12. PHẨM PHẠM CHÍ
(Phần Ðầu)
142. KINH VŨ THẾ[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá, ở trong núi Thứu nham[02].
Bấy giờ vua nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề Tử[03] cùng với nước Bạt-kỳ[04] thù nghịch nhau, thường ở giữa quyến thuộc nhiều lần nói rằng:
“Người nước Bạt-kỳ có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần[05], nhưng ta sẽ diệt trừ giống người Bạt-kỳ, tàn phá Bạt-kỳ, làm cho nhân dân nước Bạt-kỳ gặp vô số tai ách.”
Khi ấy, Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề Tử, vua nước Ma-kiệt-đà nghe Đức Thế
Tôn du hóa thành Vương xá, ở trong núi Thứu nham, nên nói với đại thần
Vũ Thế[06]:
“Ta nghe Sa-môn Cù-đàm du hóa thành Vương xá, ở trong núi Thứu
nham. Này Vũ Thế, ngươi hãy đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm, nhân danh ta mà
thăm hỏi Thánh thể có được an vui không bệnh, sức lực có được bình
thường hay không? Rồi hãy nói như vầy, ‘Cù-đàm, vua nước Ma-kiệt-đà là
Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề Tử thăm hỏi Thánh thể có được an vui không bệnh,
sức lực có được bình thường chăng? Bạch Sa-môn Cù-đàm, vua nước
Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề Tử, cùng với nước Bạt-kỳ thù nghịch
nhau, thường ở giữa quyến thuộc và nhiều lần nói rằng: ‘Người nước
Bạt-kỳ có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai
thần, nhưng ta sẽ diệt trừ giống người Bạt-kỳ, tàn phá Bạt-kỳ, làm cho
nhân dân nước Bạt-kỳ gặp vô số tai ách’. Bạch Sa-môn Cù-đàm, về vấn đề
này Ngài dạy như
thế nào?’ Này Vũ Thế, nếu Sa-môn Cù-đàm có dạy những gì thì ngươi
hãy cố gắng ghi nhớ, thọ trì. Vì sao? Bởi lẽ những người như vậy nhất
định không khi nào nói sai.”
Đại thần Vũ Thế vâng lời vua dạy xong, lên một cỗ xe rất đẹp và
cùng năm trăm cỗ xe khác đồng ra khỏi thành Vương xá, đi đến trong núi
Thứu nham và leo lên núi Thứu nham, rồi xuống xe đi bộ đến chỗ Phật.
Đại thần Vũ Thế cùng với Đức Thế Tôn nói lời chào hỏi rồi ngồi sang một bên, thưa rằng:
“Thưa Cù-đàm, vua nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề Tử thăm
hỏi Thánh thể có được an vui không bệnh, sức lực có được bình thường
chăng? Bạch Sa-môn Cù-đàm, vua nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề
Tử, cùng với nước Bạt-kỳ thù nghịch nhau, thường ở giữa quyến thuộc và
nhiều lần nói rằng: ‘Người nước Bạt-kỳ có đại như ý túc, có đại oai đức,
có đại phước hựu, có đại oai thần, nhưng ta sẽ diệt trừ giống người
Bạt-kỳ, tàn phá Bạt-kỳ, làm cho nhân dân nước Bạt-kỳ gặp vô số tai ách’.
Bạch Sa-môn Cù-đàm, về vấn đề này Ngài dạy như thế nào?”
“Đức Thế Tôn nghe rồi, bảo rằng:
“Này Vũ Thế, xưa kia Ta đã từng đi đến nước Bạt-kỳ. Nước đó có ngôi chùa tên là Giá-hòa-la[07]. Lúc ấy, này Vũ Thế, Ta giảng nói pháp không suy thoái[08]
cho người nước Bạt-kỳ nghe. Người nước Bạt-kỳ có thể vâng thọ và thực
hành bảy pháp không suy thoái đó. Này Vũ Thế, nếu người dân nước Bạt-kỳ
thực hành được bảy pháp không suy thoái mà không trái phạm thì nước
Bạt-kỳ chắc chắn hùng mạnh, không thể suy vi được.”
Đại thần Vũ Thế bạch Đức Thế Tôn:
“Sa-môn Cù-đàm, về việc này chỉ nói một cách tóm tắt, chứ không
phân biệt rộng rãi. Chúng con không thể hiểu được nghĩa này. Kính xin
Sa-môn Cù-đàm phân biệt rộng rãi để chúng con được biết ý nghĩa này.”
Đức Thế Tôn bảo:
“Này Vũ Thế, hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ. Ta sẽ giảng nói rộng rãi ý nghĩa này cho ông nghe[09].”
Đại thần Vũ Thế vâng lời, lắng nghe.
Lúc ấy, Tôn giả A-nan đang cầm quạt đứng hầu Phật, Đức Thế Tôn quay lại hỏi A-nan rằng:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ thường xuyên hội họp và tụ tập đông đảo chăng?
Tôn giả A-nan bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ thường xuyên hội họp và tụ tập đông đảo.”
Đức Thế Tôn liền bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu người nước Bạt-kỳ thường xuyên hội họp và tụ tập đông đảo thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ cùng chung hội họp, cùng chung làm công việc của người Bạt-kỳ và cùng giải tán?”
“Bạch Đức Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ cùng chung hội họp, cùng chung làm công việc của người Bạt-kỳ và cùng giải tán.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu người nước Bạt-kỳ cùng chung hội họp, cùng chung làm công
việc của người Bạt-kỳ và cùng giải tán thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không
thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe nước Bạt-kỳ đối với những điều chưa thi thiết
thì không thi thiết thêm, những điều đã thi thiết thì không cải đổi,
những pháp cũ xưa của nước Bạt-kỳ thì được nghiêm chỉnh phụng hành
chăng?”
