07].
Cỏ này có rễ, thân, đốt, lá và hoa thảy đều giống hệt như cây lúa tẻ.
Nhưng sau khiù kết hạt thìø người Cư sĩ kia thấy được, liền suy nghĩ
rằng: ‘Đây là sự ô nhục đối với lúa tẻ, là gai nhọn đáng ghét đối với
lúa tẻ’. Sau khi biết rồi, Cư sĩ kia liền nhổ quăng đi hết. Vì sao vậy?
Vì không muốn giống lúa tẻ đích thật phải bị ô nhiễm.
“Cũng vậy, này Đại Mục-kiền-liên, hoặc có người ngu si khi vào
lúc ra đều với chánh tri; khi co lúc duỗi, khi cúi lúc ngẩng đều khéo
phân biệt quán sát; nghi dung chững chạc, khoác tăng-già-lê ngay ngắn,
cầm y, bát chỉnh tề; đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng
đều biết rõ ràng, tợ như bậc Phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của
bậc Phạm hạnh chân chánh thì kẻ ấy không biết được.
“Này Đại Mục-kiền-liên, nếu các bậc Phạm hạnh biết được kẻ ấy, sẽ
nghĩ rằng: ‘Đây là sự ô uế đối với Sa-môn, là sự ô nhục đối với Sa-môn,
là sự đáng ghét đối với Sa-môn, là gai nhọn đối với Sa-môn’. Sau khi
biết rồi liền cùng nhau tẫn xuất người ấy. Vì sao vậy? Vì không muốn các
bậc Phạm hạnh phải bị nhiễm ô.
“Này Đại Mục-kiền-liên, vì như đến mùa thu, người Cư sĩ kia đem
giê lúa. Từ trên cao, lúa được đổ từ từ xuống. Nếu là hạt lúa chắc thì
nằm lại, còn lúa lép hay trấu thì sẽ theo gió bay đi. Sau đó người Cư sĩ
kia liền cầm chỗi quét dọn sạch sẽ. Vì sao vậy? Vì không muốn hạt lúa
dé chắc thật phải bị ô tạp.
“Cũng vậy, này Đại Mục-kiền-liên, hoặc có người ngu si khi vào
lúc ra đều với chánh tri; khi co lúc duỗi, khi cúi lúc ngẩng đều khéo
phân biệt quán sát; nghi dung chững chạc, khoác tăng-già-lê ngay ngắn,
cầm y, bát chỉnh tề; đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng
đều biết rõ ràng, tợ như bậc Phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của
bậc Phạm hạnh chân chánh thì kẻ ấy không biết được.
“Này Đại Mục-kiền-liên, nếu các bậc Phạm hạnh biết được kẻ ấy, sẽ
nghĩ rằng: ‘Đây là sự ô uế đối với Sa-môn, là sự ô nhục đối với Sa-môn,
là sự đáng ghét đối với Sa-môn, là gai nhọn đối với Sa-môn’. Sau khi
biết rồi liền cùng nhau tẫn xuất người ấy. Vì sao vậy? Vì không muốn các
bậc Phạm hạnh phải bị nhiễm ô.
“Này Đại Mục-kiền-liên, ví như người Cư sĩ kia muốn có nước suối
chảy đến nên làm máng dẫn nước. Người ấy cầm búa vào rừng, gõ vào thân
các cây. Nếu cây có lõi cứng thì tiếng phát ra nhỏ, còn cây rỗng ruột
thì tiếng phát ra lớn. Sau khi biết rõ, người Cư sĩ kia liền chặt cây ấy
đem về làm máng dẫn nước.
“Cũng vậy, này Đại Mục-kiền-liên, hoặc có người ngu si khi vào
lúc ra đều với chánh tri; khi co lúc duỗi, khi cúi lúc ngẩng đều khéo
phân biệt quán sát; nghi dung chững chạc, khoác tăng-già-lê ngay ngắn,
cầm y, bát chỉnh tề; đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, nói năng, im lặng
đều biết rõ ràng, tợ như bậc Phạm hạnh chân chánh, nhưng hành động của
bậc Phạm hạnh chân chánh thì kẻ ấy không biết được.
“Này Đại Mục-kiền-liên, nếu các bậc Phạm hạnh biết được kẻ ấy, sẽ
nghĩ rằng: ‘Đây là sự ô uế đối với Sa-môn, là sự ô nhục đối với Sa-môn,
là sự đáng ghét đối với Sa-môn, là gai nhọn đối với Sa-môn’. Sau khi
biết rồi liền cùng nhau tẫn xuất người ấy. Vì sao vậy? Vì không muốn các
bậc Phạm hạnh phải bị nhiễm ô.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn liền nói bài tụng rằng:
- Cùng tập hội, nên biết,
- Ác dục, tắng, tật, nhuế[08]
- Che giấu, hận, keo kiệt[09],
- Tật đố, siễm, khi cuống;
- Trong chúng, giả đạo đức;
- Lén lút xưng Sa-môn,
- Âm thầm làm việc ác;
- Ác kiến, không thủ hộ;
- Khi dối cùng nói láo.
- Nên biết, người như vậy,
- Tập chúng đừng cho vào;
- Tẫn xuất, không sống chung.
- Chúng dối trá, láo khoét;
- Chưa ngộ nói đã ngộ.
- Biết thời, tu tịnh hạnh,
- Đuổi chúng, tránh xa chúng.
- Hãy cùng người thanh tịnh,
- Sống hòa hợp với nhau;
- Như vậy sẽ an ổn,
- Và tận cùng sự khổ.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương
đương Pāli A. Viii.10. Kāraṇḍava-sutta; A, viii.20 Uposatha Biệt dịch,
No.64 Chiêm-ba Tỳ-kheo Kinh, Pháp Cự dịch. Tham chiếu kinh số 37 trên.
- [02] Xem các cht. liên hệ ở kinh số 37 trên.
- [03] Từ
đây trở xuống tương đương Pàli A. Viii.10 đã dẫn. Bản Pāli bắt đầu bằng
sự kiện hai Tỳ-kheo nói xấu nhau, và khi biết được, Đức Thế Tôn nói như
trong bản Hán này.
- [04] Chánh tri 正 知, Pāli: sampajāna, biết rõ mình đang làm gì.
-
[05] Tăng-già-lê cập chư y bát 僧 伽 梨 及 諸 衣 鉢, Pāli: saṅghāṭīpattacīvara, chỉ ba y (gồm tăng-già-lê) và bình bát.
- [06] Tẫn khí 擯 棄.
- [07] Hán: uế mạch 穢 麥.
- [08] Tắng, tật, nhuế 憎 嫉 恚, ghét, ganh tị, thù nghịch.
- [09] Bất ngữ kết, hận, xan 不 語 結 恨 慳. Bất ngữ kết, Pāli: makkhā, che giấu tội lỗi.
-ooOoo-
123. KINH SA-MÔN NHỊ THẬP ỨC[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc. Bấy giờ, Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức[02]
cũng du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Ám lâm[01]; đầu đêm, giữa đêm và
cuối đêm đều học tập không ngủ, tinh cần chánh trụ, tu tập đạo phẩm.
Khi ấy Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức sống một mình nơi yên tĩnh, thiền tọa
tư duy, tâm khởi lên ý nghĩ: “Nếu có đệ tử nào của Đức Thế Tôn tinh cần
học tập pháp luật chân chánh thì ta là người bậc nhất, thế mà tâm vẫn
chưa giải thoát được các lậu. Nhà cha mẹ ta cực kỳ phú quý, có nhiều
tiền của, nay ta có nên xả giới, bỏ đạo hạnh, chuyên việc bố thí, tu tập
các phước nghiệp chăng?”
Bấy giờ Đức Thế Tôn bằng tha tâm trí biết rõ tâm niệm của Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức, liền bảo một Tỳ-kheo:
“Ngươi hãy đi đến chỗ kia, gọi Sa-môn Nhị Thập Ức về đây.”
Tỳ-kheo ấy bạch:
“Kính
vâng.”
Rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, nhiễu quanh ba vòng, bước ra, đi đến chỗ Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức nói:
“Đức Thế Tôn cho gọi thầy.”
Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức nghe Tỳ-kheo ấy nói, liền đi đến chỗ
Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi ngồi một bên. Đức Thế Tôn nói:
“Sa-môn, phải chăng vừa rồi ngươi sống một mình nơi yên tĩnh,
thiền tọa tư duy, tâm khởi lên ý nghĩ: ‘Nếu có đệ tử nào của Đức Thế Tôn
tinh cần học tập pháp luật chân chánh thì ta là người bậc nhất, thế mà
tâm vẫn chưa giải thoát được các lậu. Nhà cha mẹ ta cực kỳ phú quý, có
nhiều tiền của, nay ta có nên xả giới, bỏ đạo hạnh, chuyên việc bố thí,
tu tập các phước nghiệp chăng?’”
Khi ấy Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức thẹn thùng xấu hổ, không thể
không hoang mang, rằng, “Thế Tôn đã biết rõ tâm niệm của ta”, liền chắp
tay hướng về Đức Phật mà bạch rằng:
“Quả thật vậy.”
Đức Thế Tôn nói:
“Sa-môn, nay Ta hỏi ngươi; hãy tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Ý
ngươi nghĩ sao, khi ngươi sống tại gia, giỏi đánh đàn cầm nên tiếng đàn
hòa điệu với lời ca, lời ca ăn khớp với tiếng đàn; có phải vậy chăng?”
Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức thưa:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Ý ngươi nghĩ sao, nếu dây đàn căng quá thì tiếng hòa âm có đáng ưa không?”
Sa-môn Nhị Thập Ức đáp:
“Bạch Thế Tôn, không!”
Đức Thế Tôn lại hỏi:
“Ý ngươi nghĩ sao, nếu dây đàn chùng quá thì tiếng hòa âm có đáng ưa chăng?”
Sa-môn Nhị Thập Ức đáp:
“Bạch Thế Tôn, không.”
Đức Thế Tôn lại hỏi:
“Ý ngươi nghĩ sao, nếu dây đàn vừa phải, không căng quá, cũng không chùng quá, thì tiếng đàn có đáng ưa không?”
Sa-môn Nhị Thập Ức đáp:
“Bạch Thế Tôn, đáng ưa.”
Đức Thế Tôn nói:
“Cũng vậy, này Sa-môn, quá sức tinh tấn sẽ khiến tâm rối loạn,
nhưng chẳng tinh tấn thì tâm sẽ biếng lười. Vì vậy ngươi hãy phân biệt
thời gian nào nên quán sát tướng nào, chớ nên buông lung.”
Bấy giờ Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức sau khi nghe Đức Phật dạy,
khéo thọ lãnh, khéo ghi nhớ, từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ chân
Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra. Lãnh thọ ví dụ đàn cầm do Đức Phật
dạy rồi, liền sống một mình ở nơi xa vắng, tâm không buông lung, tu
hành tinh tấn. Tôn giả ấy sau khi sống một mình ở nơi xa vắng, tâm không
buông lung, tu hành tinh tấn, liền đạt được mục đích mà một thiện nam
tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không
gia đình, học đạo, duy chỉ mong thành tựu phạm hạnh vô thượng, ngay
trong đời này tự tri, tự giác, tự thân chứng ngộ, thành tựu và an trụ,
biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc
cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức
đã
biết pháp rồi, v.v..., cho đến, chứng quả A-la-hán.
Lúc bấy giờ, sau khi đã chứng quả A-la-hán, Tôn giả Sa-môn Nhị
Thập Ức nghĩ rằng: “Nay đã đến thời, ta có nên đi đến chỗ Đức Thế Tôn
trình bày về sự chứng đắc cứu cánh trí của mình chăng?” Rồi thì Tôn giả
Sa-môn Nhị Thập Ức đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi xuống một
bên mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, nếu có Tỳ-kheo chứng đắc Vô sở trước[03], dứt trừ các lậu, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, hữu kết đã giải trừ[04], tự thân đạt được thiện nghĩa[05], bằng chánh trí mà chứng đắc giải thoát, thì tức khắc vị ấy liền vui nơi sáu trường hợp[06]: vui nơi vô dục, vui nơi viễn ly, vui nơi vô tránh, vui nơi ái tận, vui nơi thủ tận, và vui nơi tâm không di động[07].
“Bạch Thế Tôn, hoặc có người nghĩ rằng: ‘Hiền giả này do y tín
tâm nên vui nơi vô dục’. Người ấy không nên quán như vậy. Chỉ khi nào
dứt trừ được tham dục, sân nhuế và ngu si thì mới vui nơi vô dục.
“Bạch Thế Tôn, hoặc có người nghĩ rằng: ‘Hiền giả này vì thích
được khen ngợi, muốn được cúng dường, cho nên vui nơi viễn ly’. Người ấy
không nên quán như vậy. Chỉ khi nào dứt trừ được tham dục, sân nhuế và
ngu si thì mới vui nơi viễn ly.
“Bạch Thế Tôn, hoặc có người nghĩ rằng: ‘Hiền giả này do y trên
giới nên vui nơi vô tránh’. Người ấy không nên quán như vậy. Chỉ khi nào
dứt trừ được tham dục, sân nhuế và ngu si thì mới vui nơi vô tránh, vui
nơi ái tận, vui nơi thủ tận, và vui nơi tâm không di động.
“Bạch Thế Tôn, nếu có Tỳ-kheo chứng đắc Vô sở trước, dứt trừ các
lậu, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng
xuống, hữu kết đã giải trừ, tự thân đạt được thiện nghĩa, bằng chánh trí
mà chứng đắc giải thoát, thì tức khắc vị ấy liền vui nơi sáu trường hợp
này.
“Bạch Thế Tôn, nếu có Tỳ-kheo tu học tuy chưa đắc ý, mà mong cầu
quả vị Niết-bàn an ổn vô thượng, vị ấy lúc bấy giờ chỉ mới thành tựu học
căn và học giới, nhưng sau đó sẽ dứt trừ các lậu, chứng đắc vô lậu, tâm
giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này tự tri, tự giác, tự thân
chứng ngộ, thành tựu và an trụ, biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh
đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh
nữa’. Vị ấy lúc bấy giờ đã thành tựu vô học căn và vô học giới.
“Bạch Thế Tôn, ví như một đồng tử thơ ấu, lúc bấy giờ chỉ mới
thành tựu tiểu căn và tiểu giới, nhưng sau đó được đầy đủ học căn. Như
vậy là đồng tử đó lúc bấy giờ đã thành tựu học căn và học giới. Cũng
vậy, bạch Thế Tôn, nếu có Tỳ-kheo tu học tuy chưa đắc ý nhưng mong cầu
quả vị Niết-bàn an ổn vô thượng, vị ấy lúc bấy giờ chỉ mới thành tựu học
căn và học giới, nhưng sau đó sẽ dứt trừ các lậu, chứng đắc vô lậu, tâm
giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này tự tri, tự giác, tự thân
chứng ngộ, thành tựu và an trụ, biết một cách như thật rằng: ‘Sự sanh
đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh
nữa’. Vị ấy lúc bấy giờ đã thành tựu vô học căn và vô học giới.
“Vị ấy nếu có sắc được nhận thức bởi mắt, khi sắc đó đến với mắt
thì cũng không vì vậy mà khiến tâm giải thoát, tuệ giải thoát này phải
bị vong thất, nội tâm được an trụ, khéo chế phục, thủ hộ, ghi nhớ và
quán pháp hưng suy. Nếu có tiếng được nhận thức bởi tai, hương được nhận
thức bởi mũi, vị được nhận thức bởi lưỡi, xúc được nhận thức bởi thân,
pháp được nhận thức bởi ý, khi pháp đến với ý thì cũng không vì vậy mà
khiến tâm giải thoát, tuệ giải thoát này phải bị vong thất, nội tâm được
an trụ, khéo chế phục, thủ hộ, ghi nhớ và quán pháp hưng suy.
“Bạch Thế Tôn, ví như cách thôn không xa, có tòa núi đá lớn,
không vỡ, không sứt mẻ, không yếu dòn, vững chắc, không trống hở, là một
khối hợp nhất. Nếu có gió, mưa lớn từ phương Đông đến thì cũng không
thể lay chuyển, không thể di động; cũng không phải gió phương Đông dời
đến phương Nam. Nếu có gió, mưa lớn từ phương Nam đến thì cũng không thể
lay chuyển, không thể di động; cũng không phải gió phương Nam dời đến
phương Tây. Nếu có gió, mưa lớn từ phương Tây đến thì cũng không thể lay
chuyển, không thể di động; cũng không phải gió phương Tây dời đến
phương Nam. Nếu có gió, mưa lớn từ phương Bắc đến thì cũng không thể lay
chuyển, không thể di động; cũng không phải gió phương Bắc dời đến các
phương.
“Cũng vậy, bạch Thế Tôn, vị ấy nếu có sắc được nhận thức bởi mắt,
khi sắc đó đến với mắt thì cũng không vì vậy mà khiến tâm giải thoát,
tuệ giải thoát này sẽ bị vong thất, nội tâm được an trụ, khéo chế phục,
thủ hộ, ghi nhớ và quán pháp hưng suy. Nếu có tiếng được nhận thức bởi
tai, hương được nhận thức bởi mũi, vị được nhận thức bởi lưỡi, xúc được
nhận thức bởi thân, pháp được nhận thức bởi ý. Khi pháp đó đến với ý thì
cũng không vì vậy mà khiến tâm giải thoát, tuệ giải thoát này sẽ bị
vong thất, nội tâm được an trú, khéo chế phục, thủ hộ, ghi nhớ và quán
pháp hưng suy.”
Khi ấy, Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức liền nói bài tụng:
- Vui nơi vô dục[08],
- Thì tâm viễn ly;
- Hoan hỷ vô tránh[09],
- Hân hoan thủ tận.
- Vui nơi thủ tận,
- Tâm không di động,
- Biết đúng như thật,
- Tâm được giải thoát.
- Tâm đã giải thoát,
- Căn trần tĩnh chỉ[10],
- Việc làm đã xong[11],
- Không phải làm nữa.
- Ví như núi đá,
- Gió không lay nổi.
- Sắc, thanh, hương, vị,
- Thân, xúc cũng vậy;
- Pháp ái, bất ái[12],
- Không làm động tâm.
Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức sau khi đối trước Đức Phật trình bày
về sự chứng đắc cứu cánh trí, từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ chân
Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra.<
Bấy giờ, sau khi Tôn giả Nhị Thập Ức đi ra không bao lâu, Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo rằng:
“Này các thiện nam tử, hãy nên đến trước Ta để trình bày về sự
chứng đắc cứu cánh trí như vậy. Hãy như Sa-môn Nhị Thập Ức, đi đến trước
Ta trình bày về sự chứng đắc cứu cánh trí mà không khen mình, không
khinh người, nói điều nghĩa lợi, hiển hiện pháp tùy theo các trường hợp;
chớ nên như kẻ ngu si bị tăng thượng mạn trói buộc, đến trước mặt Ta
trình bày về sự chứng đắc cứu cánh trí. Kẻ ấy không đạt được nghĩa lợi,
chỉ toàn là sự phiền nhọc. Sa-môn Nhị Thập Ức đi đến trước Ta trình bày
về sự chứng đắc cứu cánh trí mà không khen mình, không khinh người, nói
điều nghĩa lợi, hiển hiện pháp tùy theo các trường hợp.”
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương
đương Pāli A. Vi.55. Soṇa-sutta; tham chiếu Luật tạng Pāli, Mv.1.1~ 30.
Tham chiếu, No.99(254) Tạp A-hàm 9, kinh số 254; No.125(23.3) Tăng Nhất
13, phẩm 23 “Địa Chủ” kinh số 3; Tứ Phần 29, Đại 22 tr.843; Ngũ Phần
21, Đại 22, tr.145.
- [02] Sa-môn
Nhị Thập Ức 沙 門 二 十 億. Pāli: Soṇa (Koḷivīsa). No.99 (254) và No125
(23.3) dịch là Nhị Thập Ức Nhĩ, do Soṇa được đọc là Sota (lỗ tai); và
Koḷi được đọc là koṭi (một ức).
- [03] Hán: Tỳ-kheo đắc Vô sở trước 比 丘 得 無 所 著; Pāli: bhikkhu arahaṃ, vị Tỳ-kheo là A-la-hán.
- [04] Hán:
hữu kết dĩ giải 有 結 已 解; Pāli: parikkhīṇabhavasaṃyojano(tận chư hữu
kết), đã diệt tận hoàn toàn các phiền não trói buộc dẫn tới tái sinh.
- [05] Hán:
tự đắc thiện nghĩa 自 得 善 義, tự mình đã đạt đến mục đích; Pāli:
anuppattasadattho (đãi đắc kỹ lợi), đã đạt đến mục đích tối cao, chí
thiện.
- [06] Hán: lạc thử lục xứ 樂 此 六 處. Pāli: cha thānāni adhimutto, quyết định trong sáu trường hợp.
- [07] Vô
dục 無 欲, viễn ly 遠 離, vô tránh 無 諍, ái tận 愛 盡, thọ (=thủ) tận 受 盡,
tâm bất di động 心 不 移 動. Pāli: nekkhama (xuất gia), paviveka (ẩn dật),
abyāpajjha (không não hại, hay không sân nhuế), taṇhākkhayā (đã diệt tận
khát ái), upādanakkhaya (đã diệt tận chấp thủ), assammohā (vô si).
- [08] Pāli: nekkhamma, xuất ly, xuất gia.
- [09] Pāli: avyāpajjha, không não hại, không thù nghịch.
- [10] Hán: tức căn 息 根. Pāli: santacitta, tâm tịch tịnh.
- [11] Hán: tác dĩ bất quán 作 已 不 觀. Pāli: katassa paṭicayo n’atthi, không có sự làm thêm đối với điều đã làm.
- [12] Pāli: iṭṭhā dhammā aniṭṭhā ca, các pháp khả ái và không khả ái.
-ooOoo-
124. KINH BÁT NẠN[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
“Người tu phạm hạnh có tám nạn[02], tám phi thời[03]. Những gì là tám?
“Vào lúc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành
Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân
Sư, Phật, Chúng Hựu, xuất hiện ở thế gian, thuyết pháp đưa đến tịch
tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy, thì
người ấy lúc bấy giờ đang sanh vào chốn địa ngục. Đó là nạn thứ nhất
đối với người tu phạm hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên
Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, xuất hiện ở thế gian, thuyết pháp đưa đến tịch
tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy,
thì người ấy lúc bấy giờ đang sanh vào loài súc sanh, vào loài ngạ quỷ,
sanh vào cõi trời Trường thọ[04],
sanh ở xứ biên địa mọi rợ, không tín, vô ân, không biết báo đáp, không
có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Đó là nạn thứ năm[05] đối với người tu phạm hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên
Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu xuất hiện ở thế gian, thuyết pháp đưa đến tịch
tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy, thì
bấy giờ người ấy tuy sanh nhằm chốn văn minh[06] nhưng lại điếc, câm, ú ớ như dê kêu[07], dùng tay thay lời, không thể nói nghĩa thiện ác. Đó là nạn thứ sáu, việc phi thời thứ sáu đối với người tu phạm hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên
Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu xuất hiện ở thế gian, thuyết pháp đưa đến tịch
tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ dạy thì
bấy giờ người ấy tuy sanh nhằm chốn văn minh, không điếc, không câm,
không ú ớ như dê kêu, không dùng tay thay lời, có thể nói nghĩa thiện
ác, nhưng lại có tà kiến và điên đảo kiến. Người ấy thấy như vầy và nói
như vầy, ‘Không bố thí, không trai tự, không chú thuyết, không có nghiệp
thiện ác, không có nghiệp báo của thiện ác, không có đời này đời khác,
không cha không mẹ, ở đời không có bậc chân nhân[08] đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo hướng[09],
tự tri, tự giác, tự tác chứng thế giới này và thế giới khác[10], thành tựu an trụ’. Đó là nạn thứ bảy đối với người tu phạm hạnh.
“Lại nữa, vào lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh
Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên
Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu không xuất hiện ở thế gian, cũng không thuyết
pháp đưa đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều
Thiện Thệ dạy thì bấy giờ người ấy lại sanh nhằm chốn văn minh, không
điếc, không câm, không ú ớ như dê kêu, không dùng tay thay lời, lại có
thể nói nghĩa thiện ác và có chánh kiến, không có điên đảo kiến. Người
ấy thấy như vầy và nói như vầy, ‘Có bố thí, có trai tự, cũng có chú
thuyết, có nghiệp thiện ác, có nghiệp báo của thiện ác, có đời này, có
đời khác, có cha, có mẹ, ở đời có bậc chân nhân, đi đến thiện xứ, khéo
đi, khéo hướng, tự tri, tự giác, tự tác chứng thế giới này và thế giới
khác, thành tựu an trụ’. Đó là nạn thứ tám, việc phi thời thứ tám
đối với người tu phạm hạnh.
“Người tu phạm hạnh có một điều không nạn, một việc đúng thời.
Thế nào là một điều không nạn, một việc đúng thời đối với người tu phạm
hạnh? Lúc Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư,
Phật, Chúng Hựu không xuất hiện ở thế gian, cũng không thuyết pháp đưa
đến tịch tịnh, đưa đến tịch diệt, đưa đến giác đạo, những điều Thiện Thệ
dạy, thì bấy giờ người ấy sanh nhằm chốn văn minh, không điếc, không
câm, không ú ớ như dê kêu, không dùng tay thay lời, lại có thể nói nghĩa
thiện ác, có chánh kiến, không có điên đảo kiến. Người ấy thấy như vầy
và nói như vầy, ‘Có bố thí, có trai tự, cũng có chú thuyết, có nghiệp
thiện ác, có nghiệp báo của thiện ác, có đời này, có đời khác, có cha,
có
mẹ, ở đời có bậc chân nhân, đi đến thiện xứ, khéo đi, khéo hướng, tự
tri, tự giác, tự tác chứng thế giới này và thế giới khác, thành tựu an
trụ’. Đó là điều không tai nạn, việc đúng thời đối với người tu phạm
hạnh.”
- Khi ấy Đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:
- Nếu được làm thân người,
- Pháp được thuyết vi diệu,
- Mà không chứng đạo quả,
- Tất không phải gặp thời.
- Nói nhiều nạn phạm hạnh;
- Người ở vào đời sau,
- Nếu như gặp phải thời,
- Điều quá khó ở đời.
- Muốn được lại thân người,
- Và nghe pháp vi diệu;
- Cần phải siêng năng học;
- Mình tự thương mình thôi.
- Luận bàn, nghe pháp lành;
- Chớ chần chừ lỡ dịp.
- Nếu để mất dịp này,
- Tất lo đọa địa ngục.
- Nếu không sanh gặp thời,
- Không được nghe pháp lành;
- Như người buôn mất của;
- Chịu sanh tử không cùng.
- Nếu sanh được thân người,
- Được nghe pháp chánh thiện,
- Vâng theo Thế Tôn dạy,
- Chắc chắn sẽ gặp thời.
- Nếu đã gặp thời rồi,
- Siêng tu chánh pháp hạnh,
- Để tựu thành pháp nhãn,
- Đấng Nhật Thân đã nói.[11]
- Người ấy thường tự giữ
- Tiến lên, lìa các sử,
- Đoạn diệt mọi kết sử,
- Hàng ma, quyến thuộc ma;
- Người ấy vượt thế gian,
- Đã diệt tận các lậu.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli: A.8.29 Akkhaṇā. Tham chiếu, No.125 (42.1) Tăng Nhất 36, “phẩm Bát Nạn” kinh số 1.
- [02] Bát nạn 八 難. Pāli: atth’ akkhaṇā, tám trường hợp không may mắn, không gặp vận, bất hạnh.
- [03] Phi thời 非 時. Pāli: asamaya, không đúng lúc, trái thời.
- [04] Trường thọ thiên 長 夀 天, chỉ Vô tưởng thiên. Pāli: dīghāyukaṃ devanikāyaṃ.
- [05] Trong
này kể gồm luôn cả súc sanh (tiracchānayoniṃ), ngạ quỷ (pettivisayaṃ),
Trường thọ thiên (dīghāyakaṃ devanikāyaṃ), và biên địa (paccantimesu
janapadesu).
- [06] Trung Quốc 中 國. Pāli: majjhimesu janapadesu, chỉ những nước ở trung bộ Ấn-độ.
- [07] Như dương minh 如 羊 鳴. Pāli: eḷamūga, vừa điếc vừa câm.
- [08] Chân
nhân 真 人; bản Pāli: samaṇabrāhmaṇā, Sa-môn Bà-la-môn.
- [09] Thiện
khứ thiện hướng 善 去 善 向. Pāli: sammaggatā sammā paṇipannā, chánh hành,
chánh hướng 正 行 正 向, đi đúng hướng, đang hướng thẳng đến Niết-bàn.
- [10] Tự
tri tự giác... Pāli: ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ sayaṃ abhiññā
sacchikatvā pavedeti, những vị tự mình bằng trí tuệ siêu việt đã chứng
nghiệm thế giới này và thế giới khác, rồi tuyên bố.
- [11] Nhật thân 日 親, bà con của mặt trời, chỉ dòng họ Thích. Pāli: ādiccabandhu.
-ooOoo-
125. KINH BẦN CÙNG[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Ở đời, người có tham dục mà lại bần cùng, phải chăng là sự bất hạnh lớn?”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu một người có tham dục, lại bần cùng, lại mang nợ tài vật của
người khác. Ở đời, người mang nợ tài vật của người khác, phải chăng là
đại bất hạnh?”
Các Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Nếu một người có tham dục, mang nợ tài vật của người khác mà
không trả đúng hạn được, cứ hẹn rày, hẹn mai; ở đời cứ khất nợ mãi, phải
chăng là đại bất hạnh?”
Các thầy Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu một người có tham dục, cứ khất nợ mãi không trả được, chủ nợ đến đòi; ở đời bị chủ nợ đòi, phải chăng là đại bất hạnh?”
Các thầy Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Nếu chủ nợ đến đòi, mà người có tham dục kia không thể trả được,
chủ nợ cứ đến đòi mãi; ở đời bị chủ nợ đòi mãi, phải chăng là đại bất
hạnh?”
Các thầy Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Nếu chủ nợ cứ đòi mãi, nhưng kẻ tham dục kia vẫn không thể trả
được, liền bị chủ nợ bắt trói lại; ở đời bị chủ nợ bắt trói lại, phải
chăng là đại bất hạnh?”
Các thầy Tỳ-kheo đáp:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
“Đó là, ở đời, người có tham dục lại bần cùng là đại bất hạnh. Ở
đời, người có tham dục vay nợ tài vật của người khác là đại bất hạnh. Ở
đời, người có tham dục vay nợ tài vật của người khác mà khất mãi là đại
bất hạnh. Ở đời, người có tham dục bị chủ nợ đòi nợ là đại bất hạnh. Ở
đời, người có tham dục bị chủ nợ đòi mãi là đại bất hạnh. Ở đời, người
có tham dục bị chủ nợ bắt trói là đại bất hạnh. Cũng vậy, nếu ai đối với
Thánh pháp mà không tin ở thiện pháp, không giữ cấm giới, không nghe
nhiều, không bố thí, không trí tuệ; đối với thiện pháp, dù có nhiều kim
ngân, lưu ly, thủy tinh, ma ni, bạch kha, loa bích, san hô, hổ phách, mã
não, đại môi xa cừ, bích ngọc, xích thạch, tuyền châu, nhưng người ấy
vẫn là kẻ nghèo nàn cô thế. Như vậy, trong Thánh pháp của Ta, gọi
là sự bần cùng, bất thiện.
“Kẻ ấy thân làm việc ác, miệng nói ác và ý nghĩ ác, như thế trong Thánh pháp của Ta gọi là sự vay nợ bất thiện.
“Kẻ ấy muốn che giấu việc làm ác của thân, không tự tỏ bày, không
muốn nói ra, không thích bị quở trách, không ưa theo điều phải. Muốn
che giấu lời nói ác, ý nghĩ ác, không tự tỏ bày, không muốn nói ra,
không thích bị khiển trách, không ưa theo điều phải, như thế trong Thánh
pháp của Ta gọi là sự khất nợ bất thiện.
“Kẻ ấy hoặc sống trong thôn ấp hay ở ngoài thôn ấp, các người
phạm hạnh thấy được bèn nói như thế này: ‘Này chư Hiền, người này làm
như thế, hành vi như thế, ác như thế, bất tịnh như thế. Đó là cái gai
của thôn ấp’. Kẻ ấy liền bào chữa, ‘Này chư Hiền, tôi không làm như vậy,
không có hành vi như vậy, không ác như vậy, không bất tịnh như vậy,
cũng không phải là cái gai của thôn ấp’. Như thế, trong Thánh pháp của
Ta gọi là sự đòi nợ bất thiện.
“Kẻ ấy hoặc ở rừng vắng, hoặc ở núi non, dưới gốc cây, hoặc ở chỗ
vắng vẻ, nhưng vẫn niệm tưởng ba việc bất thiện: dục, nhuế, hại. Như
thế trong Thánh pháp của Ta gọi là sự không ngớt đòi nợ bất thiện.
“Kẻ ấy thân đã làm việc ác, miệng đã nói lời ác và ý đã nghĩ điều
ác. Do đó, kẻ ấy khi thân hoại mạng chung nhất định sanh vào chỗ ác,
sanh trong địa ngục. Như thế, trong Thánh pháp của Ta gọi là sự trói
buộc của bất thiện.
“Ta không thấy có sự trói buộc nào đau khổ bằng, nặng nề bằng,
tàn khốc bằng, khó yêu nổi bằng sự trói buộc trong địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh. Ba sự trói buộc đau khổ này chỉ có bậc Tỳ-kheo A-la-hán lậu
tận mới biến tri và diệt tận, nhổ phăng cội rễ, vĩnh viễn không còn tái
sanh.”
- Rồi Đức Thế Tôn nói tụng rằng:
- Kẻ nghèo khổ ở đời
- Vay nợ của người khác;
- Đã vay tiền của rồi,
- Mắc nợ người là khổ.
- Chủ nợ đến đòi nợ,
- Nhân đấy bắt trói lại;
- Bị trói thật khổ thay,
- Thế gian vẫn lạc dục.
- Trong Thánh pháp cũng vậy;
- Nếu không có chánh tín,
- Không tàm và không quý,
- Thân làm điều bất thiện,
- Miệng ý chẳng kém gì,
- Che giấu không nói ra,
- Không ưa lời dạy phải,
- Giả sử có tu hành,
- Tâm niệm cho là khổ,
- Hoặc thôn hay chỗ vắng,
- Nhân đó sanh hối hận.
- Các việc thân, miệng gây,
- Và những điều ý nghĩ,
- Ác nghiệp cứ tăng dần,
- Quen làm lại làm nữa,
- Tạo ác mãi không thôi.
- Làm nhiều bất thiện rồi,
- Thọ sanh đã đến lúc,
- Tất bị trói địa ngục.
- Buộc ràng quá khổ này,
- Bậc Đại Hùng đã thoát.
- Đúng pháp thu tiền tài,
- Không nợ nần, an ổn.
- Bố thí được hoan hỷ
- Cả hai[02] đều có lợi;
- Các Cư sĩ theo đây,
- Do trí, phước tăng mãi.
- Trong Thánh pháp cũng vậy,
- Nếu có thành tín vững,
- Đầy đủ đức tàm quý,
- Rộng rãi không keo kiệt,
- Dứt lìa năm triền cái,
- Thường ưa hành tinh tấn,
- Thành tựu các thiền định,
- Chuyên nhất, tâm tĩnh lạc[03].
-
Niềm vui không tài sản[04],
- Cũng như nước tắm trong;
- Bất động tâm giải thoát[05],
- Trừ sạch các hữu kết.
- Không bệnh là Niết-bàn;
- Đó là đèn vô thượng,
- Vô ưu, vô nhiễm lạc[06],
- Gọi là không di động.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli, A. 6. 45. Dāliddiya (iṇasutta).
- [02] Hạnh phúc trong đời này (diṭṭhadhamomahitatthāya) và an lạc trong đời sau (samparāyasukhāya).
- [03] Mãn cụ thường khí lạc
滿 具 常 棄 樂. Pāli: ekodi nipako sato, chuyên nhất, cẩn thận, có chánh niệm.
- [04] Vô thực lạc 無 食 樂. Pāli: nirāmisam sukham, sự an lạc không do vật chất.
- [05] Bất động tâm giải thoát 不 動 心 解 脫. Pāli: akuppā me vimuttī.
- [06] Vô trần an 無 塵 安. Pāli: virajam khema, sự an ổn không dính bụi.
-ooOoo-
126. KINH HÀNH DỤC[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Cư sĩ Cấp Cô Độc[02] đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài rồi ngồi xuống một bên, thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, ở đời có bao nhiêu hạng người hành dục[03]?”
Đức Thế Tôn dạy:
“Này Cư sĩ, ở đời gồm có mười hạng người hành dục. Những gì là mười?
“Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách phi pháp
vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy không tự
nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp việc,
cũng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ
hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời sống lâu. Đó là một hạng người hành
dục.
“Lại nữa, này Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một
cách phi pháp vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo,
kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ,
người giúp việc, nhưng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên
cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Đó là
một hạng người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách
phi pháp vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy
có thể tự nuôi thân đầy đủ, nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp
việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cảnh giới an vui, thọ
hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Đó là một hạng người hành
dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách
vừa hợp pháp vừa phi pháp. Sau khi tìm cầu của cải một cách vừa hợp pháp
vừa phi pháp, kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ
con, đầy tớ, người giúp việc, cũng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để
được lên cảnh giới an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống
lâu. Đó là một hạng người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách
vừa hợp pháp vừa phi pháp. Sau khi tìm cầu của cải một cách vừa hợp pháp
vừa phi pháp, kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ
con, đầy tớ, người giúp việc, nhưng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để
được lên cõi an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Đó
là một hạng người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách
hợp pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ,
kẻ ấy không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người
giúp việc, cũng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an
vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Đó là một hạng
người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách
hợp pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ,
kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợï con, dầy tớ,
người giúp việc, nhưng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi
an vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Đó là một hạng
người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách
hợp pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ,
kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ,
người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an
vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Nhưng khi có của
cải rồi lại bị đắm nhiễm, hệ lụy. Khi đã bị hệ lụy, đắm nhiễm, không
thấy được tai hoạn, không biết đến sự xuất yếu mà tiêu dùng. Đó là một
hạng người hành dục.
“Lại nữa, Cư sĩ, có hạng người hành dục tìm cầu của cải một cách
hợp pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ,
kẻ ấy có thể tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ,
người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an
vui, thọ hưởng lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Khi có của cải rồi,
không đắm nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy, không đắm nhiễm, thấy
được tai hoạn, biết được sự xuất yếu mà tiêu dùng. Đó là một hạng người
hành dục.
“Này Cư sĩ, nếu có người hành dục tìm cầu của cải một cách phi
pháp vô đạo. Sau khi tìm cầu của cải một cách phi pháp vô đạo, kẻ ấy
không tự nuôi thân đầy đủ, cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp
việc, cũng không cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an vui,
hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu, thì kẻ hành dục này so
với các người hành dục khác là thấp hèn nhất.
“Này Cư sĩ, nếu có người hành dục tìm cầu của cải một cách vừa
hợp pháp vừa phi pháp. Sau khi tìm cầu của cải một cách vừa hợp pháp vừa
phi pháp, kẻ ấy tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ,
người giúp việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an
vui, hưởng thọ lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu, thì kẻ hành dục này
so với các người hành dục khác là tối thượng.
“Này Cư sĩ, nếu có người hành dục tìm cầu của cải một cách hợp
pháp, phải lẽ. Sau khi tìm cầu của cải một cách hợp pháp, phải lẽ, kẻ ấy
không tự nuôi thân đầy đủ cùng nuôi cha mẹ, vợ con, đầy tớ, người giúp
việc, cũng cúng dường Sa-môn, Phạm chí để được lên cõi an vui, hưởng thọ
lạc báo, sanh vào cõi trời, sống lâu. Khi có của cải rồi, không đắm
nhiễm, không hệ lụy. Đã không hệ lụy, không đắm nhiễm, thấy được tai
hoạn, biết sự xuất yếu khi tiêu dùng, thì kẻ hành dục này so với các
người hành dục khác là tối đệ nhất, tối đại, tối thượng, tối thắng, tối
tôn, tối diệu.
“Cũng như con bò có sữa, do sữa có lạc, do lạc có sanh tô, do
sanh tô có thục tô, do thục tô có tô tinh. Tô tinh là tối đệ nhất, tối
đại, tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu. Này Cư sĩ, cũng như vậy,
so với các người hành dục khác, kẻ hành dục này là tối đệ nhất, tối đại,
tối thượng, tối thắng, tối tôn, tối diệu.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói tụng rằng[04]:
- Nếu phi pháp kiếm của;
- Vừa pháp vừa phi pháp;
- Không cúng, không tự dùng,
- Không bố thí, tạo phước;
- Cả hai đều mang họa,
- Kẻ hành dục thấp nhất.
- Nếu kiếm của hợp pháp,
- Đã lo được tự thân,
- Cung cấp và tự dùng,
- Bố thí và tạo phước,
- Cả hai đều có đức;
- Kẻ hành dục tối thượng.
- Nếu được tuệ xuất yếu,
- Hưởng lạc sống tại gia,
- Thấy tai hoạn, tri túc,
- Tiết kiệm dùng tài vật,
- Kẻ được tuệ xuất dục,
- Là hành dục trên hết.
Phật thuyết như vậy. Cư sĩ Cấp Cô Độc và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Bản Hán, quyển 30. Tương đương Pāli, A. 10. 91 Kāmabhogī.
- [02] Cấp Cô Độc Cư sĩ 給 孤 獨 居 士. Pāli: Anāthapiiḍṇko gahapati.
- [03] Hành dục (nhân) 行 欲 人. Pāli: kāmabhogī, người hưởng thụ dục lạc.
- [04] Bản Pāli không có kệ tụng.
-ooOoo-
127. KINH PHƯỚC ĐIỀN[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô
độc.
Bấy giờ, Cư sĩ Cấp Cô Độc đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật
rồi ngồi xuống một bên, thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, ở đời có bao nhiêu hạng người phước điền[02]?”
Đức Thế Tôn dạy:
“Này Cư sĩ, ở đời có hai hạng người phước điền. Những hạng người nào là
hai? Một là hạng học nhân[03],
hai là hạng vô học nhân[04].
“Hạng hữu học có mười tám, hạng vô học có chín.
“Này Cư sĩ, mười tám hạng người hữu học là những ai? Là tín hành, pháp
hành, tín giải thoát, kiến đảo, thân chứng[05], gia gia[06],
nhất chủng, hướng Tu-đà-hoàn, đắc Tu-đà-hoàn; hướng Tư-đà-hàm, đắc
Tư-đà-hàm; hướng A-na-hàm, đắc A-na-hàm, trung Bát-niết-bàn, sanh
Bát-niết-bàn, hành Bát-niết-bàn, vô hành Bát-niết-bàn, thượng lưu sắc cứu
cánh[07]. Đó là mười tám hạng hữu
học.
“Này Cư sĩ, chín hạng người vô học là những ai? Tư pháp, thăng tấn pháp,
bất động pháp, thối pháp, bất thối pháp, hộ pháp, hộ tắc bất thối bất hộ tắc
thối[08], thật trụ pháp, tuệ giải
thoát, câu giải thoát. Đó là chín hạng vô học[09].”
Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng:
- Học, vô học trong đời,
- Đáng tôn, đáng phụng kính;
- Các ngài tu chánh thân,
- Miệng, ý cũng chánh hạnh.
- Ruộng tốt cho tại gia,
- Cúng dường được phước lớn.
Phật thuyết như vậy. Cư sĩ Cấp Cô Độc và các Tỳ-kheo, sau khi nghe Phật
thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli
A.2.4.4 Dakkhiṇeyya (Samacittavaggo). Hán, biệt dịch, No.99 (992).
- [02] Phước điền nhân
福 田 人. Pāli: dakkhiṇeyya, người xứng đáng được cúng dường.
- [03] Học nhân 學 人, chỉ các
bậc Thánh dưới A-la-hán quả, vì còn phải học. Pāli: sekha.
- [04] Vô học nhân 無 學 人, chỉ
vị đắc quả A-la-hán, không cần phải học nữa. Pāli: asekha.
- [05] Tín hành, hay Tùy tín
hành; Pháp hành hay Tùy pháp hành; Tín giải thoát hay Tín thắng giải; Kiến
đáo hay Kiến chí và Thân chứng. Xem Kinh số
195.
- [06] Gia
gia 家 家 (Pāli: Kolaṅkola), những vị chứng quả Dự lưu
(Sotāpanna) phải thọ sanh từ nhân gian lên thiên thượng hay từ thiên
thượng xuống nhân gian, trước khi chứng đắc Niết-bàn. Nhất chủng 一
種 (Pāli: Ekabīja), những vị chứng quả Dự lưu chỉ tái sanh một lần trước
khi đắc Niết-bàn. Cả hai hạng này thuộc Nhất lai hướng hay Tư đà hàm hướng
(Sakadāgāmimagga), tức từ Dự lưu quả hướng đến Nhất lai quả.
- [07] Năm hạng A-na-hàm (Ngũ
bất hoàn 五 不 還) xem Tập Dị 14 (Đại 26, trang 425 c-26 c): 1. Trung
Bát-niết-bàn (Pāli: antaraparinibbāyi), nhập Niết-bàn ngay sau khi vừa
thác sanh lên Tịnh cư thiên (Niết-bàn với thân trung hữu, theo Hữu bộ); 2.
Sanh bát Niết-bàn (Pāli: upahacca-parinibhāyi): thác sanh Tịnh cư thiên
một thời gian mới nhập Niết-bàn; 3. Hữu hành Bát-niết-bàn (Pāli:
sasaṅkhāra-parinibbāyī): thác sanh thượng giới, tinh tấn tu tập mới nhập
Niết-bàn; 4. Vô hành Bát-niết-bàn (Pāli: asaṅkhāra-parinibhāyī): không cần
tinh tấn tu tập nữa; 5. Thượng lưu sắc cứu caùnh (Pāli:
uddhaṃsota-akanittha-gāmī), lần lượt tái sinh qua các cõi từ sơ thiền, cho
đến tầng cao nhất của Sắc giới, nhập Niết-bàn tại đó.
- [08] Đối chiếu với sáu hạng
A-la-hán trong luận Câu-xá 25 (No.1558, Đại 26, trang 129a, tt.): 1. Thối
pháp (thối bất thối), gặp nghịch duyên bị sụt xuống các bậc Thánh thấp
hơn; 2. Tư pháp, mong cầu Vô dư Niết-bàn cấp thời vì sợ thối thất; 3. Hộ
pháp (hộ tắc bất thối, bất hộ tắc thối), do thủ hộ mà không bị thối thất;
4. An trụ pháp (thật trụ), không bị chi phối nghịch duyêân để thối thất,
nhưng không tiến tới; 5. Kham đạt pháp (thăng tiến), có khả năng tiến tới
bất động tánh. 6. Bất động tánh căn cơ mãnh lợi, không bị chi phối bởi bất
cứ duyên gì.