“Bạch Đức Thế Tôn, con nghe nước Bạt-kỳ đối với những điều chưa
thi thiết thì không thi thiết thêm; những điều đã thi thiết thì không
cải đổi; những pháp cũ xưa của nước Bạt-kỳ thì được nghiêm chỉnh phụng
hành.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu nước Bạt-kỳ đối với những điều chưa thi thiết thì không thi
thiết thêm; những điều đã thi thiết thì không cải đổi; những pháp cũ xưa
của nước Bạt-kỳ thì được nghiêm chỉnh phụng hành, thì nước Bạt-kỳ tất
thắng, không thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ không ỷ thế mà xâm phạm vợ của người và con gái của người khác chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ không ỷ thế mà xâm phạm vợ của người và con gái của người khác.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu người nước Bạt-kỳ không ỷ thế mà xâm phạm vợ của người và
con gái của người khác thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi
được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ nếu có những bậc danh đức
đáng tôn trọng thì những người nước Bạt-kỳ cùng nhau tôn kính, cung
phụng, cúng dường chăng? Và họ có nghe lời dạy của những bậc ấy mà làm
theo chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ nếu có những bậc danh
đức đáng tôn kính thì những người nước Bạt-kỳ cùng nhau tôn kính, cung
phụng, cúng dường và họ nghe theo lời dạy của những bậc ấy mà làm theo.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Này Vũ Thế, nếu người nước Bạt-kỳ có những bậc danh đức đáng tôn
trọng thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau tôn kính, cung phụng, cúng dường
và họ nghe lời dạy của những bậc ấy mà làm theo, thì nước Bạt-kỳ tất
thắng, không thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ nếu có chùa cũ nào[10]
thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau tu bổ, tuân phụng cúng dường, lễ bái,
thường không bỏ bê những tế tự đã có, không giảm thiểu tập tục đã làm
chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ nếu có chùa cũ nào thì
người nước Bạt-kỳ cùng nhau tu bổ, tuân phụng cúng dường, lễ bái, thường
không bỏ bê những tế tự đã có, không giảm thiểu tập tục đã làm.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu nước Bạt-kỳ có chùa cũ nào thì người nước Bạt-kỳ cùng nhau
tu bổ, tuân phụng, cúng dường, lễ bái, thường không bỏ bê những tế tự đã
có, không giảm thiểu tập tục đã làm, thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không
thể suy vi được.”
Đức Thế Tôn lại hỏi Tôn giả A-nan:
“Ngươi có từng nghe người nước Bạt-kỳ thảy đều ủng hộ các vị
A-la-hán và vô cùng kính mến, thường mong muốn các vị A-la-hán chưa đến
thì đến, đã đến rồi thì mong hằng an trụ lâu dài, thường không để các vị
ấy thiếu thốn các nhu dụng sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường
chõng, thuốc thang chăng?”
“Bạch Thế Tôn, con nghe người nước Bạt-kỳ thảy đều ủng hộ các vị
A-la-hán và vô cùng kính mến, thường mong muốn các vị A-la-hán chưa đến
thì đến, đã đến rồi thì mong hằng an trụ lâu dài, thường không để các vị
ấy thiếu thốn các nhu dụng sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường
chõng, thuốc thang.”
Đức Thế Tôn lại bảo đại thần Vũ Thế:
“Nếu người nước Bạt-kỳ thảy đều ủng hộ các vị A-la-hán và vô cùng
kính mến, thường mong muốn các vị A-la-hán chưa đến thì đến, đã đến rồi
thì mong hằng an trụ lâu dài, thường không để các vị ấy thiếu thốn các
nhu dụng sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường chõng, thuốc thang,
thì nước Bạt-kỳ tất thắng, không thể suy vi được.
“Này Vũ Thế, người nước Bạt-kỳ đã thực hành bảy pháp không suy
thoái này. Nếu vâng giữ bảy pháp không suy thoái này thì nước Bạt-kỳ tất
thắng, không thể suy vi được.”
Khi ấy, đại thần Vũ Thế liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai hữu, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, dù cho nước Bạt-kỳ chỉ thành tựu một pháp không suy
thoái thì nước Ma-kiệt-đà là Vị Sanh Oán, con bà Bệ-đà-đề cũng không
thể khuất phục họ được, huống chi họ đầy đủ cả bảy pháp không suy thoái.
Bạch Cù-đàm, con nhiều việc nước, xin được từ giã lui về.”
Đức Thế Tôn nói:
“Muốn lui về xin cứ tùy ý.”
Lúc đó, đại thần Vũ Thế nghe lời Phật dạy, khéo léo ghi nhớ, đi quanh Đức Thế Tôn ba vòng rồi ra về.
Sau khi đại thần Vũ Thế ra về chẳng bao lâu, bấy giờ Đức Thế Tôn quay lại bảo Tôn giả A-nan:
“Nầy A-nan, nếu có những Tỳ-kheo hiện đang sống rải rác trong núi
Thứu nham thì ngươi hãy truyền cho tất cả tập trung tại giảng đường.
Sau khi tất cả đã tụ họp xong, hãy đến cho Ta hay.”
Tôn giả A-nan liền vâng lời Phật dạy:
“Kính vâng, bạch Thế Tôn!”
Ngay khi đó, Tôn giả A-nan đi truyền lệnh:
“Những Tỳ-kheo nào hiện đang sống rải rác trong núi Thứu nham thì truyền cho tất cả hãy tập trung tại giảng đường.”
Sau khi tất cả tập họp xong, Tôn giả trở lại chỗ Phật, cúi đầu làm lễ rồi đứng sang một bên, bạch rằêng:
“Bạch Thế Tôn, con đã truyền lệnh: nếu có những Tỳ-kheo nào hiện
đang sống rải rác trong núi Thứu nham thì tất cả hãy tập trung tại giảng
đường. Giờ đây đã tập họp xong, kính mong Thế Tôn tự biết thời.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng Tôn giả A-nan đi đến giảng đường, trải chỗ ngồi trước chúng Tỳ-kheo rồi nói với các thầy Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói cho các ngươi nghe về bảy pháp không suy thoái. Các ngươi hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ kỹ.”
Lúc ấy các Tỳ-kheo bạch Phật rằng:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu chúng Tỳ-kheo thường xuyên hội họp, tụ tập đông đảo thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo cùng chung hội, cùng chung làm việc chung và
cùng giải tán thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy
thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo đối với những việc chưa thi thiết thì không
thêm; những việc đã thi thiết thì không thay đổi; những giới luật do Ta
nói ra được phụng hành nghiêm chỉnh; thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững
mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo không bị chi phối[11] bởi hữu ái đưa đến vị lai[12], hiện hành với hỷ dục, ái lạc đời sống như vầy như kia[13], thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo có bậc trưởng lão thượng tôn đồng học phạm
hạnh, các Tỳ-kheo thảy đều tôn kính, cung phụng, cúng dường và nghe theo
lời dạy của các vị ấy, thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể
suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo đối với rừng vắng, sườn núi cao, chỗ thanh
tịnh nhàn cư, vắng bặt không có tiếng động, xa lánh sự dữ, không có bóng
người, tùy thuận mà tĩnh tọa, hoan lạc an trụ không rời, thì chúng
Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo thảy đều ủng hộ các vị phạm hạnh, hết sức tôn
trọng, ái kính, thường mong muốn các vị phạm hạnh chưa đến thì đến, đã
đến rồi thì hằng mong an trụ lâu dài, thường không để các vị ấy thiếu
thốn những nhu dụng sinh sống như quần áo, đồ ăn uống, giường chõng,
thuốc thang, thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành bảy pháp không suy thoái này, thọ
trì, không trái phạm thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể
suy thoái.”
Lúc ấy Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp không suy thoái khác. Các thầy hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu Tỳ-kheo đối với Tôn sư mà hết sức cung kính, cúng dường, phụng sự, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu Tỳ-kheo đối với Pháp, với Tăng, với Giới, với sự không phóng dật, với sự cung cấp và đối với định[14] mà hết sức cung kính thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo thực hành bảy pháp không suy thoái này, thọ
trì không trái phạm thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy
thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp không suy thoái khác. Các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu chúng Tỳ-kheo không hành nơi thế nghiệp[15], không hoan lạc nơi thế nghiệp, không tập quán thế nghiệp, thì chúng Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu chúng Tỳ-kheo không hành nơi phiếm luận[16],
không hoan lạc nơi phiếm luận, không tập quán nơi phiếm luận; không
hành nơi tụ hội, không hoan lạc nơi tụ hội, không thân cận nơi tụ hội;
không hành nơi sự kết hợp hỗn tạp[17],
không hoan lạc nơi sự kết hợp hỗn tạp, không tập quán sự kết hợp hỗn
tạp; không hành ngủ nghỉ, không hoan lạc ngủ nghỉ, không tập quán ngủ
nghỉ; không vì lợi, không vì tiếng khen, không vì người khác mà tu hành
phạm hạnh; đối với quả thấp, đối với quả cao không nửa chừng gián đoạn
nỗ lực hướng thượng, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy
thoái.
“Nếu Tỳ-kheo thực hành bảy pháp không suy thoái này, thọ trì
không trái phạm thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh không thể suy thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp không suy thoái khác. Các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu Tỳ-kheo thành tựu tài sản tín, tài sản giới, tài sản tàm,
tài sản quý, tài sản bác văn, tài sản thí và thành tựu tài sản tuệ, thì
Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy thoái này, thọ trì
không trái phạm, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp không suy thoái khác. Các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu Tỳ-kheo thành tựu năng lực tín, năng lực tinh tấn, năng lực
tàm, năng lực quý, năng lực niệm, năng lực định, và thành tựu năng lực
tuệ, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.
“Nếu Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy thoái này, thọ trì
không trái phạm thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các thầy Tỳ-kheo:
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp không suy thoái khác. các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu Tỳ-kheo tu niệm giác chi, y trên xả ly, y trên vô dục, y
trên diệt tận, thú hướng xuất yếu. Cũng vậy, trạch pháp, tinh tấn, hỷ,
khinh an, định; tu xả giác chi, y trên xả ly, y trên vô dục, y trên diệt
tận, thú hướng xuất yếu; thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy
thoái.
“Nếu Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy thoái này, thọ trì
không trái phạm, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Ta lại nói cho các ngươi nghe về bảy pháp không suy thoái khác. Các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là bảy?
“Nếu Tỳ-kheo cần cho luật hiện tiền thì cho luật hiện tiền. Cần
cho luật ức niệm thì cho luật ức niệm. Cần cho luật bất si thì cho luật
bất si. Cần cho luật tự phát lồ thì ban cho luật tự phát lồ. Cần ban cho
luật quân thì ban cho luật quân. Cần cho luật triển chuyển thì cho luật
triển chuyển. Nếu trong chúng khởi lên sự tranh tụng thì đúng theo pháp
diệt tránh như liệng bỏ giẻ rách để chấm dứt[18].
“Nếu Tỳ-kheo thực hành được bảy pháp không suy thoái này, thọ trì
không trái phạm, thì Tỳ-kheo chắc chắn vững mạnh, không thể suy thoái.”