- [09] Bản Pāli và No.99
(992) không đề cập đến các chi tiết, chỉ nói đại cương hai hạng phước điền
và bài tụng.
-ooOoo-
128. KINH ƯU-BÀ-TẮC[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Cư sĩ Cấp Cô Độc cùng chúng Ưu-bà-tắc gồm có năm trăm
người đi đến chỗ Tôn giả Xá-lê Tử. Cư sĩ Cấp Cô Độc cúi đầu đảnh lễ rồi
ngồi xuống một bên. Năm trăm Ưu-bà-tắc cũng làm lễ rồi ngồi xuống một
bên. Cư sĩ Cấp Cô Độc và năm trăm Ưu-bà-tắc sau khi ngồi xuống một bên,
Tôn giả Xá-lê Tử thuyết pháp cho họ, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu
sự hoan hỷ. Ngài dùng vô lượng phương tiện thuyết pháp cho họ, khuyến
phát khát ngưỡng, thành tựu sự hoan hỷ rồi, liền rời chỗ ngồi đi đến chỗ
Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật và ngồi xuống một bên.
Sau khi Tôn giả Xá-lê Tử đi chẳng bao lâu, Cư sĩ Cấp Cô Độc và
năm trăm Ưu-bà-tắc cũng đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài rồi
ngồi xuống một bên. Sau khi Tôn giả Xá-lê Tử và mọi người đã an tọa, Đức
Thế Tôn dạy:
“Này Xá-lê Tử, nếu thầy biết rằng bạch y Thánh đệ tử[02] gìn giữ, thực hành năm pháp một cách hoàn hảo và được bốn tăng thượng tâm[03],
hiện pháp lạc trú, dễ được chứ không phải khó được. Xá-lê Tử, thầy nên
xác nhậän rằng Thánh đệ tử này không còn đọa địa ngục, cũng không còn
sanh vào loài súc sanh, ngạ quỷ và các chỗ ác, được quả Tu-đà-hoàn,
không đọa ác pháp, nhất định thẳng tiến tới quả vị Chánh giác, tối đa
chịu bảy lần sanh tử nữa. Sau bảy lần qua lại cõi trời, nhân gian, liền
được chấm dứt khổ đau.
“Xá-lê Tử, thế nào là bạch y Thánh đệ tử khéo giữ gìn và thực hành năm pháp[04]?
Đó là bạch y Thánh đệ tử xa lìa sát sanh, vứt bỏ dao gậy, có tâm tàm
quý, tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến loài côn trùng, người ấy
đối với sự sát sanh, tâm đã tịnh trừ. Đó là pháp thứ nhất mà bạch y
Thánh đệ tử đã giữ gìn và thực hành một cách hoàn hảo.
“Lại nữa, này Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử xa lìa việc lấy của
không cho, dứt trừ việc lấy của không cho. Khi nào cho mới lấy, vui với
việc cho mới lấy, thường ưa bố thí, hoan hỷ không keo kiết, không mong
đền trả, không tham lam, thấy tài vật của kẻ khác không lấy về mình[05].
Người ấy đối với việc không cho mà lấy tâm đã tịnh trừ. Đó là pháp thứ
hai mà bạch y Thánh đệ tử đã giữ gìn và thực hành một cách hoàn hảo.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử xa lìa tà dâm, dứt trừ tà
dâm. Người nữ kia hoặc có cha giữ gìn, hoặc có mẹ giữ, hoặc cả cha cả mẹ
cùng giữ, hoặc anh em giữ, hoặc chị em giữ, hoặc gia nương giữ, hoặc
thân tộc giữ, hoặc người cùng họ giữ, hoặc là vợ của người khác, hoặc có
phạt gậy[06], khủng bố, hoặc đã có ước hẹn bằng tài hóa, cho đến bằng một tràng hoa[07];
đối với tất cả những người nữ ấy, không xâm phạm đến. Người ấy đối với
tà dâm, tâm đã tịnh trừ. Đó là pháp thứ ba mà bạch y Thánh đệ tử đã giữ
gìn và thực hành một cách hoàn hảo.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử xa lìa nói dối, dứt trừ
nói dối; nói lời chân thật, ưa sự chân thật, an trụ nơi sự chân thật,
không dời đổi sai chạy. Tất cả những lời nói đều đáng tin, không lừa dối
thế gian. Người ấy đối với sự nói dối, tâm đã tịnh trừ. Đó là pháp thứ
tư mà bạch y Thánh đệ tử giữ gìn và thực hành một cách hoàn hảo.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử lìa rượu, bỏ rượu. Người
ấy đối với việc uống rượu, tâm đã tịnh trừ. Đó là pháp thứ năm mà bạch y
Thánh đệ tử giữ gìn và thực hành một cách hoàn hảo.
“Này Xá-lê Tử, thế nào là bạch y Thánh đệ tử được bốn tâm tăng thượng, hiện pháp lạc trú, dễ chứ không phải khó được[08]? Đó là bạch y Thánh đệ tử niệm tưởng Như Lai[09],
Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu.
Nhớ nghĩ Như Lai như vậy rồi, nếu có những ác dục liền được tiêu diệt.
Trong tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được
tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ tử nương vào Như Lai, tâm tịnh được hỷ, nếu
có những điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất
thiện nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt. Như vậy, bạch y
Thánh đệ tử được tâm tăng
thượng thứ nhất, hiện pháp lạc trú, dễ được chứ không phải khó được.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử niệm tưởng Pháp[10]
được Thế Tôn khéo giảng, pháp chắc chắn đưa đến cứu cánh, không phiền,
không nhiệt, hằng hữu, không di động. Quán pháp như vậy, biết pháp như
vậy, nhớ nghĩ pháp như vậy rồi nếu có những điều ác dục liền được tiêu
diệt. Trong tâm có những điều bất thiện nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo, cũng
được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ tử duyên vào pháp, tâm tịnh được hỷ. Nếu
có những điều ác dục, liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất
thiện nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo, cũng được tiêu diệt. Như vậy, bạch y
Thánh đệ tử được tâm tăng thượng thứ hai.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử niệm chúng Tăng[11],
Thánh chúng của Như Lai là những bậc thiện thú hướng, chánh thú hướng,
như lý hành, pháp tùy pháp hành, chúng ấy thật có A-la-hán hướng,
A-la-hán quả, có A-na-hàm hướng, A-na-hàm quả, có Tư-đà-hàm hướng,
Tư-đà-hàm quả, có Tu-đà-hoàn hướng, Tu-đà-hoàn quả. Đó là bốn cặp tám
bậc, là chúng của Như Lai thành tựu giới, thành tựu định, thành tựu trí
tuệ, thành tựu giải thoát, thành tựu giải thoát tri kiến, đáng kính,
đáng trọng, đáng phụng, đáng cúng, là ruộng phước an lành của thế gian.
Người ấy nhớ nghĩ chúng của Như Lai như vậy, nếu có những điều ác dục
liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ, âu lo,
cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ
tử duyên vào chúng của Như Lai, tâm được hoan hỷ, nếu có những điều
ác dục liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ,
sầu khổ, âu lo cũng được tiêu diệt. Như vậy, bạch y Thánh đệ tử được
tâm tăng thượng thứ ba, hiện pháp lạc trú dễ được chứ không phải khó
được.
“Lại nữa, Xá-lê Tử, bạch y Thánh đệ tử tự niệm tưởng giới[12],
giới này không sứt mẻ, không rách nát, không ô uế, không cấu bẩn, vững
như mặt đất, không hư vọng, đó là điều mà Đức Phật ngợi khen, thọ trì
đầy đủ tốt đẹp. Người ấy tự nhớ nghĩ giới như vậy, nếu có những điều ác
dục, liền được tiêu diệt. Trong tâm có những điều bất thiện, sầu khổ,
nhớp nhơ, âu lo cũng được tiêu diệt. Bạch y Thánh đệ tử duyên vào giới,
tâm định được hỷ. Nếu có những điều ác dục liền được tiêu diệt. Trong
tâm có những điều bất thiện, nhớp nhơ, sầu khổ, âu lo cũng được tiêu
diệt. Như vậy, bach y Thánh đệ tử được tâm tăng thượng thứ tư, đối với
hiện pháp lạc trú dễ được chứ không phải khó được.
“Này Xá-lê Tử, nếu thầy biết rằng bạch y Thánh đệ tử giữ gìn và
thực hành năm pháp một cách hoàn hảo và được bốn tâm tăng thượng, hiện
pháp lạc trú, dễ được chứ không phải khó được, thì này Xá-lê Tử, thầy
nên ghi nhận rằng ‘Thánh đệ tử này không còn đọa địa ngục, cũng không
sanh vào loài súc sanh, ngạ quỷ và các chỗ ác, được quả Tu-đà-hoàn,
không đọa ác pháp, nhất định thẳng tiến đến quả vị Chánh giác, tối đa
chịu bảy lần sanh tử nữa, sau bảy lần qua lại cõi trời và nhân gian,
liền được chấm dứt khổ đau’.”
Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng rằng:
- Kẻ trí sống tại gia,
- Thấy địa ngục, sợ hãi;
- Do thọ trì Thánh pháp,
- Trừ bỏ tất cả ác.
- Không sát hại chúng sanh,
- Biết rồi hay lìa bỏ,
- Chân thật không nói dối,
- Không trộm của kẻ khác;
- Tri túc với gia phụ,
- Không ái lạc vợ người;
- Dứt bỏ việc uống rượu,
- Gốc tâm loạn cuồng si.
- Thường nên niệm chánh giác,
- Suy nghĩ các pháp lành.
- Niệm Tăng, quán cấm giới,
- Do đó được hoan hỷ.
- Muốn hành hạnh bố thí,
- Mà cầu mong hưởng phước,
- Trước thí bậc tịch tịnh[13],
- Như vậy thành quả báo.
- Ta nói, bậc tịch tịnh,
- Xá-lợi nên nghe kỹ.
- Nếu có đen và trắng,
- Dù sắc đỏ hay vàng
- Tạp sắc, sắc đang yêu[14],
- Bò và các chim câu,
- Tùy loại chúng sanh ra.
- Bò thuần, đi phía trước,
- Thân sức thành đầy đủ;
- Đi nhanh lại về nhanh,
- Dùng theo khả năng chúng,
- Kẻ gì sắc tốt xấu.
- Nhân gian này cũng vậy,
- Tùy theo chỗ thọ sanh,
- Sát-đế-lị, Phạm chí,
- Cư sĩ hay thợ thuyền,
- Tùy thọ sanh của họ,
- Trưởng thượng do tịnh giới.
- Bậc Vô Trước, Thiện Thệ,
- Cúng thí ấy, quả lớn.
- Phàm phu, vô sở trí,
- Không tuệ, không học hỏi,
- Thí nơi ấy, quả nhỏ.
- Không quang minh rọi đến,
- Nơi nào rọi quang minh,
- Phật đệ tử trí tuệ,
- Tín tâm nơi Thiện Thệ,
- Thiện căn được vững bền,
- Người ấy sanh thiện xứ,
- Như ý chứng Gia gia,
- Tối hậu đắc Niết-bàn,
- Như vậy có duyên cả.
Phật thuyết như vậy. Tôn giả Xá-lê Tử, chư Tỳ-kheo, Cư sĩ Cấp Cô
Độc và năm trăm Ưu-bà-tắc sau khi nghe lời Phật thuyết, hoan hỷ phụng
hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli A.5.179: Gihi-sutta.
- [02] Bạch y Thánh đệ tử 白 衣 聖 弟 子. Pāli: gihi odātavasana, tại gia áo trắng.
- [03]
Bốn tăng thượng tâm 增 上 心, ở đây chỉ bốn chứng tịnh hay bốn bất hoại
tín, (xem Pháp Uẩn 2, No.1537, trang 460a). Pāli: cataro ābhicetasikā
dhammā; xem đoạn dưới.
- [04]
Thiện hộ hành ngũ pháp 善 護 行 五 法. Pāli: pañcasu sikkhāpadesu saṃvutta-
kammanto, hoạt động được phòng hộ trong năm điều học, tức hộ trì năm
giới.
- [05] Bất
dĩ thâu sở phú thường tự hộ dĩ 不 以 偷 所 覆 常 自 護 以, không bị ám ảnh bởi
việc ăn trộm. Sau khi thường tự giữ gìn... Câu này bất thường so với các
nơi khác cũng trong bản Hán này. Ở đây dịch theo thông lệ của các
trường hợp kia.
- [06] Hữu
tiên phạt, khủng bố
有 鞭 罰 恐 布, roi vọt và đe dọa; hai hạng nữ không là vợ hay con
của ai, nhưng một hạng được pháp luật vua gìn giữ; và một hạng vốn là nô
tì được chủ gìn giữ.
- [07] Người nữ đã hứa hôn.
- [08]
Nghĩa là, do có bốn tăng thượng tâm (catunnaṃ ābhicetasikānaṃ) mà sống an lạc ngay trong hiện tại (diṭṭhadhammavihārānaṃ).
- [09] Hán:
niệm Như Lai 念 如 來; Pāli: buddhe aveccappasādena samannāgato, thành
tựu niềm tin không dao động đối với Phật. Có bốn niềm tin bất động, gọi
là bốn chứng tịnh hay bất hoại tín; xem đoạn tiếp của kinh.
- [10] Hán: niệm Pháp. Pāli: dhamme aveccappasādena samannāgato, thành tựu niềm tin bất động nơi Pháp.
- [11] Niệm Tăng. Pāli: saṅhge aveccappasdēna samannāgato.
- [12] Tự niệm thi-lại 自 念 尸 賴. Pāli: ariyakantehi sīlehi aveccappasādena samannāgato, thành tựu các học giới mà Thánh ái mộ.
- [13] Hán: tiên thí ư tức tâm 先 施 於 息 心, bố thí cho người có tâm tịch tĩnh trước hết. Pāli: santesu paṭhamaṃ dinnā.
- [14]
Mang sắc ái lạc sắc 尨 色 愛 樂 色. Pāli: kammasāsu sarūpāsu, (những con
bò) có đốm hay cùng màu. Hình như bản Hán đọc là surūpa thay vì sarūpa.
-ooOoo-
129.
KINH OÁN GIA[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Có bảy pháp oán gia[02] để gây thành oán gia; tức là khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Những gì là bảy?
“Oán gia thì không muốn oán gia có sắc đẹp. Vì sao oán gia không
muốn oán gia có sắc đẹp? Người hay sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bị
chi phối bởi sân nhuế, tâm không xả bỏ sân nhuế, thì người ấy tuy luôn
tắm gội, dùng danh hương thoa mình, nhưng sắc thân[03]
vẫn xấu. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân
nhuế. Đó là pháp oán gia thứ nhất gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ
nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia ngủ nghỉ an lành. Vì sao
oán gia không muốn oán gia ngủ nghỉ an lành? Người hay sân nhuế bị tác
động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, thì
người ấy tuy nằm trên giường vua, trải bằng thảm lông chim, phủ bằng gấm
vóc lụa là, có nệm mềm, hai đầu kê gối, được phủ bằng thảm quý, bằng da
sơn dương[04],
nhưng giấc ngủ vẫn âu lo, đau khổ. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi
sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ hai để gây thành
oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia có lợi lớn. Vì sao oán
gia không muốn oán gia có lợi lớn? Người hay sân nhuế bị tác động bởi
sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, thì người ấy
đáng lẽ được lợi, hai điều ấy không trái nhau, thật là bất lợi lớn. Vì
sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là
pháp oán gia thứ ba để gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân
nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia có bằng hữu. Vì sao oán
gia không muốn oán gia có bằng hữu? Người hay sân nhuế bị tác động bởi
tâm sân nhuế, bị chi phối bởi tâm sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, thì
người ấy nếu có bằng hữu thân thiết, họ cũng tìm cách lánh mặt bỏ đi. Vì
sao như vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là
pháp oán gia thứ tư để gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân
nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia có sự khen ngợi. Vì sao
oán gia không muốn oán gia có sự khen ngợi? Người hay sân nhuế bị tác
động bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế,
người ấy danh ô tiếng xấu đồn khắp. Vì sao như vậy? Vì bị chi phối bởi
sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ năm để gây thành
oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn oán gia quá giàu sang. Vì sao
oán gia không muốn oán gia quá giàu sang? Người hay sân nhuế bị tác động
bởi sân nhuế, bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, người ấy
tạo nghiệp thân, khẩu, ý như vậy khiến mất nhiều tài vật. Vì sao như
vậy? Vì bị chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán
gia thứ sáu để gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Lại nữa, oán gia thì không muốn để oán gia khi thân hoại mạng
chung được đến chỗ an lành, sanh ở cõi trời. Vì sao oán gia không muốn
oán gia đến chỗ an lành? Người hay sân nhuế bị tác động bởi sân nhuế, bị
chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế, thân khẩu ý tạo ác
nghiệp. Người ấy sau khi thân, khẩu, ý tạo ác nghiệp, thân hoại mạng
chung chắc chắn đến chỗ ác, sanh trong địa ngục. Vì sao như vậy? Vì bị
chi phối bởi sân nhuế, tâm không bỏ sân nhuế. Đó là pháp oán gia thứ bảy
để gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.
“Đó là cả bảy pháp oán gia gây thành oán gia khi mà bọn nam nữ nổi lên sân nhuế.”
Khi ấy Đức Thế Tôn nói tụng rằng:
- Người sân, sắc da xấu;
- Nằm ngủ, khổ không yên.
- Đáng lẽ được của nhiều,
- Trở lại bị bất lợi.
- Kẻ bằng hữu thân thiết,
- Xa lìa người sân nhuế.
- Luôn luôn tập sân nhuế,
- Tiếng xấu đồn khắp nơi.
- Sân gây nghiệp thân khẩu,
- Nhuế buộc ràng nghiệp ý.
- Người bị nhuế chế ngự,
- Mất tất cả tài vật.
- Sân nhuế sanh bất lợi,
- Sân nhuế sanh tâm nhơ.
- Sợ sệt sanh bên trong,
- Người không thể biết được.
- Người sân không biết nghĩa,
- Người sân không hiểu pháp,
- Không mắt, mù mịt tối,
- Là người ưa sân nhuế.
- Nhuế dậy, sắc da ghê,
- Như lửa mới bốc khói,
- Từ đó sanh ghét ghen,
- Duyên sân lại do đó.
- Việc làm của người sân,
- Dù thiện và bất thiện,
- Sau khi cơn sân qua,
- Nóng lòng như lửa đốt.
- Gọi là nghiệp phiền nhiệt,
- Và các pháp buộc ràng.
- Tất cả Ta đã nói,
- Các ngươi hãy nghe kỹ.
- Người sân nghịch hại cha,
- Và với cả anh em,
- Cũng giết hại chị em,
- Người sân nhiều tàn khốc.
- Sanh ra và lớn lên,
- Được thấy thế gian này,
- Nhờ mẹ được sống còn,
- Khi sân cũng sát hại.
- Không xấu, không hổ thẹn,
- Sân triền, không nói năng,
- Người bị sân chế ngự,
- Miệng nói không chừa gì.
- Tạo tác tội nghịch si,
- Để mình tự yểu mạng,
- Khi làm không tự biết,
- Do sân sanh sợ hãi.
- Tự buộc trói thân mình,
- Ái lạc không cùng cực,
- Dù ái niệm tự thân,
- Người sân cũng tự hại.
- Hoặc tự đâm bằng dao,
- Hoặc nhảy xuống hang sâu,
- Hay dùng dây thắt cổ,
- Uống các loại thuốc độc,
- Đó là tượng sân nhuế.
- Là chết bởi vì sân,
- Tất cả đều dứt hết,
- Dùng tuệ mới biết được.
- Nghiệp bất thiện dù nhỏ,
- Người trí biết liền trừ.
- Nên nhẫn nại hạnh này,
- Màu da không dữ dằn,
- Không nhuế, cũng không ưu,
- Khói tắt không lay động,
- Chế ngự đoạn sân nhuế,
- Tịch diệt, không còn lậu.
Đức Phật thuyết như vậy, các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli A.7.60. Kodhana-sutta.
- [02] Thất oán gia pháp 七 怨 家 法. Pāli: sattime dhammā sapattakantā sapattakaraṇā, bảy pháp được kẻ thù yêu thích, tạo thành kẻ thù.
- [03] Sắc, đây chỉ màu da. Pāli: vanna.
- [04] Ca-lăng-già-ba-hòa-la-ba-già-tất-đa-la-na,
phiên âm. Ca-lăng-già: tên xứ. Ba- hòa-la: dịch là ác.
Ba-già-tất-đa-la-na: dịch là áo gối (phiên Phạn ngữ 10, No.2130, trang
1051b). Pāli: kadalimigapavara-paccattharaṇa.
-ooOoo-
130.
KINH GIÁO[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc[02].
Bấy giờ, Tôn giả Đàm-di[03], vị tôn trưởng địa phương[04] làm chủ Phật-đồ[05],
được mọi người tôn sùng, tánh tình hung bạo, nóng nảy, rất cộc cằn thô
lỗ, hay mắng nhiếc các vị Tỳ-kheo. Vì vậy, các vị Tỳ-kheo địa phương[06]
đều bỏ đi, không muốn sống ở đó. Các Ưu-bà-tắc địa phương thấy các vị
Tỳ-kheo địa phương đều bỏ đi, không muốn ở đó, liền nghĩ rằng: “Các vị
Tỳ-kheo địa phương này vì sao lại bỏ đi, không muốn sống ở đây?” Rồi các
vị Ưu-bà-tắc địa phương nghe được rằng: “Tôn giả Đàm-di, vị tôn trưởng
địa phương, làm chủ Phật-đồ, được mọi người tôn sùng, tánh tình hung
bạo, nóng nảy, rất cộc
cằn thô lỗ, hay mắng nhiếc các Tỳ-kheo. Vì vậy các Tỳ-kheo địa
phương đều bỏ đi, không muốn sống ở đó.”
Các vị Ưu-bà-tắc nghe việc ấy rồi, liền cùng nhau kéo đến Tôn giả Đàm-di, xua đuổi ông ra khỏi các chùa địa phương[07].
Bấy giờ Tôn giả Đàm-di bị các vị Ưu-bà-tắc địa phương xua đuổi ra khỏi
các tinh xá địa phương, liền vấn y, mang bát du hành đến nước Xá-vệ, dần
dà đến vườn Cấp cô độc, rừng Thắng, nước Xá-vệ. Rồi Tôn giả Đàm-di đi
đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Ngài, ngồi sang một bên mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con đối với Ưu-bà-tắc địa phương không có điều gì
xấu xa, chẳng nói việc chi, không xúc phạm đến ai, nhưng các Ưu-bà-tắc
địa phương xua đuổi con ra khỏi các chùa địa phương.”
Khi đó, Đức Thế Tôn bảo rằng:
“Thôi đủ rồi, này Đàm-di, cần chi phải nói việc đó.”
Tôn giả Đàm-di chắp tay hướng Phật, bạch lại một lần nữa rằng:
“Bạch Thế Tôn, con đối với Ưu-bà-tắc địa phương không có điều gì
xấu xa, chẳng nói việc chi, không xúc phạm đến ai, nhưng các Ưu-bà-tắc
địa phương xua đuổi con ra khỏi các tinh xá địa phương.”
Đức Thế Tôn cũng lần thứ hai bảo rằng:
“Đàm-di, thuở xưa, ở châu Diêm-phù này có các thương nhâân đi
thuyền ra biển, mang theo con ó tìm bờ. Bọn người ấy ra biển chưa bao
xa, họ thả con ó tìm bờ. Nếu con ó tìm bờ đến được bờ của biển cả, nó sẽ
vĩnh viễn không trở lại thuyền. Nếu con ó tìm bờ không đến được bờø của
biển cả, nó sẽ trở lại thuyền. Ngươi cũng vậy, này Đàm-di, bởi vì ngươi
bị các Ưu-bà-tắc địa phương xua đuổi ra khỏi các chùa địa phương nên
ngươi mới trở về chỗ Ta. Thôi, đủ rồi Đàm-di, còn cần gì phải nói điều
đó nữa.”
Tôn giả Đàm-di bạch lại lần thứ ba:
“Bạch Thế Tôn, con đối với Ưu-bà-tắc địa phương không có điều gì
xấu xa, chẳng nói việc chi, không xúc phạm đến ai, nhưng các Ưu-bà-tắc
địa phương xua đuổi con ra khỏi các tinh xá địa phương.”
Đức Thế Tôn cũng lại lần thứ ba bảo rằng:
“Đàm-di, ngươi trụ trong Sa-môn pháp mà vị các Ưu-bà-tắc địa phương xua đuổi ra khỏi các tinh xá địa phương sao?”
Lúc đó Tôn giả Đàm-di liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng Phật, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, thế nào gọi là Sa-môn trụ trong pháp Sa-môn?”
Đức Thế Tôn dạy:
“Này Đàm-di, thuở xưa, khi con người sống đến tám vạn tuổi.
Đàm-di, khi con người sống đến tám vạn tuổi, châu Diêm-phù này cực kỳ
giàu sang hạnh phúc, dân cư đông đúc, thôn ấp gần nhau bằng khoảng một
con gà bay.
“Khi con người sống đến tám vạn tuổi, con gái đến năm trăm tuổi
mới lấy chồng. Đàm-di, khi con người sống đến tám vạn tuổi, chỉ có các
bệnh như vầy: đại tiện, tiểu tiện, lòng dục, ăn uống và già.
“Đàm-di, khi con người sống đến tám vạn tuổi, có một vị vua tên là Cao-la-bà[08],
thông minh trí tuệ, làm Chuyển luân vương, có bốn loại binh chủng chỉnh
trị thiên hạ; là Pháp vương hành theo chánh pháp, thành tựu bảy báu.
Bảy báu là bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, nữ báu, cư sĩ báu,
tướng quân báu; đó là bảy báu. Có đủ một ngàn người con, tướng mạo đoan
chánh, dũng mãnh vô úy, có thể khuất phục mọi kẻ địch. Vua ấy thống lãnh
tất cả cõi đất đai cho đến biển cả, không cai trị bằng dao gậy mà chỉ
bằng chánh pháp trị hóa, khiến được an ổn.
“Đàm-di, vua Cao-la-bà có một gốc cây tên là Thiện trụ ni-câu-loại thọ[09] vương[10].
Đàm-di, Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương có năm cành. Cành thứ nhất dành
cho vua và hoàng hậu ăn. Cành thứ nhì dành cho thái tử và các quan ăn.
Cành thứ ba dành cho nhân dân trong nước ăn. Cành thứ tư dành cho
Sa-môn, Phạm chí ăn. Cành thứ năm dành cho cầm thú ăn. Đàm-di, quả của
cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương lớn bằng cái hủ hai thăng, mùi vị
như mật nguyên chất. Đàm-di, quả Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương không
ai canh giữ mà cũng chẳng ai trộm cắp. Về sau có một người đói khát gầy
còm, nhan sắc tiều tụy, muốn được ăn quả, nó đến cây Thiện trụ
ni-câu-loại thọ vương ăn quả rồi bẻ gãy
cành cây hái quả đem về. Trên cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương có
một vị trời nương ở đó. Ông ấy nghĩ rằng: ‘Lạ thay, người ở châu
Diêm-phù vô ân, không biết báo đáp. Vì sao? Vì nó ăn quả nơi cây Thiện
trụ ni-câu-loại thọ vương rồi bẻ gãy cành cây, hái quả đem về. Mong cho
cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương không có quả, không sanh quả nữa!’
Tức thì cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương không có quả, cũng không
sanh quả.
“Rồi lại có một người đói khát, gầy còm, nhan sắc tiều tụy, muốn
được ăn quả, đi đến cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương không có quả,
cũng không sanh quả, tức thì đến vua Cao-la-bà tâu rằng: ‘Tâu Thiên
vương, nên biết, cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương không có quả, cũng
không sanh quả nữa’.
“Vua Cao-la-bà nghe xong, trong khoảnh khắc như người lực sĩ co
duỗi cánh tay biến khỏi Câu-lâu-sấu, đến cõi Tam thập tam thiên, đứng
trước Thiên Đế Thích[11] mà tâu rằng: ‘Tâu Câu-dực[12]
nên biết, cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương không có quả, cũng không
sanh quả nữa. Khi đó, Thiên Đế Thích và vua Cao-la-bà trong khoảnh khắc
như người lực sĩ co duỗi cánh tay biến khỏi cõi Tam thập tam thiên, đến
nước Câu-lâu-sấu, cách cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương đứng lại.
Thiên Đế Thích thực hiện Như ý túc như vậy[13], bằng Như ý túc như kỳ tượng, hóa làm nước lớn, gió bão và mưa to. Do nước lớn, gió bão và mưa to, cây Thiện trụ
ni-câu-loại thọ vương bị tróc gốc ngã đổ.
“Lúc đó có vị trời sống trên cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương
nhận thấy như vậy mới buồn khổ, sầu thương, khóc lóc chảy nước mắt, đứng
trước mặt Thiên Đế Thích, Thiên Đế Thích hỏi, ‘Thiên, vì lẽ gì mà ông
buồn khổ, sầu thương, khóc lóc rơi lệ, đứng trước mặt ta?’ Vị trời kia
thưa rằng: ‘Tâu Câu-dực, nên biết, nước lớn, gió bão, mưa to, cây Thiện
trụ ni câu loại thọ vương bị tróc gốc ngã đổ’. Khi ấy, Thiên Đế Thích
bảo Thọ thiên kia rằng: ‘Thiên, ông là Thọ thiên, trụ Thọ thiên pháp[14]
mà để nước lớn, gió mạnh, mưa to làm cây Thiện trụ ni-câu-loại thọ
vương bị tróc gốc ngã đổ sao?’ Thọ thiên thưa rằng: ‘Tâu Câu-dực, thế
nào gọi là Thọ thiên trụ Thọ thiên pháp?’ Thiên Đế Thích bảo, ‘Thiên,
giả sử có người muốn được
rễ cây, cứ lấy rễ cây đi; muốn được cành cây, nhánh cây, lá cây, hoa
quả, cứ đem đi, Thọ thiên không nên giận dữ, không nên ghen ghét, tâm
không nên thù hận, Thọ thiên vẫn an trụ trên thọ thiên với ý niệm buông
xả. Như vậy gọi là Thọ thiên trụ Thọ thiên pháp’. Vị trời kia lại tâu
rằng: ‘Tâu Câu-dực, tôi là Thọ thiên mà không trụ Thọ thiên pháp. Từ nay
về sau tôi sẽ trụ Thọ thiên pháp. Ước mong cây Thiện trụ ni-câu-loại
thọ vương trở lại như cũ’. Rồi thì Thiên Đế Thích thực hiện Như ý túc
như vậy. Thực hiện Như ý túc như vậy xong, lại hóa làm nước lớn, gió
bão, mưa to. Hóa làm nước lớn, gió bão, mưa to xong, cây Thiện trụ
ni-câu-loại thọ vương liền trở lại như cũ.
“Này Đàm-di, cũng vậy, nếu có Tỳ-kheo bị người mắng nhiếc, không
mắng nhiếc lại; bị người sân giận không sân giận lại; bị người quấy phá,
không quấy phá lại; bị đánh đập không đánh đập lại. Này Đàm-di, như vậy
gọi là Sa-môn trụ Sa-môn pháp.”
Lúc đó, Tôn giả Đàm-di liền từ chỗ ngồi, trịch vai áo đang mặc, chắp tay hướng Phật khóc lóc rơi lệ, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con không phải là Sa-môn trụ Sa-môn pháp. Từ nay về sau con sẽ là Sa-môn trụ Sa-môn pháp.”
Đức Thế Tôn dạy:
“Xưa có một Đại sư tên là Thiện Nhãn[15],
được các ngoại đạo tiên nhân tôn làm tôn sư, lìa bỏ ái dục, được như ý
túc. Đàm-di, Thiện Nhãn đại sư có vô lượng trăm ngàn đệ tử. Đàm-di,
Thiện Nhãn đại sư nói Phạm thế pháp[16]
cho các đệ tử nghe. Đàm-di, khi Thiện Nhãn đại sư nói Phạm thế pháp cho
các đệ tử, trong các đệ tử có người không phụng hành trọn vẹn, thì
người ấy sau khi mạng chung, hoặc sanh lên cõi trời Tứ thiên vương, hoặc
sanh cõi trời Tam thập tam thiên, hoặc sanh cõi trời Diệm-ma, hoặc sanh
cõi trời Đâu-suất-đà, hoặc sanh cõi trời Hóa lạc, hoặc sanh cõi trời
Tha hóa lạc. Đàm-di, khi Thiện Nhãn đại sư nói Phạm thế pháp cho đệ tử
nghe, trong các đệ tử có người phụng
hành trọn vẹn, người ấy tu bốn phạm thất[17],
lìa bỏ dục. Khi mạng chung rồi được sanh lên cõi trời Phạm thiên.
Đàm-di, khi ấy Thiện Nhãn đại sư nghĩ rằng: ‘Đời sau ta không nên cùng
các đệ tử đồng sanh đến một chỗ. Bây giờ ta hãy tu tăng thượng từ. Sau
khi tu tăng thượng từ, mạng chung sẽ được sanh vào cõi trời Hoảng dục.
Đàm-di, sau đó Thiện Nhãn đại sư liền tu tăng thượng từ. Sau khi tu tăng
thượng từ, mạng chung được sanh vào cõi trời Hoảng dục. Đàm-di, Thiện
Nhãn đại sư và các đệ tử học đạo không luống công, được quả báo lớn.
Cũng như Thiện Nhãn đại sư, có các Đại sư Mâu-lê-phá-quần-na,
A-la-na-giá Bà-la-môn, Cù-đà-lê-xá-đa, Hại-đề-bà-la Ma-nạp, Thù-đề-ma-lệ
Kiều-đệ-bà-la và Thất-đa Phú-lâu-hề-đa[18].
“Đàm-di, Đại sư Thất-đa Phú-lâu-hề-đa cũng có vô lượng trăm ngàn
đệ tử. Đàm-di, Đại sư Thất-đa Phú-lâu-hề-đa nói Phạm thế pháp cho các đệ
tử. Trong số các đệ tử có người không phụng hành trọn vẹn pháp đã dạy,
người ấy sau khi thân hoại mạng chung, hoặc sanh lên cõi trời Tứ thiên
vương, hoặc sanh cõi trời Tam thập tam thiên, hoặc sanh cõi trời
Diệm-ma, hoặc sanh cõi trời Đâu-suất-đà, hoặc sanh cõi trời Hóa lạc,
hoặc sanh cõi trời Tha hóa. Đại sư Thất-đa Phú-lâu-hề-đa khi nói Phạm
thế pháp, trong số các đệ tử có người phụng hành trọn vẹn pháp ấy, tu
bốn phạm thất, lìa bỏ dục ái. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung được
sanh vào cõi trời Phạm Thiên. Đàm-di, Đại sư Thất-đa Phú-lâu-hề-đa nghĩ
rằng: ‘Đời sau ta không nên cùng các đệ tử sanh cùng một chỗ. Bây giờ
ta
nên tu tăng thượng từ. Sau khi tu tăng thượng từ, mạng chung sẽ được
sanh vào cõi trời Hoảng dục’. Đàm-di, sau đó vị Đại sư thứ bảy Thất-đa
Phú-lâu-hề-đa tu tăng thượng từ. Sau khi tu tăng thượng từ rồi, mạng
chung được sanh lên cõi trời Hoảng dục. Đàm-di, Đại sư Thất-đa
Phú-lâu-hề-đa và các đệ tử học đạo không hư dối, được quả báo lớn.
“Đàm-di, nếu có người nào mắng nhiếc bảy vị Đại sư và vô lượng
trăm ngàn đệ tử kia, cùng đánh phá, sân nhuế, trách móc họ, chắc chắn
chịu vô lượng tội. Nhưng đối với một Tỳ-kheo đã thành tựu chánh niệm,
một đệ tử Phật chứng đắc tiểu quả, mà có ai mắng nhiếc, đả phá sân nhuế,
trách móc vị ấy thì tội nhiều hơn thế nữa.
“Thế cho nên, này Đàm-di, các ngươi hãy luôn luôn nhắc nhở, thủ
hộ lẫn nhau. Vì sao như vậy? Vì ngoài sự quá thất này, không còn sự quá
thất nào hơn nữa[19].”
Khi ấy, Đức Thế Tôn nói kệ:
- Tu-niết[20], Mâu-lê-phá-quần-na,
- A-la-na-giá Bà-la-môn,
- Cù-đà-lê-xá-đa,
- Hại-đề-bà-la Ma-nạp,
- Thù-đề-ma-lệ Kiều-đệ-bà-la và
- Thất-đa Phú-lâu-hề-đa,
- Trong đời quá khứ ấy
- Danh đức bảy tông sư,
- Bi tâm, không nhiễm ái,
- Dục kết đã dứt trừ.
- Trăm ngàn số đệ tử,
- Vô lượng đếm sao vừa,
- Cũng đều ly dục kiết,
- Dù cứu cánh còn chưa.
- Với các tiên nhân ấy,
- Thủ trì khổ hạnh này,
- Ai ôm lòng oán hận,
- Tội mắng nhiếc nhiều thay.
- Huống chi với Phật tử,
- Quả thấy tri kiến ngay;
- Ai chửi mắng, đập phá,
- Tội nghiệp lại tràn đầy.
- Này Đàm-di, do đó,
- Hãy biết thủ hộ nhau;
- Sở dĩ hộ trì nhau,
- Tội nặng nào hơn đâu.
- Như thế thật quá khổ;
- Bậc Thánh cũng ghét bỏ,
- Màu da lại dữ dằn[21];
- Chớ thủ tà kiến xứ.
- Đó là hạng thấp hèn,
- Thánh pháp gọi như thế[22].
- Dù chưa lìa dâm dục,
- Có diệu ngũ căn này:
- Tín, tinh tấn, niệm xứ,
- Chánh định, chánh quán đây.
- Khổ kia mình chịu vậy,
- Trước phải thọ họa tai[23].
- Họa tai đã tự thọ,
- Sau nữa gây hại người.
- Ai hay tự thủ hộ,
- Tất thủ hộ bên ngoài.
- Cho nên hãy tự hộ,
- Kẻ trí hoan lạc thay!
Phật thuyết như vậy, Tôn giả và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli A.6.54 Dhammika-sutta.
- [02] Bản Pāli: Phật tại Rājagaha, núi Gijjhakūṭa.
- [03] Đàm-di 曇 彌. Pāli: Dhammika thera, nguyên là một Bà-la-môn ở Kosala, quy Phật vào lúc rừng Jetavana được cúng.
- [04] Sanh địa tôn trưởng 生 地 尊 長. Pāli: Jātibhūmiyaṃ āvasiko.
- [05] Phật-đồ
chủ 佛 圖 主, có lẽ muốn nói Phật tháp. Bản Pāli: sattasu āvāsesu, trong
bảy trú xứ (ở địa phương). Hình như tất cả đều do Dhammika làm chủ.
- [06] Bản Hán: sanh địa chư Tỳ-kheo 生 地 諸 比 丘. Bản Pāli: āgantukā bhikkhū, các Tỳ-kheo khách.
- [07] Bản
Pāli nói: Bị xua đuổi, Tôn giả đến một tinh xá khác cũng trong địa
phương. Nhưng vừa đđến Tôn giả lại mắng nhiếc các Tỳ-kheo ở đó, họ lại
bỏ đi và Tôn giả lại bị các Cư sĩ kéo đến xua đuổi. Cứ như vậy, Tôn giả
sống bảy nơi tất cả tại địa phương (sabbaso jātibhūmiyam sattasu
āvāsesu). Cuối cùng, Tôn giả phải tìm đến Đức Phật tại Rājagaha, núi
Gijjhakūta.
- [08] Cao-la-bà 高 羅 婆. Pāli: Koravya, trong các truyện bản sanh thường được nói là vua của bộ tộc Kuru.
- [09] Bản Cao-li không có chữ thọ. Ba bản Tống-Nguyên-Minh đều có.
- [10] Thiện trụ ni-câu-loại thọ vương 善 住 尼 拘 類 夀 王. Pāli: Suppatiṭṭha- nigrodha-rājā.
- [11] Thiên Đế Thích. Pāli: Sakka devānam Inda.
- [12] Câu-dực 拘 翼. Pāli: Kosika, biệt danh Thiên Đế Thích.
- [13] Tác như kỳ tượng như ý túc. Pāli: tathārūpaṃ iddhābhisaṃkhāraṃ abhisaṃkhāsi, thực hiện một loại thần thông như thế.
- [14] Thọ thiên pháp 樹 天 法. Pāli: rukkhadhamma, đây hiểu là đạo lý tự nhiên của cây.
- [15]
Đại sư Thiện Nhãn 大 師 善 眼. Pāli: Sunetto nāma satthā, một trong sáu vị
tôn sư cổ đại, thường được kể trong các mẫu truyện cổ Phật giáo.
- [16] Phạm thế pháp 梵 世 法, pháp dẫn đến đời sống trên Phạm thiên. Pāli: Brahama-lokasahavyatāya dhamma.
- [17] Phạm thất hay phạm trụ.
- [18] Danh
sách sáu Đại sư thời cổ: Mâu-lê-phá-quần-na, Pāli: Mūgapakkha;
A-la-na-giá Bà-la-môn, Pāli: Aranemi Brāhmṇa; Cù-đà-lê-xá-đa, Pāli:
Kuddālakasattā; Hại-đề-bà-la Ma-nạp, Pāli: Hatthipāla mānava;
Thù-đề-ma-lệ Kiều-đệ-bà-la, Pāli: Jotipāla govinda; Thất-đa
Phú-lâu-hề-đa, Pāli: Satta purohita.
- [19] Pāli: Nāham (....) ito bahiddā evarūpam khantim vādāmi. Ngoài sự nhẫn nại này, ta nói không còn sự nhẫn nại nào như vậy nữa.
- [20]Sunetta,
xem chú thích trên.
- [21] Hán:
tất đắc thọ ác sắc 必 得 受 惡 色. Pāli: nā sādhurūpaṃ āsīde, dùng công kích
người (có sắc diện) đoan chánh. Có lẽ Hán hiểu āsīde là “hãy ngồi gần”
do gốc động từ sīdati, ngồi.
- [22] Bản
Pāli: sattamo puggalo eso, ariyasaṅghassa vuccati, người ấy (xả bỏ tà
kiến) được nói là cao cả trong hàng Thánh chúng. Hình như bản Hán hiểu
ngược lại?
- [23] Dịch
sát như vậy, nhưng không rõ nghĩa. Pāli nói: tādisam bhikkhum āsajja,
pubbeva upahaññati, ai công kích Tỳ-kheo (dù chưa ly dục nhưng đã có ngũ
diệu căn: tín, tấn v.v...) như vậy, nó bị tai họa trước.
-ooOoo-
131.
KINH HÀNG MA[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Bạt-kì-sấu, trong núi Ngạc, rừng Bố, vườn Lộc dã[02].
Lúc bấy giờ Đại Mục-kiền-liên đang coi việc dựng thiền thất cho Phật[03].
Trong lúc Tôn giả đang kinh hành trên khoảng đất trống, bấy giờ Ma
vương hóa hình nhỏ xíu, chui vào trong bụng của Tôn giả Đại
Mục-kiền-liên. Lúc đó, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên nghĩ như vầy, “Bụng ta
cảm thấy nặng, giống như đang ăn phải hạt đậu. Ta hãy nhập Như kỳ tượng
định, bằng Như kỳ tượng định ta nhìn vào bụng xem.”
Rồi Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đi đến cuối đường kinh hành, trải
ni-sư-đàn, ngồi xếp kiết già, nhập như kỳ tượng định, bằng như kỳ tượng
định mà nhìn vào bụng mình, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thấy Ma vương đang
ở trong đó. Tôn giả bèn ra khỏi định, nói với Ma vương:
“Này Ba-tuần, ngươi hãy đi ra! Này Ba-tuần, ngươi hãy đi ra! Chớ
có xúc nhiễu Như Lai, cũng chớ xúc nhiễu đệ tử của Như Lai. Đừng sống
mãi trong sự vô nghĩa, vô ích mà phải tái sanh ác xứ, thọ vô lượng khổ.”
Khi ấy, Ma vương liền nghĩ: “Sa-môn này không thấy, không biết,
thế mà lại nói: ‘Này Ba-tuần, ngươi hãy đi ra! Này Ba-tuần, ngươi hãy đi
ra! Chớ có xúc nhiễu Như Lai, cũng chớ xúc nhiễu đệ tử của Như Lai.
Đừng sống mãi trong sự vô nghĩa, vô ích mà phải tái sanh ác xứ, thọ vô
lượng khổ’. Tôn sư của ông ta có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại
phước hựu, có đại oai thần, cũng không thể thấy mau lẹ, biết mau lẹ như
vậy, huống nữa là đệ tử mà thấy biết được sao!”
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên lại nói với Ma vương rằng:
“Ta lại biết trong ý của ngươi, ngươi nghĩ như vầy, ‘Sa-môn này
không thấy, không biết, thế mà lại nói: ‘Này Ba-tuần, ngươi hãy đi ra!
Này Ba-tuần, ngươi hãy đi ra! Chớ có xúc nhiễu Như Lai, cũng chớ xúc
nhiễu đệ tử của Như Lai. Đừng sống mãi trong sự vô nghĩa, vô ích mà phải
tái sanh ác xứ, thọ vô lượng khổ’. Tôn sư của ông ta có đại như ý túc,
có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, cũng không thể thấy
mau lẹ, biết mau lẹ như vậy, huống nữa là đệ tử mà thấy biết được sao!’”
Ma Ba-tuần kia nghĩ rằng: “Sa-môn này đã thấy và biết ta nên mới
nói như vậy.” Rồi ma Ba-tuần hóa hình nhỏ xíu, từ trong miệng vọt ra,
đứng ngay trước mặt Tôn giả Đại Mục-kiền-liên.
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên bảo rằng:
“Này ma Ba-tuần, thuở xưa, có Như Lai tên là Giác-lịch-câu-tuân-đại[04], Đấng Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác. Lúc đó ta làm ma có tên là Ác[05]. Ta có người em gái[06] tên là Hắc[07]. Ngươi chính là con trai của nó. Này ma Ba-tuần, vì lẽ đó cho nên ngươi là cháu gọi ta bằng cậu.
“Này ma Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác có hai đệ tử, một tên là Âm[08], hai tên là Tưởng[09].
Này Ba-tuần, do ý nghĩa nào được gọi là Âm? Ba-tuần, Tôn giả đó lúc
sống trên cõi trời Phạm thiên, tiếng nói bình thường của ngài vang cả
ngàn thế giới, lại không có một đệ tử nào có âm thanh ngang bằng, hoặc
tương tợ, hoặc trội hơn được. Này Ba-tuần, vì lẽ ấy cho nên Tôn giả đó
được gọi là Âm vậy. Ba-tuần, lại do ý nghĩa nào mà Tôn giả Tưởng có tên
là Tưởng? Này Ba-tuần, Tôn giả Tưởng nương nơi thôn ấp mà du hành. Khi
đêm đã qua, lúc trời hừng sáng, Tôn giả ấy đắp y, mang bình bát, đi vào
thôn ấp khất thực, cẩn thận thủ hộ thân, thu nhiếp các
căn, giữ vững chánh niệm. Ngài sau khi khất thực xong và sau khi ăn
vào lúc giữa trưa, thâu vén y bát, rửa tay chân, vắt Ni-sư-đàn trên vai,
đi vào rừng vắng vẻ, hoặc đến dưới gốc cây trong rừng sâu, hoặc đến chỗ
không tĩnh, trải ni-sư-đàn ngồi kết già, liền nhập Tưởng tri diệt định
một cách mau chóng. Lúc ấy có những người đang lùa trâu, dê, người đi
mót cỏ, hoặc người đi đường, họ vào trong núi, thấy ngài nhập Tưởng tri
diệt định, bèn nghĩ rằng: ‘Nay Sa-môn này ngồi mà chết trong khu rừng
vắng này. Chúng ta hãy nhặt cỏ khô chất đống phủ lên trên, ràng rịt cẩn
thận, lượm củi chất chồng lên trên thân để hỏa thiêu’. Họ bèn nhặt cỏ
chất đống phủ lên thân ngài, nổi lửa đốt rồi bỏ mà đi. Tôn giả kia, sau
khi đêm đã qua, trời vừa hừng sáng, ra khỏi định, đập phủi y phục,
du hành trở về thôn ấp, đắp y, mang bình bát vào thôn ấp khất thực
như thường lệ, khéo giữ gìn thân căn, giữ vững chánh niệm. Những người
lùa trâu, dê, những người mót cỏ khô, hoặc người đi đường vào trong núi
đã gặp Tôn giả trước kia, họ bèn nghĩ: ‘Đây là Sa-môn ngồi mà chết trong
khu rừng vắng vẻ này. Chúng ta đã nhặt cỏ khô chất đống phủ trên thân,
nổi lửa đốt rồi bỏ đó mà đi. Song Hiền giả này vẫn còn biết tưởng[10].’ Này Ba-tuần, vì lẽ đó cho nên Tôn giả Tưởng được gọi là Tưởng vậy.
“Này Ba-tuần, lúc ấy ác ma nghĩ rằng: ‘Sa-môn trọc đầu này bị da đen trói chặt[11], bị tuyệt chủng, không con cái, học thiền, dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét[12].
Giống như con lừa trọn ngày mang nặng, bị cột lại trong tàu, không được
ăn lúa mạch, nó dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò
xét; Sa-môn trọc đầu này bị da đen trói chặt, tuyệt chủng, không con
cái, chúng nó học thiền, dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong
ngóng dò xét.
“‘Giống như con mèo ngồi rình bên hang chuột, vì muốn bắt chuột
nên nó dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét; cũng
vậy, Sa-môn trọc đầu này bị da đen trói chặt, tuyệt chủng không con cái,
chúng nó học thiền, dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng
dò xét.
“ ‘Cũng giống như con cú mèo[13]
ở giữa đống củi khô, vì muốn bắt chuột nên nó dò xét, ngong ngóng dò
xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét; cũng vậy, Sa-môn trọc đầu này bị da
đen trói chặt, tuyệt chủng không con cái, chúng nó học thiền, dò xét,
ngong ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét.
“ ‘Giống như con chim hạc[14]
ở bên bờ nước, vì muốn bắt cá nên nó dò xét, ngong ngóng dò xét, luôn
luôn ngong ngóng dò xét; cũng vậy, Sa-môn trọc đầu này bị da đen trói
chặt, bị tuyệt chủng không con cái, chúng nó học thiền, dò xét, ngong
ngóng dò xét, luôn luôn ngong ngóng dò xét.
“‘Chúng dò xét cái gì? Dò xét với mục đích gì? Dò xét để mong cái
gì? Chúng nó loạn trí, phát cuồng, bại hoại. Ta chẳng biết chúng nó ở
đâu đến, cũng chẳng biết chúng nó đi về đâu, chẳng biết chúng nó sống ở
đâu, chẳng biết chúng nó chết như thế nào, sanh như thế nào? Ta hãy dạy
bảo các Phạm chí, Cư sĩ rằng: ‘Ngươi hãy đi đến mà chửi, mà đập, mà phá,
mà rủa xả Sa-môn tinh tấn kia’. Vì sao vậy? Khi bị chửi, bị đập, bị
phá, bị rủa xả, biết đâu chúng nó chẳng nổi ác tâm để ta dễ lợi dụng’.
“Bấy giờ ác ma bèn xúi dục các Cư sĩ, Phạm chí. Các Cư sĩ, Phạm
chí ấy chửi, đập phá, rủa xả Sa-môn tinh tấn. Các Cư sĩ, Phạm chí ấy
hoặc dùng cây đánh, hoặc lấy đá ném, hoặc vác gậy đập, có khi gây thương
tích Sa-môn tinh tấn, có khi làm rách toạc áo, có khi làm bể bình bát.
Bấy giờ trong số Cư sĩ Phạm chí ấy do nhân duyên này thân hoại mạng
chung phải đến ác xứ, sanh trong địa ngục. Chúng sanh vào đó rồi, suy
nghĩ như vầy, ‘Ta phải thọ khổ này, lại phải thọ cực khổ hơn nữa. Vì cớ
sao? Vì chúng ta đã đối xử tàn ác với Sa-môn tinh tấn vậy’.
“Này Ba-tuần, đệ tử của Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác mang đầu thương tích, mang y rách toạc,
mang bình bát bể, đi đến chỗ Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở
Trước Đẳng Chánh Giác. Lúc bấy giờ Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai,
Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác đang thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn
quyến thuộc vây quanh. Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở
Trước Đẳng Chánh Giác trông thấy từ xa một đệ tử mang đầu bị thương
tích, y rách toạc, bình bát bể đi đến. Ngài thấy vậy, bảo các Tỳ-kheo
rằng: ‘Các ngươi có thấy chăng, ác ma đã xúi dục các Cư sĩ, Phạm chí
rằng ‘Các ngươi hãy đến mà chửi, mà đập, mà rủa xả Sa-môn tinh tấn. Vì
cớ sao? Khi bị chửi, bị đập, bị rủa xả, biết đâu chúng nó chẳng nổi ác
tâm
để ta dễ dàng lợi dụng’.’ Này các Tỳ-kheo, hãy với tâm tương ưng với
từ, biến mãn một phương, thành tựu an trụ. Cũng vậy, hai, ba, bốn
phương, tứ duy thượng hạ bao trùm tất cả, tâm tương ưng với từ, Bồ tát
kết, không oán, không nhuế, không não hại, rộng lớn bao la, vô lượng,
khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu và an trụ. Bi và hỷ
cũng vậy. Tâm tương ưng với xả, không kết, không oán, không nhuế, không
tranh, rộng lớn bao la, vô lượng, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian,
thành tựu và an trụ. Với tâm ấy khiến ác ma không thể lợi dụng’.
“Này ma Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở
Trước Đẳng Chánh Giác bằng giáo pháp như vậy mà dạy đệ tử. Họ bèn thọ
lãnh giáo pháp ấy, tâm tương ưng với từ, không oán, không nhuế, không
tranh, rộng lớn bao la, khéo tu tập, biến mãn tất cả thế gian, thành tựu
và an trụ. Với tâm ấy, ác ma kia không thể lợi dụng được.
“Này ma Ba-tuần, lúc đó ác ma lại nghĩ: ‘Bằng sự việc ấy ta muốn
lợi dụng Sa-môn tinh tấn mà không thể được. Bây giờ ta hãy xúi dục các
Cư sĩ, Phạm chí rằng: ‘Các người hãy đến phụng kính, cúng dường, lễ sự
Sa-môn tinh tấn’. Biết đâu do sự phụng kính, cúng dường, lễ sự Sa-môn
tinh tấn, chúng nó chẳng nổi ác tâm để ta dễ dàng lợi dụng’.
“Này Ma Ba-tuần, các Cư sĩ, Phạm chí kia sau khi bị ác ma xúi
dục, họ đến phụng kính, cúng dường, lễ sự Sa-môn tinh tấn. Họ lấy áo
trải lên mặt đất mà nói rằng ‘Sa-môn tinh tấn, xin đạp lên mà đi. Sa-môn
tinh tấn thường làm những việc khó làm, khiến cho chúng tôi mãi mãi
được lợi ích, được an ổn khoái lạc’. Hoặc có Phạm chí trải tóc lên mặt
đất, nói rằng ‘Sa-môn tinh tấn, xin đạp lên tóc mà đi. Sa-môn tinh tấn
thường làm những việc khó làm, khiến cho chúng tôi mãi mãi được lợi ích,
được an ổn khoái lạc’. Hoặc có Cư sĩ, Phạm chí hai tay bưng đủ các loại
ẩm thực, đứng bên dưới đợi và nói rằng ‘Sa-môn tinh tấn, xin nhận vật
thực này, xin cứ mang đi tùy ý mà thọ dụng, để cho tôi mãi mãi được lợi
ích, được an ổn khoái lạc’. Các Cư sĩ, Phạm chí thành tín thấy Sa-môn
tinh tấn, cung kính bồng bế vào nhà, đem đủ thứ tài vật ra cho
Sa-môn tinh tấn và nói rằng: ‘Xin thọ nhận cái này, xin thọ dụng cái
này, xin mang cái này đi, tùy ý mà thọ dụng’. Lúc bấy giờ trong số các
Cư sĩ, Phạm chí đó có người chết, do nhân duyên này thân hoại mạng chung
được đi đến thiện xứ, sanh lên cõi trời. Sau khi sanh vào đó, họ bèn
nghĩ ‘Ta đáng thọ hưởng sự an lạc này, lại sẽ thọ hưởng cực lạc hơn nữa.
Vì sao thế? Vì chúng ta đã làm các việc lành với Sa-môn tinh tấn vậy’.
“Này ma Ba-tuần, đệ tử của Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai,
Đấng Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, sau khi được phụng kính, cúng dường,
lễ sự, họ đi đến Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở Trước
Đẳng Chánh Giác. Lúc đó Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở
Trước Đẳng Chánh Giác đang thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn đệ tử vây
quanh. Khi Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Vô Sở Trước Đẳng Chánh
Giác trông thấy từ xa các đệ tử được phụng kính, cúng dường, lễ sự đang
đi đến, thấy vậy, ngài bảo các Tỳ-kheo rằng: ‘Các ngươi có thấy chăng?
Ác ma xúi dục các Cư sĩ, Phạm chí rằng ‘Các ngươi hãy đến phụng kính,
cúng dường, lễ sự Sa-môn tinh tấn’. Biết đâu do phụng kính, cúng dường,
lễ sự Sa-môn tinh tấn, chúng sẽ nổi ác tâm để ta dễ dàng lợi dụng. Này
các Tỳ-kheo, các ngươi hãy quán các hành vô thường, quán các pháp
hưng suy, quán vô dục, quán xả ly, quán diệt, quán đoạn để cho bọn ác ma
không thể lợi dụng’.
“Này ma Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở
Trước Đẳng Chánh Giác bằng giáo pháp như vậy mà dạy các đệ tử, họ bèn
thọ lãnh giáo pháp ấy, quán các hành vô thường, quán pháp hưng suy, quán
vô dục, quán xả ly, quán diệt, quán đoạn, khiến cho ác ma không thể lợi
dụng.
“Này ma Ba-tuần, lúc đó ác ma bèn nghĩ: ‘Bằng việc ấy ta muốn lợi
dụng Sa-môn tinh tấn mà không được. Ta hóa hình làm một đứa nhỏ[15] tay cầm cây gậy lớn, đứng bên đường, đánh vỡ đầu Tôn giả Âm, khiến máu chảy ướt cả mặt’.
“Này ma Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở
Trước Đẳng Chánh Giác sau đó đang du hành trong thôn ấp. Khi đêm đã qua,
lúc trời hừng sáng, mang y bát vào trong thôn xóm khất thực, Tôn giả Âm
đi hầu theo phía sau. Ma Ba-tuần, lúc ấy ác ma hóa hình làm một đứa bé,
tay cầm một cây gậy lớn đứng bên đường, đánh vỡ đầu Tôn giả Âm, khiến
máu chảy ướt cả mặt. Ma Ba-tuần, Tôn giả Âm sau khi bị vỡ đầu chảy máu,
vẫn đi theo sau Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở Trước
Đẳng Chánh Giác như bóng không rời hình. Này ma Ba-tuần, Đức
Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác sau khi
đến thôn ấp, bằng sức mạnh cực kỳ của bản thân, Ngài xoay nhìn theo phía
hữu, như cái nhìn của một voi chúa, không sợ không hãi, không kinh
không
khiếp, quán sát khắp mọi phía. Này ma Ba-tuần, Đức
Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nhìn
thấy Tôn giả Âm đầu bị chảy máu ướt cả mặt, đang đi theo sau Phật như
bóng không rời hình, bèn nói rằng: ‘Ác ma thật là hung bạo này có đại
oai lực, ác ma này không biết vừa đủ’.
“Này ma Ba-tuần, Đức Giác-lịch-câu-tuân-đại Như Lai, Đấng Vô Sở
Trước Đẳng Chánh Giác nói chưa xong thì ngay tại chỗ đó ác ma liền bị
đọa vào đại địa ngục Vô khuyết[16]. Ma Ba-tuần, đại địa ngục này có bốn tên gọi[17],
một là Vô khuyết, hai là Bách đinh, ba là Nghịch thích, bốn là Lục
cánh. Trong đại địa ngục đó có ngục tốt đi đến chỗ ác ma ở mà nói rằng:
‘Ngươi nay nên biết, nếu đinh hiệp với các đinh, phải biết mãn một trăm
năm’.”
Ma Ba-tuần nghe nói như vậy xong, trong lòng hết sức rúng động,
kinh sợ, khủng khiếp vô cùng, tóc lông dựng ngược, bèn hướng đến tôn giả
Đại Mục-kiền-liên mà nói bài kệ:
- Địa ngục kia thế nào,
- Xưa ác ma ở đó?
- Nhiễu hại bậc Phạm hạnh
- Xúc phạm cả Tỳ-kheo.
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đáp lại ma Ba-tuần bài kệ rằng:
- Địa ngục tên Vô khuyết,
- Ác ma từng ở trong.
- Nhiễu hại bậc Phạm hạnh,
- Xúc phạm Tỳ-kheo Tăng.
- Đinh sắt cả trăm cái,
- Thảy đều đâm ngược lên.
- Địa ngục tên Vô khuyết,
- Ác ma từng ở trong.
- Nếu như ai không biết,
- Đệ tử Phật, Tỳ-kheo,
- Tất nhiên khổ như vậy,
- Mà thọ báo nghiệp đen.
- Trong nhiều loại viên quán,
- Loài người trên đất này,
- Ăn loại lúa tự mọc,
- Đời Bắc châu, tự nhiên.[18]
- Đại Tu di triền núi
- Xông ướp bởi nhân lành.[19]
- Tu tập nơi giải thoát,
- Thọ trì tối hậu thân,
- Đứng sững trên suối lớn,
- Cung điện kiếp lâu bền.[20]
- Sắc vàng thật ái lạc,
- Như lửa rực huy hoàng[21].
- Nhạc trời trỗi các thứ;
- Đến Đế Thích thiên cung.
- Kiếp xưa với nhà cửa,
- Thiện Giác đã cúng dường[22].
- Nếu Đế Thích đi trước,
- Lên điện Tỳ-xà-diên[23],
- Hân hoan chào đón Thích,
- Thiên nữ vũ chúc mừng.
- Nếu thấy Tỳ-kheo đến[24],
- Nhìn lui, vẻ thẹn thùng.
- Nếu Tỳ-lan-diên hiện,
- Luận nghĩa cùng Sa-môn,
- Ái tận, đắc giải thoát[25];
- Đại tiên có biết chăng?
- Tỳ-kheo liền đáp lại,
- Người hỏi đúng như nghĩa.
- Câu-dực, ta biết đây,
- Ái tận, đắc giải thoát.
- Nghe lời giải đáp này,
- Đế Thích hoan hỷ lạc.
- Tỳ-kheo ban lợi ích,
- Nói năng đúng nghĩa chân.
- Trên Tỳ-xà-diên điện,
- Hỡi Đế Thích thiên vương,
- Cung điện tên gì vậy,
- Mà người nhiếp trì thành?
- Thích đáp: Đại Tiên Nhân!
- Tên Tỳ-xà-diên-đá.
- Gọi là thế giới ngàn,
- Ở trong ngàn thế giới;
- Không cung điện nào hơn
- Như Tỳ-la-diên-đá.
- Thiên vương Thiên Đế Thích,
- Tự tại mà du hành.
- Ái-lạc na-du-đá[26],
- Hóa một thành trăm hàng.
- Trong Tỳ-lan-diên điện,
- Đế Thích tự tại chơi.
- Tỳ-lan-diên đại điện,
- Ngón chân đủ lung lay[27].
- Thiên vương mắt xem thấy,
- Đế Thích tự tại chơi.
- Giảng đường Lộc tử mẫu[28],
- Nền sâu, đắp kiên cố,
- Khó động, khó lung lay,
- Lay bởi định như ý.
- Kia có đất lưu ly,
- Thánh nhân bước lên đi
- Trơn nhuần, cảm thọ lạc,
- Trải gấm êm diệu kỳ.
- Ái ngữ thường hòa hiệp,
- Thiên vương thường hân hoan.
- Nhạc trời hay khéo trỗi,
- Âm tiết họa nhịp nhàng.
- Thiên chúng đều hội tụ,
- Nhưng thuyết Tu-đà-hoàn[29].
- Biết mấy vô lượng ngàn,
- Và hằng trăm na thuật.
- Đến Tam thập tam thiên,
- Bậc Tuệ Nhãn thuyết pháp.
- Nghe Ngài thuyết pháp xong,
- Hoan hỷ và phụng hành.
- Ta cũng có pháp ấy,
- Như lời của tiên nhân;
- Tức lên cõi Đại phạm,
- Hỏi Phạm thiên sự tình.
- Phạm vẫn có thấy ấy;
- Tức thấy có từ xưa,
- Ta vĩnh tồn, thường tại,
- Hằng hữu, không biến đổi.
- Đại Phạm trả lời kia,
- Đại tiên tôi không thấy,
- Tức thấy có từ xưa,
- Ta thường hằng không đổi.
- Tôi thấy cảnh giới này,
- Các Phạm thiên quá khứ;
- Ta nay do đâu nói,
- Thường hằng không biến đổi.
- Ta thấy thế gian này,
- Bậc Chánh Giác đã dạy.
- Tùy nhân duyên sanh ra,
- Luân chuyển rồi trở lại.
- Lửa không nghĩ thế này:
- “Ta đốt kẻ ngu dại”
- Lửa đốt, ngu sờ tay,
- Tất nhiên phải bị cháy.
- Cũng vậy, ma Ba-tuần,
- Đến Như Lai pháp khuất,
- Mãi làm điều bất thiện,
- Tất thọ báo miên viễn.
- Ngươi đừng trách Phật-đà,
- Chớ hại Tỳ-kheo tịnh.
- Một Tỳ-kheo hàng ma,
- Tại Bố Lâm rừng già.
- Con quỷ sầu áo não,
- Bị Kiền-liên quở la.
- Hãi hùng mất trí tuệ,
- Biến mất bèn đi xa.
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên thuyết như vậy. Ma Ba-tuần sau khi nghe Tôn giả thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli M.50. Māratajjaniya-sutta. Biệt dịch No.66 và No.67.
- [02] Ngạc sơn, Bố lâm: xem cht.3, kinh 74.
- [03] No.66 cũng nói dữ kiện này. No.67 và Pāli không có.
- [04] Giác-lịch-câu-tuân-đại 覺 礫 拘 荀 大. No.66: Câu-lâu-tôn. No.67: Câu-lâu-tần. Pāli:Kakusandha.
- [05]
Ác 惡. No.66: xúc nhiễu ma. No.67: sân hận. Pāli: Dūsī.
- [06] No.66 cũng nói là muội. No.67 nói là tỷ, chị. Pāli: bhaginī.
- [07] Hắc 黑. No.67: Yểm hắc. Pāli: Kālī.
- [08]
Âm 音; Pāli: Vidhura.
- [09] Tưởng 想; Pāli: Sañjīva.
- [10]
Thử Hiền giả cánh phục tưởng
此 賢 者 更 復 想; Pāli: ayaṃ samaṇo... svāyaṃ paṭisañjīvito, sa-môn
này tự mình sống lại. Ở đây, sañjīva: người còn sống; bản Hán đọc là
saññīva; người còn có tưởng.
- [11]
Dĩ hắc sở phược 以 黑 所 縳. Pāli: kiṇhā bandhupādāpacca, đen điu, nòi
giống ti tiện (sinh từ bàn chân của bà con của Phạm thiên). Trong bản
Hán, bandhu, bà con, được đọc là bandha, sự cột trói.
- [12]
Cố dịch sát: học thiền, tứ, tăng tứ, sác sác tăng tứ 學 禪 伺 增 伺 數 數 增
伺. Pāli: jhāyanti, pajjhāyanti, nijjhāyanti, apajjhāyanti (chúng nó
thiền, chúng nó thiền trầm ngâm, chúng nó thiền đắm đuối, chúng nó thiền
si dại). Hán tăng tứ thường dịch chữ abhijjhā, tham cầu (theo nghĩa,
dòm ngó tài sản người khác), được hiểu cùng gốc động từ jhāyati: thiền
hay tư duy.
- [13] Nguyên Hán: hưu hồ
鵂 狐, có lẽ chính xác là con hưu lưu 鵂 鶹, loại cú tai mèo, bắt chuột. Pāli: ulūka, con cú.
- [14] Hạc điểu
鶴 鳥, chính xác nên hiểu là con sếu; nhưng bản Pāli: kotthu nadītīre, con giả can bên bờ sông.
- [15] Bản Pāli: nhập vào một cậu bé (aññataraṃ kumārakaṃ anvāvisitvā).
- [16]
No.66: danh A-tỳ-nê-lê. Có lẽ, Vô khuyết tức Vô gián, hay A-tỳ (Avici). Bản Pāli không nói tên địa ngục gì.
- [17]
Bản Pāli chỉ có ba tên: chaphassāyataniko, địa ngục sáu xúc
xứ; saṅkusamāhato, địa ngục cọc sắt; paccattavedaniyo, địa ngục thọ khổ
các biệt.
- [18] Bốn câu trở lên nói đời sống châu Bắc Câu-lô.
- [19] Hai câu nói về trời Tứ thiên vương, ở ngay sườn núi Tu-di (Sineru).
- [20] Nói về cõi trời Tam thập tam thiên hay Đao lợi thiên (Tavatimsa), ở trên chóp Tu-di. Từ đây trở xuống, nói về các cõi cao hơn.
- [21] Hán: Hoảng dục; danh từ bình thường, không chỉ trời Quang âm ở Nhị thiền thiên.
- [22] Trong một tiền kiếp, Đế Thích cúng dường nhà cửa cho Sa-môn. Do đó, còn có tên là Vāsava.
- [23] Tỳ-xà-diên. Pāli: Vejayanta (Chiến thắng), được gọi như vậy vì xuất hiện khi Thiên Đế Thích chiến thắng A-tu-la (Asura).
- [24] Tức Tôn giả Đại Mục-kiền-liên. Xem chú thích ngay dưới.
- [25]
Thiên Đế Thích (Sakka) được Phật giảng cho về ái tận giải thoát. Trở về
cung điện, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên muốn biết Sakka có hiểu hay không,
nên tìm đến điện Vejayanta. Thiên Đế Thích từ chối trả lời. Khi Tôn giả
thấy đời sống hưởng thụ của Thiên Đế Thích cho rằng quá đáng, nên bấm
ngón chân cái, làm rung động điện Vejayanta, Thiên Đế Thích hoảng sợ
(xem M.37).
- [26] Na-du-đá, Pāli: nahuta hay nayuta, đơn vị đo đường dài. Nhưng trong đây không rõ ý gì.
- [27]
Xem chú thích 25 trên.
- [28] Phật nói về ái tận giải thoát cho Đế Thích tại giảng đường Lộc tử mẫu.
- [29] Đế Thích được coi như đắc Tu-đà-hoàn, sau khi nghe Phật nói kinh Sakkapañhā (Pāli: D.21, Hán No.1914).
-ooOoo-
132. KINH LẠI-TRA-HÒA-LA[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Câu-lâu-sấu[02]
cùng với chúng đại Tỳ-kheo, đi dến Thâu-lô-tra[03];
trú trong vườn Thi-nhiếp-hòa[04],
phía Bắc thôn Thâu-lô-tra.
Bấy giờ, các Phạm chí, Cư sĩ thôn Thâu-lô-tra nghe đồn rằng: “Sa-môn
Cù-đàm, con dòng họ Thích, lìa bỏ tông tộc, xuất gia học đạo, đang du hóa
Câu-lâu-sấu cùng với chúng đại Tỳ-kheo, đi đến thôn Thâu-lô-tra này, trú
trong rừng Thi-nhiếp-hòa, phía Bắc thôn Thâu-lô-tra. Sa-môn Cù-đàm ấy có
tiếng tăm lớn, đồn khắp mười phương. Sa-môn Cù-đàm là Như Lai, Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu[05],
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự[06],
Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu[07].
Vị ấy ở trong thế gian này, giữa Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ
người đến trời, mà tự tri, tự giác, tự chứng ngộ, thành tựu an trụ[08].
Vị ấy thuyết pháp vi diệu ở khởi đầu, vi diệu ở khoảng giữa và đoạn cuối
cũng vi diệu, có nghĩa, có văn; cụ túc thanh tịnh, hiển hiện phạm hạnh[09].
Nếu được gặp Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác để tôn trọng, lễ
bái, cúng dường, thừa sự, thật là thiện lợi thay! Chúng ta nên cùng nhau đến
gặp Sa-môn Cù-Đàm để lễ bái, cúng dường.”
Các Cư sĩ, Phạm chí thôn Thâu-lô-tra sau khi đã được nghe như vậy, mỗi
người cùng với quyến thuộc theo sau, từ thôn Thâu-lô-tra ra đi, hướng về
phía Bắc, đến vườn Thi-nhiếp-hòa. Họ mong gặp Đức Thế Tôn để lễ bái, cúng
dường. Sau khi đến nơi Phật, các Phạm chí, cư sĩ thôn Thâu-lô-tra kia, có
người cúi đầu lễ bái sát chân Phật rồi ngồi sang một bên; có người chào hỏi
Phật rồi ngồi sang một bên; có người chắp tay hướng Phật rồi ngồi sang một
bên; có người từ xa thấy Phật, lặng lẽ ngồi xuống. Khi các Phạm chí, Cư sĩ
thôn Thâu-lô-tra ai nấy đều ngồi yên, Đức Phật nói pháp cho họ, khuyến phát
khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiện nói pháp
cho họ, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ rồi Đức Phật ngồi im
lặng.
Bấy giờ, các Phạm chí, Cư sĩ thôn Thâu-lô-tra sau khi được Phật thuyết
pháp, khuyến phát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ rồi, ai nấy đều rời chỗ ngồi
đứng dậy, cúi đầu sát chân Phật, đi quanh Phật ba vòng rồi ra về.
Lúc bấy giờ con trai cư sĩ là Lại-tra-hòa-la[10]
vẫn ngồi không đứng dậy. Đến lúc các Phạm chí, cư sĩ thôn Thâu-lô-tra ra về
chẳng bao lâu, Lại-tra-hòa-la con trai cư sĩ liền rời chỗ ngồi đứng dậy,
trịch vai áo, chắp tay hướng về Phật mà bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, như con biết, đối với giáo pháp mà Phật đã dạy, nếu con
sống tại gia bị tù hãm trong những sự phiền tỏa, không thể trọn đời thanh
tịnh tu hành phạm hạnh được. Bạch Thế Tôn, xin cho con được theo Thế Tôn
xuất gia học đạo, thọ giới cụ túc, được làm Tỳ-kheo tịnh tu phạm hạnh.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này con trai Cư sĩ, cha mẹ có cho phép ông ở trong Chánh pháp luật này,
chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo không?”
Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, cha mẹ chưa cho con ở trong Chánh pháp luật này chí tín,
lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo.”
Đức Thế Tôn dạy:
“Này con trai Cư sĩ, nếu cha mẹ không cho phép ông sống trong Chánh pháp
luật này, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo, thì Ta
không thể độ ông xuất gia học đạo, cũng không thể truyền trao giới cụ túc.
Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ bạch:
“Bạch Thế Tôn, con sẽ phương tiện xin cha mẹ để con được phép ở trong
Chánh pháp luật này chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo.”
Đức Thế Tôn dạy:
“Này con trai Cư sĩ, tùy ước muốn của ông.”
Khi ấy Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ nghe lời Phật dạy, cẩn thận ghi nhớ,
cúi đầu lễ sát chân Phật, đi quanh ba vòng rồi ra về. Về đến nhà, ông thưa
với cha mẹ:
“Thưa cha mẹ, như con biết, đối với giáo pháp mà Phật đã dạy, nếu con
sống tại gia đình, bị tù hãm trong những sự phiền tỏa, không thể trọn đời
thanh tịnh tu hành phạm hạnh được. Cúi xin cha mẹ cho con trong Chánh pháp
luật này mà chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo.”
Cha mẹ của Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ bảo:
“Lại-tra-hòa-la, cha mẹ chỉ có một mình con, hết sức yêu thương chiều
chuộng, lòng những quyến luyến không kể xiết. Giả sử con có chết đi, cha mẹ
còn không muốn rời bỏ, huống gì còn sống mà nỡ lìa xa, không nhìn thấy được
mặt sao?”
Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ lại thưa đến lần thứ ba:
“Thưa cha mẹ, như con biết, đối với giáo pháp mà Phật đã dạy, nếu con
sống tại gia đình, bị tù hãm trong những sự phiền tỏa, không thể trọn đời
thanh tịnh tu hành phạm hạnh được. Cúi xin cha mẹ cho con trong Chánh pháp
luật này mà chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo.”
Cha mẹ Lại-tra-hòa-la cũng lại bảo đến lần thứ ba:
“Lại-tra-hòa-la, cha mẹ chỉ có một mình con, hết sức yêu thương chiều
chuộng, lòng những quyến luyến không kể xiết. Giả sử con có chết đi, cha mẹ
còn không muốn rời bỏ, huống gì còn sống mà nỡ lìa xa, không nhìn thấy được
mặt sao?”
Khi ấy Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ liền vật mình xuống đất, nói:
“Từ nay con không đứng dậy, không uống, không ăn, cho đến khi nào cha mẹ
cho con ở trong Chánh pháp luật này chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia
đình học đạo.”
Rồi Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ trải qua một ngày không ăn, cho đến hai
ngày, ba ngày, bốn ngày, nhiều ngày không ăn. Bấy giờ cha mẹ Lại-tra-hòa-la
con trai Cư sĩ đến bên con bảo rằng:
“Lại-tra-hòa-la, người con mềm mại, thân hình đẹp đẽ, thường nằm ngồi
trên giường tốt, nay con không biết khổ sao? Lại-tra-hòa-la, con hãy mau
đứng dậy, sống đời dục lạc mà bố thí, sung sướng mà tu phước nghiệp. Vì sao?
Lại-tra-hòa-la, cảnh giới của Đức Thế Tôn rất khó, rất khó! Xuất gia học đạo
lại càng rất khó.”
Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ vẫn nằm im lặng không đáp.
Rồi cha mẹ Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ đi đến thân bằng quyến thuộc và
các quan viên nói rằng:
“Mong quý vị hãy cùng đến chỗ Lại-tra-hòa-la khuyên nó dậy.”
Thân bằng quyến thuộc của Lại-tra-hòa-la và các quan viên bèn cùng nhau
đi đến chỗ Lại-tra-hòa-la bảo rằng:
“Này cậu Lại-tra-hòa-la, người cậu mềm mại, thân hình đẹp đẽ, thường nằm
ngồi trên giường tốt, nay không biết khổ sao? Lại-tra-hòa-la, cậu hãy mau
đứng dậy, sống đời dục lạc mà bố thí, sung sướng tu phước nghiệp. Vì sao?
Lại-tra-hòa-la, cảnh giới của Đức Thế Tôn rất khó, rất khó! Xuất gia học đạo
lại càng rất khó.”
Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ vẫn nằm im lặng không đáp.:
Rồi cha mẹ Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ đi đến các thiện tri thức đồng
bạn đồng lứa với Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ, nói rằng:
“Mong các cậu đến chỗ Lại-tra-hòa-khuyên nó đứng dậy.”
Các thiện tri thức đồng bạn đồng lứa với Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ,
liền cùng nhau đi đến bên Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ, nói rằng:
“Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ, người bạn mềm mại, thân hình đẹp đẽ,
thường nằm ngồi trên giường tốt, nay bạn không biết khổ sao? Lại-tra-hòa-la,
bạn hãy mau đứng dậy sống đời dục lạc mà bố thí, sung sướng tu phước nghiệp.
Vì sao? Lại-tra-hòa-la, cảnh giới của Đức Thế Tôn rất khó, rất khó! Xuất gia
học đạo lại càng rất khó.”
Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ vẫn im lặng không đáp.
Khi ấy các thiện tri thức đồng bạn, đồng lứa với Lại-tra-hòa-la con trai
Cư sĩ đi đến chỗ cha mẹ Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ nói rằng:
“Hai bác nên cho Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ ở trong Chánh pháp luật
này chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo. Nếu anh ấy thích
sống như vậy, thì ngay trong đời này còn có thể gặp nhau. Nếu anh ấy chán
sống cảnh ấy thì tự nhiên sẽ trở về với cha mẹ. Nay nếu không cho anh ấy đi,
nhất định anh ấy sẽ chết, không nghi ngờ gì nữa. Như thế có ích gì?”
Khi ấy, cha mẹ Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ nghe xong, liền nói với các
thiện tri thức đồng bạn đồng lứa với Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ rằng:
“Chúng tôi nay cho Lại-tra-hòa-la ở trong Chánh pháp luật mà chí tín lìa
bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo. Nếu học đạo mà vẫn trở về cho
chúng tôi gặp.”
Rồi các thiện tri thức đồng bạn đồng lứa với Lại-tra-hòa-la con trai Cư
sĩ liền cùng nhau đến chỗ Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ nói rằng:
“Này bạn, cha mẹ đã cho bạn ở trong Chánh pháp luật mà chí tín lìa bỏ gia
đình, sống không gia đình, học đạo. Khi học đạo rồi, phải trở về thăm cha
mẹ.”
Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ nghe như vậy, vui mừng khôn tả, hân hoan,
sinh ái, sinh lạc, bèn đứng dậy, dần dần bồi dưỡng thân thể. Khi thân thể đã
bình phục, liền rời khỏi thôn Thâu-lô -tra, đi đến chỗ Phật, cúi đầu sát
chân Phật, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, cha mẹ đã cho con ở trong Chánh pháp luật này chí tín lìa
bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo. Ngưỡng mong Thế Tôn cho con được
theo Thế Tôn xuất gia học đạo, thọ giới Cụ túc, được làm Tỳ-kheo.”
Khi ấy Đức Thế Tôn độ Lại-tra-hòa-la con trai Cư sĩ xuất gia học đạo,
truyền trao giới Cụ túc. Sau khi truyền trao giới Cụ túc, Đức Thế Tôn ở lại
thôn Thâu-lô-tra một thời gian, sau đó Ngài thâu y mang bát lần lượt du hành
đến nước Xá-vệ, trú trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Tôn giả Lại-tra-hòa-la sau khi xuất gia học đạo, thọ giới Cụ túc, sống cô
độc ở nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn. Do sống cô độc ở
nơi xa vắng, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn, ngài đạt đến mục đích mà
một thiện nam tử cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống
không gia đình học đạo, là chỉ cầu hoàn thành vô thượng phạm hạnh, ở ngay
đời này tự tri, tự giác, tự chứng ngộ, thành tựu an trụ, biết như thật rằng:
“Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái
sanh nữa”. Tôn giả Lại-tra-hòa-la biết như pháp rồi, cho đến, chứng đắc quả
A-la-hán.
Tôn giả Lại-tra-hòa-la, sau khi đắc quả A-la-hán, khoảng chín mười năm
trôi qua, bèn nghĩ rằng: “Ngày xưa ta đã hứa xuất gia học đạo rồi sẽ trở về
thăm cha mẹ. Ta nay nên trở về để trọn lời hứa đó.”
Rồi Tôn giả Lại-tra-hòa-la đi đến chỗ Phật, cúi đầu lễ sát chân Phật,
ngồi sang một bên, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con trước có lời hứa, là sau khi học đạo rồi, sẽ về thăm
cha mẹ. Hôm nay con xin từ giã để về thăm cha mẹ cho trọn lời hứa trước.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghĩ: “Thiện nam tử Lại-tra-hòa-la[11]
này, nếu giả sử xả giới, bỏ đạo, sống đời dục lạc như cũ, chắc chắn không có
trường hợp đó.” Đức Thế Tôn biết vậy, liền bảo:
“Ngươi hãy đi. Những ai chưa được độ, hãy độ; chưa giải thoát, hãy khiến
cho giải thoát; tịch diệt, khiến được tịch diệt. Lại-tra-hòa-la, nay tùy ý
ngươi.
Khi đó, Tôn giả Lại-tra-hòa-la nghe Phật nói xong, cẩn thận ghi nhớ, liền
rời chỗ ngồi đứng dậy, cúi lạy sát chân Phật, đi quanh ba vòng, rồi đi về
phòng riêng, thu xếp ngọa cụ, mang y ôm bát, lần lượt du hành đến thôn
Thâu-lô-tra, trú trong vườn Thi-nhiếp-hòa, phía Bắc thôn Thâu-lô-tra.
Khi đêm đã qua, trời vừa hừng sáng, Tôn giả Lại-tra-hòa-la mang y ôm bát
vào thôn Thâu-lô-tra khất thực. Tôn giả Lại-tra-hòa-la nghĩ như vầy: “Đức
Thế Tôn khen ngợi việc thứ lớp khất thực. Ta nay ở trong thôn Thâu-lô-tra
này nên theo thứ lớp khất thực.”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la ở trong thôn Thâu-lô-tra theo thứ lớp khất thực,
lần lượt về đến nhà mình. Lúc đó cha của Tôn giả Lại-tra-hòa-la đứng trong
cửa, đang chải tóc cạo râu. Ông ta thấy Lại-tra-hòa-la đi vào, liền nói
rằng:
“Sa-môn trọc đầu này bị quỷ đen trói chặt[12],
tuyệt chủng không con cái, phá hoại gia đình ta. Ta có một đứa con, hết sức
thương yêu chiều chuộng, lòng những quyến luyến không kể xiết, thế mà nó dẫn
đi mất. Đừng cho nó ăn!
Tôn giả Lại-tra-hòa-la ở nhà cha đã không được bố thí, mà lại bị rủa xả
rằng: “Sa-môn trọc đầu này bị màu đen trói chặt, tuyệt chủng không con cái,
phá hoại gia đình ta. Ta có một đứa con, hết sức thương yêu chiều chuộng,
lòng những quyến luyến không kể xiết, thế mà nó dẫn đi mất. Đừng cho nó ăn!”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la nghe vậy liền vội vàng bỏ đi.
Lúc đó người nô tỳ của cha Tôn giả Lại-tra-hòa-la xách một giỏ đồ ăn thiu
thối, định vất vào đống rác. Tôn giả thấy người nô tỳ của cha Tôn giả
Lại-tra-hòa-la xách một giỏ đồ ăn thiu thối, định vất vào đống rác, liền
nói:
“Này cô em, nếu đồ ăn thiu thối này đáng bỏ đi thì nên bỏ vào bát của
tôi. Tôi sẽ ăn.”
Khi ấy, đứa nô tỳ của cha người nô tỳ của cha Tôn giả Lại-tra-hòa-la đem
đồ ăn thiu thối trong giỏ đổ vào bát. Đang khi đổ vào bát, do hai dấu hiệu
mà cô nhận ra Tôn giả; đó là: tiếng nói và tay chân của Tôn giả. Nhận ra
được hai dấu hiệu này, nó liền chạy đến chỗ cha của Tôn giả[13]
Lại-tra-hòa-la, thưa:
“Thưa ông, nên biết, cậu Lại-tra-hòa-la đã trở về đế thôn Thâu-lô-tra này
rồi. Ông nên đến gặp.”
Cha Tôn giả Lại-tra-hòa-la nghe xong, rất đổi vui mừng phấn khởi, tay
trái vén áo, tay mặt vuốt sửa râu tóc, rồi đi nhanh đến chỗ Tôn giả
Lại-tra-hòa-la. Khi đó Tôn giả Lại-tra-hòa-la đang quay mặt vào vách, ăn đồ
ăn thiu thối ấy.
Cha Tôn giả Lại-tra-hòa-la thấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la đang quay mặt vào
vách ăn đồ ăn thiu thối, nói rằng:
“Lại-tra-hòa-la con, người con rất mềm mại, thân hình đẹp đẽ, thường ăn
thức ăn ngon. Lại-tra-hòa-la, tại sao con lại ăn đồ ăn thiu thối như thế?
Lại-tra-hòa-la, vì lẽ gì con đã về đến thôn Thâu-lô-tra này mà không về nhà
cha mẹ?”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la thưa rằng:
“Thưa Cư sĩ, con đã vào nhà cha, nhưng không được bố thí mà lại bị rủa
xả, mắng rằng: ‘Sa-môn trọc đầu này bị quỷ đen trói chặt, tuyệt chủng không
con cái, phá hoại gia đình ta. Ta có một đứa con, hết sức thương yêu chiều
chuộng, lòng những quyến luyến không kể xiết, thế mà nó dẫn đi mất. Đừng cho
nó ăn!’ Con nghe như vậy bèn vội vàng bỏ đi.
Cha Tôn giả Lại-tra-hòa-la nói lời xin lỗi rằng:
“Lại-tra-hòa-la, con hãy tha lỗi! Lại-tra-hòa-la, con hãy tha lỗi! Cha
thật không biết Lại-tra-hòa-la trở về nhà cha.”
Rồi cha Tôn giả Lại-tra-hòa-la với lòng cung kính, dìu đỡ Tôn giả
Lại-tra-hòa-la đưa vào trong nhà, trải chỗ ngồi và mời ngồi. Tôn giả
Lại-tra-hòa-la bèn ngồi xuống. Lúc đó, người cha thấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la
ngồi xong, liền đến chỗ vợ, nói rằng:
“Này bà, nên biết, Thiện nam tử Lại-tra-hòa-la đã về lại nhà rồi, mau sửa
soạn cơm nước.”
Mẹ Tôn giả Lại-tra-hòa-la nghe xong, rất đổi vui mừng, phấn khởi, liền
vội vàng sửa soạn cơm nước. Soạn cơm nước xong, bà liền mang tiền bạc ra để
giữa nhà một đống lớn. Đống tiền lớn đến nỗi một người đứng bên này, một
người ngồi bên kia, không trông thấy nhau. Dồn một đống tiền lớn xong, bà đi
đến chỗ Tôn giả Lại-tra-hòa-la nói:
“Lại-tra-hòa-la, đây là phần tiền tài của mẹ. Còn tiền tài của cha con
thì nhiều vô lượng trăm ngàn, không thể tính được. Nay giao hết cho con.
Lại-tra-hòa-la con, con nên xả giới, bỏ đạo, sống đời dục lạc mà bố thí,
sung sướng tu phước nghiệp. Vì sao như vậy? Vì cảnh giới của Thế Tôn rất
khó, rất khó! Xuất gia học đạo lại càng rất khó.”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la thưa với mẹ rằng:
“Con nay có một điều muốn nói mẹ có chịu nghe không?”
Mẹ Lại-tra-hòa-la nói:
“Này con nhà Cư sĩ, có điều gì con cứ nói, mẹ sẵn sàng nghe.”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la thưa với mẹ rằng:
“Nên may bao vải mới, đựng đầy tiền, dùng xe chở đến sông Hằng, đổ xuống
chỗ sâu. Vì sao vậy? Vì do tiền này làm cho con người lo khổ, sầu thương,
khóc lóc, không được an vui.”
Khi ấy, mẹ Tôn giả Lại-tra-hòa-la nghĩ rằng: “Bằng phương tiện này không
thể làm cho con ta Lại-tra-hòa-la xả giới bỏ đạo. Ta nên đến mấy con vợ cũ
của nó, nói như thế này: ‘Các con dâu ơi, các con nên dùng ngọc anh lạc khi
trước trang điểm thân thể, thứ ngọc mà thiện nam tử Lại-tra-hòa-la lúc còn ở
nhà ưa thích nhất. Dùng thứ anh lạc này trang điểm rồi, các con cùng nhau
đến bên Lại-tra-hòa-la, mỗi đứa ôm một chân mà nói rằng: Không biết hiền
lang có thiên nữ nào đẹp hơn tôi mà khiến cho hiền lang bỏ tôi để tu phạm
hạnh vì nàng?’”
Nghĩ xong, bà ta liền đến chỗ các vợ cũ của Tôn giả Lại-tra-hòa-la nói
như thế này:
“Các con dâu ơi, các con nên dùng ngọc anh lạc khi trước trang điểm thân
thể, thứ ngọc mà thiện nam tử Lại-tra-hòa-la lúc còn ở nhà ưa thích nhất.
Dùng thứ anh lạc này trang điểm rồi, các con cùng nhau đến bên
Lại-tra-hòa-la, mỗi đứa ôm một chân mà nói rằng: ‘Không biết hiền lang có
thiên nữ nào đẹp hơn tôi mà khiến cho hiền lang bỏ tôi để tu phạm hạnh vì
nàng?’”
Khi ấy, các cô vợ cũ của Tôn giả Lại-tra-hòa-la liền dùng ngọc anh lạc
khi trước trang điểm thân thể, thứ anh lạc mà Tôn giả Lại-tra-hòa-la lúc còn
tại gia ưa thích nhất. Dùng loại ngọc đó trang điểm rồi, liền kéo đến bên
Tôn giả Lại-tra-hòa-la, mỗi người ôm một chân mà nói như thế này:
“Không biết hiền lang có thiên nữ nào đẹp hơn tôi mà khiến cho hiền lang
bỏ tôi để tu phạm hạnh vì nàng?”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la nói với các cô vợ cũ rằng:
“Này các cô em, các cô nên biết, tôi không phải vì thiên nữ mà tu phạm
hạnh. Sở dĩ tôi tu phạm hạnh, nay đã được mục đích ấy. Những điều Phật dạy,
nay tôi đã làm xong.”
Những bà vợ của Tôn giả Lại-tra-hòa-la đứng sang một bên khóc lóc rơi lệ
mà nói rằng:
“Tôi không phải em gái của hiền lang, nhưng hiền lang lại gọi tôi bằng cô
em.”
Lúc đó Tôn giả Lại-tra-hòa-la quay nhìn về phía cha mẹ, nói:
“Thưa Cư sĩ, nếu có thí cơm, đúng giờ thì thí, tại sao làm phiền nhau?”