Đức Thế Tôn lại bảo các Tỳ-kheo:
“Nay Ta sẽ nói cho các ngươi nghe về sáu pháp ủy lạo[19]. Các ngươi hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ.”
Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật:
“Kính vâng.”
Phật nói:
“Những gì là sáu?
“Thân nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng phạm hạnh. Pháp ấy gọi
là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm,
khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho
tu tập, khiến cho hòa thuận, được Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh
cần, chứng đắc Niết-bàn.
“Cũng vậy, khẩu nghiệp từ hòa, ý nghiệp từ hòa.
“Lợi lộc nào đúng theo pháp mà được, cho đến miếng cơm ở chính
trong bình bát của mình, với phần lợi như vậy mang chia xẻ cho các vị
đồng phạm hạnh. Pháp đó gọi là pháp ủy lạo, là pháp khả ái, là pháp khả
lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến
cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được Sa-môn, được
sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết-bàn.
“Nếu có giới nào không bị sứt mẻ, không bị hư thủng, không bị uế tạp, không bị đen, vững vàng như mặt đất[20],
được Thánh khen ngợi, đầy đủ, cẩn thận thọ trì. Với giới phần như vậy,
cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh. Pháp đó gọi là pháp ủy lạo, là
pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng,
khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa
thuận, được Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc
Niết-bàn.
“Nếu có kiến giải của Thánh, có sự xuất yếu, có sự thấy rõ, có sự
thấu triệt, đưa đến sự chân chánh diệt khổ; với kiến phần như vậy, cùng
chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh. Pháp đó gọi là pháp ủy lạo, là pháp
khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến
cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa
thuận, được Sa-môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc
Niết-bàn.
“Nhân đây nên Ta nói sáu pháp ủy lạo.”
Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01]
Bản Hán, quyển 35. Tương đương Pāli: A.7.20 Vassakāra-sutta; tham chiếu
D.16 Mahāparinibbāna. Hán, biệt dịch No.125 (40.2) Tăng Nhất phẩm 40
kinh số 2; tham chiếu No.1(2) Trường A-hàm, kinh số 2 “Du Hành”; No.5
Phật Bát-nê-hoàn Kinh, Bạch Pháp Tổ dịch; No.6 Bát-nê-hoàn Kinh, khuyết
danh dịch.
- [02] Thứu nham 鷲 巖, cũng nói là Linh thứu, hay đọc âm là Kỳ-xà-quật; đỉnh Kên kên. Pāli: Gijjakūta-pabbata.
- [03]
Vị Sanh Oán Bệ-đà-đề Tử 未 生 怨 鞞 陀 提 子, hoặc A-xà-thế Vi-đề-hy Tử. Pāli:
Ajātasattu Vedehiputta, Ajātasattu, con trai của bà Vedehi.
- [04] Bạt-kỳ 跋 耆. Pāli: Vajjī.
- [05] Pāli: evaṃmahiddhike evaṃmahānubhāve, hùng mãnh như thế, uy thế như thế.
- [06] Vũ Thế 雨 勢 hoặc đọc âm là Vũ-xá 雨 [禹] 舍. Pāli: Vassakāra, một người Bà-la-môn, Tể tướng nước Magadha.
- [07]
Giá-hòa-la tự 遮 惒 羅 寺. Trong bản Pāli: Sārandada-cetiya. Chùa này theo
bản Hán có lẽ là Cāpala, chỗ Phật thông báo quyết định nhập Niết-bàn.
- [08] Bất suy pháp 不 衰 法. Pāli: Aparihāniya-dhamma.
- [09] Các bản khác, Phật chỉ nói gián tiếp.
- [10] Cựu tự 舊 寺, ở đây nói theo No.1(2): tông miếu. Pāli: vajjīnaṃ vajjicetiyāni, các linh miếu của người Bạt-kỳ.
- [11] Khởi bất tùy 起 不 隨. Pāli: na vasaṃ gacchanti.
- [12] Pāli: uppannāya taṇhāya ponobhavikāya na vasaṃ gacchanti, không bị chi phối bởi khát ái hiện hành, khát ái ấy dẫn đến đời sau.
- [13] Ái lạc bỉ bỉ hữu 愛 樂 彼 彼 有.
- [14] Pháp,
chúng, giới, bất phóng dật, cung cấp, định, cùng với tôn sư nói trước,
là bảy đề mục bất thối. So sánh bảùy pháp kể trong No.1(2): 1. Kính
Phật; 2. Kính Pháp; 3. Kính Tăng; 4. Kính giới luật; 5. Kính thiền định;
6. Kính thuận cha mẹ; 7. Kính pháp không buông lung.
- [15] Bất
hành ư nghiệp 不 行 於 業. Nghiệp ở đây được hiểu là chuyện đời. Pāli: na
kammārāmā, na kammaratā, na kammārāmataṃ anuyuttā, không thích thế
nghiệp, không hoan hỷ thế nghiệp, không đam mê thế nghiệp.
- [16] Bất hành hoa thuyết 不 行 譁 說. Pāli: na bhassārāmā.
- [17] Tạp hiệp 雜 合, được hiểu là “kết hợp với ác hữu”.
- [18] Bảy pháp chỉ tránh, hay diệt tránh. Xem kinh số 196 ở sau.
- [19] Sáu pháp hòa kỉnh, hay lục hòa, xem kinh 196.
- [20] Hán: như địa bất tùy tha 如 地 不 隨 他, trong bản Pāli: bhujissāni, người tự do, không còn làm nô lệ.
-ooOoo-
143. KINH THƯƠNG-CA-LA[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Ma-nạp Thương-ca-la[02] sau giữa trưa, thong dong tản bộ, đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên, bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, con có điều muốn hỏi, mong Ngài nghe cho mới dám trình bày”.