Bấy giờ, cha mẹ Tôn giả Lại-tra-hòa-la liền đứng dậy, thân hành lấy nước
rửa, dâng ngài các món hào soạn dồi dào, đủ các loại nhai nuốt, tự thân châm
chước cho ngài ăn no. Ăn xong thâu dọn chén bát, dùng nước rửa xong, lấy một
cái giường nhỏ ngồi riêng nghe pháp.
Tôn giả Lại-tra-hòa-la thuyết pháp cho cha mẹ nghe, khuyến phát khát
ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp cho
họ, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ rồi, ngài từ chỗ ngồi đứng
dậy, nói tụng rằng:
Hãy nhìn hình bóng trang sức này,
Trân bảo ngọc ngà và các thứ;
Tóc uốn lượn buông xuôi phía hữu;
Nốt ruồi xanh, mắt kẻ, mi dài.
Trò dối trá gạt người si dại,
Nhưng lừa sao được kẻ sang bờ!
Với bao nhiêu gấm vóc lụa là,
Mong làm đẹp thân hình xú uế.
Trò dối trá gạt người si dại;
Nhưng lừa sao được kẻ sang bờ!
Và bao nhiêu hương liệu bôi xoa,
Châm chấm điểm phấn vàng son đỏ.
Trò dối trá gạt người si dại;
Nhưng lừa sao được kẻ sang bờ!
Áo tịnh diệu trang hoàng thân thể;
Nhưng nguyên hình huyễn hoặc còn trơ.
Trò dối trá gạt người si dại;
Nhưng lừa sao được kẻ sang bờ!
Khi nai đã đạp tan lưới bẫy,
Và phá tung cổng nhốt một đời;
Ta bỏ lại miếng mồi, đi mất;
Ai yêu gì trói buộc thân nai?
Tôn giả Lại-tra-hòa-la nói tụng rồi, dùng như ý túc nương hư không mà đi.
Đến rừng Thâu-lô-tra, đi vào rừng ấy, trải ni-sư-đàn ngồi kiết già dưới cây
Bệ-hê-lặc[14].
Bấy giờ, vua Câu-lao-bà[15]
với quần thần trước sau vây quanh, ngồi ở chánh điện, bàn tán khen ngợi Tôn
giả Lại-tra-hòa-la rằng:
“Nếu ta nghe tin Thiện nam tử Lại-tra-hòa-la[16]
đến Thâu-lô-tra này thì ta quyết đến thăm.”
Khi ấy vua Câu-lao-bà bảo thợ săn rằng:
“Ngươi hãy đi dò xét rừng Thâu-lô-tra. Ta muốn đến đó săn.”
Thợ săn vâng lời, liền đến dò xét rừng Thâu-lô-tra. Khi người thợ săn dò
xét rừng, thấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la trải tọa cụ ngồi kiết già dưới cây
Bệ-hê-lặc, liền nghĩ: “Người mà vua Câu-lao-bà cùng quần thần ngồi tại chánh
điện bàn tán khen ngợi, bây giờ ở đây.”
Khi người thợ săn dò xét rừng Thâu-lô-tra xong rồi, trở về tâu với vua
Câu-lao-bà rằng:
“Tâu Đại vương, nên biết, tôi đã xem rừng Thâu-lô-tra rồi. Xin theo ý Đại
vương. Tâu Đại vương, Tôn giả Lại-tra-hòa-la, người mà Đại vương cùng quần
thần ngồi ở chánh điện bàn tán khen ngợi rằng: ‘Nếu ta nghe tin Thiện nam tử
Lại-tra-hòa-la đến Thâu-lô-tra này, ta quyết đến thăm’. Nay Tôn giả Thiện
nam tử Lại-tra-hòa-la hiện đang ở trong rừng Thâu-lô-tra, trải tọa cụ ngồi
kiết già dưới cây bệ-hê-lặc, Đại vương muốn gặp có thể đến đó.”
Vua Câu-lao-bà nghe xong, bảo người đánh xe:
“Ngươi mau mau sửa soạn xa giá. Ta muốn đến gặp Lại-tra-hòa-la.
Người đánh xe vâng lệnh, sửa soạn xa giá xong trở lại tâu vua:
“Tâu Đại vương, nên biết, xa giá đã sửa soạn xong. Xin theo ý Đại vương.”
Khi ấy vua Câu-lao-bà liền ngồi xe ra đi đến rừng Thâu-lô-tra. Từ xa
trông thấy Tôn giả Lại-tra-hòa-la, nhà vua liền xuống xe, đi bộ đến chỗ Tôn
giả Lại-tra-hòa-la. Tôn giả Lại-tra-hòa-la thấy vua Câu-lao-bà đến, nói
rằng:
“Đại vương, nay đến đây, muốn ngồi đâu tự tiện ngồi, được chăng?”
Vua Câu-lao-bà đáp:
“Hôm nay tuy tôi đến bờ cõi của mình, nhưng ý tôi muốn Thiện nam tử
Lại-tra-hòa-la mời tôi ngồi.
Tôn giả Lại-tra-hòa-la liền mời vua Câu-lao-bà rằng:
“Đây có chỗ ngồi riêng, xin mời Đại vương ngồi.”
Khi ấy, vua Câu-lao-bà với Tôn giả Lại-tra-hòa-la cùng chào hỏi nhau rồi
ngồi sang một bên. Vua nói với Tôn giả Lại-tra-hòa-la:
“Có phải ngài vì gia đình suy sụp mà xuất gia học đạo chăng? Nếu vì không
có tài vật nên sống đời học đạo, thì này Lại-tra-hòa-la, trong nhà của
Câu-lao-bà vương gia này có nhiều tài vật, tôi sẽ xuất tài vật cho
Lại-tra-hòa-la, khuyên Lại-tra-hòa-la xả giới bỏ đạo, sống đời dục lạc mà bố
thí, tùy ý tu phước nghiệp. Vì sao như vậy? Lại-tra-hòa-la, giáo pháp của
Tôn sư rất khó, xuất gia học đạo lại càng khó hơn”.
Tôn giả Lại-tra-hòa-la nghe xong, nói rằng:
“Đại vương nay bằng sự bất tịnh mời tôi, không phải bằng sự thanh tịnh mà
mời.”
Vua Câu-lao-bà nghe xong, hỏi:
“Tôi phải làm sao để thỉnh mời Lại-tra-hòa-la bằng sự thanh tịnh, không
phải bằng sự bất tịnh?”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la đáp:
“Đại vương, nên nói như thế nầy: ‘Lại-tra-hòa-la, nhân dân trong nước tôi
an ổn, sung sướng, không có việc kinh sợ, không có đấu tranh, không có hà
khắc, không có khổ nô dịch; lúa gạo đầy đủ, khất thực dễ được.
Lại-tra-hòa-la sống trong nước tôi, tôi sẽ ủng hộ như pháp’. Đại vương, nói
như vậy gọi là bằng sự thanh tịnh mời tôi, không phải bằng sự bất tịnh mà
mời.”
Vua Câu-lao-bà nghe xong, nói:
“Nay tôi bằng sự thanh tịnh mà mời Lại-tra-hòa-la; không phải bằng sự bất
tịnh. Nhân dân trong nước tôi an ổn, sung sướng, không có việc kinh sợ,
không có đấu tranh, không có hà khắc, không có khổ nô dịch; lúa gạo đầy đủ,
khất thực dễ được. Lại-tra-hòa-la sống trong nước tôi, tôi sẽ ủng hộ như
pháp.”
“Lại nữa, Lại-tra-hòa-la, có bốn trường hợp suy vi, do suy vi nên cạo bỏ
râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo.
Những gì là bốn? Bệnh suy, lão suy, tài sản suy, thân tộc suy.
“Lại-tra-hòa-la, thế nào là bệnh suy? Hoặc có người trường kỳ bị bệnh;
bệnh tật rất nặng, quá đau đớn, người ấy nghĩ rằng: ‘Ta trường kỳ bị bệnh;
bệnh tật rất nặng, quá đau đớn. Ta thật có dục vọng nhưng không sống đời dục
lạc được. Ta nay nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình,
sống không gia đình học đạo’. Sau đó, người ấy vì bệnh suy nên cạo bỏ râu
tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo. Đó
gọi là bệnh suy.
“Lại-tra-hòa-la, thế nào gọi là lão suy? Hoặc có người tuổi già, các căn
suy yếu, tuổi thọ gần hết, người ấy nghĩ rằng: ‘Ta tuổi đã già, các căn suy
yếu, tuổi thọ gần hết, ta thật có dục vọng nhưng không thể sống đời dục lạc,
ta nay nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không
gia đình học đạo’. Sau đó, người ấy vì lão suy nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo
ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo. Đó gọi là lão
suy.
“Lại-tra-hòa-la, thế nào là tài sản suy? Hoặc có người bần cùng cô thế,
người ấy nghĩ rằng: ‘Ta bần cùng cô thế, ta nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo
ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo’. Sau đó, người
ấy vì tài sản suy nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình,
sống không gia đình học đạo. Đó gọi là tài suy.
“Lại-tra-hòa-la, thế nào gọi là thân tộc suy? Hoặc có người bà con tuyệt
tự, chết tuyệt, không còn một ai, người ấy nghĩ rằng: Ta nay bà con tuyệt
tự, chết tuyệt, không còn một ai. Ta nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí
tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo’. Sau đó người ấy vì thân
suy nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không
gia đình học đạo. Đó gọi là thân suy.
“Lại-tra-hòa-la khi xưa không bệnh hoạn, an ổn trọn vẹn, đường tiêu hóa
điều hòa, không lạnh không nóng, bình chánh an lạc, thuận hòa không tranh
chấp; do đó, các thứ đồ ăn mềm hay cứng được dễ dàng tiêu hóa, an ổn. Như
vậy, Lại-tra-hòa-la chẳng phải vì bệnh suy mà cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa,
chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo.
“Lại-tra-hòa-la khi xưa vào tuổi niên thiếu, tóc đen óng mướt, thân thể
khỏe mạnh, rồi xướng ca tấu nhạc, mặc tình thỏa thích. Lại chưng diện thân
thể, thường thích dạo chơi. Lúc ấy bà con không ai muốn để ngài học đạo; cha
mẹ khóc lóc, lo sầu áo não, cũng không cho ngài xuất gia học đạo. Nhưng ngài
cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình
học đạo. Như vậy Lại-tra-hòa-la không vì lão suy mà cạo bỏ râu tóc, mặc áo
ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo.
“Lại-tra-hòa-la ở trong thôn Thâu-lô-tra này, về phần tài vật, gia đình
ngài là đệ nhất, là tối đại, là tối thắng, là tối thượng. Như vậy
Lại-tra-hòa-la không vì tài sản suy mà cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín
lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo.
“Lại-tra-hòa-la ở trong rừng Thâu-lô-tra này, các bà con giàu có đều còn
sống. Như vậy, Lại-tra-hòa-la không phải vì thân tộc suy mà cạo bỏ râu tóc,
mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo.
“Lại-tra-hòa-la, đối với bốn trường hợp suy vi ấy, hoặc do một suy vi nào
đó nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia
đình học đạo, nhưng tôi thấy Lại-tra-hòa-la không có một suy vi nào khả dĩ
khiến Lại-tra-hòa-la cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình,
sống không gia đình học đạo. Lại-tra-hòa-la hiểu biết thế nào và được nghe
những gì mà cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống
không gia đình học đạo?”
“Tôn giả Lại-tra-hòa-la đáp:
“Đại vương, Thế Tôn là đấng đã biết, đã thấy, là Như Lai, Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác, đã giảng thuyết bốn sự. Tôi hoan hỷ chấp nhận điều ấy; tôi
thấy, nghe, hiểu biết điều ấy, nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa
bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo.
“Những gì là bốn[17]? Đại
vương, thế gian này không được bảo vệ, không đáng nương tựa[18].
Thế gian này nhất thiết phải đi đến sự già nua[19].
Thế gian này không thường, cần phải bỏ đi[20].
Thế gian này không có sự thỏa mãn, không có sự biết đủ, là tôi tớ của ái[21].”
Vua Câu-lao-bà hỏi:
“Lại-tra-hòa-la, như ngài vừa nói, ‘Đại vương, thế gian này không được
bảo vệ, không đáng nương tựa’. Nhưng, Lại-tra-hòa-la, tôi có con, cháu, anh,
em, bè đảng, tượng quân, xa quân, mã quân, bộ quân, thảy đều giỏi bắn, giỏi
chống cự, nghiêm nghị, dõng mãnh như vương tử, lực sĩ, Bát-la-khiên-đề, Ma
ha năng già[22]; lại có người
xem tướng, có kẻ trù mưu, có người tính toán, có kẻ thông hiểu điển sách, có
người giỏi đàm luận, có quân thần, có quyến thuộc, người trì chú, kẻ biết
chú, bất cứ phương nào có sự khủng bố thì có kẻ chế phục, ngăn cản. Nếu như
lời Lại-tra-hòa-la nói, ‘Đại vương, thế gian này không được bảo vệ, không
đáng nương tựa,’ thì này Lại-tra-hòa-la, nói như thế có nghĩa gì?”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la đáp:
“Đại vương, bây giờ tôi hỏi nhà vua, xin tùy theo sự hiểu biết mà trả
lời. Đại vương, thân này có bệnh chăng?”
Vua Câu-lao-bà đáp:
“Lại-tra-hòa-la, nay thân này của tôi thường có phong bệnh[23].
Tôn giả Lại-tra-hòa-la hỏi:
“Đại vương, khi phong bệnh bộc phát rất trầm trọng, rất đau đớn, thì này
Đại vương, lúc ấy có thể bảo bọn con cháu, anh em, họ hàng thân thích, tượng
quân, xa quân, mã quân, bộ quân, thảy đều giỏi bắn, giỏi chống cự, nghiêm
nghị, dõng mãnh như vương tử, lực sĩ, Bát-la-khiên-đề, Ma-ha-năng-già, kẻ
xem tướng, kẻ trù mưu, người tính toán, kẻ thông hiểu điển sách, người giỏi
đàm luận, quân thần quyến thuộc, kẻ trì chú, người biết chú, rằng ‘Các ngươi
hãy đến, tạm thời thay thế ta chịu sự khổ sở đau đớn để ta khỏi bệnh, an
lạc’ được chăng?”
Vua Câu-lao-bà đáp:
“Không được. Vì sao vậy? Tôi tự gây nghiệp; nhân bởi nghiệp, duyên bởi
nghiệp, riêng mình chịu khổ sở đau đớn.”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la bảo:
“Đại vương, thế cho nên Đức Thế Tôn dạy rằng ‘Thế gian này không được bảo
vệ, không đáng nương tựa. Tôi muốn nhẫn lạc điều đó, tôi thấy, nghe, hiểu
biết điều đó nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống
không gia đình học đạo.”
Vua Câu-lao-bà nói rằng:
“Như Lại-tra-hòa-la đã nói, ‘Đại vương, thế gian này không được bảo vệ,
không đáng nương tựa’. Này Lại-tra-hòa-la, tôi cũng muốn nhẫn lạc điều đó.
Vì sao như vậy? Thế gian này quả thật không được bảo vệ, không đáng nương
tựa.”
Vua Câu-lao-bà lại hỏi:
“Như Lại-tra-hòa-la đã nói, ‘Đại vương, thế gian này tất cả đều đi đến
chỗ già nua’. Lại-tra-hòa-la, nói như vậy có nghĩa gì?”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la đáp:
“Đại vương, bây giờ tôi hỏi nhà vua, xin tùy theo sự hiểu biết mà trả
lời. Lúc Đại vương còn hai mươi bốn tuổi hay hai mươi lăm tuổi thì như thế
nào? Khi ấy sự nhanh nhẹn như thế nào đối với ngày nay? Khi ấy, gân sức,
hình thể, nhan sắc như thế nào đối với ngày nay?”
Vua Câu-lao-bà đáp:
“Khi tôi còn hai mươi bốn hay hai mươi lăm tuổi, tự nhớ lại thời ấy, sự
nhanh nhẹn, gân sức, hình thể, nhan sắc không ai hơn tôi. Lại-tra-hòa-la,
tôi nay đã già nua, các căn lụn bại, mạng sống sắp chấm dứt, tuổi đầy tám
mươi, đâu có mạnh khỏe như xưa.”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la nói:
“Đại vương, thế cho nên Đức Thế Tôn dạy rằng: ‘Thế gian này, tất cả đều
đi đến chỗ già nua’. Tôi muốn tiếp nhận điều đó, tôi thấy, nghe, hiểu biết
điều đó nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín từ bỏ gia đình, sống không
gia đình học đạo.”
Vua Câu-lao-bà nói:
“Như Lại-tra-hòa-la nói, ‘Đại vương, thế gian này tất cả đều đi đến chỗ
già nua’. Tôi cũng muốn tiếp nhận điều đó. Vì sao như vậy? Thế gian này quả
thật tất cả đều đi đến chỗ già nua.”
Vua Câu-lao-bà lại hỏi:
“Như Lại-tra-hòa-la đã nói, ‘Đại vương, thế gian này vô thường, cần phải
bỏ đi’. Lại-tra-hòa-la, nói như vậy lại có nghĩa gì?”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la đáp:
“Đại vương, bây giờ tôi hỏi nhà vua, xin tùy theo sự hiểu biết mà trả
lời. Đại vương, có nước Câu-lâu-sấu dồi dào, hậu cung dồi dào, kho tàng dồi
dào không?”
Vua Câu-lao-bà đáp:
“Đúng vậy!”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la lại hỏi:
“Đại vương, có nước Câu-lâu-sấu dồi dào, hậu cung dồi dào, kho tàng dồi
dào, nếu thời gian đã đến, không thể nương tựa, chịu đựng sự tan vỡ, tất cả
đời này đều đi đến chỗ diệt vong; lúc đó nước Câu-lâu-sấu dồi dào, hậu cung
dồi dào, kho tàng dồi dào, có thể từ đời này mang qua đời sau không?”
Vua Câu-lao-bà đáp:
“Không được. Vì sao như vậy? Tôi phải đơn độc, cô thân, cũng không bạn
bè, từ đời này mà đi đến đời sau.”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la nói:
“Thế cho nên Đức Thế Tôn dạy rằng: ‘Thế gian này vô thường, cần phải bỏ
đi’. Tôi muốn nhẫn lạc điều đó, tôi thấy, nghe, hiểu biết điều đó nên cạo bỏ
râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình
học đạo.”
Vua Câu-lao-bà nói:
“Như Lại-tra-hòa-la đã nói, ‘Đại vương, thế gian này vô thường, cần phải
bỏ đi’. Tôi cũng muốn nhẫn lạc điều đó. Vì sao? Thế gian này quả thật vô
thường, cần phải bỏ đi.”
Vua Câu-lao-bà lại hỏi:
“Như Lại-tra-hòa-la đã nói, ‘Đại vương, thế gian này không có sự thỏa
mãn, không có sự biết đủ, là tôi tớ của ái’. Lại-tra-hòa-la, nói điều này,
như vậy có nghĩa gì?”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la đáp:
“Đại vương, bây giờ tôi hỏi nhà vua, xin tùy theo sự hiểu biết mà trả
lời. Có nước Câu-lâu-sấu dồi dào, hậu cung dồi dào, kho tàng dồi dào không?”
Vua Câu-lao-bà đáp:
“Đúng vậy.”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la lại hỏi:
“Có nước Câu-lâu-sấu dồi dào và hậu cung dồi dào, kho tàng dồi dào; nếu
có một người từ phương Đông đến, đáng tín nhiệm, không lừa dối, nói với nhà
vua rằng: Tôi từ phương Đông đến, thấy nước ấy vô cùng giàu có an vui, nhân
dân đông đúc.”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la lại nói:
“Phương Nam, phương Tây, phương Bắc cũng như vậy. Từ bờ biển lớn, nếu có
một người đến, đáng tín nhiệm, không lừa dối, nói với nhà vua rằng: Tôi từ
bờ biển lớn đến, thấy nước ấy vô cùng giàu có an lạc, nhân dân đông đúc.”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la nói:
“Đại vương, thế cho nên Đức Thế Tôn dạy rằng: ‘Thế gian này không có sự
thỏa mãn, không có biết đủ, là tôi tớ của ái’. Tôi muốn nhẫn lạc điều đó;
tôi thấy, nghe, hiểu biết điều đó nên cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín
lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học đạo.”
Vua Câu-lao-bà nói:
“Như Lại-tra-hòa-la đã nói, ‘Đại vương, thế gian này không có sự thỏa
mãn, không có sự biết đủ, là tôi tớ của ái’. Tôi cũng muốn nhẫn lạc điều đó.
Vì sao? Vì thế gian này quả không có sự thỏa mãn, không có sự biết đủ, là
tôi tớ của ái.”
Tôn giả Lại-tra-hòa-la nói:
“Đức Thế Tôn, là đang đã biết, đã thấy, là Như Lai, Vô Sở Trước Đẳng
Chánh Giác, nói cho tôi nghe bốn việc này. Tôi muốn nhẫn lạc điều đó nên cạo
bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình học
đạo.”
Lúc đó, Tôn giả Lại-tra-hòa-la nói tụng rằng:
- Ta thấy người thế gian,
- Có của, ngu không thí;
- Được của rồi cầu thêm,
- Xan tham chứa chất của.
- Nhà vua được thiên hạ,
- Chỉnh ngự tùy sức mình.
- Trong nước không biết đủ,
- Lại tìm ở nước ngoài.
- Nhà vua và nhân dân
- Chưa lìa dục, mạng vong.
- Xỏa tóc, vợ con khóc;
- Ôi thôi, khổ khó ngăn.
- Bó chăn đệm chôn cất;
- Hoặc chất củi hỏa thiêu.
- Duyên đi đến đời sau;
- Thiêu rồi vẫn ngu dại.
- Chết rồi của không theo;
- Vợ con và nô tỳ,
- Của nhiều cùng chung hưởng;
- Ngu, trí, cũng vậy thôi.
- Người trí chẳng âu lo;
- Kẻ ngu ôm sầu thảm.
- Thế nên trí tuệ hơn;
- Bước về nẻo chánh giác.
- Chấp chặt theo có Hữu,
- Kẻ ngu gây hạnh ác.
- Với pháp, làm phi pháp;
- Dùng sức cưỡng đoạt người.
- Kém trí bắt chước theo;
- Ngu làm nhiều hạnh ác.
- Nhập thai đến đời sau,
- Luôn luôn chịu sanh tử.
- Đã thọ sanh ra đời,
- Chỉ làm các việc ác.
- Như giặc bị bắt trói;
- Tự làm ác hại mình.
- Chúng sanh này như thế,
- Cho mãi đến đời sau.
- Do nghiệp mình đã tạo
- Tự làm ác hại mình.
- Như trái chín tự rụng;
- Già trẻ cũng như vậy.
- Muốn trang điểm, yêu thích;
- Tâm hưởng sắc tốt xấu;
- Bị dục trói buộc hại;
- Do dục sanh kinh hãi.
- Vua, tôi thấy giác này,
- Biết Sa-môn vi diệu.
Tôn giả Lại-tra-hòa-la thuyết như vậy vua Câu-lao-bà sau khi nghe lời Tôn
giả Lại-tra-hòa-la thuyết xong, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Bản Hán, quyển 31.
Tương đương Pāli, M. 82 Raṭṭhapāla-suttanta. Hán biệt dịch, No.68 Phật
thuyết Lại-tra-hòa-la kinh, Ngô Chi Khiêm dịch; No.69 Phật Thuyết Hộ Quốc
Kinh, Tống, Pháp Hiền dịch.
- [02] Câu-lâu-sấu 拘 樓 瘦.
Pāli: Kurūsu, giữa những Kuru.
- [03] Thâu-lô-tra 鍮 蘆 吒.
No.69: Đổ-la tụ lạc. No.68: từ Câu-lưu quốc đến Thâu-la-âu-tra quốc. Pāli:
Thullakoṭṭhikaṃ nāma kurūnaṃ nigamo, một làng của người Kuru tên là
Thullakoṭṭihika.
- [04] Thi-nhiếp-hòa viên 尸 攝
惒 園. Pāli: Siṃsapāvana, rừng cây siṃsapa.
- [05] Hán:
Minh Hành Thành Vi 明 行 成 為;thường nói là Minh Hành Túc. Pāli:
vijjā-caraṇsampanno.
- [06] Hán: Đạo pháp ngự
道 法 御; thường nói là Điều ngự trượng phu. Bản Hán này đọc dhamma (pháp)
thay vì damma (huấn luyện).
- [07] Chúng Hựu 眾 佑, tức Thế
Tôn. Pāli: Bhagavā.
- [08] Hán: bỉ ư thử thế… tự
tri tự giác tự tác chứng thành tựu du. Các bản Pāli: so imaṃ lokaṃ
sadevakaṃsayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedeti, “Vị ấy sau khi bằng thắng trí
tự mình chứng nghiệm thế giới này bao gồm chư Thiên… rồi thuyết minh”.
Trong Pāli, các từ lokaṃ (thế gian)... đều đồng nghiệp cách, túc từ trực
tiếp cho pavedeti (thuyết minh) và sacchikatvā (sau khi chứng nghiệm);
trong khi, trong bản Hán, thế gian… được hiểu là ư cách, túc từ chỉ nơi
chốn.
- [09] Hán: cụ túc thanh
tịnh, hiển hiện phạm hạnh 具 足 淸 淨 顯 現 梵 行. Pāli: kevalaparipuṇṇaṃ
parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāseti, giới thiệu đời sống phạm hạnh tuyệt
đối hoàn hảo, tuyệt đối trong sạch. Trong bản Hán, các từ cụ túc, thanh
tịnh, cần được hiểu là phẩm định cho phạm hạnh.
- [10] Lại-tra-hòa-la Cư sĩ
tử 賴 吒 惒 羅 居 士 子. Pāli:Raṭṭhapālo nāma kulaputto.
- [11] Trong nguyên bản:
Lại-tra-hòa-la tộc tánh tử 賴 吒 惒 羅 族 姓 子. Pāli: Raṭṭhapālo
kulaputto.
- [12] Hán: vị hắc sở phược
為 黑 所 縳. Pāli: imehi muiḍakehi samaṇakehi…, vì bọn Sa-môn trọc đầu nay mà…
- [13] Bản Pāli, báo
tin cho mẹ của Raṭṭhapāla. Sau đó bà báo tin cho ông.
- [14] Bệ-hê-lặc 鞞 醯
勒. Pāli: vibhīṭaka, cây xuyên luyện (Terminalia belerica), có thể dùng quả
nó làm thuốc.
- [15] Câu-lao-bà; tên vua,
chủ khu vườn nai mà Lại-tra-hòa-la đang trú. Xem No(160), kinh “A-lan-na”
sau. Pāli: Koravya.
- [16] Hán: Lại-tra-hòa-la
tộc tánh tử: Lại-tra-hòa-la, con trai nhà tông tộc, hay con nhà gia thế.
- [17] Bốn sự kiện theo
No.69: lão, bệnh, ái, tử. No.68: đại loại như vậy. Pāli và bản Hán này
tương đồng về đại cương.
- [18] Pāli: attāṇo loko
anabhissaro’ti, thế giới này vô hộ, vô chủ.
- [19] Hán: thú hướng lão
pháp 趣 向 老 法. Pāli: upanīyyati loko addhuvo ti, thế gian này không
bền vững, bị lôi cuốn đi.
- [20] Pāli: assako loko
sabbaṃ pahāya gamanīyan ti, thế giới này không sở hữu; cần xả bỏ tất cả
khi ra đi. Trong bản Hán, assaka, “không có sở hữu” được đọc là asassaka,
“không thường hằng”.
- [21] Hán: vi ái tẩu sứ
為 愛 走 使. Pāli: ūno loko atitto taṇhādāso ti, thế gian này thiếu thốn,
không thỏa mãn, nô lệ của khát ái.
- [22] Bát-la-khiên-đề
Ma-ha-năng-già 鈢 邏 騫 提 摩 訶 能 伽, không rõ tên của ai. Đại tạng kinh
sách dẫn, vol.1 cho là tên của một người. Hoặc giả là tên một con voi chúa
(Ma-ha-năng-già: mahānāga).
- [23] Hán: phong bệnh
風 病. Pāli: anusāyiko ābādho, bệnh thống phong mạn tính.
-ooOoo-
133. KINH ƯU-BA-LY[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại Na-nan-đà[02], trong vườn xoài Ba-bà-ly[03].
Lúc bấy giờ có người Ni-kiền là Trường Khổ Hạnh[04] sau giờ ăn trưa, ung dung đi đến chỗ Phật, và sau khi chào hỏi, ngồi xuống một bên.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn hỏi:
“Nhà khổ hạnh Ni-kiền Thân Tử[05] chủ trương có bao nhiêu hành vi để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp?[06]“
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Thưa Cù-đàm, Tôn sư của tôi, Ni-kiền Thân Tử, không giảng dạy
cho chúng tôi về những hành vi để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác
nghiệp. Nhưng người giảng dạy chúng tôi về sự trừng phạt để không hành
ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Nhà khổ hạnh Ni-kiền Thân Tử chủ trương có bao nhiêu sự trừng phạt để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp rằng:
“Thưa Cù-đàm, Tôn sư của tôi, Ni kiền Thân Tử giảng dạy cho chúng
tôi về ba sự trừng phạt để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác
nghiệp. Những gì là ba? Đó là sự trừng phạt bằng thân, sự trừng phạt
bằng miệng và sự trừng phạt bằng ý[07].
Đức Thế Tôn lại hỏi:
“Này Khổ Hạnh, thế nào, thân phạt, khẩu phạt, ý phạt có khác nhau không?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp rằng:
“Thưa Cù-Đàm, đối với chúng tôi, thân phạt khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác.”
Đức Thế Tôn lại hỏi:
“Này Khổ Hạnh, các sự trừng phạt này tương tự như vậy. Ni-kiền
Thân Tử chủ trương trừng phạt nào nặng hơn hết để không hành ác nghiệp,
không tạo tác ác nghiệp? Sự trừng phạt của thân chăng? Của khẩu chăng?
Của ý chăng?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp rằng:
“Thưa Cù-đàm, các sự trừng phạt này tương tự như vậy. Tôn sư tôi,
Ni-kiền Thân Tử chủ trương thân phạt là nặng hơn hết để không hành ác
nghiệp, không tạo tác ác nghiệp. Khẩu phạt thì không phải vậy, ý phạt
thì nhẹ nhất, không bằng thân phạt vốn “rất lớn lao, rất nặng nề.
Thế Tôn lại hỏi:
“Này Khổ Hạnh, ông nói thân phạt nặng nhất chăng?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Thưa Cù-đàm, thân phạt nặng nhất.”
Đức Thế Tôn hỏi lại đến lần thứ ba:
“Này Khổ Hạnh, ông nói thân phạt nặng nhất chăng?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh cũng ba lần đáp lại:
“Thưa Cù-đàm, thân phạt nặng nhất.”
Đức Thế Tôn thẩm định ba lần Ni-kiền Trường Khổ Hạnh việc như vậy xong, bèn ngồi im lặng.
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh hỏi:
“Sa-môn Cù-đàm chủ trương có bao nhiêu sự trừng phạt để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp?”
Bấy giờ Đức Thế Tôn đáp:
“Này Khổ Hạnh, ta không giảng thuyết về những trừng phạt để không
hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp. Ta chỉ giảng thuyết về nghiệp
để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh hỏi:
“Cù-đàm chủ trương có bao nhiêu nghiệp để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp?”
Thế Tôn lại đáp:
“Này Khổ Hạnh, Ta giảng thuyết về ba nghiệp để không hành ác
nghiệp, không tạo tác ác nghiệp. Thế nào là ba? Là thân nghiệp, khẩu
nghiệp và ý nghiệp.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh lại hỏi:
“Cù-đàm, thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác, ý nghiệp khác chăng?”
Thế Tôn lại đáp:
“Ta nói, thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác, ý nghiệp khác vậy”.
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh hỏi:
“Thưa Cù-đàm, ba nghiệp này tương tự như vậy, Ngài chủ trương
nghiệp nào nặng nhất để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp?
Là thân nghiệp chăng? Khẩu nghiệp chăng? Ý nghiệp chăng?”
Thế Tôn lại đáp:
“Này Khổ Hạnh, ba nghiệp này tương tự như vậy, Ta giảng thuyết ý
nghiệp là nặng nhất để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp.
Thân nghiệp và khẩu nghiệp thì không phải vậy.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh hỏi:
“Cù-Đàm chủ trương ý nghiệp nặng nhất chăng?”
Thế Tôn đáp:
“Này Khổ Hạnh, Ta giảng thuyết ý nghiệp là nặng nhất.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh lại hỏi đến ba lần:
“Cù-Đàm chủ trương thi thiết ý nghiệp là nặng nhất chăng?”
Thế Tôn cũng trả lời đến ba lần:
“Này Khổ Hạnh, Ta giảng thuyết ý nghiệp là nặng nhất vậy.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh ba lần thẩm định Thế Tôn sự việc đó như
vậy xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi nhiễu ba vòng quanh Thế Tôn rồi
lui về; đi đến chỗ Ni-kiền Thân Tử. Ni-kiền Thân Tử từ xa thấy Trường
Khổ Hạnh đi đến, liền hỏi:
“Này Khổ Hạnh, ngươi từ đâu đến vậy?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Con từ Na-nan-đà, trong vườn xoài Ba-bà-ly, tại chỗ của Sa-môn Cù-đàm đến đây.”
Ni-kiền Thân Tử hỏi:
“Này Khổ Hạnh, ông có cùng Sa-môn Cù-đàm bàn luận không?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Có bàn luận với nhau.”
Ni-kiền Thân Tử nói rằng:
“Này Khổ Hạnh, nếu đã cùng với Sa-môn Cù-đàm bàn luận, thì hãy
nói lại hết cho ta nghe, để hoặc giả ta biết được luận thuyết của vị
ấy”.
Rồi Ni-kiền Trường Khổ Hạnh mới đem sự việc thảo luận với Thế Tôn nói lại cho ông nghe. Ni-kiền Thân Tử nghe xong, khen rằng:
“Hay thay Khổ Hạnh! Ngươi đối với Tôn sư đã làm đúng pháp của đệ
tử. Ông là người mà việc phải làm được thành biện bằng trí tuệ. Với
quyết định thông minh, với sự trầm tĩnh không sợ hãi, hoàn toàn tự tin
tưởng, đã đạt đến tài hùng biện, đã bắt được ngọn cờ cam lộ, ở trong
cảnh giới cam lộ tự thân chứng ngộ, thành tựu an trụ[08].
Vì sao vậy? Ngươi vừa rồi đối với Sa-môn Cù-đàm mà giảng thuyết thân
phạt là nặng nhất để không hành ác nghiệp, không gây ác nghiệp. Khẩu
phạt không như vậy. Ýù phạt càng kém hơn; không bằng thân phạt rất lớn
lao, rất trầm trọng.”
Khi ấy, Cư sĩ Ưu-ba-ly[09] cùng năm trăm Cư sĩ tập họp trong chúng chắp tay hướng Ni-kiền Thân tử. Rồi Cư sĩ Ưu-ba-ly nói với Ni-kiền Trường Khổ Hạnh:
“Ngài đã ba lần thẩm định Sa-môn Cù-đàm việc như vậy?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Cư sĩ, tôi đã ba lần thẩm định Sa-môn Cù-đàm việc như vậy.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly nói với Ni-kiền Trường Khổ Hạnh:
“Tôi cũng có thể đến thẩm định ba lần Sa-môn Cù-đàm việc như vậy,
rồi lôi kéo đi đâu tùy ý. Cũng như người lực sĩ nắm con dê có cái bờm
dài[10]
rồi lôi kéo đi đâu tùy ý; tôi cũng như vậy, có thể đến thẩm định ba lần
Sa-môn Cù-đàm việc như vậy, rồi lôi kéo đi đâu tùy ý. Cũng như người
lực sĩ cầm áo lông giũ bụi, tôi cũng như vậy, có thể đến thẩm định lại
ba lần với Sa-môn Cù-đàm việc như vậy, rồi lôi kéo đi đâu tùy ý. Tôi
cũng như vậy, có thể đến thẩm định lại ba lần với Sa-môn Cù-đàm việc như
vậy rồi lôi kéo đi dâu tùy ý. Cũng như người nấu rượu[11],
hay đệ tử của người nấu rượu, lấy cái túi lọc rượu đem để vào trong
nước, rồi tùy theo ý muốn, lôi đi đâu tùy ý; tôi cũng như
vậy, có thể đến thẩm định ba lần Sa-môn Cù-đàm việc như vậy, rồi lôi
kéo đi đâu tùy ý. Cũng như con voi chúa đã sáu mươi tuổi, là một đại
long tượng kiêu ngạo[12],
đủ ngà, đủ vóc, gân sức mạnh mẽ, một lực sĩ dẫn đi, lấy nước rửa bắp
vế, rửa xương sống, rửa sườn, rửa bụng, rửa răng, rửa đầu và giỡn chơi
trong nước; tôi cũng như vậy, có thể đến thẩm định ba lần với Sa-môn
Cù-đàm việc như vậy, rồi tùy theo chỗ mà tẩy. Tôi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm
cùng ông bàn luận, hàng phục xong rồi trở về.”
Ni-kiền Thân Tử nới với Cư sĩ Ưu-ba-ly rằng:
“Ta cũng có thể hàng phục Sa-môn Cù-đàm. Ông cũng có thể. Ni-kiền Trường Khổ Hạnh cũng có thể vậy.”
Khi ấy, Ni-kiền Trường Khổ Hạnh thưa với Ni-kiền Thân Tử:
“Con không muốn để cho Cư sĩ Ưu-ba-ly đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm.
Vì sao như vậy? Vì Sa-môn Cù-đàm biết chú huyễn hóa, có thể dùng chú
thuật biến hóa làm đệ tử, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Con
sợ Cư sĩ Ưu-ba-ly bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa, hóa làm đệ tử.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Khổ Hạnh, Cư sĩ Ưu-ba-ly mà bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa, hóa làm
đệ tử, việc đó hoàn toàn không có. Sa-môn Cù-đàm bị Cư sĩ Ưu-ba-ly biến
hóa làm đệ tử, chắc chắn có việc ấy.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly thưa lại lần thứ ba với Ni-kiền Thân Tử rằng:
“Hôm nay con đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm cùng ông ấy đàm luận. Hàng phục xong, con trở về.”
Ni-kiền Thân Tử cũng đáp lại lần thứ ba rằng:
“Ông nên đi nhanh đi. Ta cũng có thể hàng phục Sa-môn Cù-đàm. Ông cũng có thể. Ni-kiền Trường Khổ Hạnh cũng có thể vậy.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh bạch lại lần thứ ba rằng:
“Con không muốn để cho Cư sĩ Ưu-ba-ly đi đến chỗ Sa-môn. Vì sao
vậy? Vì Sa-môn Cù-đàm biết chú huyễn hóa, có thể dùng chú thuật biến hóa
làm đệ tử, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Con sợ Cư sĩ
Ưu-ba-ly bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa làm đệ tử.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Khổ Hạnh, Cư sĩ Ưu-ba-ly bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa làm đệ tử,
việc đó hoàn toàn không có. Sa-môn Cù-đàm bị Cư sĩ Ưu-ba-ly biến hóa làm
đệ tử, chắc chắn có việc ấy. Cư sĩ Ưu-ba-ly, người đi tùy ý.”
Lúc ấy, Cư sĩ Ưu-ba-ly cúi đầu sát chân Ni-kiền Thân Tử ba lần
rồi đi đến chỗ Phật, chào hỏi Phật rồi ngồi sang một bên, hỏi rằng:
“Thưa Cù-đàm, ngày hôm nay Ni-kiền Trường Khổ Hạnh có đến đây không?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Cư sĩ, có đến.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly hỏi:
“Cù-đàm, có cùng với Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đàm luận chăng?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Có cùng đàm luận.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly nói:
“Cù-đàm, nếu đã cùng với Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đàm luận, xin
Ngài thuật lại hết cho tôi nghe. Hoặc giả, sau khi nghe xong, tôi biết
được việc đó.”
Rồi Thế Tôn thuật hết lại những điều mà Ngài cùng với Ni-kiền
Trường Khổ Hạnh đàm luận cho Ưu-ba-ly nghe. Lúc đó Cư sĩ Ưu-ba-ly nghe
rồi, khen rằng:
“Hay thay Khổ Hạnh! Như vậy mới gọi là đối với Tôn sư làm đúng
việc thực hành pháp của một đệ tử. Điều phải làm được thành biện bằng
trí tuệ, với quyết định thông minh, với sự trầm tĩnh không sợ hãi, với
sự hoàn toàn tự tin tưởng, đạt đến đại biện tài, bắt được ngọn cờ cam
lộ, ở trong cảnh giới cam lộ mà tự tác chứng, thành tựu an trụ. Vì sao
như vậy? Vì đã đối với Sa-môn Cù-đàm mà trình bày thân phạt là tối
thượng để không hành ác nghiệp, không gây ác nghiệp. Khẩu phạt không như
vậy, ý càng kém hơn, không bằng thân phạt, vốn rất lớn lao, rất nặng
nề”.
Khi đó Đức Thế Tôn bảo rằng:
“Cư sĩ, ta muốn cùng ông bàn luận về việc này. Nếu như ông an trụ trong sự thật, thì bằng sự thật mà đáp.”[13]
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Cù-đàm, tôi an trụ trong sự thật, bằng sự thật mà đáp. Sa-môn Cù-đàm, hãy nên cùng tôi bàn luận việc này.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Cư sĩ, ông nghĩ sao? Ở đây nếu Ni-kiền ưa bố thí, thích hành
việc bố thí, không hý luận, ưa sự không hý luận, rất thanh tịnh, chuyên
hành chú[14].
Nếu khi người ấy đi đến đây, đạp chết nhiều côn trùng lớn nhỏ, thì thế
nào, Cư sĩ, Ni-kiền Thân Tử đối với việc sát sanh này chủ trương có quả
báo ra sao?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Thưa Cù-đàm, nếu người ấy cố ý thì có tội lớn, nếu không cố ý[15] thì không có tội lớn.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Cư sĩ, ông nói cố ý là thế nào?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Thưa Cù-đàm, đó là ý nghiệp[16] vậy.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, ông nên suy nghĩ rồi trả lời. Những điều nói trước trái
với điều sau, sau trái với điều trước, không phù hợp nhau. Cư sĩ, ông ở
trong chúng này tự nói: ‘Cù-đàm, tôi an trụ trong sự thật, bằng sự thật
mà đáp. Sa-môn Cù-đàm, hãy nên cùng tôi bàn luận việc này’. Cư sĩ, ông
nghĩ sao? Nếu có Ni-kiền chỉ uống nước nóng, dứt hẳn nước lạnh[17].
Nhưng khi không có nước nóng bèn muốn uống nước lạnh. Không có nước
lạnh người ấy liền chết. Này Cư sĩ, Ni-kiền Thân Tử có thể nói thế nào
về chỗ thác sanh của Ni-kiền ấy?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Thưa Cù-đàm, có loại trời gọi là Ý trước[18]. Vị Ni-kiền đó mạng chung, do ý có chấp trước tất sanh vào chỗ ấy.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, ông nên suy nghĩ rồi sẽ trả lời. Những điều ông nói trước
trái với sau, sau trái với trước, không phù hợp nhau. Cư sĩ, ông ở
trong chúng này tự nói: ‘Cù-đàm, tôi an trụ trong sự thật, bằng sự thật
mà đáp. Sa-môn Cù-đàm, hãy nên cùng tôi bàn luận việc này’. Cư sĩ, ông
nghĩ sao, giả sử có người cầm dao bén tới đây, người ấy nói rằng: ‘Trong
một ngày tôi chém đầu, lột da, xẻ thịt tất cả chúng sanh ở trong xứ
Na-nan-đà này chất thành đống thịt, làm thành khối thịt’. Cư sĩ, ông
nghĩ sao, người ấy có thể trong một ngày mà chém đầu, lột da, xẻ thịt
tất cả chúng sanh ở xứ Na-nan-đà này chất thành đống thịt, làm thành một
khối thịt không?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Không thể. Vì sao như vậy? Xứ Na-nan-đà này quá giàu có an vui,
nhân dân đông đúc, cho nên người ấy chắc chắn không thể trong một ngày
mà chém đầu, lột da, xẻ thịt tất cả chúng sanh chất thành đống thịt, làm
thành khối thịt được. Thưa Cù-đàm, người ấy chỉ gây phiền nhọc vô ích.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, ông nghĩ sao, nếu có Sa-môn, Phạm chí đến, có đại như ý
túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, tâm được tự tại,
người ấy nói như vầy: ‘Ta chỉ khởi một niệm sân, làm cho cả xứ
Na-nan-đà này thiêu rụi thành tro’. Này Cư sĩ, ông nghĩ sao? Sa-môn,
Phạm chí ấy có thể làm cho cả Na-nan-đà này thiêu rụi thành tro không?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Thưa Cù-đàm, đâu phải chỉ một Na-nan-đà, đâu phải chỉ hai hoặc
ba, hoặc bốn; mà thưa Cù-đàm, Sa-môn Phạm chí kia có đại như ý túc, có
đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần, tâm được tự tại, nếu
khởi lên niệm sân thì có thể làm cho hết thảy các nước, hết thảy nhân
dân thiêu rụi thành tro, sá gì một Na-nan-đà?”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, ông nên suy nghĩ rồi sẽ trả lời. Những điều nói trước
trái với sau, sau trái với trước, không phù hợp nhau. Ông ở tại chúng
này tự nói: ‘Sa-môn Cù-đàm, tôi an trú trong sự thật, bằng sự thật mà
đáp. Sa-môn Cù-đàm, hãy nên cùng tôi bàn luận việc này’.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Cư sĩ, ông có từng nghe rừng Đại-trạch, rừng Kỳ-lân, rừng
Mê-lộc, rừng Tĩnh tịch, rừng Không dã; tại sao những khu rừng ấy là
những khu rừng?[19]“
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Thưa Cù-đàm, tôi có nghe.”
“Cư sĩ, ông nghĩ sao? Vì ai mà rừng Đại-trạch, rừng Kỳ-lân, rừng
Mê-lộc, rừng Tĩnh tịch, rừng Không dã, tại sao những khu rừng này là
những khu rừng?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly im lặng không đáp.
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, hãy trả lời nhanh đi! Hãy trả lời nhanh đi! Bây giờ không
phải là lúc im lặng. Cư sĩ! Ở tại chúng này, ông tự nói: ‘Thưa Cù-đàm,
tôi an trú trong sự thật, bằng sự thật mà đáp. Sa-môn Cù-đàm, hãy nên
cùng tôi bàn luận việc này’.”
Lúc ấy, Cư sĩ Ưu-ba-ly chỉ im lặng trong chốc lát rồi nói:
“Thưa Cù-đàm, tôi không im lặng. Tôi chỉ suy nghĩ về ý nghĩa này
vậy. Thưa Cù-đàm, bọn Ni-kiền ngu si kia không hiểu rõ ràng, không thể
giải biết, không biết khoảnh ruộng tốt mà không tự xét, cứ mãi lừa dối
tôi, tôi mê lầm vì họ, nghĩa là vì nhắm đến Sa-môn Cù-đàm mà họ chủ
trương thân phạt là nặng nhất để không làm ác nghiệp, không gây ác
nghiệp, khẩu phạt và ý phạt không bằng. Nếu như theo những điều mà
Sa-môn Cù-đàm đã nói, tôi hiểu ý nghĩa rằng, bởi vì Tiên nhân khởi một
niệm sân mà có thể làm cho rừng Đại-trạch, rừng Kỳ-lân, rừng Mê-lộc,
rừng Tĩnh tịch, rừng Không dã, những khu rừng này trở thành những khu
rừng.
“Bạch Thế Tôn, con đã biết. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu. Hôm nay
con xin quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo. Cúi xin Thế Tôn nhận con làm
Ưu-bà-tắc. Từ nay về sau, trọn đời con quy y cho đến khi chết”.
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, ông hãy im lặng mà làm, không nên lớn tiếng tuyên bố[20]. Sự im lặng của người thù thắng[21] như vậy là tốt đẹp.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly bạch:
“Bạch Thế Tôn, với sự kiện này, đối với Thế Tôn con lại bội phần
hoan hỷ. Vì sao như vậy? Vì Thế Tôn đã nói như thế này: “Cư sĩ, ông hãy
im lặng mà làm, không nên lớn tiếng tuyên bố. Sự im lặng của người thù
thắng như vậy là tốt đẹp’.
“Bạch Thế Tôn, nếu như con mà làm đệ tử của các Sa-môn, Phạm chí
khác thì họ đã cầm tràng phan, dù lọng đi tuyên bố khắp nơi Na-nan-đà,
nói như thế này: ‘Cư sĩ Ưu-ba-ly đã làm đệ tử ta! Cư sĩ Ưu-ba-ly đã làm
đệ tử ta!’ Nhưng Thế Tôn lại nói như thế này: ‘Cư sĩ, ông hãy im lặng mà
làm, không nên lớn tiếng tuyên bố. Sự im lặng của người thù thắng như
vậy là tốt đẹp’.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly lại bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, từ nay về sau con không cho các Ni-kiền đi vào nhà
con. Chỉ có bốn chúng đệ tử Thế Tôn, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di vào mà thôi.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, các Ni-kiền kia cùng với gia đình ông trong một thời gian
dài đã tôn kính nhau. Nếu họ có đến thì ông nên tùy theo khả năng của
mình mà cúng dường họ.”
Ưu-ba-ly bạch:
“Bạch Thế Tôn, với sự kiện này, đối với Thế Tôn con lại bội phần
hoan hỷ. Vì sao như vậy? Vì Thế Tôn đã nói như thế này: ‘Cư sĩ, các
Ni-kiền kia đối với gia đình ông trong một thời gian dài đã tôn kính
nhau. Nếu họ có đến thì ông nên tùy theo khả năng của mình mà cúng dường
họ’. Bạch Thế Tôn, ngày trước con nghe nói Thế Tôn dạy như thế này:
‘Nên cho Ta, đừng cho người khác. Nếu cho Ta sẽ được phước lớn, nếu cho
người khác thì không được phước lớn. Cho đệ tử Ta thì sẽ được phước lớn,
cho đệ tử người khác thì không được phước lớn’.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Cư sĩ, Ta không nói như thế. Ta không nói rằng: ‘Nên cho Ta chứ
đừng cho người khác. Cho đệ tử Ta chứ đừng cho đệ tử người khác. Nếu cho
Ta thì phước lớn, nếu cho người khác thì không được phước lớn. Cho đệ
tử Ta sẽ được phước lớn, nếu cho đệ tử người khác thì không được phước
lớn’. Cư sĩ, Ta nói như thế này: ‘Hãy cho tất cả tùy theo tâm hoan hỷ.
Nhưng cho người không tinh tấn không được phước lớn. Cho người tinh tấn
sẽ được phước lớn’.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly bạch:
“Bạch Thế Tôn, xin nguyện không làm vậy[22].
Con tự biết nên cho Ni-kiền hay không nên cho Ni-kiền. Bạch Thế Tôn,
hôm nay một lần nữa con xin tự quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo. Cúi
xin Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc. Từ nay về sau, trọn đời quy y cho
đến khi chết.”
Khi ấy Đức Thế Tôn thuyết pháp cho Cư sĩ Ưu-ba-ly, khuyến phát
khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết
pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ rồi, như pháp của chư
Phật, Đức Phật trước hết nói pháp đoan chánh[23]
khiến người nghe hoan hỷ, ấy là nói pháp bố thí, trì giới, sanh thiên,
chê bai dục là tai hoạn, sanh tử là nhớp nhơ; khen vô dục là đạo phẩm vi
diệu, là bạch tịnh.
Thế Tôn nói pháp như vậy cho ông nghe xong, Ngài biết ông có tâm
hoan hỷ, tâm cụ túc, tâm nhu nhuyến, tâm kham nại, tâm tăng thượng, tâm
hướng đến, tâm không nghi ngờ, tâm không triền cái, có năng lực nhận
lãnh chánh pháp. Rồi như pháp chánh yếu mà chư Phật đã nói, Đức Thế Tôn
liền nói Khổ, Tập, Diệt, Đạo cho ông nghe. Cư sĩ Ưu-ba-ly ngay tại chỗ
ngồi đã thấy bốn Thánh đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng như vải trắng dễ
nhuộm sắc màu; cũng vậy, Cư sĩ Ưu-ba-ly ngay tại chỗ ngồi thấy bốn Thánh
đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Ngay khi đó, Cư sĩ Ưu-ba-ly thấy pháp, đắc
pháp, biết pháp bạch tịnh, đoạn nghi độ hoặc, không còn tôn thờ ai khác,
không theo ai khác, không còn do dự, đã trụ quả chứng. Đối với pháp của
Thế Tôn được vô sở úy, liền rời chỗ ngồi đứng dậy làm lễ Đức Phật:
“Bạch Thế Tôn, hôm nay con ba lần tự quy y Phật, Pháp và chúng
Tỳ-kheo. Cúi xin Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc. Từ nay về sau, trọn đời
con quy y cho đến khi chết.”
Rồi Cư sĩ Ưu-ba-ly sau khi nghe pháp được Phật giảng dạy, khéo
thọ, khéo trì, cúi đầu lễ chân Phật, đi quanh ba vòng, trở về nhà bảo
người đứng giữ cửa rằng:
“Các ngươi nên biết, nay ta là đệ tử của Đức Thế Tôn. Từ nay về
sau, các Ni-kiền tử đến chớ cho vào cửa, chỉ cho bốn chúng đệ tử của Đức
Thế Tôn là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào mà thôi. Nếu có
Ni-kiền đến thì nói với họ rằng: ‘Tôn giả, Cư sĩ Ưu-ba-ly nay được Phật
cải hóa, đã hóa làm đệ tử Phật, nên không cho các Ni-kiền vào cửa, chỉ
cho bốn chúng đệ tử của Đức Thế Tôn là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di vào mà thôi. Nếu người cần thức ăn, hãy đứng đó. sẽ đem thức ăn
ra cho.”
Khi đó, Ni-kiền Trường Khổ Hạnh nghe Cư sĩ Ưu-ba-ly đã được
Sa-môn Cù-đàm cải hóa, hóa làm đệ tử và không cho Ni-kiền vào cửa, chỉ
cho đệ tử của Sa-môn Cù-đàm là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di
vào. Ni-kiền Trường Khổ Hạnh nghe xong như vậy rồi đi đến chỗ Ni-kiền
Thân Tử bạch rằng:
“Thưa tôn sư, đây điều con đã nói trước.”
Ni-kiền Thân Tử hỏi:
“Khổ Hạnh, điều gì gọi là điều ngươi đã nói trước?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đáp:
“Thưa tôn sư, con đã nói trước rằng: ‘Không muốn cho Cư sĩ
Ưu-ba-ly đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm. Vì sao như vậy? Vì Sa-môn Cù-đàm biết
chú huyễn hóa, có thể dùng chú thuật hóa làm đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Con sợ rằng Cư sĩ Ưu-ba-ly sẽ bị Sa-môn Cù-đàm
biến hóa, hóa làm đệ tử’. Thưa tôn sư, Cư sĩ Ưu-ba-ly nay đã bị Sa-môn
Cù-đàm biến hóa, hóa làm đệ tử rồi, không cho các Ni-kiền vào cửa, chỉ
cho đệ tử Sa-môn Cù-đàm là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di
vào.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Khổ Hạnh, Cư sĩ Ưu-ba-ly bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa làm đệ tử,
việc ấy hoàn toàn không có. Sa-môn Cù-đàm bị Cư sĩ Ưu-ba-ly biến hóa làm
đệ tử, việc ấy chắc chắn có.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh bạch lại:
“Thưa tôn sư, nếu không tin lời con nói, thì tôn sư có thể thân hành đến, hoặc sai người đến.”
Khi ấy, Ni-kiền thân tử bảo:
“Khổ Hạnh, ông nên thân hành đến đó xem sao. Có phải Cư sĩ
Ưu-ba-ly đã bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa làm đệ tử rồi chăng? Hay là Sa-môn
Cù-đàm bị Cư sĩ Ưu-ba-ly biến hóa làm đệ tử rồi?”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh vâng lệnh Ni-kiền Thân Tử, đi đến nhà Cư
sĩ Ưu-ba-ly. Người giữ cửa vườn trông thấy Ni-kiền Trường Khổ Hạnh đến,
liền nói như thế này:
“Tôn giả, Cư sĩ Ưu-ba-ly nay đã được Phật cải hóa, hóa thành đệ
tử Phật rồi, nên không cho các Ni-kiền vào cửa, chỉ cho bốn chúng đệ tử
của Thế Tôn là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào thôi. Nếu
ngài muốn nhận thức ăn thì nên đứng đó, con sẽ đem thức ra cho.
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh nói:
“Người giữ cửa, ta không cần thức ăn.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh biết việc này như vậy rồi, lắc đầu bỏ đi, về tới chỗ Ni-kiền Thân Tử thưa:
“Thưa tôn sư, đây là điều con đã nói trước.”
Ni-kiền thân tử hỏi:
“Khổ Hạnh, cái gì gọi là điều ông đã nói trước?”
Trường khổ hạnh Ni-kiền đáp:
“Thưa tôn sư, tôi đã nói rằng: ‘Không muốn cho Cư sĩ Ưu-ba-ly đi
đến chỗ Sa-môn Cù-đàm. Vì sao như vậy? Vì Sa-môn Cù-đàm biết chú huyễn
hóa, có thể dùng chú thuật hóa làm đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di. Con sợ rằng Cư sĩ Ưu-ba-ly sẽ bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa, hóa
làm đệ tử’. Thưa tôn sư, Cư sĩ Ưu-ba-ly nay đã bị Sa-môn Cù-đàm biến
hóa, hóa làm đệ tử rồi, không cho các Ni-kiền vào cửa, chỉ cho đệ tử
Sa-môn Cù-đàm là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Khổ Hạnh, Cư sĩ Ưu-ba-ly bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa làm đệ tử,
việc ấy hoàn toàn không có. Sa-môn Cù-đàm bị Cư sĩ Ưu-ba-ly biến hóa làm
đệ tử, việc ấy chắc chắn có.”
Ni-kiền Trường Khổ Hạnh bạch lại:
“Thưa tôn sư, nếu không tin lời con nói, thì tôn sư có thể thân hành đến.
Lúc đó Ni-kiền thân tử và đại chúng Ni-kiền năm trăm người cùng
đi đến nhà Cư sĩ Ưu-ba-ly. Người giữ cửa vừa trông thấy Ni-kiền Thân Tử
và đại chúng Ni-kiền năm trăm người kéo đến, nói như thế này: “Thưa Tôn
giả, Cư sĩ Ưu-ba-ly nay đã được Phật cải hóa, hóa thành đệ tử Ngài rồi,
nên không cho các Ni-kiền vào cửa, chỉ cho bốn chúng đệ tử của Thế Tôn
là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di vào cửa mà thôi. Nếu ngài
muốn nhận thức ăn thì nên đứng đó, con sẽ đem thức ăn ra cho.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Người giữ cửa, ta không cần thức ăn, Ta chỉ muốn gặp Cư sĩ Ưu-ba-ly.”
Người giữ cửa nói:
“Xin ngài đứng đó, để con thưa với Cư sĩ Ưu-ba-ly.”
Người giữ cửa kia liền vào thưa rằng:
“Thưa Cư sĩ, Ni-kiền Thân Tử cùng đại chúng Ni-kiền năm trăm
người đứng ở ngoài cửa, nói như thế này: ‘Ta muốn được gặp Cư sĩ
Ưu-ba-ly.’”
Cư sĩ Ưu-ba-ly bảo người giữ cửa:
“Ngươi đến cửa giữa[24] trải bày tòa ngồi. Bày xong trở lại cho ta biết.”
Người giữ cửa vâng lệnh, đi đến cửa giữa trải bày giường ngồi xong rồi trở lại thưa:
“Thưa Cư sĩ, đã trải giường xong, kính mong Cư sĩ tự biết thời.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly dẫn người giữ cửa đi đến nhà giữa. Ở đó có một cái
giường thật cao rộng, to lớn, rất sạch sẽ, được trải khéo léo, đó là
chỗ Cư sĩ Ưu-ba-ly trước kia đã bế[25] Ni-kiền Thân Tử để ngồi lên đó, thì bây giờ Cư sĩ Ưu-ba-ly tự leo lên ngồi kiết già, bảo với người giữ cửa:
“Ngươi ra chỗ Ni-kiền Thân Tử nói như thế này: ‘Tôn nhân, Cư sĩ Ưu-ba-ly nói tôn nhân muốn vào thì tùy ý’.”
Người giữ cửa vâng lệnh đi ra, đến chỗ Ni-kiền nói như thế này:
“Tôn nhân, Cư sĩ Ưu-ba-ly nói: Tôn nhân muốn vào thì tùy ý.”
Lúc đó, Ni-kiền Thân Tử và đại chúng Ni-kiền năm trăm người cùng
đến nhà giữa. Cư sĩ Ưu-ba-ly vừa trông thấy Ni-kiền Thân Tử và đại chúng
Ni-kiền năm trăm người cùng vào, nói như thế này:
“Tôn nhân, ở đây có chỗ ngồi, muốn ngồi xin tùy ý.”
Ni-kiền thân tử nói:
“Cư sĩ, ông làm như vậy phải lẽ chăng? Tự mình lên tòa cao ngồi
kiết già cùng nói chuyện với người như người xuất gia học đạo không
khác?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly nói:
“Tôn nhân, tôi có đồ vật của mình, muốn cho thì cho, không cho
thì không cho. Chỗ ngồi này là của tôi, cho nên tôi nói có chỗ ngồi,
muốn ngồi xin tùy ý.”
Ni-kiền Thân Tử trải chỗ ngồi mà ngồi, rồi nói rằng:
“Cư sĩ, vì sao như vậy? Muốn hàng phục Sa-môn Cù-đàm nhưng khi
trở về đã bị hàng phục. Cũng như có người vào rừng nên đi tìm con mắt,
nhưng khi trở về bị mất con mắt. Cũng vậy, Cư sĩ, muốn đến hàng phục
Sa-môn Cù-đàm nhưng khi trở về đã bị hàng phục. Cũng như người vì khát
mà xuống ao; nhưng trở lên vẫn cứ khát. Cư sĩ cũng như vậy, muốn đi
chinh phục Sa-môn Cù-đàm, thì bị chinh phục ngược trở lại. Cư sĩ, vì sao
như vậy?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly nói:
“Tôn nhân, xin nghe tôi nói dụ. Người trí tuệ nghe dụ thì hiểu
được ý nghĩa. Tôn nhân, ví như có một người Phạm chí có người vợ trẻ.
Người vợ kia đang có thai, nói với chồng rằng: ‘Tôi nay mang thai, anh
hãy đến chợ mua đồ chơi đẹp về cho con’. Lúc đó, Phạm chí kia nói với vợ
rằng: “Chỉ mong em được bình yên sinh sản, rồi lo gì mà không có. Nếu
sanh con trai thì mua đồ chơi con trai cho nó. Nếu sanh con gái thì mua
đồ chơi con gái cho nó’. Người vợ lại ba lần nói với chồng: ‘Tôi nay
đang mang thai, anh hãy đến chợ mua đồ chơi về cho con’. Phạm chí đã ba
lần nói lại với vợ rằng: Chỉ mong em được bình yên sanh sản, rồi lo gì
mà không có. Nếu sanh con trai thì phải mua đồ chơi con trai. Còn nếu
sanh con gái thì mua đồ chơi con gái’. Phạm chí kia thương vợ quá sức,
liền nói rằng: ‘Em muốn mua đồ chơi gì cho con?’ Người vợ đáp: ‘Anh
mua đồ chơi đẹp là con khỉ con’. Phạm chí nghe rồi, đi vào chợ mua đồ
chơi đẹp bằng con khỉ con, đem về nói với vợ: ‘Tôi đã mua đồ chơi đẹp
bằng khỉ con về đây’. Người vợ thấy rồi chê rằng màu sắc không đẹp, liền
nói với chồng: ‘Anh nên đem thứ đồ chơi khỉ con này thợ nhuộm màu vàng
để được rất dễ thương hơn và nhồi cho nó phát ra ánh sáng’. Phạm chí
nghe xong, liền cầm đồ chơi con khỉ con đến thợ nhuộm, nói rằng: ‘Hãy
nhuộm đồ chơi khỉ con này thành sắc vàng, làm cho nó rất dễ thương và
nhồi cho nó phát ra ánh sáng cho tôi’. Khi ấy người thợ nhuộm nói với
Phạm chí: ‘Đồ chơi khỉ con nhuộm thành màu vàng làm cho dễ thương, việc
này làm được, nhưng không thể nhồi cho nó phát ra ánh sáng được’.
“Khi ấy người thợ nhuộm nói tụng này:
- ‘Khỉ nhỏ tiếp nhận sắc,
- Không hay chịu đảo nhồi.
- Nếu nhồi, nó sẽ chết;
- Chịu sao được với chày?
- Đây là đãy xú uế,
- Khỉ con đầy bất tịnh’.
“Thưa Tôn nhân, nên biết, những điều được Ni-kiền thuyết cũng
giống như vậy, không thể chịu đựng được những nạn vấn của người khác,
cũng không thể suy nghĩ quán sát được. Chỉ có nhuộm sự ngu si, không
nhuộm trí tuệ. Tôn nhân, xin hãy nghe đấy. Cũng như chiếc áo Ba-la-nại
thanh tịnh, người chủ cầm đến thợ nhuộm, nói rằng: ‘Nhuộm giùm chiếc áo
này thành cực đẹp, làm cho dễ yêu, cũng đập nhồi kỹ cho nó phát ánh
sáng’. Lúc đó, thợ nhuộm bảo với chủ áo rằng: ‘Áo này có thể nhuộm thành
màu sắc cực đẹp, làm cho dễ ưa; cũng có thể đập nhồi cho phát ánh
sáng’.
“Khi ấy thợ nhuộm nói tụng này:
- ‘Như vải Ba-la-nại,
- Trắng sạch, chịu sắc màu;
- Đập xong thời mềm mại,
- Sáng chói, càng thêm đẹp’.
“Thưa Tôn nhân, những điều các Đấng Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác đã dạy cũng như vậy; rất đủ khả năng chịu đựng những nạn vấn
của kẻ khác, cũng có thể suy nghĩ quán sát một cách thỏa đáng được; chỉ
có nhuộm trí tuệ, không nhuộm ngu si.”
Ni-kiền Thân Tử nói:
“Cư sĩ, ông đã bị Sa-môn Cù-đàm biến hóa bằng chú huyễn thuật.”
Cư sĩ Ưu-ba-ly nói:
“Tôn nhân, thật tốt đẹp loại chú huyễn hóa ấy, rất tốt đẹp loại
chú huyễn hóa. Thưa Tôn nhân, loại chú huyễn hóa đó làm cho cha mẹ tôi
được lợi ích an ổn, khoái lạc lâu dài; vợ con, nô tỳ, người giúp việc,
quốc vương Na-nan-đà và tất cả thế gian, chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn,
Phạm chí, từ người đến trời, làm cho họ được lợi ích an ổn khoái lạc lâu
dài.”
Ni-kiền thân tử nói:
“Cư sĩ, toàn cõi Na-nan-đà đều biết Cư sĩ Ưu-ba-ly là đệ tử Ni-kiền, nay đây cuối cùng là đệ tử của ai?”
Khi ấy, Cư sĩ Ưu-ba-ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy, gối phải quỳ xuống đất, nhắm phương có Phật, chắp tay hướng về, nói:
“Tôn nhân, hãy nghe điều tôi nói đây:
- Đại Hùng, trừ si ngốc;
- Diệt uế, bắt hàng phục.
- Vô địch, vi diệu tư,
- Học giới, thiền, trí tuệ;
- An ổn không bợn nhơ;
- Ba-ly đệ tử Phật.
- Bậc Đại Thánh tu nhiều;
- Thành đức tự tại thuyết.
- Khéo niệm, quán sát mầu;
- Không thấp, cũng không cao;
- Bất động, thường tự tại;
- Ba-ly đệ tử Phật.
- Không cong, thường biết đủ;
- Thỏa mãn, trừ xan tham;
- Hiện Sa-môn chứng ngộ,
- Tôn đại sĩ, hậu thân;
- Vô tỷ, không nhiễm trần;
- Ba-ly đệ tử Phật.
- Bao dung, không ganh ghét;
- Đấng Tịch Mặc nhiệm mầu,
- Dũng mãnh, hằng an ổn;
- Trụ pháp, vi diệu tư,
- Chế ngự, không hý bỡn;
- Ba-ly đệ tử Phật.
- Đại long sống vượt tục,
- Giải trừ mọi sử kiết,
- Ưng thanh tịnh biện tài,
- Tuệ phát, dứt vui buồn;
- Đức Thích-ca, cõi ngoài;
- Ba-ly đệ tử Phật.
- Thiền tư duy Chánh pháp,
- Thanh tịnh, nhiễu loạn trừ;
- Thường cười, không hờn giận;
- Đệ nhất đời viễn ly.
- Thường chuyên tinh, vô úy
- Ba Ly đệ tử Phật
- Bậc Thất Tiên[26] vô đẳng,
- Chứng tịnh hạnh, tam minh[27].
- Tắm sạch, như đèn sáng
- Yên nghỉ, dứt oán kết;
- Dũng mãnh, cực thanh tịnh’
- Ba-ly đệ tử Phật.
- Tịch tĩnh, tuệ như đất;
- Trí trừ tham thế gian;
- Đáng thờ, con mắt siêu;
- Thượng sỹ không ai sánh;
- Tự điều ngự, triệt sân;
- Ba-ly đệ tử Phật.
- Đoạn dục[28], vô thượng thiện;
- Khéo điều ngự vô song;
- Vô thượng thường hoan hỷ;
- Trừ nghi, rực sắc quang;
- Đoạn mạn, vô thượng giác;
- Ba-ly đệ tử Phật.
- Đoạn ái, giác tối thượng;
- Khói tan, lửa đã tắt;
- Đấng Như Khứ[29], Thiện Thệ;
- Đấng Vô Đẳng, Tối Tôn;
- Đấng Đại Danh, Chân Chánh;
- Ba-ly đệ tử Phật.
- Trăm lời tán Phật này,
- Tự phát, không cần suy.
- Những sự Ba-ly nói,
- Chư Thiên đến hội tề.
- Khéo gia sức hùng biện;
- Đúng pháp, đúng nhân tài.
Ni-kiền thân tử hỏi:
‘Đệ tử của Như Lai’.”
Ni-kiền Thân Tử hỏi:
“Cư sĩ, ông ca ngợi Sa-môn Cù-đàm với ý gì?”
Cư sĩ Ưu-ba-ly đáp:
“Hãy nghe tôi nói dụ, người trí nghe dụ thì hiểu rõ ý nghĩa. Như
thầy trò người làm tràng hoa, chọn các loại hoa, dùng dây dài kết làm
các loại tràng hoa. Cũng vậy, này Tôn nhân, Đức Như Lai, Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác, có vô lượng xưng tán, là đấng tối tôn thờ, nên tôi ca
ngợi.”
Khi nói pháp này, Cư sĩ Ưu-ba-ly xa lìa trần cấu, phát sanh con
mắt pháp thấy các pháp. Ni-kiền Thân Tử liền mửa máu nóng, rồi đến nước
Bà-hòa[30] vì bệnh này mà mạng chung.
Phật nói như vậy, Cư sĩ Ưu-ba-ly nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Bản Hán, quyển 32. Tương đương Pāli, M. 56. Upāli-suttaṃ
- [02] Na-nan-đà 那 難 陀. Pāli: Nāḷandā.
- [03] Ba-bà-ly
nại lâm 波 婆 離 柰 林. Pāli: Pāvārikambavana, khu rừng xoài của Pāvārika,
một đại phú tại Nālānda (Na-nan-đà), một thị trấn ở gần Rājagaha.
- [04] Trường Khổ Hạnh Ni-kiền 長 苦 行 尼 犍. Pāli: Dīghatapassī-nigantha, một đệ tử của Nigaṇṭha-Nātaputta (Ni-kiền Thân Tử).
- [05] Ni-kiền Thân Tử 尼 犍 親 子, Nigaṇṭha-Nātaputta.
- [06]
Hán: kỷ hành linh bất hành ác nghiệp bất tác ác nghiệp 幾 行 令 不 行 惡 業 不 作
惡 業. Pāli: kati…kammāni paññapeti pāpassa kammassa kiriyāya pāpassa
kammassa pavattiyā’ti, có bao nhiêu nghiệp để thi hành ác nghiệp, để
tiến hành ác nghiệp?
- [07] Tam
phạt: thân phạt, khẩu phạt, ý phạt 三 罰 身 罰 口 罰 意 罰. Pāli: tiṇi …
daiḍāni paññapeti… seyyathidam, kāyadaṇḍaṃ vacīdaṇḍaṃ manodaṇḍaṃ.
- [08] Sở
tác trí biện, thông minh quyết định, an ổn vô úy, thành tựu điều ngự,
đãi đắc biện tài đắc cam lộ tràng, ư cam lộ giới, tự tác chứng thành tựu
du 所 作 智 辯, 聰 明 決 定, 安 隠 無 畏, 成 就 調 御, 逮 得 辯 扌, 得 甘 露 幢 , 於 甘 露 界, 自 作 證
成 就 遊. Lời khen ngợi này cũng giống như lời khen ngợi giữa Tôn giả
Xá-lợi-phất và Mãn Từ Tử trong kinh số 9 trên.
- [09] Ưu-ba-ly cư sĩ 優 波 離 居 士, đệ tử tại gia của Ni-kiền Thân Tử. Pāli: Upāli- gahapati.
- [10] Chấp trường mao dương 執 長 髦 羊. Pāli: dīghalomikaṃ eḷakaṃ lomesu gahetvā, túm lấy lông của con dê có lông dài.
- [11]
Cô tửu sư 沽 酒 師 (nhà bán rượu). Cô, Tống-Nguyên-Minh: 酤; Pāli, gồm hai
thí dụ: balavā soṇḍikākammakaro, lực sĩ nấu ruợu; và
balavāsoiḍikādhutto, lực sĩ say rượu.
- [12]
Kiêu ngạo Ma-ha-năng-già 憍 傲 摩 訶 能 加. Không rõ Pāli; nhưng Sanskrit có
thể là pramādana-mahānāga, con voi chúa say rượu; thay vì pra-māna-
(kiêu mạn). Thí dụ này, trong bản Pāli: (…) kuñjaro saṭṭhihāyano, con
voi già sáu mươi tuổi.
- [13]
Pāli: sace kho tvaṃ gahapati sacce patiṭṭhāya manteyyāsi siyā no ettha
kathāsallāpo ti, “nếu ông an trú trên sự thật mà tư duy thì ở đây có thể
có hội thoại của chúng ta”.
- [14]
Trong bản Pāli, đề cập bốn chế giới của Ni-kiền Tử,
cātuyāmasaṃvarasaṃvutto: sabbavārivārito sabbavāriyutto sabbavāridhuto
sabbavāriphuṭo, hoàn toàn cấm chỉ nước, hoàn toàn chuyên tâm (vào sự cấm
chế tất cả nước).
- [15] Hán: tư 思, và vô tư. Pāli: cetana; và asañcetanika.
- [16] Bản Hán, tư tức ý nghiệp. Bản Pāli: tư trong trường hợp này là ý phạt: cetanṃ… manodaiḍaṣmiṃ.
- [17]
Pāli: (…) nigaṇṭho ābādhika… sītodakapaṭikkhito uṇhodakapaṭisevī, có
người Ni-kiền bệnh… không uống nước lạnh, mà chỉ uống nước nóng.
- [18] Ý trước (thiên) 意 著 天. Pāli: Manosatta, những ai khi chết mà còn có chỗ chấp trước sẽ tái sinh vào đây.
- [19]
Đại-trạch vô sự, Kỳ-lân vô sự, Mi-lộc vô sự, Tĩnh tịch vô sự, Không dã
vô sự 大 澤 無 事, 麒 麟 無 事, 麋 鹿 無 事, 靜寂 無 事, 空 野 無 事. Tham chiếu dẫn chứng
của Duy thức nhị thập luận: rừng Đàn-trạch-ca, rừng Ma-đăng-già, rừng
Kiết-lăng-già. Những khu rừng này trước kia vốn là những đô thị trù phú,
nhưng do sự phẫn nộ của các đạo sĩ, chúng trở thành rừng xanh. (Xem
giải thích của Khuy Cơ, Duy thức nhị thập luận thuật ký. No.1834, trang
1005 a và tt). Các khu rừng được kể trong bản Pāli: Daṇḍakāraññaṃ
Kāliṅgāraññaṃ Mejjhāraññaṃ Mātaṅgāraññaṃ.
- [20]
Hán: mặc nhiên hành…; Pāli: manasi karohi…manasi karitvā vyākarohi: hãy
suy nghĩ chín chắn. Suy nghĩ chín chắn rồi hãy tuyên bố.
- [21] Thắng nhân 勝 人. Pāli nói: ñāta-nanussa, người nổi tiếng, vì Upāli vốn là nhân vật nổi tiếng.
- [22] Nguyện vô vi dã 願 無 為 也. Không rõ nghĩa chính xác.
- [23] Đoan chánh pháp 端 正 法. Trong bản Pāli: anupubbikathā, thuận tự pháp thoại.
- [24]
Hán:
trung môn 中 門. Pāli: majjhimāya dvārasālāya, căn nhà (phòng) giữa có trổ cửa lớn.
- [25]
Hán:
bão 抱. Tống-Nguyên-Minh: thí 施.
- [26] Đức Thích-ca cũng được xưng hiệu là Đệ Thất Tiên.
- [27] Nguyên Hán: tam đạt 三 達.
- [28] Hán: đoạn vọng 斷 望.
- [29] Như khứ 如 去, cùng nghĩa với Như Lai. Đối với Niết-bàn mà nói là Như Lai, đối với sanh tử mà nói là Như khứ.
- [30] Ba-hòa quốc 波 惒 國.Tức Pāli: Pāva; xem kinh số 196.
-ooOoo-
134. KINH THÍCH VẤN[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại phía Đông thành Vương xá, nước
Ma-kiệt-đà, trong động đá Nhân-đà-la, trên núi Bệ-đà-đề, phía Bắc thôn
Nại lâm[02].
Bấy giờ Thiên Vương Thích[03]
nghe Phật du hóa tại phía Đông thành Vương xá, nước Ma-kiệt-đà, trong
động Nhân-đà-la, trên núi Bệ-đà-đề, phía Bắc thôn Nại lâm. Khi ấy, Thiên
Vương Thích bảo Ngũ Kết nhạc tử[04] rằng:
“Ta nghe Đức Thế Tôn du hóa tại phía Đông thành Vương xá, nước
Ma-kiệt-đà, trong động Nhân-đà-la, trên núi Bệ-đà-đề, phía Bắc thôn Nại
lâm. Này Ngũ Kết, ngươi hãy cùng ta đến yết kiến Đức Thế Tôn”.
Ngũ Kết nhạc tử thưa rằng:
“Xin vâng.”
Rồi thì, Ngũ kết nhạc tử ôm đàn lưu ly[05]
cùng đi theo Thiên Vương Thích. Chư Thiên ở Tam thập tam thiên nghe
Thiên Vương Thích rất khát khao muốn gặp Phật, chư Thiên Tam thập tam
thiên cũng theo hầu Thiên vương mà đi. Bấy giờ trong khoảnh khắc, nhanh
như lực sĩ co duỗi cánh tay, Thiên Vương Thích cùng chư Thiên Tam thập
tam và Ngũ Kết biến mất khỏi cõi trời Tam thập tam, đã hiện đến phía
Đông thành Vương xá, nước Ma-kiệt-đà, trên núi Bệ-đà-đề, phía Bắc thôn
Nại lâm, cách động đá không xa.
Lúc bấy giờ núi Bệ-đà-đề hào quang chiếu sáng rực rỡ như lửa
cháy. Nhân dân ở chung quanh núi thấy vậy nghĩ rằng: “Núi Bệ-đà-đề bị
lửa đốt cháy khắp nơi.”
Khi ấy Thiên Vương Thích sau khi đã đứng xuống tại một nơi, bảo rằng:
“Này Ngũ Kết, Đức Thế Tôn là như vậy. Ngài ở trong rừng vắng,
trong rừng sâu, dưới gốc cây, thích ở trên sườn núi cao, vắng bặt không
tiếng động, xa lánh, không có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận mà
tĩnh tọa, có đại oai đức; cùng với chư Thiên, ưa thích đời sống xa lánh,
tĩnh tọa ấy, đời sống an ổn khoái lạc ấy. Chúng ta chưa thông báo
trước, không nên tự tiện bước tới. Này Ngũ Kết, ngươi hãy đi đến thông
báo trước, sau đó chúng ta mới bước tới.”
Ngũ kết thưa rằng:
“Xin vâng lời.”
Ngũ Kết sau khi vâng lời dạy của Thiên Vương Thích, liền ôm đàn
lưu ly đi trước, đến động đá Nhân-đà-la, rồi nghĩ rằng: “Hãy ở nơi này,
cách Phật không gần cũng không xa, để Phật biết được và nghe được âm
thanh của ta.”.
Khi đã đến đứng ở nơi kia, Ngũ Kết gảy đàn và hát lên những bài
tụng nói về tình yêu, nói về rồng, nói về Sa-môn, nói về A-la-hán[06]:
- Hiền nương ơi[07]!
- Ta kính lễ phụ mẫu nàng;
- Mặt trăng và Đam-phù-lâu[08];
- Đã sanh nàng thù diệu,
- Gây hoan lạc lòng ta.
- Như nóng cầu gió mát;
- Như khát cầu nước lạnh;
- Như vậy, ta yêu nàng,
- Như La-hán yêu Pháp.
- Như dòng nước, khó giữ!
- Lụy tình cũng như vậy.
- Đời đời mong sống chung,
- Như cúng dường Vô Trước.
- Ao nước trong, vừa mát;
- Dưới đáy có cát vàng[09];
- Như voi chúa[10] nóng bức,
- Xuống ao tắm mặc tình.
- Như voi bị móc câu
- Lòng ta bị nàng khuất
- Hành động nàng không hay
- Yểu điệu, chưa được nàng.
- Tâm ý ta hoàn toàn lệ thuộc,
- Và phiền oan đã đốt cháy tim;
- Và vì vậy không còn hoan lạc,
- Như một người đi vào hang hùm.
- Như Thích tử tư duy thiền tọa,
- Hằng vui say trong sự nhất tâm.
- Như Mâu-ni đạt thành giác ngộ [11];
- Cũng diệu tịnh như ta được nàng.
- Như niềm vui Đại thánh Mâu-ni[12]
- Do chứng đắc viên toàn giác đạo.
- Niềm vui ta cũng ở nơi kia,
- Bằng khao khát được nàng hội tụ
- Như người bệnh mong cầu phương dược;
- Như đói ăn hoài niệm thức ăn;
- Ơi Hiền nữ, mong lòng ta tắt,
- Như nước rưới cho ngọn lửa tàn.
- Nếu ta có hành vi tạo phước,
- Như cúng dường La-hán chân nhân[13];
- Thọ báo ấy tức thành tịnh diệu,
- Ta mong cùng Hiền nữ sống chung.
- Ta ước nguyện bên nàng vĩnh kiếp;
- Không xa nàng sống lẻ đơn thân.
- Và ta hẹn theo nàng được chết,
- Không mong gì cách biệt ly sanh.
- Ôi, Thiên đế cho tôi lời nguyện,
- Bậc tôn cao Tam thập tam thiên!
- Ôi Đại Thánh, trên đời tối thượng,
- Biết cho tôi lời nguyện vững bền.
- Kính lễ Đấng Hùng Lực,
- Tối thượng giữa nhân gian,
- Dứt trừ gai ái dục,
- Con lạy Đấng Nhật Thân[14].
Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ tam-muội dậy, tán thán Ngũ Kết Nhạc tử:
“Lành thay! Lành thay! Ngũ Kết, giọng ca của ngươi cùng với tiếng
đàn hòa điệu; tiếng đàn và giọng ca hòa điệu. Giọng ca không đi ngoài
tiếng đàn; tiếng đàn không đi ngoài giọng ca. Này Ngũ Kết, ngươi nhớ lại
ngày xưa, ngươi có ca tụng bài kệ liên quan đến tình yêu, liên quan đến
rồng, liên quan đến Sa-môn, liên quan đến La-hán này chăng?”
Ngũ Kết thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhân[15] tự biết cho. Bạch Đại Tiên Nhân, ngày xưa, khi Thế Tôn mới chứng đắc giác đạo, ở tại Uất-bệ-la[16], bên bờ sông Ni-liên-thiền[17], dưới gốc cây A-xà-hòa-la-ni-câu-loại[18]. Bấy giờ con gái của Nhạc vương Đam-phù-lâu[19], tên là Hiền Nguyệt Sắc[20] và có một thiên thần tên là Kết, con trai của Ma-đâu-lệ, người đánh xe[21], yêu người con gái kia.
“Bạch Đại Tiên Nhân, vị ấy trong lúc đang yêu người con gái ấy,
con cũng yêu người con gái ấy. Nhưng, bạch Đại Tiên Nhân, khi con yêu
người con gái ấy mà cuối cùng không được. Bấy giờ con đứng sau người con
gái ấy mà ngâm bài kệ liên quan đến tình yêu, liên quan đến rồng, liên
quan đến Sa-môn, liên quan đến La-hán này.
“Bạch Đại Tiên Nhân, khi con ngâm bài kệ này, người con gái ấy
quay nhìn lại, hân hoan cười nụ và nói với con rằng: ‘Ngũ Kết, tôi chưa
được thấy Phật Thế Tôn kia, nhưng tôi nghe từ các vị trời Tam thập tam
nói rằng: ‘Đức Thế Tôn kia là Như Lai, là Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác,
Minh Hạnh Thành Tựu Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo
Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu’. Này Ngũ Kết, nếu anh đã từng
nhiều lần ca ngợi Đức Thế Tôn, vậy anh có thể cùng với tôi đồng thờ kính
Đấng Đại Tiên Nhân’. Con chỉ gặp gỡ nàng được một lần duy nhất, từ đó
về sau không còn thấy lại.”
Bấy giờ Thiên Vương Thích nghĩ rằng: “Ngũ Kết nhạc tử đã làm cho
Thế Tôn ra khỏi thiền định, thông báo ta với Đức Thiện Thệ.” Rồi thì,
Thiên Vương Thích nói:
“Ngũ Kết, ngươi hãy đến nơi ấy, thay mặt ta đảnh lễ sát chân Phật
mà thăm hỏi Đức Thế Tôn rằng: ‘Thánh thể có khỏe mạnh, an ổn khoái lạc,
không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường chăng? Bạch Đại Tiên
Nhân, Thiên Vương Thích và chư Thiên ở Tam thập tam muốn đến yết kiến
Thế Tôn’.”
Ngũ kết thưa:
“Xin vâng.”
Khi đó, Ngũ Kết bỏ đàn lưu ly xuống, chắp tay hướng về Phật, bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn! Kính Đại Tiên Nhân! Thiên Vương Thích xin cúi đầu
dưới chân Phật, thăm hỏi Thế Tôn rằng: ‘Thánh thể có khỏe mạnh, an ổn
khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường chăng?
Bạch Đại Tiên Nhân, Thiên Vương Thích và chư Thiên ở Tam thập tam muốn
đến yết kiến Thế Tôn’.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo rằng:
“Này Ngũ Kết, mong cho Thiên Vương Thích được an ổn khoái lạc.
Chư Thiên, loài người, A-tu-la, Kiền-thát-bà, La-sát và tất cả các loài
chúng sanh khác đều được an ổn, khoái lạc. Này Ngũ Kết, Thiên Vương
Thích có muốn đến yết kiến Ta, vậy xin cứ tùy ý.”
Ngũ Kết nghe Phật dạy xong, khéo léo thọ trì, đảnh lễ chân Phật,
nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra, trở về đến chỗ Thiên Vương Thích thưa
rằng:
“Tâu Thiên vương, tôi đã bạch với Thế Tôn. Thế Tôn nay đang đợi Thiên vương. Mong Thiên vương nên tự biết thời.”
Bấy giờ, Thiên Vương Thích cùng chư Thiên Tam thập tam và Ngũ kết
nhạc tử đi đến chỗ Phật. Khi ấy, Thiên Vương Thích cúi đầu sát chân
Phật, ba lần tự xưng danh tánh rằng:
“Bạch Đại Tiên Nhân! Con là Thiên Vương Thích! Con là Thiên Vương Thích!”
Đức Thế Tôn bảo:
“Quả thật vậy! Quả thật vậy. Này Câu-dực[22], ngươi chính là Thiên Vương Thích.”
Thiên Vương Thích ba lần tự xưng danh tánh, đảnh lễ chân Phật rồi đứng sang một bên. Khi ấy, Thiên Vương Thích thưa rằng:
“Bạch Đại Tiên Nhân, con nên ngồi cách Thế Tôn xa hay gần?”Đức Thế Tôn dạy:
“Ngươi hãy ngồi gần ta. Vì sao? Vì người có hàng chư Thiên quyến thuộc đông vậy.”
Rồi Thiên Vương Thích đảnh lễ chân Phật và ngồi sang một bên. Chư
Thiên Tam thập tam và Ngũ Kết nhạc tử cũng đảnh lễ chân Phật rồi ngồi
sang một bên. Lúc ấy động Nhân-đà-la bỗng nhiên rộng lớn. Vì sao? Vì do
oai thần của Phật và oai đức của chư Thiên vậy.
Thiên Vương Thích sau khi ngồi xuống, thưa rằng:
“Bạch Đại Tiên Nhân, đã từ lâu con muốn đến yết kiến Thế Tôn,
muốn thưa hỏi về giáo pháp. Bạch Đại Tiên Nhân, xưa kia, một thời Đức
Thế Tôn du hóa tại nước Xá-vệ, trong một vách đá[23]. Bạch Đại Tiên Nhân, lúc đó con có việc riêng, cùng với chư Thiên Tam thập tam đi xe ngàn voi[24] đến nhà của đại vương Bệ-Sa-môn[25]; Bệ-sa-môn đại vương gia có người thiếp tên là Bàn-xà-na[26].
“Lúc bấy giờ Thế Tôn đang nhập định, im lặng tịch nhiên. Người
thiếp kia chắp tay đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn. Bạch Đại Tiên Nhân,
con nói với Bàn-xà-na rằng: ‘Này hiền muội, nay không phải lúc ta đến
yết kiến Thế Tôn. Thế Tôn đang nhập định. Nếu khi nào Thế Tôn xuất định,
hiền muội hãy thay mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và hỏi thăm Thánh thể của Thế
Tôn có khỏe mạnh, an ổn, khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái, khí
lực bình thường không nói như vầy: ‘Bạch Đại Tiên Nhân, Thiên Vương
Thích đảnh lễ chân Phật và thăm hỏi rằng: ‘Thế Tôn có khỏe mạnh, an ổn,
khoái lạc, không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường không?’
Bạch Đại Tiên Nhân, cô em ấy có thay mặt con đảnh lễ chân Phật và thăm
hỏi Thế Tôn, Thế Tôn có nhớ chăng?”
Đức Thế Tôn bảo:
“Này Câu-dực, cô em ấy có thay mặt ngươi đảnh lễ và cũng nói lại ý
ngươi muốn thăm hỏi. Ta có nhớ việc ấy. Này Câu-dực, khi người đi, Ta
nghe tiếng xe lăn mà xuất định.”
“Bạch Thế Tôn, ngày xưa con có nghe rằng, khi Đức Như Lai, Bậc Vô
Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu xuất
hiện ở đời thì thiên chúng được hưng thịnh mà A-tu-la bị giảm thiểu.
“Bạch Đại Tiên Nhân, chính mắt con trông thấy Tỳ-kheo đệ tử Thế
Tôn theo Phật tu hành phạm hạnh, xả dục, ly dục. Khi thân hoại mạng
chung được đến cõi an lành, sanh lên trời.
“Bạch Đại Tiên Nhân, Thích nữ Cù-tỳ[27]
là đệ tử của Thế Tôn cũng theo Thế Tôn tu tập phạm hạnh, ghê tởm thân
nữ, ái lạc thân nam, chuyển thân nữ thành thân nam, xả dục, ly dục, khi
thân hoại mạng chung được sanh đến cõi Tam thập tam thiên làm con của
con. Nàng đã thọ sanh rồi, chư Thiên thảy đều biết, Cù-bà thiên tử[28], có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần.
“Bạch Đại Tiên Nhân, con lại thấy có ba vị Tỳ-kheo đệ tử Thế Tôn
cũng theo Thế Tôn tu tập phạm hạnh, nhưng không xả ly dục, khi thân hoại
mạng chung chúng sanh vào trong Kỹ nhạc cung[29]
thấp kém. Họ đã thọ sanh rồi, ngày ngày đến Tam thập tam thiên cùng chư
Thiên hầu hạ Cù-bà thiên tử. Thiên tử thấy chúng liền nói bài kệ:
- Pháp nhãn Ưu-bà-di[30],
- Tôi vốn tên Cù-tì,
- Phụng kính Phật và pháp,
- Tịnh ý thờ Tăng-già.
- Tôi đã nhờ ân Phật,
- Thích tử phước đức lớn,
- Diệu sanh Tam thập tam,
- Thiên tử, mọi người biết.
- Biết người vốn Tỳ-kheo,
- Sanh làm thần kỹ nhạc;
- Chắp tay đứng trước mặt
- Cù-bà nói kệ cho.
- Vốn con Đức Cù-đàm;
- Khi tôi ở nhân gian,
- Nhà ta các ngươi đến;
- Ẩm thực tôi cúng dường.
- Ngươi vốn cùng bậc Thánh
- Hành vô thượng phạm hạnh;
- Nay lại để người sai,
- Thường nhật kính phụng trời.
- Xưa tôi hầu hạ người,
- Cùng nghe Thánh diệu pháp.
- Được tín, thành tựu giới;
- Khéo sanh cõi trời này.