Thế Tôn nói:
“Ma-nạp, muốn hỏi gì cứ hỏi”.
Ma-nạp Thương-ca-la bèn hỏi:
“Bạch Cù-đàm, Phạm chí đúng như pháp mà hành khất tài vật, tự mình trai tự[03],
hoặc dạy người khác trai tự. Bạch Cù-đàm, nếu tự mình trai tự hay dạy
người khác trai tự, những người ấy đều hành trên vô lượng phước tích[04], vì do nơi trai tự vậy. Đệ tử của Sa-môn Cù-đàm, tùy theo dòng tộc[05],
cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia
đình để học đạo, tự mình chế ngự, tự mình tịch tịnh, tự mình cứu cánh
tịch diệt. Như vậy, đệ tử của Sa-môn Cù-đàm, thùy theo dòng tộc, chỉ
hành trên một phước tích chứ không hành trên vô lượng phước tích, do bởi
sự học đạo vậy.”
Bấy giờ Tôn giả A-nan đang cầm quạt đứng hầu Phật, rồi Tôn giả A-nan hỏi:
“Này Ma-nạp, trong hai đạo tích ấy, đạo tích nào là tối thượng, tối diệu, tối thắng?”
Ma-nạp Thương-ca-la nói:
“A-nan, đối với Sa-môn Cù-đàm và A-nan, tôi đều cung kính tôn trọng, phụng thờ.”
Tôn giả A-nan lại hỏi:
“Này Ma-nạp, tôi không hỏi ông cung kính, tôn trọng, phụng thờ
ai, mà tôi chỉ hỏi ông rằng, trong hai đạo tích ấy, đạo tích nào là tối
thượng, tối diệu, tối thắng?”
Tôn giả A-nan đến ba lần hỏi Ma-nạp Thương-ca-la rằng:
“Này Ma-nạp, trong hai đạo tích ấy, đạo tích nào là tối thượng, tối diệu, tối thắng?”
Ma-nạp Thương-ca-la cũng đến ba lần nói rằng:
“A-nan, đối với Sa-môn Cù-đàm và A-nan, tôi đều cung kính, tôn trọng, phụng thờ.”
Tôn giả A-nan cũng nói lại:
“Này Ma-nạp, tôi không hỏi ông cung kính, tôn trọng, phụng thờ
ai, mà tôi chỉ hỏi ông rằng, trong hai đạo tích ấy, đạo tích nào là tối
thượng, tối diệu, tối thắng?”
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ rằng: “Ma-nạp Thương-ca-la này đã bị A-nan khuất phục. Ta hãy cứu nó!”
Thế Tôn biết vậy rồi, bèn hỏi:
“Này Ma-nạp, hôm qua, khi vua và các quần thần triệu tập đại hội, thảo luận những gì? Vì những duyên cớ nào mà cùng tập hội?”
Ma-nạp Thương-ca-la đáp:
“Ngày hôm qua, vua và quần thần triệu tập đại hội để thảo luận
vấn đề này, là ‘Do nhân gì, duyên gì mà xưa kia Sa-môn Cù-đàm thiết lập
học giới ít, nhưng các Tỳ-kheo đắc đạo nhiều; và do nhân gì, duyên gì mà
ngày nay khi Sa-môn Cù-đàm thiết lập học giới nhiều thì các Tỳ-kheo đắc
đạo lại ít[06]?’ Bạch Cù-đàm, ngày hôm qua, vua và quần thần triệu tập đại hội để thảo luận vấn đề này. Do sự kiện này mà triệu tập đại hội.”
Bấy giờ, Thế Tôn nói rằng:
“Ma-nạp, bây giờ Ta hỏi ngươi, hãy tùy theo sự hiểu biết mà trả
lời. Ý ngươi nghĩ sao? Giả sử có một Sa-môn, Phạm chí tự hành đạo như
vậy, tích như vậy; và sau khi tự hành đạo như vậy, tích như vậy rồi, các
lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri,
tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật: ‘Sự sanh đã
dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh
nữa’.
“Vị ấy sau đó thuyết giảng cho người khác rằng: ‘Ta tự hành đạo
như vậy, tích như vậy, và sau khi tự hành đạo như vậy, tích như vậy rồi,
các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự
tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật: ‘Sự sanh đã
dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh
nữa’. Các người hãy đến đây và cũng hãy tự hành đạo như vậy, tích như
vậy, và sau khi tự hành đạo như vậy, tích như vậy rồi, các lậu diệt tận,
chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác. tự
tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã
vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.
“Rồi người này cũng tự hành đạo như vậy, tích như vậy. Sau khi tự
hành đạo như vậy, tích như vậy, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu, tâm
giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu an
trụ, biết như thật: Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã
làm xong, không còn tái sanh nữa.
Rồi người này lại cũng thuyết giảng cho người khác nữa. Cứ như vậy lần lượt truyền đi cho đến trăm ngàn vô lượng.
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Đệ tử của Ta, tùy theo dòng tộc,
cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia
đình để học đạo, chỉ hành trên một phước tích, không hành trên vô lượng
phước tích, có phải là do bởi sự học đạo chăng?”
Ma-nạp Thương-ca-la đáp:
“Bạch Cù-đàm, theo sự hiểu biết của con đối với điều mà Sa-môn
Cù-đàm nói, thì đệ tử Sa-môn Cù-đàm ấy, tùy theo dòng tộc, cạo bỏ râu
tóc, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình để học đạo, thật sự
hành trên vô lượng phước tích, chứ không chỉ hành trên một phước tích do
bởi sự học đạo.”
Thế Tôn lại nói với Thương-ca-la:
“Có ba thị hiện[07] là, như ý túc thị hiện, chiêm niệm thị hiện, giáo huấn thị hiện[08].