- Người vốn được thờ phụng,
- Hành vô thượng phạm hạnh.
- Nay lại để người sai
- Thường nhật kính phụng trời.
- Mặt mày người là gì?
- Phật pháp đã thọ trì,
- Quay lưng, không hướng Pháp,
- Pháp nội tâm chứng tri[31],
- Thánh nhãn đã dạy rõ[32].
- Tôi xưa hầu các vị;
- Nay nhạc thần thấp kém;
- Tự theo phi pháp hành,
- Tự sanh chỗ phi pháp.
- Ta sống đời tại gia;
- Nay xem thắng đức ta,
- Chuyển nữ thành thiên tử,
- Thọ ngũ dục tự do.
- Con Cù-đàm bị mắng,
- Buồn nản, khen Cù-đàm[33]:
- Ta[34] nay hãy tiến hành;
- Thiên tử nói thật đúng.
- Hai trong số cần hành,
- Nhớ pháp luật Cù-đàm,
- Biết dục là tai họa,
- Bèn xả ly dục tham.
- Chúng bị dục trói chặt,
- Tức xả ly được liền.
- Như voi bứt dây xích,
- Vượt Tam thập tam thiên.
- Nhân-đà-la, Thiên, Phạm,
- Tất cả đều đến nhóm.
- Họ liền vượt chỗ ngồi,
- Hùng mãnh xả trần dục.
- Đế Thích thấy chúng phiền[35];
- Thắng Thiên[36], trời trên trời.
- Chúng vốn sanh hạ tiện,
- Nay vượt Tam tam thiên.
- Ưu phiền, rồi tấm tắc[37].
- Cù-bà nói sau hết:
- Loài người có Đại Giác,
- Đấng Mâu-ni thắng dục[38].
- Con Ngài do lãng quên,
- Bị quở trách, lại được.
- Một trong ba vị kia
- Sanh trong thần kỹ nhạc.
- Hai vị chánh đạo thành
- Tại trời, vui định căn.
- Ngươi nói pháp như vầy;
- Đệ tử không mê hoặc,
- Vượt lậu, đoạn tà nghi,
- Lễ Phật, thắng phục căn[39].
- Bởi vì tỏ các pháp,
- Hai vị được tiến thăng.
- Từ chỗ tiến thăng ấy
- Sanh lên trời Phạm thiên.
- Chúng con biết pháp ấy
- Nên đến đây, Đại Tiên!”
Bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Vị Quỷ[40]
này không bao giờ dua nịnh, dối trá, không huyễn hoặc, chất trực. Nếu
có hỏi tất là muốn biết, chứ không phải muốn xúc nhiễu. Những điều vị
này muốn hỏi cũng vậy. Ta hãy nói A-tỳ-đàm thậm thâm.”
Đức Thế Tôn biết như thế rồi, Ngài liền nói bài kệ cho Thiên Vương Thích:
- Vì an lạc đời này,
- Và an lạc đời sau,
- Câu-dực tùy ý hỏi,
- Theo những điều sở thích.
- Điều này hay điều kia,
- Ta quyết đoán hết thảy.
- Thế Tôn đã nghe cho
- Nhật Thiên cầu đạo nghĩa,
- Tại nước Ma-kiệt-đà
- Hiền Bà-sa-bà hỏi[41].
Bấy giờ Thiên Vương Thích thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, các loại trời, người, A-tu-la, Kiền-đạt-hòa, La-sát và các chủng loại khác[42], mỗi mỗi có bao nhiêu kết sử[43]?”
Đức Thế Tôn nghe xong, đáp:
“Này Câu-dực, các loại trời, người, A-tu-la, Kiền đạt hòa, La-sát
và các chủng loại khác, mỗi mỗi đều có hai kết là bỏn sẻn và ganh tị[44]. Mỗi chủng loại ấy đều nghĩ rằng: ‘Mong sao ta không gậy[45], không kết, không oán, không nhuế, không tranh, không đấu, không khổ, sống trong an lạc[46].’ Chúng tuy nghĩ như vậy, nhưng vẫn có gậy, có kết, có oán, có nhuế, có tranh, có đấu, có khổ mà không sống trong sự an lạc.”
Thiên Vương Thích nghe thế, thưa rằng:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, các loài trời, người, A-tu-la, Kiền
đạt hòa, La-sát và các chủng loại khác, mỗi mỗi đều có hai kiết sử.
Chúng nghĩ rằng: ‘Mong sao ta không gậy, không kết, không oán, không
nhuế, không tranh, không đấu, không khổ, mà sống trong sự an lạc’. Chúng
tuy nghĩ như vậy, nhưng vẫn có gậy, có kết, có oán, có nhuế, có tranh,
có đấu, có khổ mà không sống trong sự an lạc. Thật sự như vậy, bạch Thế
Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên
Nhân. Đúng như pháp mà Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi
hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành; rồi lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, bỏn sẻn, ganh tị do nhân gì duyên gì, từ đâu
sanh ra, do đâu mà có? Lại do nhân gì, duyên gì mà không có bỏn sẻn và
ganh tị?”
Thế Tôn đáp rằng:
“Này Câu-dực, bỏn sẻn và ganh tị nhân nơi yêu và không yêu[47],
duyên nơi yêu và không yêu; từ nơi yêu và không yêu sanh ra; do yêu và
không yêu mà có. Nếu không có yêu, và không yêu thì không có bỏn sẻn và
ganh tị vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa rằng:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân. Bỏn sẻn và ganh tị nhân nơi yêu và
không yêu, duyên nơi yêu và không yêu; từ nơi yêu và không yêu sanh ra;
do yêu và không yêu mà có. Nếu không có yêu, và không yêu thì không có
bỏn sẻn và ganh tị. Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch
Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân. Đúng như pháp mà Phật
đã nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự, do nghe
những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, yêu và không yêu là do nhân gì, duyên gì, từ
đâu phát sanh, do đâu mà có? Lại do nhân nào mà không có yêu và không
yêu?”
Đức Thế Tôn bảo rằng:
“Này Câu-dực, yêu và không yêu là nhân nơi dục và duyên nơi dục mà phát sanh, do dục mà có[48]. Nếu vô dục thì không có yêu và không yêu vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa rằng:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thậït sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Yêu và không yêu là nhân nơi dục
và duyên nơi dục mà phát sanh, do dục mà có. Nếu vô dục thì không có yêu
và không yêu vậy. Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch
Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp mà Phật đã
nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự, do nghe
những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, dục là do nhân gì, duyên gì, từ đâu mà sanh, do đâu mà có; do nhân nào không có dục?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, dục là do nhân niệm[49] và duyên nơi niệm, từ nơi niệm mà phát sanh; do niệm mà có; nếu không có suy niệm thì không có dục.”
Thiên Vương Thích nghe thế thưa rằng:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, dục là do nhân niệm và duyên nơi
niệm, từ nơi niệm mà phát sanh; do niệm mà có; nếu không có suy niệm thì
không có dục. Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch
Thiện Thệ! Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp mà Phật đã
nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự, do nghe
những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, niệm là do nhân gì, duyên gì, từ đâu mà sanh, do đâu mà có. Lại do nhân nào không có suy niệm?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, niệm là nhân nơi tư và duyên nơi tư, từ nơi tư mà phát sanh, do tư mà có[50]. Nếu không có tư thì không có niệm.
“Do niệm có dục, do dục có yêu và không yêu. Do yêu và không yêu
có bỏn sẻn và ganh tị. Do bỏn sẻn và ganh tị mà sanh ra dao, gậy, đấu
tranh, thù nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm
sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy, toàn khối lớn khổ đau này
phát sanh.
“Nếu không có tư thì không có niệm. Nếu không có niệm thì không
có dục. Nếu không có dục thì không có yêu và không yêu. Nếu không có yêu
và không yêu thì không có bỏn sẻn và ganh tị. Nếu không có bỏn sẻn và
ganh tị thì không có dao gậy, đấu tranh, thì nghịch, dua nịnh, dối trá,
nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm không sanh ra vô lượng pháp ác bất
thiện. Như vậy, toàn khối lớn đau khổ này tiêu diệt”.
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa rằng:
“Con đã hiểu, bạch Thế Tôn! Con đã hiểu, bạch Thiện Thệ! Con đã
hiểu, bạch Đại Tiên Nhân. Niệm là nhân nơi tư và duyên nơi tư, từ nơi tư
mà phát sanh, do tư mà có. Nếu không có tư thì không có niệm.
“Do niệm có dục, do dục có yêu và không yêu. Do yêu và không yêu
có bỏn sẻn và ganh tị. Do bỏn sẻn và ganh tị mà sanh ra dao, gậy, đấu
tranh, thù nghịch, dua nịnh, dối trá, nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm
sanh ra vô lượng pháp ác bất thiện. Như vậy, toàn khối lớn khổ đau này
phát sanh.
“Nếu không có tư thì không có niệm. Nếu không có niệm thì không
có dục. Nếu không có dục thì không có yêu và không yêu. Nếu không có yêu
và không yêu thì không có bỏn sẻn và ganh tị. Nếu không có bỏn sẻn và
ganh tị thì không có dao gậy, đấu tranh, thì nghịch, dua nịnh, dối trá,
nói láo, nói hai lưỡi, trong tâm không sanh ra vô lượng pháp ác bất
thiện. Như vậy, toàn khối lớn đau khổ này tiêu diệt.
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp mà Phật đã nói, con
đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ hoặc, không còn do dự, do nghe những điều
Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe xong những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, thế nào là con đường tiêu diệt hý luận[51]. Tỳ-kheo thực hành như thế nào để hướng đến con đường tiêu diệt hý luận?”
Đức Thế Tôn đáp rằng:
“Này Câu-dực, con đường tiêu diệt hý luận là Thánh đạo tám chi.
Đó là, chánh kiến, chánh tư duy, cho đến chánh định. Này Câu-dực, đó là
con đường tiêu diệt hý luận. Tỳ-kheo thực hành như vậy để hướng đến con
đường tiêu diệt hý luận.”
Thiên Vương Thích nghe dạy xong, thưa rằng:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, con đường tiêu diệt hý luận là
Thánh đạo tám chi. Đó là, chánh kiến, chánh tư duy, cho đến chánh định.
Này Câu-dực, đó là con đường tiêu diệt hý luận. Tỳ-kheo thực hành như
vậy để hướng đến con đường tiêu diệt hý luận. Đúng như vậy, bạch Thế
Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Đúng như pháp mà Đức Phật đã dạy, con đã rõ. Con đã đoạn trừ nghi hoặc,
không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy”.
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, một Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận phải đoạn bao nhiêu pháp và hành bao nhiêu pháp?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận phải
đoạn ba pháp và tu hành ba pháp. Thế nào là ba? Một là niệm, hai là
ngôn, ba là cầu[52].
“Này Câu-dực, niệm ấy Ta nói có hai loại, nên hành và không nên
hành. Nếu niệm mà không nên hành thì Ta liền đoạn trừ. Nếu niệm nên hành
thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu niệm kia
vậy. Ngôn cũng như thế.
“Này Câu-dực, cầu ấy Ta nói cũng có hai loại, nên hành và không
nên hành. Nếu cầu mà không nên hành thì Ta liền đoạn. Nếu cầu mà nên
hành thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí, để thành tựu cầu kia
vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa:
“Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn! Thật sự như vậy, bạch Thiện Thệ!
Thật sự như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Tỳ-kheo không hướng đến con đường
tiêu diệt hý luận, đoạn ba pháp, tu hành ba pháp. Thế nào là ba? Một là
niệm, hai là ngôn, ba là cầu.
Đại Tiên Nhân đã nói, niệm có hai loại nên hành và không nên
hành. Nếu niệm tăng trưởng pháp ác bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì
Đại Tiên Nhân liền đoạn trừ. Nếu niệm giảm tổn pháp ác bất thiện và tăng
trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhân biết lúc nào nên hành, có niệm, có
trí để thành tựu niệm kia vậy. Ngôn cũng như vậy. Đại Tiên Nhân đã nói
cầu cũng có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu cầu tăng trưởng
pháp ác bất thiện và tổn giảm thiện pháp thì Đại Tiên Nhân liền đoạn
trừ. Nếu cầu mà giảm tổn pháp ác bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì
Đại Tiên Nhân biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu cầu
kia vậy.
“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng
như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp Phật đã nói, con đã biết. Con
đã đoạn trừ nghi hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận, có bao nhiêu pháp; để thủ hộ Tùng giải thoát[53],
hành bao nhiêu pháp?
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận có
sáu pháp; để thủ hộ tùng giải thoát hành sáu pháp. Sáu pháp ấy là gì? Đó
là, mắt thấy sắc, tai nghe thanh, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân
biết xúc, ý biết pháp.
“Này Câu-dực, mắt thấy sắc ấy, Ta nói có hai loại, nên hành và
không nên hành. Nếu mắt thấy sắc không nên hành thì Ta liền đoạn trừ.
Nếu mắt sắc nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để
thành tựu mắt vậy.
“Cũng như thế, đối với tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm
vị, thân biết xúc và ý biết pháp ấy, Ta nói cũng có hai loại, nên hành
và không nên hành. Nếu ý biết pháp không nên hành thì Ta liền đoạn trừ.
nếu ý biết pháp nên hành thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí
để thành tựu ý vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa:
“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng
như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý
luận có sáu pháp; để thủ hộ Tùng giải thoát hành sáu pháp. Sáu pháp ấy
là gì? Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân
biết xúc, ý biết pháp. Đại Tiên Nhân đã nói, mắt thấy sắc có hai loại,
nên hành và không nên hành. Nếu mắt thấy mà tăng trưởng pháp ác bất
thiện và làm tổn giảm thiện pháp thì Đại Tiên Nhân liền đoạn trừ. Nếu
mắt thấy sắc làm tổn giảm pháp ác bất thiện và làm tăng trưởng thiện
pháp thì Đại Tiên Nhân biết lúc nào nên hành vậy. Có niệm, có trí để
thành tựu mắt vậy. Cũng như thế, đối với tai nghe tiếng, mũi ngửi hương,
lưỡi nếm vị, thân biết xúc, ý biết pháp cũng có hai loại, nên hành và
không
nên hành. Nếu ý biết pháp làm tăng trưởng pháp ác bất thiện và giảm
tổn thiện pháp thì Đại Tiên Nhân liền đoạn trừ. Nếu ý biết pháp làm tổn
giảm pháp ác bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì Đại Tiên Nhân biết
lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu ý vậy. Đúng như vậy, bạch
Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên
Nhân! Đúng như pháp Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn nghi, trừ
hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, vị Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý
luận, khi thân mạng tồn tại trong một khoảnh khắc, phải đoạn bao nhiêu
pháp và tu hành bao nhiêu pháp?”
Đức Thế Tôn dạy:
“Này Câu-dực, Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý luận, khi
thân mạng tồn tại trong một khoảnh khắc, lại cũng phải đoạn ba pháp và
tu hành ba pháp. Ba pháp ấy là gì? Một là hỷ, hai là ưu và ba là xả[54].
“Này Câu-dực, hỷ ấy Ta nói có hai loại, nên hành và không nên
hành. Nếu hỷ mà không nên hành thì Ta liền đoạn trừ. Nếu hỷ nên hành thì
Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu hỷ vậy. Ưu cũng
như thế.
“Này Câu-dực, xả ấy Ta nói cũng có hai loại, nên hành và không
nên hành. Nếu xả mà không nên hành thì Ta liền đoạn trừ. nếu xả nên hành
thì Ta biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu xả vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa:
“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng
như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Tỳ-kheo hướng đến con đường tiêu diệt hý
luận, khi thân mạng tồn tại trong một khoảnh khắc phải đoạn trừ ba pháp
và thực hành ba pháp. Ba pháp ấy là gì? Một là hỷ, hai là ưu, ba là xả.
Đại Tiên Nhân đã nói hỷ có hai loại, nên hành và không nên hành. Nếu hỷ
làm tăng trưởng pháp ác bất thiện và giảm tổn thiện pháp thì liền đoạn
trừ. Nếu hỷ làm giảm tổn pháp ác bất thiện và tăng trưởng thiện pháp thì
biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để thành tựu hỷ vậy. Ưu cũng như
thế. Đại Tiên Nhân đã nói xả cũng có hai loại, nên hành và không nên
hành. Nếu xả làm tăng trưởng pháp ác bất thiện và giảm tổn thiện pháp
thì liền đoạn trừ. Nếu xả làm tổn giảm pháp ác bất thiện và trăng
trưởng thiện pháp thì biết lúc nào nên hành, có niệm, có trí để
thành tựu xả vậy. Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện
Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp Phật đã nói, con đã
biết. Con đã đoạn nghi trừ hoặc, không còn do dự, do nghe những điều
Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, tất cả Sa-môn, Phạm chí đều đồng một thuyết,
đồng một mong cầu, đồng một sở thích, đồng một an lạc, đồng một ý hướng
chăng?[55]“
Đức Phật dạy:
“Này Câu-dực, tất cả Sa-môn, Phạm chí không đồng một thuyết,
không đồng một mong cầu, không đồng một sở thích, không đồng một an lạc,
không đồng một ý hướng.”
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, tất cả Sa-môn, Phạm chí vì lý do gì mà không
đồng một thuyết, không đồng một mong cầu, không đồng một sở thích,
không đồng một an lạc, không đồng một ý hướng?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, thế giới này có nhiều chủng loại giới, có vô lượng giới[56].
Vị ấy tùy theo một giới được biết đến, rồi nhân giới đó tùy khả năng
của mình mà nói một chiều rằng ‘Đây là chân thật, ngoài ra đều hư dối’.
Này Câu-dực, cho nên tất cả Sa-môn, Phạm chí không đồng một thuyết,
không đồng một mong cầu, không đồng một sở thích, không đồng một an lạc,
không đồng một ý hướng vậy.”
Thiên Vương Thích nghe xong, thưa:
“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng
như vậy, bạch Đại Tiên Nhân! Thế giới này có nhiều chủng loại giới, có
vô lượng giới. Vị ấy tùy theo một giới được biết đến, rồi ở nơi giới đó
tùy khả năng của mình mà nói một chiều rằng ‘Đây là chân thật, ngoài ra
đều hư vọng’. Bạch Đại Tiên Nhân, vì thế mà tất cả Sa-môn, Phạm chí
không đồng một thuyết, không đồng một mong cầu, không đồng một sở thích,
không đồng một an lạc, không đồng một ý hướng vậy. Đúng như vậy, bạch
Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch Đại Tiên Nhân!
Đúng như pháp Phật đã nói, con đã biết. Con đã đoạn trừ nghi hoặc,
không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy”.
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại hỏi:
“Bạch Đại Tiên Nhân, tất cả Sa-môn, Phạm chí đều đạt đến cứu
cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh, thành tựu cứu cánh phạm
hạnh chăng[57]?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, không hẳn tất cả Sa-môn, Phạm chí đều đạt đến cứu
cánh, cứu cánh bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh, thành tựu cứu cánh phạm
hạnh.”
Thiên Vương Thích, thưa:
“Bạch Đại Tiên Nhân, vì lý do gì mà không hẳn tất cả Sa-môn, Phạm
chí đều đạt đến cứu cánh, cứu cánh phạm bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh,
thành tựu cứu cánh phạm hạnh?”
Đức Thế Tôn đáp:
“Này Câu-dực, nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với vô thượng ái tận, không toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát[58], kẻ ấy không đạt đến cứu cánh, không cứu cánh bạch tịnh, không cứu cánh phạm hạnh, không thành tựu cứu cánh phạm hạnh.
“Này Câu-dực, nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với vô thượng ái tận
toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát, kẻ ấy đạt đến cứu cánh, cứu cánh
bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh, thành tựu cứu cánh phạm hạnh.”
Thiên Vương Thích, thưa:
“Đúng như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng
như vậy, bạch Đại Tiên Nhân, nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với vô thượng
ái tận không hoàn toàn chân chánh tâm giải thoát, kẻ ấy không đạt đến
cứu cánh, không cứu cánh bạch tịnh, không cứu cánh phạm hạnh, không
thành tựu cứu cánh phạm hạnh.
‘Bạch Đại Tiên Nhân, nếu có Sa-môn, Phạm chí đối với vô thượng ái
tận toàn vẹn chân chánh tâm giải thoát, kẻ ấy đạt đến cứu cánh, cứu
cánh bạch tịnh, cứu cánh phạm hạnh, thành tựu cứu cánh phạm hạnh. Đúng
như vậy, bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy, bạch
Đại Tiên Nhân! Đúng như pháp Phật đã nói, con đã biết, con đã đoạn nghi,
trừ hoặc, không còn do dự, do nghe những điều Phật dạy.”
Thiên Vương Thích sau khi nghe những điều Phật nói, hoan hỷ phụng hành.
Thiên Vương Thích lại nói:
“Bạch Đại Tiên Nhân, con lâu nay bị gai nhọn nghi hoặc, ngày nay
được Thế Tôn nhổ ra. Vì sao? Vì Như Lai là Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác vậy.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Câu-dực, ngươi nhớ lại ngày xưa ngươi đã từng hỏi các Sa-môn, Phạm chí việc như thế chăng?”
Thiên Vương Thích đáp:
“Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhân tự biết cho. Bạch Đại Tiên
Nhân, chư Thiên Tam thập tam tập họp tại Pháp đường, đều ôm lòng sầu
não, thường than thở rằng ‘Chúng ta nếu gặp được Đức Như Lai, Bậc Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác, quyết sẽ đến yết kiến’. Bạch Đại Tiên Nhân,
nhưng chúng con không gặp được Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác, bèn thụ hưởng đầy đủ công đức của ngũ dục[59].
“Bạch Đại Tiên Nhân, chúng con phóng dật. Sau khi sống phóng dật,
vị thiên tử có đại oai đức, ngay nơi chỗ cực diệu mà mạng chung. Bạch
Đại Tiên Nhân, khi con thấy vị thiên tử đại oai đức ngay nơi chỗ cực
diệu mà mạng chung bèn chán nản hết sức, lông tóc đều dựng ngược ‘Mong
ta không ở nơi này mà mạng chung nhanh chóng’.
“Bạch Đại Tiên Nhân, con do sự chán này, sự ưu não này, nên thấy
Sa-môn, Phạm chí nào sống nơi rừng vắng, trong rừng sâu, dưới gốc cây,
thích ở trên sườn núi cao, vắng bặt không có tiếng động, xa lánh, không
có sự dữ, không có bóng người, tùy thuận tĩnh tọa; sau khi thấy vị ấy ưa
thích nơi xa vắng, tĩnh tọa, sống an ổn khoái lạc, con cho rằng đây là
Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, liền đến yết kiến.
“Vị ấy không biết con, nên hỏi rằng: ‘Ông là ai?’
“Lúc đó con đáp rằng ‘Bạch Đại Tiên Nhân, con là Thiên Vương Thích. Bạch Đại Tiên Nhân, con là Thiên Vương Thích’.
“Vị ấy lại hỏi ‘Ta từng thấy Thích và cũng thấy chủng tánh Thích.
Vì lý do gì gọi là Thích? Vì lý do gì gọi là chủng tánh Thích?’
“Con liền đáp rằng ‘Bạch Đại Tiên Nhân, nếu có ai đến hỏi con việc như vậy, con liền tùy khả năng, tùy sức[60] mà trả lời, cho nên được gọi là Thích’.
“Vị ấy lại hỏi ‘Chúng ta nếu tùy theo việc mà hỏi Thích, Thích cũng tùy việc mà đáp lại ta’.
“Vị ấy hỏi việc con, nhưng con không hỏi việc vị ấy. Vị ấy quy mạng con, nhưng con không quy mạng vị ấy.
“Bạch Đại Tiên Nhân, từ nơi Sa-môn Phạm chí kia, hoàn toàn không được oai nghi giáo pháp, huống nữa lại được hỏi như vậy sao?”
Lúc ấy, Thiên Vương Thích nói bài tụng:
- Thích[61] đi qua, đi qua;
- Thích hay nói như thế.
- Ý tưởng niệm lìa xa;
- Trừ nghi, các do dự;
- Từ lâu đi trong đời,
- Tìm cầu Đức Như Lai.
- Thấy Sa-môn, Phạm chí
- Tĩnh tọa nơi xa xôi
- Cho là Chánh Đẳng Giác;
- Đến phụng cúng, lạy thờ:
- ‘Làm sao được thăng tấn’.
- Như vậy con hỏi Ngài
- Đã hỏi, không được đáp,
- Thánh đạo và đạo tích.
- Thế Tôn nay vì con,
- Nếu ý có sở nghi,
- Sở niệm và sở tư,
- Và sở hành của ý;
- Biết tâm ẩn và hiện,
- Thánh Nhãn nói cho hay.
- Tôn Phật là Đạo Sư,
- Tôn Vô trước Mâu-ni,
- Tôn Bậc Đoạn kết sử,
- Độ mình và độ người.
- Đệ nhất trong hàng giác ngộ;
- Tối thượng ngự trong hàng Điều ngự;
- Tối diệu tịch trong hàng Tịch tĩnh;
- Đấng Đại Tiên, độ mình, độ người.
- Nên con lễ Đại Hùng;
- Cúi lạy Tối Thượng Nhân;
- Đoạn tuyệt gai ái dục;
- Kính lạy Đấng Nhật Thân.
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại hỏi rằng:
“Này Câu-dực, ông có nhớ ngày xưa, được xả ly như vậy, được hoan hỷ[62] như vậy, nghĩa là do nơi Ta mà đạy được pháp hỷ chăng?”Thiên Vương Thích thưa:
“Bạch Thế Tôn, mong Đại Tiên Nhân tự biết cho.
“Bạch Đại Tiên Nhân, một thời xưa, chư Thiên và A-tu-la chiến đấu
với nhau. Bạch Đại Tiên Nhân, khi chư Thiên và A-tu-la chiến đấu với
nhau, con nghĩ rằng ‘Mong chư Thiên thắng, phá vỡ A-tu-la. Thực phẩm của
chư Thiên và thực phẩm của A-tu-la hãy để tất cả cho Tam thập tam thiên
thọ thực’.
“Bạch Đại Tiên Nhân, khi chư Thiên đánh nhau với A-tu-la, chư
Thiên đắc thắng, phá vỡ chúng A-tu-la. Thực phẩm của chư Thiên và thực
phẩm của A-tu-la, tất cả đều được chư Thiên Tam thập tam thọ thực.
“Bạch Đại Tiên Nhân, bây giờ có ly, có hỷ, nhưng xen lẫn dao gậy,
kết oán, đấu tranh, thù nghịch, không được thần thông, không được giác
đạo, không được Niết-bàn.
“Bạch Đại Tiên Nhân, ngày nay được ly, được hỷ, không xen lẫn dao
gậy, kết oán, đấu tranh, thù nghịch, được thần thông, được giác đạo và
được Niết-bàn.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Câu-dực, do đâu ngươi được ly được hỷ? Do nơi Ta mà được pháp hỷ chăng?
“Thiên Vương Thích đáp rằng:
“Bạch Đại Tiên Nhân, con nghĩ rằng ‘Ta mạng chung ở đây, sanh nơi
nhân gian. Ở đó nếu có dòng họ rất giàu sang, tiền của vô số, sản
nghiệp, súc mục không thể tính được. Phong hô thực ấp các thứ đầy đủ,
hoặc là chủng tộc Sát-lợi trưởng giả, chủng tộc Phạm chí trưởng giả và
các chủng tộc khác, rất là giàu sang, của cải vô số, sản nghiệp, súc mục
không thể tính được. Phong hô thực ấp các thứ đầy đủ. Sau khi sanh vào
chủng tộc như thế, thành tựu các căn, có tín tâm đối với pháp luật mà
Đức Như Lai giảng thuyết. Sau khi có tín tâm, liền cạo bỏ râu tóc, mặc
áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình mà học đạo và học
trí. Sau khi học trí, nếu thành đạt trí, liền chứng đắc cứu cánh trí,
đạt đến biên tế cứu cánh. Nếu sau khi học trí mà không được cứu cánh học
trí và sau khi học trí thì có chư Thiên nào đó có đại phước hựu, có
sắc tượng uy nguy, chói sáng rực rỡ, rất có oai lực, an ổn khoái lạc,
sống mãi trong cung, sanh nơi tối thượng. Ta sanh trong đó”.
Bấy giờ Thiên Vương Thích nói bài tụng:
- Xả ly thân Thiên thần,
- Sanh xuống nơi nhân gian;
- Thác thai không ngu muội,
- Tùy sở thích hân hoan.
- Thành thân đã hoàn mãn,
- Chất trực, tu Thánh đạo,
- Hành phạm hạnh trọn đủ
- Sống vui đời xin ăn.
“Và sau khi học trí, nếu được trí, liền chứng đắc cứu cánh trí,
đạt đến biên tế cứu cánh. Nếu học trí và sau khi học trí rồi mà được trí
nhưng không chứng đắc cứu cánh trí, đã thành vị trời tối thượng diệu,
chư Thiên đều nghe danh, đó là Sắc cứu cánh thiên, sẽ sanh vào đó. Bạch
Đại Tiên Nhân, con mong sẽ chứng đắc A-na-hàm. Bạch Đại Tiên Nhân, con
nay đã chứng đắc Tu-đà-hoàn.”
Đức Thế Tôn hỏi:
“Này Câu-dực, ngươi do đâu mà được sai giáng[63] rất tốt đẹp, cực cao, cực rộng này, để có thể tự nói là đã chứng đắc Tu-đà-hoàn?”
Bấy giờ Thiên Vương Thích dùng bài kệ đáp:
- Không còn tôn ai khác
- Ngoài cảnh giới Thế Tôn.
- Chứng Vô thượng sai giáng,
- Cõi này thật chưa từng.
- Đại Tiên, con ngồi đây,
- Ngay với thân trời này
- Con liền được tăng thọ
- Chính mắt thấy như vầy.
Khi nói pháp này, Thiên Vương Thích xa lìa trần cấu, pháp nhãn
của các pháp phát sanh. Tám vạn chư Thiên cũng được xa lìa trần cấu,
pháp nhãn của các pháp phát sanh. Khi ấy Thiên Vương Thích thấy pháp,
đắc pháp, giác ngộ pháp bạch tịnh, đoạn trừ nghi hoặc, không còn tôn ai
khác, không còn do ai khác, không còn do dự, đã an trụ trên quả chứng,
đối với giáo pháp của Phật mà chứng đắc vô sở úy, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ chân Phật, thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, con nay xin tự quy Phật, Pháp và Chúng Tỳ-kheo.
Ngưỡng mong Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc. Kể từ hôm nay cho đến trọn
đời, con tự quy y cho đến khi mạng chung.”
Bấy giờ Thiên Vương Thích ngợi khen Ngũ kết nhạc tử rằng:
“Lành thay! Lành thay! Ngũ Kết, ngươi đã giúp ích cho ta rất
nhiều. Lý do vì sao? Do ngươi mà Phật xuất định, bởi ngươi trước hết
khiến Thế Tôn từ định ra, khiến ta sau đó mới yết kiến được Thế Tôn. Này
Ngũ Kết! Sau khi từ đây trở về, ta đem Hiền Nguyệt Sắc, con gái của
Nhạc vương Đam-phù-lâu gã cho ngươi và đem bổn quốc của Nhạc vương ấy
trao cho ngươi, phong tặng ngươi làm vua kỹ nhạc[64].”
Bấy giờ Thiên Vương Thích bảo chư Thiên Tam thập tam rằng:
“Các ngươi hãy lại đây! Nếu trước kia chúng ta vốn là Phạm thiên,
sống trên cõi Phạm thiên, thường ba lần cung kính, lễ sự Phạm thiên
vương thì các vị ấy nay tất cả đều cung kính lễ sự Thế Tôn. Lý do vì
sao? Vì Thế Tôn là Phạm thiên, là vị Phạm thiên sẽ tạo hóa những bậc tối
tôn, những chúng sanh đã sanh, những chúng sanh đã có và sẽ có, những
gì Phạm thiên biết, Ngài đều biết hết, những gì Phạm thiên có thể thấy,
Ngài đều thấy hết.”
Rồi Thiên Vương Thích, chư Thiên cõi Tam thập tam, Ngũ Kết nhạc
tử, nếu trước kia từng là Phạm thiên, sống trên cõi Phạm thiên, ba lần
cung kính, lễ sự Pham thiên, thì nay họ thảy đều hướng sự cung kính, lễ
sự ấy đến Đức Thế Tôn, cúi đầu trước Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác.
Bấy giờ, Thiên Vương Thích, chư Thiên Tam Tập Tam và Ngũ Kết nhạc
tử lại lần nữa cung kính lễ sự Thế Tôn, cúi đầu lễ sát chân Phật, nhiễu
quanh ba vòng rồi bỗng nhiên biến mất khỏi chỗ đó, không thấy nữa.
Bấy giờ Phạm thiên với sắc tượng nguy nguy, sáng chói rực rỡ, vào
lúc trời gần sáng, đi đến chỗ Phật, cúi đầu sát chân Phật, rồi đứng
sang một bên, dùng kệ bạch Thế Tôn:
- Do gây nhiều thiện ích
- Do lợi nghĩa, là “trời”.
- Hiền giả ở Ma-kiệt,
- Bà-sa-bà hỏi han.
“Khi Đại Tiên Nhân nói pháp này, Thiên Vương Thích xa lìa trần
cấu, pháp nhãn về các pháp khác phát sanh và tám vạn chư Thiên cũng xa
lìa trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh.”
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Phạm thiên rằng:
“Quả như vậy! Quả như vậy! Đúng như Phạm thiên đã nói:
- Do gây nhiều thiện ích
- Do lợi nghĩa, là “trời”.
- Hiền giả ở Ma-kiệt,
- Bà-sa-bà hỏi han.
“Này Phạm thiên, khi Ta nói pháp, Thiên Vương Thích xa lìa trần
cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh và tám vạn chư Thiên cũng xa lìa
trần cấu, pháp nhãn về các pháp phát sanh.”
Đức Phật thuyết như vậy. Thiên Vương Thích, chư Thiên Tam thập
tam, Ngũ Kết nhạc tử và Đại phạm thiên, sau khi nghe Phật dạy xong, hoan
hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Bản
Hán, quyển. Tương đương Pāli D. 21 Sakkapañha-sutta. Hán, biệt dịch
No.1(14). Trường A-hàm kinh số 14 “Thích Đề-hoàn Nhân Vấn”; No.15 Phật
Thuyết Đế Thích Sở Vấn Kinh, Tống Pháp Hiền dịch; Tham chiếu No.203 Tạp
Bảo Tạng Kinh kinh số 73 “Đế Thích Vấn Sự Duyên Kinh”, Nguyên Ngụy,
Cát-ca-dạ & Đàm-vô-sấm dịch (Đại 4, tr. 476).
- [02] Ma-kiệt-đà
摩 竭 陀; Pāli: Magadha. Vương xá thành 王 舍 城; Pāli: Rājagaha. Nại lâm 奈
林; No.1(14) Am-bà, Pāli: Ambasasaiḍa. Nhân-đà-la thạch thất 因 陀 羅 石 室;
No.1(14) Nhân-đà-sa-la khốt (quật); Pāli: Indasāla-gūha. Bệ-đà-đề 鞞 陀
提; No.1(14) Ty-đà sơn; Pāli: Vediyaka.
- [03] Thiên Vương Thích 天 王 釋 hay Thiên Đế Thích 天 帝 釋; Pāli: Sakka devānam inda.
- [04] Ngũ
Kết nhạc tử 五 結 樂 子; cũng thường gọi là Ngũ Kế 五 髻 (năm chỏm); No.14
gọi là Chấp nhạc thần Ban-giá-dực. No.15: Ngũ Kết Càn-thát-bà vương tử.
Sở dĩ có tên như vậy vì khi thọ sanh nhân gian, lúc còn nhỏ, vị này thắt
năm cái búi tóc trên đầu. Pāli: Pañcasikha Gandhabbaputta, một vị
Càn-thát-bà (Gandhabba) xử dụng cây huyền cầm.
- [05] Lưu ly cầm 琉 璃 琴. Pāli: Beluvapaṇḍuvīṇā: một nhạc khí nguyên là của Māra.
- [06] Dục
tương ưng kệ, Long tương ưng kệ, Sa-môn tương ưng kệ, A-la-ha tương ưng
kệ 欲, 龍, 沙 門, 阿 羅 訶 相 應 偈. Pāli: buddhūpasaṃhitā dhammūpasaṃhitā
saṅghūpasaṃhitā arahantūpasaṃhitā kāmūpasaṃhitā, nói về Phật, về Pháp,
về Tăng, về A-la-hán, về dục.
- [07] Hán: Hiền 賢. No.1(14) Bạt-đà; Pāli: Bhaddā, con gái của Timbaru, Chấp nhạc Thiên vương.
- [08] Hán: nguyệt cập Đam-phù-lâu 月 及 耽 浮 樓.Pāli: (…) Timbaraṃ Suriyavaccase, (cha nàng) Timbara, (và nàng thì) rực rỡ như mặt trời.
- [09] Hán:
kim túc sa 金 粟 沙. Pāli: kiñjakkha, tơ sen hay nhụy sen.
- [10] Hán: long tượng 龍 象.
- [11] Pāli: amataṃ muni jigīsāno, (như) tu sĩ khát vọng sự bất tử (hay cam lộ).
- [12] Các từ Mâu-ni ở đây chỉ chung các ẩn sĩ, hay tu sĩ; không chỉ riêng Đức Thích-ca Mâu-ni. Xem thêm chú thích trên.
- [13] Trong nguyên bản: cúng dường chư Vô trước.
- [14]
Nhật chi thân 日 之 親. Pāli: Ādicca-bandhu, bà con của mặt trời, chỉ Đức
Thích Tôn; theo truyền thuyết, dòng họ Thích xuất thân từ Mặt trời.
- [15] Đại Tiên Nhân 大 仙 人. Pāli: Mahesi. Chỉ Phật.
- [16] Uất-bệ-la 鬱 鞞 羅. Pāli: Uruvela, tên thôn; phía Nam Bồ-đề đạo tràng.
- [17] Ni-liên-thiền hà 尼 連 禪 河. Pāli: Nerañjarā, chi lưu của sông Hằng, cách chỗ Phật thành đạo khoảng một dặm.
- [18] A-xà-hòa-la-ni-câu-loại 阿 闍 惒 羅 尼 拘 類. Pāli: Ajapāla-Nigrodha, tức cây bồ-đề.
- [19] Đam-phù-lâu Nhạc vương 耽 浮 樓 樂 王. Pāli: Timbaru-Gandhabba-rāja, Thần âm nhạc (vua Càn-thát-bà) tên là Timbaru.
- [20] Hiền Nguyệt Sắc 賢 月 色. Pāli: Bhaddā Suriya-vaccasā, nàng Bhaddā lộng lẫy như mật trời.
- [21]
Thiên danh Kết Ma-đâu-lệ ngự xa tử 天 名 結 摩 兜 麗 御 車 子. No.1(14):
Thi-hán-đà, Thiên đại tướng tử; Pāli: Sikkhaṇḍī nāma Mātalissa
saṭthāhakassa putto, Sikkhandi, vốn là con trai của thần đánh xe Mātali.
- [22] Câu-dực 拘 翼, cũng gọi la Kiêu-thi-ca. Pāli: Kosiya, biệt danh của Thiên Đế Thích.
- [23]
Thạch nham 石 巖. Pāli: Salaḷāgāra, ngôi nhà (agāra) có những cây salaḷa
(loại cây tỏa mùi thơm) ở trước cửa (bản hán đọc là Sela-lagāra?).
No.1(14): tại ngôi nhà của một người Bà-la-môn.
- [24] Thiên tượng xa 千 象 車. No.1(14): thiên bức hảo xa, cỗ xe báu có bánh xe nghìn căm.
- [25] Bệ-sa-môn 鞞 沙 門, hoặc Tì-sa-môn. Pāli: Vessavaṇa, Đa Văn Thiên vương, đứng đầu trong Tứ đại Thiên vương.
- [26]
Bàn-xà-na 槃 闍 那. Pāli: Bhuñjatī (Diệu Tý).
- [27] Cù-tỳ Thích nữ 瞿 毗 釋 女. Pāli: Gopikā nāma Sakya-dhitā.
- [28] Cù-bà thiên tử 瞿 婆 天 子. Pāli: Gopako devaputto.
- [29] Kỹ nhạc cung 伎 樂 宫. Pāli: Gandhabbakāya, đội viên đội âm nhạc của Thiên Đế Thích.
- [30]
Nguyên Hán: dữ nhãn Ưu-bà-di 與 眼 優 婆 夷. Pāli: upāsikā cakkhumato ahosi,
tôi vốn là Ưu-bà-di, vị nữ đệ tử của Bậc Hữu Nhãn, tức Đức Phật.
- [31]
Nguyên Hán: phản bối bất hướng pháp 反 背 不 向 法, Pháp quay vào nội tâm
chứ không hướng ra bên ngoài. Pāli: paccattaṃ veditabbo hi dhammo.
- [32]
Nguyên Hán: thị nhãn giác thiện thuyết 是 眼 覺 善 說. Pāli: sudesito
cakkhumatānubuddho, pháp ấy được khéo thuyết bởi Đấng Giác Ngộ có mắt.
- [33]
Pāli: te coditā Gotama-sāvakena saṃvegam āpāduṃ samecca Gopakaṃ, “họ bị
mắng vì là đệ tử của Gotama, cuối cùng, đồng ý với Gopaka (và nói như
sau)…”
- [34] Ta, lời của những Thiên tử bị Cù-bà mắng.
- [35] Pāli: Te disvā samvegam (...), (Đế Thích) sau khi thấy chư Thiên hiện diện ưu phiền (vì họ bị vượt qua ngay tại chỗ).
- [36] Thắng thiên 勝 天, chỉ cho Thiên Đế Thích. Pāli: Devabhibhū.
- [37]
Diệu tức ngôn 妙 息 言 (những lời trầm lắng). Pāli: vaco nisamma, suy nghĩ
sâu xa về những lời (khiển trách). Trong bản Hán, đọc là nisama (diệu
tức, hoàn toàn lắng xuống), thay vì nisamma (tư duy sâu xa).
- [38] Nguyên Hán: tri dục 知 欲. Pāli: kāmābhibhū, vị đã chiến thắng dục vọng.
- [39]
Thắng phục căn 勝 伏 根. Pāli: buddhaṃ namassāma jinaṃ janidṃ, “chúng con
lễ Phật, Đấng Chiến Thắng muôn loài”. Trong bản Hán, Janinda, Thiên đế
của sanh loại, được hiểu là: jana (sanh loại) = jita: bị chinh phục, và
inda (Thiên đế) = indriya: căn (quan năng hay giác quan).
- [40]
Hán: thử quỷ 此 鬼. Pāli: ayaṃ yakkho, con quỷ Dạ-xoa này. Yakkha
(Dạ-xoa), Thiên Đế Thích cũng thường được gọi như vậy. Yakkha đôi khi là
một mỹ từ cũng được dùng để tán Phật, như M.56 (tr.386) (....) buddhasa
(....) anupalittassa āhuneyya yakkhassa, Đức Phật (....) vị Yakkha vô
nhiễm, ứng cúng.
- [41]
Bà-sa-bà 婆 娑 婆. Pāli: Vāsava, một tên khác của Thiên Đế Thích. Xem cht. 21, kinh 131.
- [42] Chủng chủng thân 種 種 身. Pāli: Putthukāyā, phàm phu thân.
- [43] Kết 結. Pāli: saṃyojana, chỉ phiền não trói buộc.
- [44]
Xan và tật 慳 嫉. Pāli: issā-macchariya. Trong bản Pāli, Sakka hỏi do
kiết sử gì (kiṃ samyojanā) mà chúng sanh gây hận thù (savera). Phật trả
lời như vậy. Hai bản kia cũng tương tợ bản Pāli. Có lẽ bản Hán này dịch
sát, vì câu hỏi của Thiên Đế Thích phiếm định.
- [45] Hán: vô trượng 無 丈. Pāli: adaiḍā, không chiến tranh, gây hấn nhau.
- [46] Trong các bản kia, Thiên Đế Thích đã hỏi tương tợ như vậy.
- [47] Ái bất ái 愛 不 愛. Pāli: Piyāppiya, khả ái và không khả ái, yêu và ghét.
- [48] Pāli: chanda: ham muốn.
- [49]
Niệm 念, cũng thường nói là tầm 尋. Pāli: vitakka. No.1(14) Ái do tưởng
sanh; Pāli: chando (... ) vitakkanidāno , dục có nguyên nhân là tầm 尋,
tức tầm cầu hay suy nghĩ tìm tòi.
- [50] Tư 思. Bản Pāli: papañca-saññā-saṅkhā, hý luận vọng tưởng.
- [51]
Diệt hý đạo tích 滅 戲 道 跡. Pāli: papañca-saññā-saṅkhā-nirodha-gāmini-
patipadā, thực hành hay tu tập dẫn đến chỗ diệt trừ hý luận vọng tưởng.
- [52]
Niệm, ngôn, cầu 念 言 求; No.1(14): khẩu, tưởng, cầu 口 想 求. Pāli không đề
cập và thay bằng somanassa, domanassa, upekkha, hỷ, ưu và xả. Ba pháp
này trong bản Hán được trả lời cho câu hỏi khác ở sau. Xem cht.54 dưới.
- [53] Tức Biệt giải thoát (luật nghi), hay Ba-la-đề-mộc-xoa.
- [54] Pāli: somanassa, domanassa, upekkha, xem cht.52 trên.
- [55]
Đồng nhất thuyết, đồng nhất dục, đồng nhất ái, đồng nhất lạc, đồng nhất
ý 同 一 說, 同 一 欲, 同 一愛, 同 一 樂, 同 一 意. Pāli: ekantavādā ekantasīlā
ekantachandā ekanta-ajjhosānā ti? Đồng một chủ thuyết, đồng một giới
đúc, đồng một ước muốn, đồng một chí hướng.
- [56] Pāli: anekadhātu-nānādhātu, vô số giới loại sai biệt.
- [57]
Pāli: accantaniṭṭhā accantayogakkhemī accantabrahmacārī
accantapariyosānā ti? “Đồng một cứu cánh, đồng một an ổn, đồng một phạm
hạnh, đồng một mục đích”.
- [58] Pāli: taṇhāsaṃkhaya-vimutta, ái tận giải thoát, hay giải thoát do diệt tận khát ái.
- [59] Ngũ dục công đức. Pañca kāma-guṇā, năm phẩm chất, hay đặc tính, của dục.
- [60] Tùy sở năng, tùy kỳ lực. Định nghĩa từ sakka, mà nghĩa đen là “khả năng”.
- [61] Tức Thiên Đế Thích.
- [62] Hán: đắc ly đắc hỷ. Pāli: veda-paṭilābha, somanassa-paṭilābha, có được cảm giác phấn khích, hoan hỷ.
- [63]
Sai giáng 差 降, ở đây có lẽ chỉ sự lần lượt chuyển sanh.
- [64] Tức phong làm Càn-thát-bà vương.
-ooOoo-
135. KINH THIỆN SANH[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Nhiêu hà mô[02].
Bấy giờ, trong thành Vương xá có con của vị Cư sĩ tên là Thiện Sanh[03].
Khi người cha sắp lâm chung, nhân sáu phương mà trối trăn, khéo dạy khéo quở
rằng:
“Này Thiện Sanh! Sau khi cha mất, con phải chắp tay mà lạy sáu phương
rằng: ‘Ở phương Đông, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung
kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.
“Cũng như vậy, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, trên, dưới, nếu có
chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ
bái, thờ phụng lại tôi’.”
Thiện Sanh, con trai Cư sĩ, nghe cha dạy xong, thưa rằng:
“Con xin vâng theo lời cha dạy bảo.”
Sau khi cha mất, vào mỗi sáng sớm, Thiện Sanh tắm gội xong, mặc áo sô-ma
mới[04], tay cầm lá câu-xá[05]
còn tươi, đi đến bờ sông, chắp tay lạy sáu phương:
“Ở phương Đông, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung
kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.
“Cũng như vậy, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, trên, dưới, nếu có
chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ
bái, thờ phụng lại tôi.”
Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào buổi sáng sớm, Đức Thế Tôn mang y, cầm bát
vào thành Vương xá khất thực. Khi Đức Thế Tôn vào thành Vương xá khất thực,
từ xa trông thấy Thiện Sanh, con vị Cư sĩ, vào lúc sáng sớm, tắm gội, mặc áo
sô-ma mới, tay cầm lá câu-xá còn tươi, đi đến bờ sông, chắp tay lạy sáu
phương:
“Ở phương Đông, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung
kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.
“Cũng như vậy, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, trên, dưới, nếu có
chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ
bái, thờ phụng lại tôi.”
Đức Thế Tôn thấy thế, liền đi đến gần, hỏi Thiện Sanh, con trai Cư sĩ:
“Này con trai Cư sĩ, ông thọ nhận sự giáo hóa của Sa-môn, Phạm chí nào?
Ai dạy ông cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng sáu phương? Mà vào mỗi
buổi sáng tắm rửa, mặc áo sô-ma mới, tay cầm lá câu-xá còn tươi, đi đến bờ
sông, chắp tay lạy sáu phương:
“‘Ở phương Đông, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng
dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung
kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.
“‘Cũng như vậy, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, trên, dưới, nếu có
chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ
bái, thờ phụng lại tôi?’.”
Thiện Sanh, con trai Cư sĩ, thưa rằng:
“Bạch Thế Tôn, không có vị Sa-môn, Phạm chí nào dạy con cả. Bạch Thế Tôn,
cha con khi sắp lâm chung, nhân sáu phương mà trối lại con, khéo dạy, khéo
quở rằng: ‘Này Thiện Sanh! Sau khi cha mất, con phải chắp tay mà lạy sáu
phương rằng: ‘Ở phương Đông, nếu có chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung
kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung
kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng
hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng lại tôi.
“‘Cũng như vậy, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, trên, dưới, nếu có
chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ
bái, thờ phụng lại tôi.’
“Bạch Thế Tôn, con vâng lời trối của cha nên con cung kính, cúng dường,
lễ bái, thờ phụng. Mỗi sáng sớm tắm gội, mặc áo sô-ma mới, tay cầm lá câu-xá
còn tươi đi đến bờ sông, chắp tay lạy sáu phương rằng: ‘Phương Đông nếu có
chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ
bái, thờ phụng lại tôi.
“‘Cũng như vậy, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, trên, dưới, nếu có
chúng sanh nào thì tôi hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó. Khi tôi đã hết lòng cung kính, cúng dường, lễ bái, thờ phụng
chúng sanh đó rồi, chúng sanh đó cũng hết lòng cung kính, cúng dường, lễ
bái, thờ phụng lại tôi’.”
Đức Thế Tôn sau khi nghe như vậy, Ngài nói rằng:
“Này con trai Cư sĩ, Ta nói có sáu phương, chớ không nói là không có[06].
Này con trai Cư sĩ, nếu có người khéo phân biệt sáu phương, xa lìa những
nghiệp ác bất thiện ở bốn phương, người đó ngay trong đời này đáng được cung
kính, tôn trọng. Sau khi thân hoại mạng chung, chắc chắn sẽ sanh đến thiện
xứ, sanh vào cõi trời. Này con trai Cư sĩ, chúng sanh có bốn loại nghiệp,
bốn loại ô uế[07]. Những gì là
bốn? Này con trai Cư sĩ, sát sanh là một loại nghiệp, một loại ô uế của
chúng sanh; lấy vật không được cho, tà dâm, vọng ngôn, là một loại nghiệp,
một loại ô uế của chúng sanh.”
Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ này:
- Sát sanh cùng trộm cắp,
- Tà dâm lấy vợ người,
- Lời nói không chân thật,
- Bậc trí không ngợi khen.
“Này con trai Cư sĩ, con người do bốn việc mà bị nhiều tội lỗi. Bốn việc
đó là gì? Đó là đi theo dục, đi theo sân hận, đi theo sợ hãi và đi theo ngu
si[08].”
Rồi Đức Phật dạy tiếp bài kệ:
- Dục, nhuế, bố và si;
- Làm hạnh ác, phi pháp,
- Thanh danh tất bị diệt,
- Như mặt trăng sắp tàn.
“Này con trai Cư sĩ, con người do bốn việc mà được nhiều phước. Bốn việc
đó là gì? Đó là không đi theo dục, không đi theo sân hận, không đi theo sợ
hãi và không đi theo ngu si.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy bài kệ:
- Đoạn dục, không nhuế, bố,
- Không si, hành pháp hạnh;
- Thanh danh được tròn đủ,
- Như mặt trăng dần đầy.
“Này con trai Cư sĩ, kẻ mong cầu của cải nên biết sáu điều phi đạo[09].
Sáu điều đó là gì? Một là với mọi chơi bời[10]
mà mong cầu tài vật là phi pháp. Hai là rong chơi không phải lúc[11]
mà mong cầu tài vật là phi pháp. Ba là đam mê rượu chè mà mong cầu tài vật
là phi pháp. Bốn là gần gũi ác tri thức mà mong cầu tài vật là phi pháp. Năm
là đam mê kỹ nhạc mà mong cầu tài vật là phi pháp. Sáu là quen lười biếng mà
mong cầu tài vật là phi pháp.
“Này con của vị Cư sĩ, với kẻ chơi bời bài bạc, nên biết có sáu tai họa.
Sáu tai họa đó là gì? Một là, thắng[12]
thì sanh oán thù. Hai là, thua thì sanh xấu hổ. Ba là, mắc nợ[13]
thì ngủ không yên. Bốn là, khiến kẻ thù vui mừng. Năm là, khiến thân thuộc
lo âu. Sáu là, nói giữa đám đông không ai tin dùng. Này con trai Cư sĩ,
người chơi bài bạc thì làm việc không kinh doanh. Làm việc không kinh doanh
thì công nghiệp không thành. Tài vật chưa có được thì không thể có được. Tài
vật đã có sẵn thì càng lúc càng tiêu hao.
“Này con trai Cư sĩ, với người rong chơi không phải lúc, nên biết có sáu
món tai họa. Sáu món đó là gì? Một là không tự giữ mình. Hai là không giữ
gìn tài vật. Ba là không giữ gìn vợ con. Bốn là bị người nghi ngờ[14].
Năm là sanh nhiều khổ hoạn[15].
Sáu là bị người hủy báng[16].
Này con trai Cư sĩ, người rong chơi không phải lúc thì việc làm không kinh
doanh. Việc làm không kinh doanh thì công nghiệp không thành. Tài vật chưa
có được thì không thể có. Tài vật đã có sẵn thì càng lúc càng tiêu hao.
“Này con của vị Cư sĩ, với người đam mê rượu chè, nên biết có sáu món tai
họa. Sáu món đó là gì? Một là tài sản hiện tại bị tổn thất. Hai là thân bị
nhiều bệnh hoạn. Ba là đấu tranh càng tăng trưởng. Bốn là để lộ chỗ kín. Năm
là tổn thất danh tiếng. Sáu là mất trí, thành ngu. Này con của vị Cư sĩ,
người đam mê rượu thì việc làm không kinh doanh được. Việc làm không kinh
doanh thì công nghiệp không thành. Tài vật chưa có được thì không thể có.
Tài vật đã có sẵn thì càng lúc càng bị tiêu hao.
“Này con nhà Cư sĩ, người gần gũi tri thức ác, nên biết có sáu món tai
họa. Sáu món đó là gì? Một là thân cận giặc cướp. Hai là thân cận kẻ lừa
gạt. Ba là thân cận kẻ say sưa. Bốn là thân cận kẻ buông lung. Năm là tụ hội
chơi bời. Sáu là lấy đó làm thân hữu, lấy đó làm bạn đồng hành[17].
Này con nhà Cư sĩ, người gần gũi ác tri thức thì việc làm không kinh doanh.
Việc làm không kinh doanh thì công nghiệp không thành. Tài vật chưa có được
thì không thể có. Tài vật đã có sẵn thì càng lúc càng bị tiêu hao.
Này con trai Cư sĩ, với người đam mê kỹ nhạc, nên biết có sáu món tai
họa. Sáu món đó là gì? Một là mê nghe ca. Hai là mê xem vũ. Ba là mê đánh
nhạc. Bốn là mê xem lắc chuông. Năm là thích vỗ tay. Sáu là thích tụ hội
đông người. Này con nhà Cư sĩ, người đam mê kỹ nhạc không phải lúc thì việc
làm không kinh doanh. Việc làm không kinh doanh thì công nghiệp không thành.
Tài vật chưa có được thì không thể có. Tài vật đã có sẵn thì càng lúc càng
bị tiêu hao.
Này con nhà Cư sĩ, với người lười biếng, nên biết có sáu tai họa. Sáu món
đó là gì? Một là quá sớm, không làm việc. Hai là quá trễ, không làm việc. Ba
là quá lạnh, không làm việc. Bốn là quá nóng, không làm việc. Năm là quá no,
không làm việc. Sáu là quá đói, không làm việc. Này con nhà Cư sĩ, người
lười biếng không phải lúc thì việc làm không kinh doanh được. Việc làm không
kinh doanh thì công nghiệp không thành. Tài vật chưa có được thì không thể
có. Tài vật đã có sẵn thì càng lúc càng bị tiêu hao.”
Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ này:
- Bài bạc, đuổi theo sắc,
- Nghiện rượu, thích đánh nhạc,
- Gần gũi ác tri thức,
- Lười biếng không làm việc,
- Buông lung không giữ mình;
- Những thứ ấy hại người.
- Tới lui không giữ gìn,
- Tà dâm, lấy vợ người,
- Trong tâm thường kết oán,
- Cầu nguyện không có lợi,
- Uống rượu, nhớ nữ sắc;
- Những thứ ấy hại người.
- Nặng nề các việc ác,
- Ngoan cố không nghe lời,
- Chửi Sa-môn, Phạm chí,
- Điên đảo có tà kiến,
- Hung bạo làm nghiệp đen,
- Những thứ ấy hại người.
- Thiếu thốn không của cải,
- Uống rượu, mất áo quần,
- Mang nợ, như chìm suối,
- Kẻ ấy phá họ hàng;
- Thường đi đến lò rượu,
- Gần gũi bằng hữu xấu,
- Muốn được của không được,
- Lấy bạn bè làm vui.
- Có nhiều bạn hữu ác,
- Thường theo bạn không lành,
- Đời nay và đời sau,
- Hai đời đều bại hoại.
- Người làm ác giảm lần;
- Làm lành lần hưng thạnh.
- Tập thù thắng càng tăng.
- Cho nên phải tập thắng;
- Tập thắng thì được thắng;
- Thường theo trí tuệ thắng.
- Càng được giới thanh tịnh,
- Càng an vui vi diệu.
- Ngày thì ưa ngủ nghỉ,
- Đêm lại thích rong chơi;
- Buông lung, thường uống rượu;
- Ở nhà không yên được.
- Quá lạnh và quá nóng,
- Đều lười biếng không làm;
- Rốt cuộc không sự nghiệp,
- Không kiếm ra tài vật.
- Hoặc lạnh và quá nóng,
- Bất kể, như ngọn cỏ.
- Siêng làm việc như vậy,
- Suốt đời đều an vui.
“Này con nhà Cư sĩ, có bốn hạng người không thân cận, tuồng như thân cận[18].
Bốn hạng người đó là gì? Một là biết việc[19],
thì chẳng phải thân cận in tuồng thân cận. Hai là trước mặt nói lời dịu ngọt[20],
thì chẳng phải thân cận in tuồng như thân cận. Ba là lời nói[21]
thì chẳng thân cận in tuồng như thân cận. Bốn là bạn đưa đến chỗ ác thì
chẳng thân cận in tuồng như thân cận.
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn trường hợp nên người biết việc dù chẳng phải
thân cận in tuồng như thân cận. Bốn trường hợp ấy là gì? Một là do biết việc
mà đoạt của. Hai là cho ít lấy nhiều. Ba là hoặc vì sợ mà làm. Bốn là hoặc
vì lợi mà hùa theo.”
Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ:
- Người lấy biết làm việc,
- Nói năng rất êm dịu,
- Sợ, vì lợi hùa theo,
- Biết chẳng thân, tuồng thân.
- Nên xa lìa kẻ ấy
- Như đường có hiểm họa.
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn trường hợp, trước mặt nói lời dịu ngọt, dù
chẳng thân cận in tuồng như thân cận. Bốn trường hợp đó là gì? Một là bày ra
những việc hay đẹp. Hai là xúi làm các việc ác. Ba là trước mặt ngợi khen.
Bốn là sau lưng nói việc xấu.”
Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ:
- Nếu đặt chuyện hay ho,
- Xúi làm ác bất thiện,
- Đối mặt thì ngợi khen,
- Sau lưng lại nói xấu;
- Nếu biết hay và ác,
- Và biết hai lối nói,
- Dù thân, không nên thân;
- Biết người ấy như vậy,
- Nên xa lìa kẻ ấy;
- Như đường có hiểm họa.
“Này con nhà Cư sĩ, có bốn trường hợp, ngôn ngữ dù chẳng phải thân cận in
tuồng như thân cận. Bốn trường hợp đó là gì? Một là chấp nhận việc đã qua.
Hai là bàn bạc việc ngày mai[22].
Ba là dối trá không nói thật. Bốn là việc hiện tại thì hỏng; nhận nói rằng
‘tôi sẽ làm’ nhưng không làm.”
Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ:
- Nhận việc qua, chưa đến;
- Bàn suông, việc nay hỏng;
- Nói làm, nhưng không làm;
- Biết chẳng thân như thân;
- Nên xa lìa kẻ ấy
- Như đường có hiểm họa.
“Này con nhà Cư sĩ, có bốn trường hợp bạn dẫn đến chỗ ác, dù chẳng phải
thân cận in tuồng như thân cận. Bốn trường hợp đó là gì? Một là xúi các việc
bài bạc. Hai là xúi đi rong chơi không phải thời. Ba là xúi uống rượu. Bốn
là xúi thân cận kẻ ác.”
Rồi thì Đức Thế Tôn nói bài kệ:
- Xúi đủ thứ bài bạc
- Uống rượu, lấy vợ người;
- Thói thấp, không vươn lên;
- Nó diệt như trăng tàn.
- Nên xa lìa kẻ ấy
- Như đường có hiểm họa.
“Này con nhà Cư sĩ, nên biết, có bốn hạng bạn lành[23].
Những gì là bốn? Một là cùng chịu khổ vui, nên biết đó là bạn lành. Hai là
thương tưởng, nên biết đó là bạn lành. Ba là khuyên điều lợi, nên biết đó là
bạn lành. Bốn là giúp đỡ, nên biết đó là bạn lành.
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn việc mà cùng khổ cùng vui. Bốn trường hợp đó
là gì? Một là quên mình, vì bạn. Hai là quên tài sản vì bạn. Ba là quên vợ
con vì bạn. Bốn là biết nghe lời.”
Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ:
- Xả dục, tài, vợ, con,
- Lời nói hay kham nhẫn;
- Biết thân cùng khổ vui,
- Kẻ trí nên làm thân.
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn việc mà thương tưởng, nên biết là bạn lành.
Những gì là bốn? Một là dạy cho diệu pháp[24].
Hai là ngăn cấm ác pháp. Ba là khen ngợi trước mặt. Bốn là khước từ oán gia[25].
Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ:
- Dạy lành, cản việc ác,
- Khen trước mặt, tránh thù;
- Biết bạn lành thương tưởng,
- Kẻ trí nên làm thân.
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn việc mà cầu lợi[26],
nên biết là bạn lành. Những gì là bốn? Một là bộc lộ việc kín ra. Hai là
không che giấu việc kín. Ba là được lợi nên vui mừng. Bốn là không được lợi,
không buồn.”
Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ:
- Việc mật, bày không giấu;
- Lợi vui; không, chẳng buồn.
- Biết bạn lành cầu lợi,
- Kẻ trí nên thường thân.
“Này con nhà Cư sĩ, do bốn việc mà giúp đỡ, nên biết bạn lành. Những gì
là bốn? Một là biết bạn hết của cải. Hai là biết của cải hết, liền cung cấp
vật. Ba là thấy buông lung nên khuyên ngăn. Bốn là thường thương tưởng.”
Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ:
- Biết của hết, cho thêm;
- Buông lung khuyên; thương tưởng.
- Biết bạn lành giúp đỡ,
- Kẻ trí nên làm quen.
“Này con nhà Cư sĩ, trong pháp luật của bậc Thánh, có sáu phương: Đông,
Nam, Tây, Bắc, Trên, Dưới.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như đối với phương Đông, con đối với cha mẹ cũng
vậy. Người con phải có năm điều thờ kính, phụng dưỡng cha mẹ. Năm điều đó là
gì? Một là tăng thêm của cải. Hai là cáng đáng mọi việc. Ba là dâng lên cha
mẹ những gì người muốn. Bốn là không tự tác, không trái ý. Năm là tất cả vật
riêng của mình đều dâng hết cha mẹ. Người con làm năm việc như trên để phụng
dưỡng, thờ kính cha mẹ.
“Cha mẹ cũng lấy năm việc để chăm sóc các con. Năm việc đó là gì? Một là
thương yêu con cái. Hai là cung cấp không thiếu. Ba là khiến con không mang
nợ. Bốn là gả cưới xứng đáng. Năm là cha mẹ có của cải vừa ý đều giao hết
cho con. Cha mẹ bằng năm điều ấy mà chăm sóc các con.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Đông có hai trường hợp phân biệt. Này
con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh, phương Đông là giữa con và cha
mẹ. Này con nhà Cư sĩ, nếu người từ hiếu với cha mẹ, chắc chắn có sự tăng
ích, chứ không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Đông, phương Nam có hai trường hợp
phân biệt.
“Học trò đối với thầy nên biết năm điều thờ kính, phụng dưỡng thầy. Năm
điều đó là gì? Một là khéo cung kính vâng lời. Hai là khéo giúp đỡ, hầu hạ.
Ba là hăng hái. Bốn là nghề nghiệp giỏi. Năm là hay thờ kính thầy. Đệ tử lấy
năm điều ấy cung kính, phụng dưỡng Sư trưởng.
“Sư trưởng cũng dùng năm việc săn sóc đệ tử. Năm việc đó là gì? Một là
dạy cho nên nghề. Hai là dạy dỗ nhanh chóng. Ba là dạy hết những điều mình
biết. Bốn là đặt để ở những chỗ lành. Năm là gửi gấm bậc thiện tri thức. Sư
trưởng lấy năm điều ấy mà săn sóc đệ tử.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Nam có hai trường hợp phân biệt. Này
con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh, phương Nam là giữa học trò và
thầy. Này con nhà Cư sĩ, nếu người từ thuận đối với Sư trưởng, chắc chắn có
sự tăng ích chứ không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Tây, người chồng đối với vợ cũng vậy.
Người chồng nên lấy năm việc mà yêu thương, cấp dưỡng vợ. Năm việc đó là gì?
Một là thương yêu vợ. Hai là không khinh rẻ. Ba là sắm các thứ chuỗi ngọc,
đồ trang điểm. Bốn là ở trong nhà để vợ được tự do. Năm là xem vợ như chính
mình. Người chồng lấy năm việc để thương yêu, cấp dưỡng vợ.
“Người vợ phải lấy mười ba điều[27]
khéo léo kính thuận chồng. Mười ba điều ấy là gì? Một là thương yêu kính
trọng chồng. Hai là cung phụng, kính trọng chồng. Ba là nhớ nghĩ đến chồng.
Bốn là trông nom các công việc. Năm là khéo tiếp đãi bà con. Sáu là trước
mặt đưa mắt hầu đợi. Bảy là sau lưng thì cử chỉ yêu thương. Tám là lời nói
thành thật. Chín là không khóa kín cửa phòng. Mười là thấy đến thì ca ngợi.
Mười một là trải sẵn giường mà đợi. Mười hai là bày dọn đồ ăn uống ngon
lành, sạch sẽ, dồi dào. Mười ba là cúng dường Sa-môn, Phạm chí. Người vợ lấy
mười ba việc ấy để khéo léo kính trọng chồng.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Tây có hai trường hợp phân biệt. Này
con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh, phương Tây là giữa vợ với
chồng. Này con nhà Cư sĩ, nếu người từ mẫn với vợ, chắc có sự tăng ích, chứ
không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Bắc, chủ nhà đối với tôi tớ cũng như
vậy[28]. Người chủ nhà nên lấy
năm điều thương mến chu cấp cho tôi tớ. Năm điều ấy là gì? Một là tùy sức mà
sai làm việc. Hai là tùy lúc mà cho ăn. Ba là tùy lúc cho uống. Bốn là hết
ngày thì cho nghỉ. Năm là bệnh hoạn cho thuốc thang. Chủ nhà lấy năm việc
trên mà thương xót cung cấp cho tôi tớ.
“Tôi tớ cũng nên lấy chín điều[29]
mà phụng sự chủ nhà. Chín điều ấy là gì? Một là tùy thời mà làm việc. Hai là
chuyên tâm vào công việc. Ba là làm tất cả việc. Bốn là trước mặt thì đưa
mắt hầu đợi. Năm là sau lưng thì thương kính mà làm. Sáu là nói lời thành
thật. Bảy là khi chủ hoạn nạn thì không bỏ đi. Tám là đi phương xa thì nên
khen ngợi chủ. Chín là khen chủ nhà là dễ dãi. Tôi tớ lấy chín điều ấy khéo
léo phụng sự chủ nhà.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Bắc có hai trường hợp phân biệt. Này
con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh, phương Bắc là giữa chủ nhà và
tôi tớ. Này con nhà Cư sĩ, nếu có người thương xót tôi tớ, chắn chắn có sự
tăng ích chứ không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Dưới, bằng hữu đối với bằng hữu[30]
cũng vậy. Thân hữu nên lấy năm việc để ái kính cung cấp thân hữu. năm việc
ấy là gì? Một là ái kính. Hai là không khinh mạn. Ba là không dối gạt. Bốn
là cho tặng đồ quý. Năm là tìm cách giúp đỡ. Thân hữu lấy năm việc trên để
ái kính, cung cấp thân hữu.
“Thân hữu này[31] cũng lấy
năm việc để nhớ nghĩ đến thân hữu. Năm việc đó là gì? Một là biết của cải
hết. Hai là khi biết của cải hết thì cung cấp của cải. Ba là thấy buông lung
thì khuyên răn. Bốn là thương nhớ. Năm là gặp hoạn nạn thì cho nương tựa.
Thân hữu lấy năm việc ấy để nhớ nghĩ đến thân hữu.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy, phương Dưới có hai trường hợp phân biệt. Này
con nhà Cư sĩ, trong pháp luật của bậc Thánh là thân hữu đối với thân hữu
vậy. Này con nhà Cư sĩ, nếu người thương xót thân hữu, chắc chắn có sự tăng
ích chứ không phải có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, cũng như phương Trên, thí chủ đối với Sa-môn, Phạm
chí cũng vậy. Thí chủ nên lấy năm điều để tôn kính, cúng dường Sa-môn, Phạm
chí. Năm điều đó là gì? Một là không đóng kín cửa. Hai là thấy đến thì tán
thán. Ba là trải giường mà đợi. Bốn là làm các món ăn uống ngon sạch, dồi
dào, mà cúng. Năm là đúng như pháp mà hộ trì. Người thí chủ lấy năm điều
trên cung kính cúng dường Sa-môn, Phạm chí.
“Sa-môn, Phạm chí cũng lấy năm việc để khéo nhớ nghĩ đến thí chủ. Năm
việc ấy là gì? Một là dạy cho có tín, hành tín và niệm tín. Hai là dạy các
giới cấm. Ba là dạy nghe rộng. Bốn là dạy bố thí. Năm là dạy cho có tuệ,
hành tuệ và lập tuệ. Sa-môn, Phạm chí lấy năm việc ấy để nhớ nghĩ đến thí
chủ.
“Này con nhà Cư sĩ, như vậy phương Trên có hai trường hợp phân biệt. Này
con nhà Cư sĩ, trong luật pháp của bậc Thánh, phương trên là giữa thí chủ và
Sa-môn, Phạm chí. Này con nhà Cư sĩ, nếu người nào tôn kính cúng dường
Sa-môn, Phạm chí thì chắc chắn có sự tăng ích chứ không có sự suy hao.
“Này con nhà Cư sĩ, có bốn nhiếp sự[32].
Bốn việc ấy là gì? Một là huệ thí. Hai là lời nói khả ái. Ba là làm lợi cho
người. Bốn là có lợi cùng chia[33].”
Rồi Đức Thế Tôn nói bài kệ:
- Huệ thí và ái ngôn,
- Thường vì người lợi hành,
- Với tất cả đồng sự,
- Khắp nơi đều vang danh.
- Sự này duy trì đời
- Cũng như người đánh xe.
- Nhiếp sự này vắng mặt,
- Mẹ không nhân bởi con
- Mà được kính phụng dưỡng.
- Con đối cha cũng vậy.
- Nếu có nhiếp sự này,
- Phước hựu thật to lớn;
- Chiếu soi như ánh nhật,
- Tiếng tốt truyền đi nhanh.
- Thông minh, không nói cộc
- Như vậy, làm nên danh
- Định vững, không cao ngạo;
- Tiếng loan truyền đi nhanh
- Thành tựu tín và giới[34],
- Như vậy làm nên danh.
- Hăng hái, không giải đãi;
- Thường cho người uống ăn;
- Dìu dắt vào nẻo chánh;
- Như vậy làm nên danh.
- Bạn bè cùng lân tuất,
- Ái lạc có giới hạn;
- Giữa người thân, nhiếp sự
- Thù diệu như sư tử.
- Học nghề, học buổi đầu,
- Kiếm lợi, kiếm sau đó.
- Sản nghiệp đã dựng thành,
- Phân chia làm bốn phần.
- Phần cung cấp ẩm thực;
- Phần điền giả nông canh;
- Phần kho tàng chất chứa,
- Phòng khi hữu sự cần;
- Gom nông tang, thương cổ,
- Thu xuất, lợi một phần.
- Thứ năm để cưới vợ;
- Thứ sáu làm nhà cửa.
- Tại gia sáu sự này,
- Hưng thịnh, sống khoái lạc.
- Tiền tài sẵn càng đầy,
- Như nước xuôi biển cả.
- Đời mưu sinh như vầy,
- Như ong hút nhụy hoa;
- Đời mưu sinh lâu dài,
- Sống an lạc hưởng thọ.
- Xuất tiền, không xuất xa;
- Không tản mác tung ra.
- Không thể đem tài vật
- Cho hung bạo, ngoan tà.
- Phương Đông là cha mẹ;
- Phương Nam là tôn sư;
- Phương Tây là thê tử;
- Phương Bắc là nô tỳ;
- Phương Dưới bằng và hữu;
- Phương Trên bậc tịnh tu;
- Nguyện lễ các phương ấy,
- Phước đời này đời sau.
- Do lễ các phương ấy,
- Thí chủ sanh trời cao.
Phật thuyết như vậy. Thiện Sanh con trai Cư sĩ sau khi nghe Phật thuyết,
hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli D.31
Siṅgālovāda-suttanta. Hán, biệt dịch No.1(16) Trường A-hàm Kinh 16 “Thiện
Sinh”; No.16. Phật Thuyết Thi-ca-la-việt Lục Phương Lễ Bái Kinh, Hậu Hán,
An Thế Cao dịch; No.17 Phật Thuyết Thiện Sinh Tử Kinh, Tống, Chi Pháp Độ
dịch.
- [02] Nhiêu hà mô 饒 蝦 蟆, chỗ
nuôi ễnh ương (hay nuôi sóc?). No.1(16) nói: trên núi Kỳ-xà-quật tức Linh
thứu. Pāli nói: Veḷuvane Kalandaka-nivāpe, trong rừng Trúc, chỗ nuôi sóc.
- [03] No.1(16): trưởng giả
tử. Pāli: Gahapati-putto, con trai gia chủ.
- [04] Sô-ma y 芻 磨 衣 (Pāli:
khoma: áo len). No.1(16): toàn thân đều ướt. Pāli: alla-vattham
alla-kesam: áo và tóc đều ướt hết.
- [05] Câu-xá diệp 拘 舍 葉, có
lẽ Pāli gọi là kusa, một loại cỏ thơm (cỏ cát tường).
- [06] Tham chiếu No.1(16):
“có tên của sáu phương, nhưng trong pháp của Hiền Thánh không phải lạy như
vậy.” Tham chiếu Pāli: na (....) ariyassa vinaye evaṃ chaddisā
namassitabhā ti, “trong luật của bậc Thánh, không phải lạy sáu phương như
vậy”.
- [07] No.1(16): nghiệp kết.
Pāli: cattāro kamma-kilesā, bốn phiền não, hay bốn sự ô nhiễm, của nghiệp.
- [08] Hán: hành dục, hành
khuể (nhuế), hành bố, hành si 行 欲 行 欲 行 恚 行 怖 行 癡. Pāli:
chandāgatiṃ dosāgatiṃ bhayāgatiṃ mohāgatiṃ.
- [09] Lục phi đạo 六 非 道.
Pāli: cha bhogānaṃ apāya-mukhāni, sáu nguyên nhân cho sự hao tài.
- [10] Hán: chủng chủng hý
種 種 戲; Pāli: jūta-ppamāda-ṭṭhānuyogo, đam mê cờ bạc.
- [11] Hán: phi thời hành
非 時 行. Pāli: vikāla-visikhā-cariyānuyogo, du hành đường phố phi thời.
- [12] Trong bản Hán: phụ
負 “thua”. Theo ngữ cảnh, phải hiểu “thắng”.
- [13] Trong bản Hán: phụ
負, ở đây nên hiểu là “mắc nợ”.
- [14] Pāli: saṃkiyo hoti
pāpakesu ṭhānesu, bị tình nghi các trường hợp phạm tội.
- [15] Nghĩa là, chuốc vào
thân những chuyện rắc rối.
- [16] Pāli: nạn nhân của
tin đồn thất thiệt.
- [17] Dịch sát: dĩ thử vi
thân hữu dĩ thử vi bạn lữ 以 此 為 親 友 以 此 為 伴 侶; tối nghĩa. Pāli: ye
sāhasikā tyāssa mittā honti, te sahāyā, “những kẻ thô bạo, thật vậy, là
những người bạn, những người đồng hành của nó”. Bản Hán hiểu sāhasika (thô
bạo) cùng gốc với sahāya (bằng hữu).
- [18] Pāli: amittā
mitta-ptṭirūpakā, không phải bạn mà có vẻ bạn.
- [19] Hán: tri sự 知
事. No.1(16) úy phục. Pāli: aññadatthu-haro, hạng người vật gì cũng lấy.
Hình như, trong bản Hán, aññad (khác) được hiểu là aññā(d) (biết); atthu,
động từ khả năng cách: mong nó là; được hiểu là attha: sự việc.
- [20] Pāli:
anuppiya-bhāṇī, nói ngọt, tức nịnh hót.
- [21] Hán: ngôn ngữ
言 語, không rõ ý. Pāli: vacī-paramo, nói giỏi.
- [22] Một và hai,
No.1(14): việc trước dối trá; việc sau dối trá. Pāli: atītena
paṭisamtharati anāgatena paṭisamtharati, hoan nghinh bằng việc quá khứ…
bằng việc vị lai.
- [23] Hán: thiện thân
善 親. Pāli: mittā suhadā, bạn tâm giao.
- [24] Tức pháp thiện.
- [25] Ba và bốn, bản Pāli:
khuyên người nói tốt bạn; ngăn người nói xấu bạn.
- [26] Tức mong điều lợi
cho bạn. Pāli: atthakkhayī.
- [27] No.1(16) và Pāli,
chỉ có năm.
- [28] Pāli: quan hệ bằng
hữu ở phương Bắc, quan hệ chủ tớ ở phương dưới.
- [29] No.1(16) có năm.
- [30] Nguyên Hán: thân hữu
quán thân hữu thần 親 友 觀 親 友 臣. Ý muốn phân biệt người bạn này đối
với người bạn kia, rồi người kia đối lại. Pāli nói rõ hơn: một thiện nam
tử đối với bạn hữu, kula-puttena (....) mittāmaccā (....) và ngược lại.
Hán: thân hữu thần, Pāli: mittāmacca, trong đó, amacca có nghĩa bằng hữu,
cũng có nghĩa người phụ tá hay thần thuộc (mahāmacca: quan đại thần).
- [31] Thân hữu thần: xem
chú thích trên.
- [32] Nhiếp sự 攝 事,
tức bốn nhiếp pháp.
- [33] Huệ thí, ái ngữ,
hành lợi, đẳng lợi. Thuật ngữ thông dụng của các kinh Đại thừa: bố thí, ái
ngữ, lợi hành, đồng sự.
- [34] Thi lại 尸 賴,
phiên âm, Pāli: sīla.
-ooOoo-
136. KINH THƯƠNG NHÂN CẦU TÀI[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo[02]:
“Thuở xưa, tại châu Diêm-phù, có một số đông thương nhân cùng
nhau tụ tập tại nhà khách buôn. Họ suy nghĩ như vầy: “Chúng ta hãy dong
một chiếc thuyền đi biển[03] mà vào biển lớn, tìm kiếm tài bảo mang về cung cấp những chi dụng trong gia đình.”
Họ lại suy nghĩ rằng: “Này các bạn, việc đi biển không thể biết
trước là an ổn hay không an ổn. Vậy mỗi người trong chúng ta nên chuẩn
bị đầy đủ các dụng cụ làm phao nổi trên biển, tức là gồm túi bằng da dê
đen[04], trái bầu lớn và mững bè.”
Sau đó mỗi người trong bọn họ đều chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ làm
phao nổi trên biển, gồm túi bằng da dê đen, trái bầu lớn và mững bè rồi
đi vào biển cả.
“Khi họ đi vào biển cả, vua cá là Ma-kiệt[05]
phá vỡ chiếc thuyền ấy. Các thương nhân này mỗi người đều tự nương vào
các dụng cụ làm phao nổi như túi bằng da dê đen, trái bầu lớn hay mững
bè, rồi trôi đi về các phía.
“Lúc bấy giờ, từ phía Đông cửa biển ngọn gió lớn trỗi dậy, thổi
các thương nhân tấp vào bờ biển Tây. Nơi ấy, họ gặp một bọn con gái rất
mỹ lệ, đoan chánh, trang sức thân thể bằng tất cả các loại trang sức.
Bọn con gái ấy thấy rồi, bèn nói:
“Xin kính chào các bạn! Xin đón mừng các bạn. Nơi đây là chỗ rất
diệu hảo, cực kỳ khoái lạc. Nào là vườn tược, ao tắm, những chỗ ngồi và
nằm, nào là rừng cây, hoa cỏ um tùm và lại có nhiều tiền tài, vàng, bạc,
thủy tinh, lưu ly, ma ni, chơn châu, bích ngọc, bạch kha, xa cừ, san
hô, hổ phách, mã não, đồi mồi, xích thạch, toàn châu; tất cả đều dành
cho các bạn. Hãy cùng chúng tôi vui chơi hoan lạc. Mong các thương nhân
châu Diêm-phù không đi về phương Nam, dù trong chiêm bao.
“Bọn thương nhân ấy đều cùng với những người đàn bà này vui chơi
hoan lạc. Rồi bọn thương nhân ấy vì cùng với những người đàn bà này hiệp
hội mà sanh ra con trai hoặc con gái.
“Về sau, châu Diêm-phù có một thương nhân có trí tuệ, sống cô độc
tại một nơi thanh vắng mà nghĩ rằng: ‘Vì lý do gì bọn đàn bà này ngăn
cản chúng ta không cho đi về phương Nam? Chúng ta nên canh chừng người
đàn bà sống chung; khi biết nó đã ngủ, ta lặng lẽ chỗi dậy, rồi lén đi
về phương Nam’.
“Thương nhân trí tuệ ở châu Diêm-phù ấy sau đó canh chừng người
đàn bà sống chung. Khi biết nó đã ngủ, bèn lặng lẽ chỗi dậy, rồi lén đi
về phương Nam. Thương nhân trí tuệ châu Diêm-phù ấy khi đi về phương
Nam, từ xa nghe có tiếng kêu réo vang dậy, tiếng nhiều người la khóc áo
não, hoặc kêu gọi cha mẹ, hoặc réo vợ réo con và nhớ thương bạn bè thân
thích, rằng ‘Châu Diêm-phù tốt đẹp, an ổn khoái lạc, không còn thấy
nữa’. Thương nhân này rất sợ hãi, lông tóc dựng ngược, nghĩ rằng: ‘Mong
cho loài người và loài phi nhân không quấy rầy ta’.
“Rồi một thương nhân trí tuệ châu Diêm-phù tự kềm chế sự sợ hãi,
tiếp tục đi lần về phương Nam. Một thương nhân trí tuệ châu Diêm-phù kia
khi đi lần về phương Nam bỗng thấy có một tòa đại thiết thành. Sau khi
thấy bèn tìm khắp nhưng không thấy cửa, cho đến một chỗ đủ để con mèo
chui ra cũng không. Thương nhân trí tuệ châu Diêm-phù ấy thấy phía Bắc
của thiết thành có một lùm cây to lớn sum suê bèn đi đến lùm cây đại thọ
ấy, chậm chạp leo lên cao. Leo lên rồi, hỏi đám đông:
“Này các bạn, các bạn vì cớ gì khóc la áo não, kêu cha gọi mẹ,
réo vợ réo con, nhớ thương bạn bè thân thích rằng châu Diêm-phù tốt đẹp,
an ổn khoái lạc không còn thấy nữa?
“Khi ấy đám đông đáp:
“Này bạn, chúng tôi là thương nhân ở châu Diêm-phù, đều cùng nhau
tụ tập tại nhà khách buôn rồi nghĩ rằng ‘Chúng ta hãy dong một chiếc
thuyền đi biển mà vào biển lớn tìm kiếm tài bảo mang về cung cấp những
chi dụng trong gia đình’. Này bạn, chúng tôi lại nghĩ rằng ‘Này các bạn,
việc đi biển không thể biết trước là an ổn hay không an ổn. Vậy mỗi
người trong chúng ta hãy nên chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ làm phao nổi
trên biển, tức là gồm túi bằng da dê đen, trái bầu lớn và mững bè’. Này
bạn, sau đó chúng tôi mỗi người đều chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ làm phao
nổi trên biển, gồm túi bằng da dê đen, trái bầu lớn và mững bè rồi đi
vào biển cả. Khi chúng tôi ở giữa biển, ngư vương Ma-kiệt phá vỡ chiếc
thuyền ấy. Này bạn, bọn thương nhân chúng tôi mỗi người tự nương vào
các dụng cụ làm phao nổi như túi bằng da dê đen, trái bầu lớn hay
mững bè rồi trôi đi về các phía. Lúc bấy giờ, từ phía Đông bờ biển, ngọn
gió lớn trỗi dậy thổi bọn thương nhân chúng tôi tấp vào bờ bể phía Tây.
Nơi ấy gặp một bọn con gái rất mỹ lệ, đoan chánh, trang sức thân thể
bằng tất cả các loại trang sức. Bọn con gái ấy thấy rồi bèn nói rằng
‘Xin kính chào các bạn. Nơi đây là chỗ rất diệu hảo, cực kỳ khoái lạc;
nào là vườn tược, ao tắm, những chỗ ngồi, nằm, rừng cây, hoa cỏ um tùm
và lại có nhiều tiền tài, vàng bạc, thủy tinh, lưu ly, ma ni, chơn châu,
bích ngọc, bạch kha, xa cừ, san hô, hổ phách, mã não, đại mạo, xích
thạch, toàn châu; tất cả đều dành cho các bạn. Hãy cùng chúng tôi vui
chơi hoan lạc. Mong các thương nhân châu Diêm-phù không đi về phương
Nam,
dù trong chiêm bao’. Này bạn, chúng tôi cùng với những người vợ này
vui chơi hoan lạc. Chúng tôi nhân vì cùng với những người vợ này hiệp
hội mà sanh ra con trai hoặc con gái. Này bạn, những người đàn bà ấy nếu
không nghe châu Diêm-phù có bọn thương nhân khác ở giữa biển mà ngư
vương Ma-kiệt phá vỡ thuyền thì họ cùng chúng tôi tôi vui chơi hoan lạc.
Này bạn, những người đàn bà ấy nếu nghe châu Diêm-phù có bọn thương
nhân khác ở giữa biển mà ngư vương Ma-kiệt phá vỡ thuyền, liền ăn thịt
chúng tôi. Chúng tôi gặp phải sự bức bách. Nếu khi ăn thịt người mà còn
thừa tóc, lông, móng, răng thì bọn đàn bà ấy lấy ăn hết. Nếu khi ăn thịt
người, có máu huyết nhỏ xuống đất, bọn đàn bà ấy liền lấy móng tay đào
sâu xuống đất bốn tấc, lấy mà ăn. Này bạn, nên biết, chúng tôi là
những thương nhân ở châu Diêm-phù, trước kia có năm trăm người,
trong số đó bị ăn thịt hết hai trăm năm mươi người, còn lại hai trăm năm
mươi người, nay đều ở trong thiết thành lớn này. Này bạn, bạn chớ có
tin lời của bọn đàn bà ấy. Chúng không phải thật là người, chính là quỷ
La-sát vậy’.
“Bấy giờ thương nhân trí tuệ châu Diêm-phù từ trên cây đại thọ
thong thả leo xuống, trở ra đường cũ trở về chỗ sống chung với người đàn
bà kia. Khi biết người đàn bà ấy còn ngủ say, ngay trong đêm đó, thương
nhân trí tuệ châu Diêm-phù tức tốc trở lại chỗ ở của các thương nhân
châu Diêm-phù, nói rằng:
“Các người hãy đến đây. Chúng ta hãy đến một nơi vắng vẻ, mỗi
người đi một mình, chớ đem con cái theo. Hãy cùng nhau đến chỗ kín đáo,
vì có điều cần bàn luận.
“Bọn thương nhân châu Diêm-phù cùng đi đến một nơi vắng vẻ, mỗi
người đi một mình, không đem theo con cái. Khi ấy, thương nhân trí tuệ
châu Diêm-phù nói:
“Các bạn thương nhân, khi tôi sống cô độc tại một nơi thanh vắng
mà nghĩ rằng: ‘Vì lý do gì bọn đàn bà này ngăn cản chúng ta không cho đi
về phương Nam? Chúng ta nên canh chừng người đàn bà sống chung; khi
biết nó đã ngủ, ta lặng lẽ chỗi dậy, rồi lén đi về phương Nam’.
“‘Rồi thì, tôi sau đó canh chừng người đàn bà sống chung. Khi
biết nó đã ngủ, bèn lặng lẽ chỗi dậy, rồi lén đi về phương Nam. Tôi khi
đi về phương Nam, từ xa nghe có tiếng kêu réo vang dậy, tiếng nhiều
người la khóc áo não, hoặc kêu gọi cha mẹ, hoặc réo vợ réo con và nhớ
thương bạn bè thân thích, rằng ‘Châu Diêm-phù tốt đẹp, an ổn khoái lạc,
không còn thấy nữa’. Tôi nghe thế rất sợ hãi, lông tóc dựng ngược, nghĩ
rằng: ‘Mong cho loài người và loài phi nhân không quấy rầy ta’.
“‘Rồi tôi tự kềm chế sự sợ hãi, tiếp tục đi lần về phương Nam.
Tôi khi đi lần về phương Nam bỗng thấy có một tòa đại thiết thành. Sau
khi thấy bèn tìm khắp nhưng không thấy cửa, cho đến một chỗ đủ để con
mèo chui ra cũng không. Tôi thấy phía Bắc của thiết thành có một lùm cây
to lớn sum suê bèn đi đến lùm cây đại thọ ấy, chậm chạp leo lên cao.
Leo lên rồi, hỏi đám đông rằng:
“–Này các bạn, các bạn vì cớ gì khóc la áo não, kêu cha gọi mẹ,
réo vợ réo con, nhớ thương bạn bè thân thích rằng châu Diêm-phù tốt đẹp,
an ổn khoái lạc không còn thấy nữa?’
“‘Khi ấy đám đông đáp rằng ‘Này bạn, chúng tôi là thương nhân ở
châu Diêm-phù, đều cùng nhau tụ tập tại nhà khách buôn rồi nghĩ rằng
‘Chúng ta hãy dong một chiếc thuyền đi biển mà vào biển lớn tìm kiếm tài
bảo mang về cung cấp những chi dụng trong gia đình’. Này bạn, chúng tôi
lại nghĩ rằng ‘Này các bạn, việc đi biển không thể biết trước là an ổn
hay không an ổn. Vậy mỗi người trong chúng ta hãy nên chuẩn bị đầy đủ
các dụng cụ làm phao nổi trên biển, tức là gồm túi bằng da dê đen, trái
bầu lớn và mững bè’. Này bạn, sau đó chúng tôi mỗi người đều chuẩn bị
đầy đủ các dụng cụ làm phao nổi trên biển, gồm túi bằng da dê đen, trái
bầu lớn và mững bè rồi đi vào biển cả. Khi chúng tôi ở giữa biển, ngư
vương Ma-kiệt phá vỡ chiếc thuyền ấy. Này bạn, bọn thương nhân chúng
tôi mỗi người tự nương vào các dụng cụ làm phao nổi như túi bằng da
dê đen, trái bầu lớn hay mững bè rồi trôi đi về các phía. Lúc bấy giờ,
từ phía Đông bờ biển, ngọn gió lớn trỗi dậy thổi bọn thương nhân chúng
tôi tấp vào bờ biển phía Tây. Nơi ấy gặp một bọn con gái rất mỹ lệ, đoan
chánh, trang sức thân thể bằng tất cả các loại trang sức. Bọn con gái
ấy thấy rồi bèn nói rằng ‘Xin kính chào các bạn. Nơi đây là chỗ rất diệu
hảo, cực kỳ khoái lạc; nào là vườn tược, ao tắm, những chỗ ngồi, nằm,
rừng cây, hoa cỏ um tùm và lại có nhiều tiền tài, vàng bạc, thủy tinh,
lưu ly, ma ni, chơn châu, bích ngọc, bạch kha, xa cừ, san hô, hổ phách,
mã não, đại mạo, xích thạch, toàn châu; tất cả đều dành cho các bạn. Hãy
cùng chúng tôi vui chơi hoan lạc. Mong các thương nhân châu
Diêm-phù không đi về phương Nam, dù trong chiêm bao’. Này bạn, chúng
tôi cùng với những người vợ này vui chơi hoan lạc. Chúng tôi nhân vì
cùng với những người vợ này hiệp hội mà sanh ra con trai hoặc con gái.