“Ở đây, nếu có một Sa-môn, Phạm chí có đại như ý túc, đại oai
đức, đại phước hựu, đại oai thần, đối với như ý túc, tâm được tự tại,
hành vô lượng công đức của như ý túc như vầy; nghĩa là phân một làm
thành nhiều, hợp nhiều làm thành một, một thì trụ trên một, được biết,
được thấy[09];
không bị trở ngại bởi vách đá, cũng như đi trong hư không; chìm xuống
đất như chìm xuống nước, đi trên nước như đi trên đất; ngồi xếp kiết già
mà bay trên không như chim bay liệng; với mặt trời và mặt trăng này vốn
có đại như ý túc, đại phước hựu, đại oai thần mà có thể đưa tay bắt
nắm, thân cao đến trời Phạm thiên. Này Ma-nạp, đó là thị hiện bằng như ý
túc.
“Này Ma-nạp, thế nào là chiêm niệm thị hiện? Hoặc có một Sa-môn,
Phạm chí do nơi tướng trạng của người khác mà chiêm đoán được ý tưởng
của họ, rằng ‘Nó có ý nghĩ như thế này, nó có ý nghĩ như thế kia, nó
thật sự có ý nghĩ’; vô lượng chiêm đoán thì không ít chiêm đoán, nhưng
tất cả thảy đều chắc thật, chứ không phải là những giả thiết viễn vông.
Hoặc giả không do nơi tướng trạng của người khác để đoán biết ý tưởng
của họ, nhưng do nghe tiếng của chư Thiên và loài phi nhân mà đoán biết
được ý tưởng của người khác rằng ‘Nó có ý nghĩ như thế này, nó có ý nghĩ
như thế kia, thật sự nó có ý nghĩ như vậy’ vô lượng chiêm đoán, không
ít chiêm đoán, nhưng tất cả thảy đều chắc thật, chứ không phải là những
giả thiết viễn vông. Hoặc không do nơi tướng dạng của người khác để
đoán biết ý tưởng của họ, cũng không nghe tiếng của chư Thiên và các
loài phi nhân, nhưng do tâm niệm của người khác, tâm tư của người khác,
ngôn thuyết của người khác. Sau khi nghe tiếng rồi đoán biết được ý
tưởng của người khác rằng ‘Nó có ý tưởng như thế này, nó có ý tưởng như
thế kia, nó thật sự có ý tưởng như vậy’ vô lương chiêm nghiệm đoán,
không ít chiêm đoán, nhưng tất cả thảy đều chắc thật, chứ không phải là
những giả thuyết viễn vông. Hoặc không do nơi tướng dạng của người khác
để đoán biết ý tưởng của người khác, cũng không nghe tiếng của chư Thiên
và loài phi nhân để đoán biết ý tưởng của người khác, cũng không do nơi
tâm niệm của người khác, nhưng do nơi tâm tư, nơi ngôn thuyết của người
khác để sau khi nghe rồi, đoán biết ý tưởng của người khác, nhưng
do thấy người khác nhập vào định không giác không quán[10],
sau khi thấy bèn nghĩ rằng ‘Như Hiền giả này thì không có niệm, không
có tư, sở nguyện như ý. Hiền giả kia ra khỏi định này với niệm như vậy.
Vị ấy ra khỏi định này sẽ có tâm niệm như vậy, như vậy’. Người này cũng
đoán biết việc quá khứ, cũng đoán biết việc tương lai, cũng đoán biết
việc hiện tại, những điều được làm từ lâu, những điều được nói từ lâu,
cũng đoán biết những nơi yên tĩnh, sống nơi yên tĩnh, cũng đoán biết tất
cả pháp tâm và tâm sở hữu. Đó gọi là thiện bằng sự chiêm niệm.
“Này Ma-nạp, thế nào là giáo huấn thị hiện? Ở đây có một Sa-môn,
Phạm chí tự hành đạo như vậy, tích như vậy, và sau khi hành đạo như vậy,
tích như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát,
tuệ giải thoát, tự tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như
thật: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong,
không còn tái sanh nữa’. Rồi vị ấy giảng thuyết lại cho người khác rằng
‘Ta tự hành đạo như vậy, tích như vậy, và sau khi hành đạo như vậy, tích
như vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, tự tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như
thật Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không
còn tái sanh nữa’. Rồi người đó cũng tự hành đạo như vậy, tích như
vậy rồi, các lậu diệt tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, tự tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như
thật: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong,
không còn tái sanh nữa. Rồi người đó cũng lại thuyết giảng cho người
khác. Cứ như vậy... lần lượt truyền đi cho đến vô lượng trăm ngàn. Này
Ma-nạp, đó gọi là sự thị hiện bằng giáo huấn.
“Trong ba thị hiện này, thị hiện nào là tối thượng, tối diệu, tối thắng?”
Thương-ca-la Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, nếu Sa-môn, Phạm chí nào có đại như ý túc, đại oai
đức, đại phước hựu, đối với như ý túc, tâm được tự tại, cho đến, thân
cao đến trời Phạm thiên, thưa Cù-đàm, cái đó là tự mình làm tự mình có,
tự mình thọ lãnh quả báo. Thưa Cù-đàm, trong các thị hiện, sự thị hiện
này được gọi là đại pháp[11].
“Bạch Cù-đàm, nếu Sa-môn, Phạm chí nào do nơi tướng dạng mà đoán
biết ý tưởng của người khác, cho đến các pháp tâm và tâm sở hữu, thì
bạch Cù-đàm, cái đó là tự mình làm tự mình có, tự mình thọ lãnh quả báo.
Thưa Cù-đàm, trong các thị hiện, sự thị hiện này được gọi là đại pháp.
“Bạch Cù-đàm, nếu Sa-môn, Phạm chí nào tự hành đạo như vậy, tích
như vậy, và sau khi tự hành đạo như vậy, tích như vậy, các lậu diệt tận,
chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri tự giác, tự
tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã
vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Rồi vị ấy
thuyết giảng cho người khác nữa. Cứ như vậy lần lượt truyền đi cho đến
trăm ngàn vô lượng, thì bạch Cù-đàm, trong ba thị hiện, sự thị hiện này
là tối thượng, tối diệu, tối thắng.”
Thế Tôn lại hỏi Thương-ca-la Ma-nạp:
“Trong ba thị hiện, ngươi tán thán sự thị hiện nào?”
Ma-nạp Thương-ca-la đáp:
“Trong ba thị hiện, con tán thán Sa-môn Cù-đàm. Vì sao vậy? Vì
Sa-môn Cù-đàm có đại như ý túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại
oai thần, tâm được tự tại, cho đến thân cao ngang Phạm thiên. Sa-môn
Cù-đàm do nơi tướng dạng của người khác mà biết ý tưởng của người khác,
cho đến đoán biết các tâm và tâm sở hữu pháp. Sa-môn Cù-đàm thị đạo với
đạo như vậy, tích như vậy, và sau khi hành đạo này, tích này, các lậu
diệt tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, thành tựu an
trụ, biết như thật ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã
làm xong, không còn tái sanh nữa’. Sa-môn Cù-đàm thuyết giảng cho người
khác, rồi người khác thuyết giảng cho người khác nữa. Như vậy, lần lượt
truyền đi cho đến trăm ngàn vô lượng. Bạch Cù-đàm, cho nên, đối
với ba thị hiện, con tán thán Sa-môn Cù-đàm.”
Rồi Thế Tôn nói rằng:
“Ma-nạp, người khéo thấu suốt vấn đề này. Vì sao? Thật sự Ta có
đại như ý túc, đại oai thần, đại phước hựu, đại oai thần, đối với như ý
túc, tâm được tự tại, cho đến, thân cao ngang Phạm thiên. Này Ma-nạp, Ta
do tướng dạng người khác mà biết được ý tưởng của người khác, cho đến
đoán biết tâm và tâm sở hữu pháp.
“Này Ma-nạp, Ta tự hành đạo như vậy, tích như vậy, các lậu diệt
tận, chứng đắc vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri tự giác,
tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh
đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Rồi Ta
giảng thuyết cho người khác, người khác cũng giảng thuyết cho người khác
nữa. Như vậy, lần lượt truyền đi cho đến trăm ngàn vô lượng.
“Này Ma-nạp, cho nên ngươi khéo thấu suốt vấn đề này. Ngươi hãy
biết như vậy, hãy khéo thọ trì như vậy. Vì sao? Bởi vì ý nghĩa được nói
này phải như vậy.”
Lúc bấy giờ, Thương-ca-la Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã hiểu. Bạch Thế
Tôn, con nay tự quy y Phật, Pháp, Tỳ-kheo Tăng. Cúi mong Thế Tôn nhận
con làm Ưu-bà-tắc, kể từ hôm nay trọn đời tự quy y cho đến tận mạng.”
Phật thuyết như vậy. Thương-ca-la Ma-nạp, Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli A.3.60. Saṅgārava-sutta.
- [02] Thương-ca-la Ma-nạp 傷 歌 邏 摩 納. Pāli: Saṅgārava, một Bà-la-môn trẻ, hình như là bạn của Tôn giả A-nan trước khi xuất gia.
- [03] Hán: trai 齋; Pāli: yaññaṃ, tế đàn.
- [04] Phước tích 福 跡. Pāli: puññapaṭipadā, con đường dẫn đến phước đức.
- [05] Hán:
tùy tộc 隨 族. Đối chiếu Pāli: yassa vā tassā kulā anagāriyaṃ pabbajito,
người ấy từ bỏ dòng tộc, từ bỏ gia dình, xuất gia sống không gia đình.
- [06] Cũng như kinh số 194 ở sau.
- [07] Tam
thị hiện 三 示 現, ở đây “thị đạo”, chỉ ba loại thần thông hay phép lạ;
xem theo Tập Dị 6 (No.1536, tr.389 b): thần biến thị đạo, ký tâm thị
đạo, giáo giới thị đạo. Pāli: Tini pātihāriyānā: iddhi, ādesanā,
anusāsanā.
- [08] Xem cht.1 trên.
- [09] Hán:
nhất tắc trụ nhất, hữu tri hữu kiến 一 則 住 一 有 知 有 見. Nghĩa không rõ.
Tập Dị (nt): hoặc ẩn hoặc hiện. Pāli: āvibhāvaṃ tirobhāvaṃ.
- [10] Chỉ các bậc từ nhị thiền trở lên, trong đó không có tâm sở tầm (Pāli: vitakka) và tứ (Pāli: vicara).
- [11] Đại pháp 大 法. Pāli: māyāsaha-dhammarūpam; pháp huyễn hoặc; bản Hán đọc là ma (…) hā-dhamma.
-ooOoo-
144. KINH TOÁN SỐ MỤC-KIỀN-LIÊN[1]
Tôi nghe như vầy.
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Toán số Mục-kiền-liên[02] sau bữa trưa, thong dong tản bộ đến chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên, bạch rằng:
“Thưa Cù-đàm, tôi có điều muốn hỏi, mong nghe cho mới dám trình bày”. Thế Tôn nói:
“Mục-kiền-liên, ông muốn hỏi gì cứ tự tiện, đừng tự nghi ngại.”