Này bạn, những người đàn bà ấy nếu không nghe châu Diêm-phù có bọn
thương nhân khác ở giữa biển mà ngư vương Ma-kiệt phá vỡ thuyền thì họ
cùng chúng tôi tôi vui chơi hoan lạc. Này bạn, những người đàn bà ấy nếu
nghe châu Diêm-phù có bọn thương nhân khác ở giữa biển mà ngư vương
Ma-kiệt phá vỡ thuyền, liền ăn thịt chúng tôi. Chúng tôi gặp phải sự bức
bách. Nếu khi ăn thịt người mà còn thừa tóc, lông, móng, răng thì bọn
đàn bà ấy lấy ăn hết. Nếu khi ăn thịt người, có máu huyết nhỏ xuống đất,
bọn đàn bà ấy liền lấy móng tay đào sâu xuống đất bốn tấc, lấy mà ăn.
Này bạn, nên biết, chúng tôi là những thương nhân ở châu Diêm-phù,
trước kia có năm trăm người, trong số đó bị ăn thịt hết hai trăm năm
mươi người, còn lại hai trăm năm mươi người, nay đều ở trong thiết thành
lớn này. Này bạn, bạn chớ có tin lời của bọn đàn bà ấy. Chúng không
phải thật là người, chính là quỷ La-sát vậy’.’
“Khi ấy, các thương nhân châu Diêm-phù hỏi thương nhân trí tuệ châu Diêm-phù rằng:
“Này bạn, sao bạn không hỏi đám đông người kia như vầy ‘Này các
bạn, có phương tiện nào khiến chúng tôi và các bạn từ nơi này an ổn về
đến châu Diêm-phù?’
“Thương nhân trí tuệ châu Diêm-phù đáp:
“Này các bạn, khi ấy tôi quên không có hỏi như vậy.
“Rồi các thương nhân châu Diêm-phù nói rằng:
“Này bạn, bạn hãy trở về đến chỗ sống chung với người đàn bà ấy,
rồi canh chừng khi nó đang ngủ hãy lặng lẽ chỗi dậy, rồi lén đi về
phương Nam, lại đến chỗ đông người kia hỏi rằng ‘Này các bạn, có phương
tiện nào khiến chúng tôi và các bạn từ đây mà an ổn về đến châu
Diêm-phù?’
“Khi ấy, thương nhân trí tuệ châu Diêm-phù im lặng nhận lời các thương nhân.
“Lúc bấy giờ thương nhân trí tuệ châu Diêm-phù trở lại chỗ sống
chung với người đàn bà ấy, dò xét thấy nó đang ngủ bèn lặng lẽ chỗi dậy,
rồi lén đi về phương Nam, lại đi đến chỗ đông người kia hỏi rằng:
“Này các bạn, có phương tiện nào khiến chúng tôi và các bạn từ đây mà an ổn về đến châu Diêm-phù chăng?
“Đám đông kia đáp rằng: Này bạn, hoàn toàn không có phương tiện
nào khiến chúng tôi và các bạn từ đây mà an ổn về đến châu Diêm-phù. Này
bạn, tôi đã nghĩ rằng ‘Chúng ta hãy đào phá vách tường này mà trở về
chốn cũ’. Vừa nghĩ như thế, bức tường này lại cao gấp bội bình thường.
Này bạn, thế là phương tiện này khiến chúng ta không thể từ đây mà an ổn
về đến châu Diêm-phù được. Chúng ta hoàn toàn không có cách nào. Này
bạn, chúng tôi nghe trên không trung nói rằng: Bọn thương nhân châu
Diêm-phù ngu si bất định cũng không khéo hiểu biết. Vì sao? Vì không thể
vào ngày mười lăm là ngày nói Tùng giải thoát giới mà đi về phương Nam.
Nơi ấy có Mao mã vương[06]
ăn gạo trắng tự nhiên, an ổn khoái lạc, các căn sung mãn, ba lần xướng
lên rằng ‘Ai muốn qua bờ bên kia? Ai muốn nhờ ta được giải thoát? Ai
muốn nhờ ta đưa từ đây đến châu Diêm-phù an ổn?’ Các người hãy đến Mao
mã vương mà nói rằng ‘Chúng tôi muốn được đưa qua bờ bên kia. Mong giải
thoát chúng tôi! Mong đưa chúng tôi từ đây an ổn về đến châu Diêm-phù’
Này bạn, đó là phương tiện khiến các người từ đây an ổn mà về đến châu
Diêm-phù. Này thương nhân, hãy đến chỗ Mao mã vương kia mà nói rằng
‘Chúng tôi muốn được đưa qua bờ bên kia. Mong giải thoát chúng tôi. Mong
đưa chúng tôi từ đây an ổn trở về châu Diêm-phù’.
“Khi ấy, thương nhân trí tuệ châu Diêm-phù nói:
“Này các thương nhân, mong sao[07]
tới lúc đi đến chỗ Mao mã vương mà nói: ‘Chúng tôi muốn được đưa qua bờ
bên kia. Mong giải thoát chúng tôi. Mong đưa chúng tôi từ đây an ổn trở
về châu Diêm-phù’. Các thương nhân tùy theo ý của chư Thiên. Này các
thương nhân, nếu như vào ngày mười lăm là ngày thuyết Tùng giải thoát,
Mao mã vương ăn gạo trắng tự nhiên, an ổn khoái lạc, các căn sung mãn,
ba lần xướng lên rằng ‘Ai muốn được đưa qua bờ bên kia? Ai muốn nhờ ta
được giải thoát? Ai muốn nhờ ta đưa từ đây an ổn về tới châu Diêm-phù?’
Bấy giờ chúng ta hãy đến chỗ kia mà nói rằng ‘Chúng tôi muốn được đưa
qua bờ bên kia? Mong giải thoát chúng tôi. Mong đưa chúng tôi từ đây an
ổn về tới châu Diêm-phù’.
“Khi ấy, Mao mã vương, vào ngày mười lăm kế đó, là ngày thuyết
Tùng giải thoát, ăn gạo trắng tự nhiên, an ổn khoái lạc, các căn sung
mãn ba lần xướng lên rằng:
“Ai muốn được đưa qua bờ bên kia? Ai muốn nhờ ta được giải thoát? Ai muốn nhờ ta đưa từ đây an ổn về tới châu Diêm-phù?
“Khi những thương nhân châu Diêm-phù nghe xong, liền đi đến chỗ của Mao mã vương nói:
“Chúng tôi muốn được đưa qua bờ bên kia! Mong giải thoát chúng tôi! Mong đưa chúng tôi từ đây an ổn về đến châu Diêm-phù!
“Bấy giờ Mao mã vương nói: Này các thương nhân, các đàn bà kia
sẽ bồng con cùng nhau đến đây mà nói rằng ‘Này các bạn, xin mời các bạn
trở về đây. Nơi đây là chỗ rất diệu hảo, cực kỳ khoái lạc. Nào là vườn
tược, ao tắm, những chỗ ngồi nằm, rừng cây, hoa cỏ um tùm và lại có
nhiều tiền của như kim ngân, thủy tinh, lưu ly, ma ni, chơn châu, bích
ngọc, bạch kha, xa cừ, san hô, hổ phách, mã não, đại mạo, xích thạch,
toàn châu; tất cả dành cho các bạn. Hãy cùng chúng tôi vui chơi hoan
lạc. Giả sử không cần đến chúng tôi thì nên thương nghĩ đến con trẻ’.
Nếu các thương nhân kia nghĩ rằng ‘Ta có con trai, con gái. Ta có nơi
cực lạc, tối diệu hảo. Nào là vườn tược, ao tắm, những chỗ ngồi nằm,
rừng cây, hoa cỏ um tùm và lại có nhiều tiền tài, kim ngân, thủy tinh,
lưu ly,
ma ni, chơn châu, bích ngọc, bạch kha, xa cừ, san hô, hổ phách, mã
não, đại mạo, xích thạch, toàn châu...’ thì họ dù có cỡi trên lưng ta,
chắc sẽ bị ngã lộn xuống, rồi rơi xuống nước và sẽ bị bọn đàn bà ăn
thịt, sẽ gặp sự bức bách. Nếu khi ăn thịt người mà còn sót tóc, lông,
móng, răng thì bọn họ sẽ lấy ăn hết. Lại nữa, nếu khi ăn có máu huyết
nhỏ xuống đất, bọn đàn bà lấy móng tay đào sâu xuống đất bốn tấc, lấy mà
ăn. Nếu các thương nhân kia không nghĩ rằng ‘Ta có con trai, con gái.
Ta có nơi cực lạc, tối diệu hảo. Nào là vườn tược, ao tắm, những chỗ
ngồi nằm, rừng cây, hoa cỏ um tùm và lại có nhiều tiền tài, kim ngân,
thủy tinh, lưu ly, ma ni, chơn châu, bích ngọc, bạch kha, xa cừ, san hô,
hổ phách, mã não, đại mạo, xích thạch, toàn châu...’ thì họ dù chỉ nắm
một
sợi lông trong thân ta, chắc sẽ được an ổn về đến châu Diêm-phù.”
“Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Bọn đàn bà kia bồng con đến màø nói rằng ‘Này các bạn, xin mời
các bạn trở về đây. Nơi đây là chốn cực lạc, rất là diệu hảo. Nào là
vườn tược, ao tắm, những chỗ ngồi nằm, rừng cây, hoa cỏ um tùm và lại có
nhiều tiền tài, kim ngân, thủy tinh, lưu ly, ma ni, chơn châu, bích
ngọc, bạch kha, xa cừ, san hô, hổ phách, mã não, đại mạo, xích thạch,
toàn châu... tất cả dành cho các bạn, hãy cùng chúng tôi vui chơi hoan
lạc’. Nếu thương nhân kia nghĩ rằng ‘Ta có con trai, con gái. Ta có nơi
cực lạc, tối diệu hảo. Nào là vườn tược, ao tắm, những chỗ ngồi nằm,
rừng cây, hoa cỏ um tùm và lại có nhiều tiền tài, kim ngân, thủy tinh,
lưu ly, ma ni, chơn châu, bích ngọc, bạch kha, xa cừ, san hô, hổ phách,
mã não, đại mạo, xích thạch, toàn châu...’ thì họ dù cỡi trên chỗ cao
nhất
nơi lưng của Mao mã vương, chắc chắn sẽ bị ngã lộn xuống, rơi xuống
nước, liền bị bọn đàn bà ăn thịt, sẽ gặp bước đường rất là bức bách. Nếu
khi ăn thịt người mà còn sót tóc, lông, móng, răng thì bọn họ sẽ lấy ăn
hết. Lại nữa, nếu khi ăn có máu huyết nhỏ xuống đất, bọn đàn bà ấy liền
lấy móng tay đào xuống đất bốn tấc, lấy mà ăn. Nếu các thương nhân kia
không nghĩ rằng ‘Ta có con trai, con gái. Ta có nơi cực lạc, tối diệu
hảo. Nào là vườn tược, ao tắm, những chỗ ngồi nằm, rừng cây, hoa cỏ um
tùm và lại có nhiều tiền tài, kim ngân, thủy tinh, lưu ly, ma ni, chơn
châu, bích ngọc, bạch kha, xa cừ, san hô, hổ phách, mã não, đại mạo,
xích thạch, toàn châu...’ thì họ dù chỉ một sợi lông nơi thân Mao mã
vương, chắc chắn được an ổn về đến châu Diêm-phù.
“Này các Tỳ-kheo, Ta nói ví dụ này là muốn cho biết nghĩa. Ví dụ ấy là nói nghĩa này:
“Pháp của Ta được thuyết giảng khéo léo, phơi bày sâu rộng, khéo
giữ gìn không trống, không khuyết, cũng như cầu, bè, các dụng cụ làm
phao nổi, được lưu bố cùng khắp đến cả trời, người.
“Pháp của Ta được khéo giảng thuyết như vậy, phơi bày sâu rộng
như vậy, khéo giữ gìn, không trống, không khuyết như vậy, cũng như cầu,
bè, các dụng cụ làm phao nổi, được lưu bố cùng khắp đến cả trời người,
đối với pháp ấy, nếu có Tỳ-kheo nào nghĩ rằng ‘Con mắt là ta; ta sở hữu
con mắt. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý là ta; ta sở hữu ý’; Tỳ-kheo ấy chắc
chắn sẽ bị hại, giống như bọn thương nhân bị quỷ La-sát ăn thịt.
“Pháp của Ta được giảng thuyết khéo léo, phơi bày sâu rộng như
vậy, khéo giữ gìn, không trống, không khuyết như vậy, cũng như cầu, bè,
các dụng cụ làm phao nổi, được lưu bố cùng khắp đến cả trời người. Nếu
có Tỳ-kheo nào nghĩ rằng ‘Mắt không phải là ta. Ta không sở hữu con mắt.
Tai, mũi, lưỡi, thân và ý không phải là ta. Ta không sở hữu con mắt’;
Tỳ-kheo ấy chắc chắn được an ổn. Ví như thương nhân cỡi trên Mao mã
vương an ổn mà giải thoát nạn.
“Pháp của Ta khéo nói, khéo giảng thuyết như vậy, phơi bày sâu
rộng như vậy, khéo giữ gìn, không trống, không khuyết như vậy, cũng như
cầu, bè, các dụng cụ làm phao nổi, được lưu bố cùng khắp đến cả trời
người. Nếu có Tỳ-kheo nào nghĩ rằng: ‘Sắc là ta. Ta sở hữu sắc. Thanh,
hương, vị, xúc và pháp là Ta. Ta sở hữu pháp’; Tỳ-kheo ấy chắc chắn sẽ
bị hại, giống như bọn thương nhân bị quỷ La-sát ăn thịt.
“Pháp của Ta khéo nói, phơi bày sâu rộng, khéo giữ gìn, không
trống, không khuyết, ví như chiếc cầu nổi, được lưu bố cùng khắp đến cả
trời người. Nếu các Tỳ-kheo nào nghĩ rằng ‘Sắc không phải là ta. Ta
không sở hữu sắc. Thanh, hương, vị, xúc và pháp không là Ta. Ta không sở
hữu pháp’, Tỳ-kheo ấy chắc chắn được an ổn, giống như thương nhân kia
cỡi trên Mao mã vương mà an ổn được thoát nạn.
“Pháp của Ta khéo nói, phơi bày sâu rộng, khéo giữ gìn, không
trống, không khuyết, ví như chiếc cầu nổi, được lưu bố cùng khắp đến cả
trời người. Nếu có Tỳ-kheo nghĩ rằng ‘Sắc ấm là ta. Ta sở hữu sắc ấm.
Thọ, tưởng, hành, và thức ấm là ta. Ta sở hữu thức ấm’; Tỳ-kheo ấy chắc
chắn sẽ bị hại, giống như thương nhân bị quỷ La-sát ăn thịt.
“Pháp của Ta khéo nói, phơi bày sâu rộng, khéo giữ gìn, không
trống, không khuyết, ví như chiếc cầu nổi, được lưu bố cùng khắp đến cả
trời người. Nếu có Tỳ-kheo nghĩ rằng ‘Sắc ấm không là ta. Ta không sở
hữu sắc ấm. Thọ, tưởng, hành, và thức ấm không là ta. Ta không sở hữu
thức ấm’, Tỳ-kheo ấy chắc chắn được an ổn, giống như thương nhân cỡi
trên Mao mã vương mà an ổn thoát nạn.
“Pháp của Ta khéo nói, phơi bày sâu rộng, khéo giữ gìn, không
trống, không khuyết, ví như chiếc cầu nổi, được lưu bố cùng khắp đến cả
trời người. Nếu có Tỳ-kheo nghĩ rằng ‘Đất là ta. Ta sở hữu đất. Cho đến
nước, lửa, gió, không và thức[08] là ta. Ta sở hữu thức’, Vị Tỳ-kheo kia chắc chắn bị hại, giống như thương nhân bị quỷ La-sát ăn thịt.
“Pháp của Ta khéo nói, phơi bày sâu rộng, khéo giữ gìn, không
trống, không khuyết, ví như chiếc cầu nổi, được lưu bố cùng khắp đến cả
trời người. Nếu có Tỳ-kheo nghĩ rằng ‘Đất là không ta. Ta không sở hữu
đất. Cho đến nước, lửa, gió, không và thức không là ta. Ta không sở hữu
thức’, vị Tỳ-kheo kia chắc chắn được an ổn, giống như thương nhân nhờ
ngồi trên lưng Mao mã vương đưa đến chỗ an lành.”
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng:
- Phật thuyết Chánh pháp luật;
- Nếu có kẻ không tin,
- Người ấy chắc bị hại
- Như bị La-sát thịt.
- Phật thuyết Chánh pháp luật;
- Nếu có kẻ kính tin,
- Người ấy được an ổn,
- Như nương Mao mã vương.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Bản
Hán, quyển 34. Tương đương Pāli, JĀ.196 Valāhassa (Vân mã). Biệt dịch,
No.125 (45.1) Tăng Nhất Phẩm 45 Kính 1. Tham chiếu, No.190 Phật Bản Hạnh
Tập Kinh, Tùy, Xà-na-quật-đa dịch (Đại 3, tr.883b); No.152 Lục Độ Tập
Kinh, Khang Tăng Hội dịch (Đại 3 tr.19c, 33b).
- [02] No.125
(45.1) bắt đầu với sự kiện: một người Bà-la-môn mang mộït người con gái
dâng cho Phật, Đức Phật khước từ. Một vị trưởng lão Tỳ-kheo cố gắng
thuyết phục Phật chấp nhận. Do đó Ngài nói câu chuyện tiền thân này.
- [03] Hán: hải trang thuyền 海 裝 船.
- [04] Hán: cổ dương 羖 羊.
- [05] Ma-kiệt
ngư vương 摩 竭 魚 王, hay nói là Ma-già-đà ngư vương 摩 伽 陀 魚 王 dịch là cá
kình (Phiên Phạn Ngữ 7), hoặc cự ngao (Tuệ Uyển Âm Nghĩa, hạ). Pāli:
makara, một loại cá voi trong huyền thoại.
- [06] Mao mã vương [馬+毛] 馬 王 Pāli: valāhassa (vân mã), giống ngựa lông dài có thể lướt mây bay đi.
- [07] Bản Nguyên: linh 令; các bản khác: kim 今.
- [08] Bốn đại chủng, cùng với hư không và thức, được kể là sáu giới (dhātu).
-ooOoo-
137. KINH THẾ GIAN[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Như Lai đã tự mình giác ngộ về thế gian và cũng nói lại cho người khác. Như Lai biết[02]
thế gian. Như Lai tự giác ngộ về sự tập khởi của thế gian và cũng nói
lại cho người khác. Như Lai đoạn trừ thế gian tập. Như Lai tự giác ngộ
sự diệt tận của thế gian và cũng nói cho người khác. Như Lai chứng ngộ
thế gian diệt. Như Lai tự giác ngộ đạo tích[03] của thế gian và cũng nói cho người khác. Như Lai tu thế gian đạo tích.
“Nếu có tất cả những gì cần đuơc hiểu biết một cách toàn diện[04],
tất cả những gì điều đó Như Lai đã biết, thấy, giác, ngộ, chứng đắc. Vì
sao vậy? Như Lai từ đêm chứng ngộ Vô thượng chánh đẳng chánh giác cho
đến ngày hôm nay vào lúc ban đêm sẽ đi vào tịch diệt trong Vô dư
Niết-bàn giới[05];
trong khoảng thời gian giữa đó, nếu những gì được nói ra, được ứng đối
từ chính miệng của Như Lai, tất cả những điều ấy đều là chắc thật, không
hư vọng, không ra ngoài sự Như[06], cũng không phải là điên đảo. Đó là sự chắc thật, là sự chân thật.
“Nếu nói về sư tử như thế nào, thì hãy nói về Như Lai cũng như
vậy. Vì sao vậy? Như Lai ở giữa đại chúng nếu có giảng thuyết thì đó
chính là tiếng rống của Sư tử[07].
“Đối với tất cả thế gian, Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ trời đến người, Như Lai là Phạm Hữu[08]. Như Lai là Bậc Chí Lãnh[09] vì không phiền cũng không nhiệt. Như Lai là Bậc Chân Thật không hư vọng[10].”
Bấy giờ Thế Tôn liền nói bài kệ:
- Biết tất cả thế gian;
- Ra khỏi mọi thế gian;
- Thuyết tất cả thế gian;
- Trọn thế gian như thật[11]
- Đấng Tối Tôn Đại Hùng
- Giải thoát mọi triền phược,
- Diệt tận hết thảy nghiệp,
- Sanh tử đều giải thoát.
- Là trời cũng là người,
- Thảy đều quy mạng Phật.
- Cúi đầu lễ Như Lai,
- Đại dương sâu vô cực.
- Chư Thiên, thần Hương âm[12],
- Kính lạy Đấng Đã Biết.
- Chúng sanh trong tử sanh,
- Đều cúi đầu quy phục,
- Cúi đầu lễ Trí sĩ;
- Quy mạng Đấng Thượng Nhân;
- Không trần lụy, vô ưu,
- Vô ngại, các giải thoát;
- Vì vậy, hãy vui thiền,
- Sống viễn ly tịch tịnh.
- Hãy tự mình đốt đèn,
- Vì Như Lai khó gặp[13].
- Không gặp thời Như Lai,
- Đời sống trong địa ngục.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi Phật thuyết, hoan hỷ phụng hà nh.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli A.4.23 Loka-sutta; tham chiếu It. 112 Loka.
- [02] Bốn Thánh đế, tri khổ, đoạn tập, chứng diệt và tu đạo.
- [03] Đạo tích 道 跡; Pāli: paṭipāda, phương pháp, hay đường lối thực hành.
- [04] Nhất
thiết tận phổ chánh hữu 一 切 盡 普 正 有 (?) Có lẽ là (…) chánh tri, thay vì
chánh hữu. Tham chiếu Pāli: yam… sadevakassa lokassa… sadevamanussasāya
diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññataṃ pattaṃ pariyesitaṃ anuvicaritaṃ manasā
sabbaṃ taṃ tathāgatena abhisaṃbuddhaṃ, thế giới này bao gồm Thiên giới,
cho đến, chư Thiên và nhân loại, những gì được thấy, được nghe, được
nghĩ đến, được biết đến, được đạt đến, được tầm cầu, được suy xét bởi ý;
tất cả những cái ấy đều được Như Lai giác ngộ.
- [05] Vô dư Niết-bàn giới 無 餘 涅 槃 界. Pāli: anupādisesā nibbānadhātu.
- [06] Bất ly ư như 不 離 於 如. Pāli nói: sabbaṃ tam tatheva hoti, no aññathā, tất cả những điều ấy chính thực là như vậy, không thể khác.
- [07] Pāli khác hẵn: nói như vậy thì cũng làm như vậy (...) cho nên gọi là Như Lai. Yathāvādī tathākārī (...) tathāgato vuccati.
- [08] Phạm Hữu 梵 有được hiểu là “Bậc Tối Diệu” (Pāli: Brahmabhūta, S.IV. Pp-95, M.I. P.111), không được đề cập trong bản Pāli.
- [09] Chí lãnh hữu 至 冷 有, cực kỳ mát lạnh, vì đã dập tắt các thứ lửa. Pāli:?
- [10]
Chân đế bất hư hữu 真 諦 不 虛 有, không rõ Pāli. Đoạn văn Pāli được coi
tương đương: (…) Tathāgato abhibhū anabhibhūti aññadṛatthudaso
vasavattī, Như Lai là Vị chiến thắng, Vị không thể bị đánh bại, là Vị
thấy tất cả, biết tất cả, tự do tự tại.
- [11] Pāli: sabhaṃ loke yathātatham, (biết) tất cả thế gian một cách như thật.
- [12] Hương âm thần 香 音 神, hay nhạc thần, hay Càn-thát-bà; Pāli: Gandhabba.
- [13] Vô ngã tất thất thời 無 我 必 失 時.
-ooOoo-
138. KINH PHƯỚC[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Phật bảo các vị Tỳ-kheo:
“Đừng sợ hãi phước[02]
mà hãy có ý niệm yêu thích. Vì sao vậy? Vì những gì được gọi là phước
thì cũng nói là lạc. Sự sợ hãi đối với phước là không có ý niệm yêu
thích. Vì sao vậy? Những gì là phi phước được nói là khổ.
“Ta nhớ lại trong thời quá khứ, lâu dài tác phước, lâu dài thọ
báo mà ý niệm yêu thích. Thời quá khứ Ta hành từ tâm trong bảy năm mà
trải qua bảy lần kiếp thành và kiếp hoại, không tái sanh trong thế gian
này. Nếu thời kiếp hoại, Ta sanh lên cõi trời Hoảng dục[03].
Trong thời kiếp thành, Ta tái sanh trở xuống trong cung điện trống
không của Phạm thiên và là Đại Phạm thiên trong cõi Phạm thiên đó.
“Trong những trường hợp khác, ta trải qua một ngàn lần làm Tự Tại
Thiên vương, ba mươi sáu lần làm Thiên Đế Thích và vô lượng lần làm vua
Sát-lợi Đảnh Sanh.
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta có tám vạn bốn
ngàn thớt voi lớn được phủ những đồ cưỡi rất đẹp; dùng các báu bạch châu
lạc[04] trang sức, phủ lên voi chúa đầu đàn Vu-sa-hạ[05].
“Này Tỳ-kheo, lúc Ta làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, có tám vạn bốn
ngàn con ngựa được phủ lên các thứ đồ cưỡi đẹp. Dùng các báu vàng, bạc,
dao lạc để trang sức cho ngựa đầu đàn là ngựa Mao[06].
“Này Tỳ-kheo, lúc Ta làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, có tám vạn bốn
ngàn cỗ xe, trang sức bằng bốn cánh, dùng da vằn quý báu đủ màu của các
thú như sư tử, cọp, beo, dệt thành đủ loại màu sắc xen lẫn trang sức cho
cỗ xe dẫn đầu chạy rất nhanh chóng tên là xe Nhạc thanh[07].
“Này Tỳ-kheo, lúc Ta làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, có tám vạn bốn
ngàn thành lớn, giàu có cùng cực, dân chúng đông đúc, lấy vương thành
Câu-xá-hòa-đề[08] làm đầu.
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta có tám vạn bốn
ngàn ngôi lầu; có bốn loại lầu báu, làm bằng vàng, bạc, lưu ly và thủy
tinh; đứng đầu là Chánh pháp điện[09].
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta có tám vạn bốn
ngàn ngự tòa; bốn loại tòa báu, bằng vàng, bạc, lưu ly và thủy tinh;
trải lên bằng các thứ nệm, chiếu dệt bằng lông năm sắc, phủ lên bằng
những gấm, the, sa trun, lụa là; có chăn nệm lót, hai đầu để gối, trải
thảm quý bằng da sơn dương[10].
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta có tám vạn bốn ngàn chiếc áo song y, áo sơ-ma[11], áo gấm, áo lụa, áo kiếp bối, áo gia-lăng-già-ba-hòa-la.
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta có tám vạn bốn
ngàn người nữ, thân thể nõn nà, sạch sẽ sáng sủa, sắc đẹp hơn người,
không thua chư Thiên, tư dung đoan chánh, ai nhìn cũng sinh ưa thích,
trang điểm bằng các thứ vật báu, anh lạc; tất cả đều thuộc dòng Sát-lợi.
Ngoài ra, những người thuộc dòng khác thì nhiều vô số.
“Này Tỳ-kheo, lúc làm vua Sát-lợi Đảnh Sanh, Ta có tám vạn bốn ngàn món ăn, ngày đêm thường dọn ra cho Ta ăn.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn món ăn kia, có một món hết sức ngon, sạch sẽ, có vô lượng mùi vị, là món Ta thường ăn.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn người nữ kia có một người thuộc dòng Sát-lợi, đoan chánh đẹp đẽ khác thường, hầu hạ Ta.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn song y kia có một chiếc áo
song y, hoặc là áo sơ ma, hoặc áo gấm, hoặc áo lụa, hoặc áo kiếp-bối[12], hoặc áo gia-lăng-già-ba-hòa-la là Ta thường mặc.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn ngự tòa kia, có một ngự tòa
làm bằng vàng, hoặc bạc, hoặc lưu ly, hoặc thủy tinh; đồ trải lên thì
dùng những tấm nệm, những chiếc chiếu dệt bằng lông năm sắc; đồ phủ lên
thì dùng gấm, the, sa trun, lụa là, có chăn nệm lót, hai đầu để gối, có
trải thảm quý bằng da sơn dương, là Ta thường nằm.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn lầu quán kia, có một lầu
quán làm bằng vàng, hoặc bạc, hoặc lưu ly, hoặc thủy tinh, tên là Chánh
pháp điện, là nơi Ta thường ở.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn thành lớn kia, có một thành
giàu có cùng cực, dân chúng đông đúc, gọi là thành Câu-xá-hòa-đề là chỗ
ta thường ở.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn cỗ xe kia, có một cỗ được
dùng da đủ màu của các thú như sư tử, cọp, beo dệt thành, màu sắc xen kẽ
để trang hoàng, chạy rất nhanh chóng, tên là xe Nhạc thanh, Ta thường
ngồi lên, đi đến các lầu quán để ngắm nhìn các vườn tược.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn con ngựa kia có một con màu
xanh biếc, đầu như chim, gọi là ngựa Mao, là Ta thường cưỡi, đi đến các
lầu quán để ngắm các vườn tược.
“Này Tỳ-kheo, trong tám vạn bốn ngàn thớt voi lớn kia, có một
thớt toàn thân trắng toát, bảy chi thảy đều ngay thẳng, gọi là voi Chúa
Vu-sa-hạ, là Ta thường cưỡi đi đến các lầu quán để ngắm các vườn tược.
“Này Tỳ-kheo, bấy giờ Ta nghĩ: ‘Đó là nghiệp quả gì, là nghiệp
báo gì, mà ngày nay Ta có đại như ý túc, đại oai đức, đại phước hựu, đại
oai thần?’
“Này Tỳ-kheo, Ta lại nghĩ: ‘Đó là ba nghiệp quả, là ba nghiệp
báo, khiến ta ngày nay có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước
hựu, có đại oai thần: một là bố thí, hai là điều phục, ba là thủ hộ’.”
Bấy giờ Thế Tôn liền nói bài kệ:
- Quán sát phước báo này,
- Diệu thiện, nhiều ích lợi.
- Tỳ-kheo, Ta quá khứ
- Bảy năm tu từ tâm;
- Bảy kiếp thành, kiếp hoại,
- Không tái sinh cõi này.
- Lúc thế gian hủy hoại,
- Ta sanh trời Hoảng dục.
- Lúc thế gian chuyển thành,
- Ta sanh vào Phạm thiên;
- Ở đó, Ta Đại phạm.
- Nghìn sanh, Tự Tại thiên;
- Ba sáu lần Đế thích;
- Vô lượng trăm Đảnh vương.
- Sát-lợi Đảnh Sanh vương,
- Tối tôn trong loài người[13].
- Đúng pháp, không dao gậy,
- Thống trị cả thiên hạ.
- Đúng pháp, không dối trá[14]
- Chánh an lạc, dạy dân.
- Đúng pháp, lần lượt truyền,
- Khắp tất cả cõi đất.
- Chỗ giàu sang, nhiều của,
- Sanh vào chủng tộc ấy;
- Lúa gạo thảy tràn đầy’
- Thánh tựu bảy trân bảo.
- Do các phước lớn ấy,
- Chỗ sanh đều tự tại.
- Chư Phật ngự thế gian,
- Những điều Phật ấy dạy;
- Biết điều này kỳ diệu,
- Thấy thần thông không ít.
- Ai biết mà không tin,
- Như vậy sanh trong tối.
- Vì vậy hãy vì mình
- Mong cầu đại phước hựu.
- Hãy cung kính Chánh pháp;
- Thường niệm Pháp Luật Phật.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tham chiếu Pāli A.7.58 Pacala (ngủ gục), đoạn cuối.
- [02] Pāli:
mā bhikkhave puññānaṃ bhāyittha, sukkhass’etaṃ bhikkhave adhivacanaṃ,
yad idaṃ puññaun ti, “đừng sợ phước; đồng nghĩa với lạc, đó là phước”.
- [03] Hoảng dục thiên tức Quang âm thiên hay Cực quang thiên; Pāli: Ābhassara.
- [04] Bạch châu lạc 白 珠 珞.
- [05] Vu-sa-hạ tượng vương 于 娑 賀 象 王. Pāli: Uposathanāgarāja.
- [06] Mao mã vương [馬+毛] 馬 王. Pāli: Valāhaka-assarāja.
- [07] Nhạc thanh xa 樂 聲 車. Pāli: Vejayanta-ratha, cỗ xe (= cung điện) Chiến thắng.
- [08] Câu-xá-hòa-đề 拘 舍 惒 提. Pāli: Kusāvati.
- [09] Chánh pháp điện 正 法 殿. Pāli: Dhammapāsāda.
- [10]
Hán dịch: gia-lăng-già-ba-hòa-la ba-giá-tất-đa-la-na 加 陵 伽 波 惒 邏 波 遮 悉 多
羅 那. Pāli: kadalimigapavara-pacchattharaṇa, thảm lông bằng da sơn dương
cực quý.
- [11] Sơ-ma y 初 摩 衣; Pāli: khoma-pilotikā, vải lanh.
- [12] Kiếp-bối y 劫 貝 衣. Pāli: kappāsika, vải bông (gòn).
- [13] Pāli: Muddhābhisitto khattiyo manussādhipatī, làm vua Đảnh Sanh, thuộc dòng Sát-lợi, là bậc Nhân chủ.
- [14] Như pháp bất gia uổng 如 法 不 加 抂. Pāli: asāhasena dhammena, đúng theo pháp chứ không cưỡng chế.
-ooOoo-
139. KINH TỨC CHỈ ĐẠO[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:
“Tỳ-kheo niên thiếu vừa mới thành tựu giới hãy thường xuyên đi đến một nghĩa địa[02]
mà quán sát các tướng trạng tử thi: tướng xương, tướng xám xanh, tướng
rữa nát, tướng bị thú ăn, tướng bộ xương khô. Vị ấy sau khi ghi nhận kỹ
những tướng trạng tử thi này rồi trở về trụ xứ của mình, rửa sạch tay
chân, trải ni-sư-đàn trên giường, ngồi kiết già và suy niệm về các tướng
trạng này: tướng xương, tướng xám xanh, tướng rữa nát, tướng bị thú ăn,
tướng những đốt xương dính liền. Vì sao vậy? Nếu Tỳ-kheo tu tập bằng
các tướng trạng này sẽ đoạn trừ nhanh chóng những bệnh tham dục, sân
nhuế trong tâm.”
Rồi Đức Thế Tôn nói bài tụng này:
- Những niên thiếu Tỳ-kheo,
- Chưa đạt thành niệm trụ[03]
- Hãy đến bãi tha ma
- Để trừ dâm dục ý.
- Để tâm không hận thù,
- Thương yêu cả chúng sanh,
- Tràn đầy khắp mọi phương.
- Hãy quán sát thân thể,
- Quán sát tướng xám xanh
- Và rữa nát, hư hoại;
- Quán sâu, quạ rỉa thân,
- Xương phơi bày từng đốt.
- Tu tập những tướng này,
- Rồi trở về trụ xứ,
- Gội rửa sạch chân tay,
- Trải giường ngồi ngay thẳng;
- Hãy quán sát như chân,
- Trong thân và ngoài thân,
- Chứa đầy đại tiểu tiện;
- Tim, thận, gan và phổi,
- Nếu khi đi trì bình[04]
- Đến nơi thôn ấp người,
- Như tướng mang giáp trụ,
- Hãy chánh niệm trước mắt.
- Nếu thấy sắc khả ái
- Tinh sạch, liên hệ dục;
- Thấy vậy quán như chân,
- Chánh niệm pháp luật Phật.
- Trong đây không xương, gân,
- Không thịt, cũng không máu;
- Không thận, tim, gan, phổi;
- Không đàm, giải, não, óc,
- Địa đại thảy đều không;
- Thủy đại cũng bất thực;
- Hỏa đại cũng là không;
- Phong đại cũng chẳng thực.
- Nếu có cảm thọ nào,
- Tinh sạch liên hệ dục,
- Tất cả đều lắng tịnh;
- Quán sát bằng thật tuệ.
- Như vậy tinh cần hành.
- Thường niệm bất tịnh tưởng;
- Đoạn trừ dâm, nộ, si,
- Vô minh cũng dứt tuyệt;
- Hưng khởi thanh tịnh minh,
- Tỳ-kheo vượt khổ tế.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tham chiếu Sn.(1.11) Vijiya-sutta và đối chiếu kinh số 98 trên.
- [02] Tức chỉ đạo 息 止 道. Pāli: Sīvathikā.
- [03] Nguyên Hán: ý chỉ 意 止. Pāli: satipaṭṭhāna.
- [04] Phân vệ 分 衛, phiên âm. Pāli: piṇḍapāta.
-ooOoo-
140.
KINH CHÍ BIÊN[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Trong sự nuôi sống, thấp kém nhất, cùng biên nhất, đó là đi khất
thực. Thế gian rất húy kỵ, gọi là “đầu trọc, tay ôm bình bát bước đi.”
Nhưng thiện nam tử ấy vì mục đích mà chấp nhận. Lý do vì sao? Vì nhàm
tởm, ghê sợ sự sanh, già, bệnh, chết, sầu bi, khóc than, ưu khổ, áo não;
hoặc để đạt đến biên tế của toàn vẹn khối lớn đau khổ này. Các ngươi há
không phải với tâm như vậy mà xuất gia học đạo chăng?”
Các Tỳ-kheo bạch rằng:
“Thật sự như vậy.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Người ngu si kia, với tâm như vậy mà xuất gia học đạo, nhưng lại
sống theo tham dục, chìm đắm đến tận cùng, sự ô trược quấn chặt lấy
tâm, ganh ghét, bất tín, lười biếng, mất chánh niệm, không chánh định,
ác tuệ, tâm cuồng, rối loạn các căn, giữ giới hết sức lơ là, không tu
Sa-môn, không phát triển rộng lớn.
“Cũng như người dùng mực để giặt những đồ bị mực dính dơ; lấy máu
rửa máu, lấy dơ chùi dơ, lấy bẩn trừ bẩn, lấy phân trừ phân, chỉ tăng
thêm ô uế mà thôi; bỏ chỗ mờ mịt để vào chỗ mờ mịt, bỏ chỗ tối tăm để
vào chỗ tối tăm. Ta nói người ngu si kia giữ giới Sa-môn cũng lại như
vậy, nghĩa là nó sống theo tham dục, chìm đắm đến tận cùng, sự ô trược
quấn chặt lấy tâm, ganh ghét, bất tín, lười biếng, mất chánh niệm, không
chánh định, ác tuệ, tâm cuồng, rối loạn các căn, giữ giới hết sức lơ
là, không tu Sa-môn, không phát triển rộng lớn.
“Cũng như đống tro tàn giữa những que củi tàn thiêu xác người
trong rừng vắng. Núi rừng không cần đến nó, thôn ấp cũng không dùng đến
nó. Ta nói người ngu si giữ giới Sa-môn cũng lại như vậy, nghĩa là nó
sống theo tham dục, chìm đắm đến tận cùng, sự ô trược quấn chặt lấy tâm,
ganh ghét, bất tín, lười biếng, mất chánh niệm, không chánh định, ác
tuệ, tâm cuồng, rối loạn các căn, giữ giới hết sức lơ là, không tu
Sa-môn, không phát triển rộng lớn.”
Rồi Thế Tôn nói bài tụng:
- Người ngu muội hỏng đời dục lạc,
- Và hư luôn mục đích Sa-môn.
- Đạo và tục cả hai đều mất,
- Như tro tàn theo ngọn lửa tàn.
- Như thể giữa khu rừng hoang vắng,
- Xác người thiêu còn lại tro tàn;
- Dù thôn ấp, núi rừng, vô dụng;
- Người tham mê dục vọng không hơn.
- Đạo và tục cả hai đều mất,
- Như tro tàn theo ngọn lửa tàn.
- Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo ấy sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
[01] Tham chiếu Pāli, It. 91. Jīvita; S. 22. 80 Piiḍo. Tham chiếu Hán, No.765 (2.32) Bản Sự Kinh, phẩm 2 kinh 32.
-ooOoo-
141. KINH DỤ[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
“Nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy
sự không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân
không phóng dật mà phát sanh, không phóng dật làm đầu. Trong các thiện
pháp, không phóng dật là tối đệ nhất.
“Cũng như làm ruộng, tất cả đều nhân nơi đất, y cứ trên đất,
thiết lập trên đất mới làm được ruộng. Cũng vậy, nếu có vô lượng thiện
pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự không phóng dật làm căn
bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sanh,
không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ
nhất.
“Cũng như hạt giống, các loại hạt giống[02], các loại thảo mộc[03],
trăm giống lúa, cây thuốc được phát sanh, trưởng dưỡng, tất cả đều nhân
nơi đất, y cứ trên đất, thiết lập trên đất mới được sanh trưởng. Cũng
vậy, nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự
không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm tập khởi, nhân không
phóng dật mà phát sanh, không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp,
không phóng dật là tối đệ nhất.
“Cũng như trong các căn hương[04], trầm hương[05] là tối đệ nhất. Cũng như trong các thọ hương[06], xích chiên-đàn[07] là tối đệ nhất. Cũng như trong các hoa dưới nước, hoa sen xanh là tối đệ nhất. Cũng như trong các hoa trên đất, hoa Tu-ma-na[08]
là tối đệ nhất. Cũng như trong các dấu chân của loài thú, thì tất cả
đều nhập vào trong dấu chân voi; dấu chân voi gồm chứa hết là bậc nhất;
dấu chân voi ấy là tối đệ nhất, vì rất rộng, rất lớn. Cũng như thế, nếu
có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được thì tất cả đều lấy sự không
phóng dật làm căn bản,
không phóng dật làm tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sanh,
không phóng dật làm đầu. Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ
nhất.
“Cũng như trong các loài thú, Sư tử vương là tối đệ nhất. Ví như khi các trận cùng đấu chiến nhau thì yếu thệ[09] là thứ nhất. Cũng như các đòn tay của lầu gác, tất cả đều y cứ trên đòn dông[10],
thiết lập trên dông, được duy trì bởi đòn dông, đòn dông là bậc nhất vì
duy trì tất cả. Cũng vậy, nếu có vô lượng thiện pháp mà có thể đạt được
thì tất cả đều lấy sự không phóng dật làm căn bản, không phóng dật làm
tập khởi, nhân không phóng dật mà phát sanh, không phóng dật làm đầu.
Trong các thiện pháp, không phóng dật là tối đệ nhất.
“Cũng như trong các ngọn núi, Tu di sơn vương là bậc nhất. Cũng
như trong các dòng suối, biển lớn thu nhập nước, biển lớn là bậc nhất.
Cũng như trong các loại đại thân[11], A-tu-la vương là thứ nhất. Cũng như trong các loại chiêm thị[12],
Ma vương là thứ nhất. Cũng như trong các loại hành dục, Đảnh sanh vương
là thứ nhất. Cũng như trong các Tiểu vương, Chuyển luân vương là bậc
nhất. Cũng như giữa các vì tinh tú trong hư không, mặt trăng là bậc
nhất. Cũng như trong các loại vải lụa, lụa trắng tinh là thứ nhất. Cũng
như trong các loại ánh sáng, ánh sáng của trí tuệ là thứ nhất. Cũng như
trong các chúng hội, chúng đệ tử của Như Lai là bậc nhất.
Cũng như trong các pháp hữu vi và vô vi, ái tận, vô dục, diệt tận,
Niết-bàn là bậc nhất. Cũng như trong các loài chúng sanh không chân, hai
chân, bốn chân, nhiều chân; sắc, vô sắc, có tưởng, không tưởng, cho đến
phi hữu tưởng, phi vô tưởng, trong đó Như Lai là bậc nhất, là tối đại,
là tối thượng, là tối cao, là tối tôn, là tối diệu.
“Cũng như do bò mà có sữa; nhân sữa có tô; nhân tô có sanh tô;
nhân sanh tô có thục tô; nhân thục tô có tô tinh; tô tinh là bậc nhất,
là lớn, là trên, là tối, là thắng, là tôn, là diệu. Cũng như thế, trong
các loài chúng sanh không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, sắc, vô
sắc, hữu tưởng, vô tưởng, cho đến phi hữu tưởng, phi vô tưởng, trong đó
Như Lai là bậc nhất, là tối đại, là tối thượng, là tối cao, là tối
thắng, là tối tôn, là tối diệu.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng:
- Những ai mong tài vật,
- Tốt đẹp, tăng tiến nhiều,
- Khen ngợi không phóng dật
- Sự, vô sự, đều tỏ[13].
- Những ai không phóng dật,
- Lợi nghĩa cả hai đời;
- Đời này khéo thu hoạch;
- Và đời sau thu hoạch.
- Và thu hoạch đời này
- Dũng mãnh quán các nghĩa
- Kẻ trí tất giải thoát.
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tham
chiếu Pāli S.3.2(7-8) Appamāda-sutta; S.45.140.148. Padam. Tham chiếu
Hán No.99 (1239), 100 (66), No.765 (1.12) Bản Sự Kinh, Huyền Tráng dịch.
- [02] Chủng tử thôn 種 子 村. Pāli: bījagāma, loại hạt giống; chỉ các thực vật thuộc nhóm gieo hạt.
- [03] Nguyên Hán: quỷ thần thôn 鬼 神 村. Pāli: bhūta-gāma, chỉ các loại cây trồng, đối lập với chủng tử thôn, xem cht. trên.
- [04] Căn hương 根 香; hương liệu lấy từ rễ cây.
- [05] Trầm hương 沈 香; trong bản Pāli: kāḷānusāriya, hương chiên-đàn đen.
- [06] Thọ hương 樹 香; hương liệu lấy từ thân cây.
- [07] Xích chiên-đàn 赤 栴 檀;Pāli: lohita-candana, chiên-đàn đỏ.
- [08] Tu-ma-na hoa 須 摩 那 華; Pāli: sumana, duyệt ý hoa.
- [09] Yếu thệ 要 誓, No.100 (66) nói: ai xông lên trước là bậc nhất.
- [10] Thừa duyên lương 承 椽 梁, đòn dông. Pāli: gopānasī. No.100 (66): trong tất cả lầu các, cao-ba-na-tả (gopānasī) là tối đệ nhất.
- [11] Đại thân 大 身, thân hình to lớn đồ sộ.
- [12] Chiêm thị 瞻 侍; bản Thánh: chiêm đặc 特. Không rõ.
- [13] Sự vô sự tuệ thuyết 事 無 事 慧 說.
-ooOoo-