Toán số Mục-kiền-liên bèn bạch rằng:
“Thưa Cù-đàm, giảng đường Lộc tử mẫu này được xây dựng dần dần
cho đến cuối cùng được thành tựu. Thưa Cù-đàm, cầu thang trong Lộc tử
mẫu giảng đường này, bắt đầu lên một nấc, rồi đến hai, ba, bốn. Thưa
Cù-đàm, như vậy giảng đường Lộc tử mẫu lần lượt theo thứ tự đi lên. Thưa
Cù-đàm, sự điều phục voi này cũng lần lượt thứ tự cho đến thành tựu,
nghĩa là do bởi móc câu vậy. Thưa Cù-đàm, sự điều phục ngựa này cũng lần
lượt thứ tự cho đến thành tựu, nghĩa là do bởi hàm vậy. Thưa Cù-đàm,
Sát-đế-lợi này cũng lần lượt thứ tự cho đến thành tựu, nghĩa là do bởi
cung và tên vậy. Thưa Cù-đàm, các Phạm chí này cũng lần lượt thứ tự cho
đến thành tựu, nghĩa là do bởi kinh thư vậy.
“Thưa Cù-đàm, chúng tôi học toán số, nhờ toán số mà mưu sinh,
cũng lần lượt thứ tự cho đến thành tựu. Nếu có đệ tử nam hoặc nữ bắt đầu
được dạy từng con số một, rồi hai, ba, mười, trăm, ngàn, vạn..., thứ tự
mà đếm lên. Thưa Cù-đàm, như vậy chúng tôi học toán số, nhờ toán số mà
mưu sinh, lần lượt theo thứ tự cho đến thành tựu. Sa-môn Cù-đàm, trong
pháp luật này, lần lượt thứ tự như thế nào cho đến thành tựu?”
Thế Tôn nói:
“Này Kiền-liên, nếu có sự lần lượt thứ tự thực hiện cho đến thành
tựu nào được nói đến chân chánh, thì này Mục-kiền-liên, ở trong pháp
luật của Ta, đây là điều được nói đến chân chánh. Vì sao vậy? Này
Mục-kiền-liên, Ta đối với pháp luật này lần lượt thứ tự thực hiện cho
đến đạt thành cứu cánh.
“Này Mục-kiền-liên, nếu Tỳ-kheo niên thiếu vừa mới đến học đạo,
mới vào trong pháp luật này, Như Lai trước hết dạy rằng ‘Người hãy đến
đây. Với thân, hãy thủ hộ mạng thanh tịnh; với miệng và ý hãy thủ hộ
mạng thanh tịnh’.
“Này Mục-kiền-liên, khi Tỳ-kheo với thân, thủ hộ mạng thanh tịnh;
với miệng và ý thủ hộ mạng thanh tịnh rồi, Như Lai lại dạy tiến thêm
rằng ‘Tỳ-kheo, hãy đến đây, hãy quán nội thân như thân, cho đến quán thọ
[03], tâm và pháp như pháp’.
“Này Mục-kiền-liên, khi Tỳ-kheo quán thân như thân, cho đến quán
thọ, tâm và pháp như pháp rồi, Như Lai lại dạy tiến thêm ‘Tỳ-kheo, hãy
đến đây, hãy quán thân như thân, đừng niệm tưởng những niệm tương ưng
với dục; cho đến quán thọ, tâm và pháp như pháp, đừng niệm tưởng những
niệm tương ưng với dục’.
“Này Mục-kiền-liên, khi Tỳ-kheo quán thân như thân, không niệm
tưởng những niệm tương ưng với dục, cho đến quán thọ, tâm và pháp như
pháp, không niệm tưởng những niệm tương ưng với dục, Như Lai dạy tiến
thêm ‘Tỳ-kheo, hãy đến đây, hãy thủ hộ các căn, thường niệm tưởng sự
khép kín[04],
niệm tưởng muốn minh đạt, thủ hộ tâm mà được thành tựu, hằng khởi chánh
tri. Nếu mắt thấy sắc, không chấp thủ tướng của sắc, không đắm nhiễm vị
của sắc. Vì sự phẫn tránh[05]
mà thủ hộ các căn, trong tâm không sanh tham lam, ưu sầu, ác bất thiện
pháp. Vì hướng đến kia mà thủ hộ căn con mắt. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi,
thân; khi ý biết pháp,
không chấp thủ tướng của pháp, không đắm nhiễm vị của pháp. Vì sự
phẫn tránh mà thủ hộ ý căn, trong tâm không sanh tham lam, ưu sầu, ác
bất thiện pháp. Vì thú hướng đến nơi kia mà thủ hộ nhãn căn.
“Này Mục-kiền-liên, khi Tỳ-kheo thủ hộ các căn, thường niệm sự
khép kín, niệm tưởng muốn minh đạt, thủ hộ niệm tâm mà được thành tựu,
hằng mướn khởi ý. Khi mắt thấy sắc, không chấp thủ sắc tướng, không đắm
sắc vị; vì sự phẫn tránh mà thủ hộ căn con mắt, trong tâm không sanh
tham lam, ưu não, ác bất thiện pháp, vì thú hướng đến kia[06],
nên thủ hộ căn con mắt. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, khi ý biết pháp
không chấp thủ pháp tướng, không đắm pháp vị; vì sự phẫn tránh mà thủ
hộ ý căn, trong tâm không sanh tham lam, ưu não, ác bất thiện pháp, vì
thú hướng đến kia, nên thủ hộ ý căn, thì này Mục-kiền-liên, Như Lai lại
dạy tiến thêm ‘Tỳ-kheo, hãy đến đây, hãy biết rõ sự ra vào, khéo quán
sát phân biệt, co duỗi, cúi ngước,
nghi dung chững chạc, khéo đắp Tăng-già-lê và các y bát; đi, đứng,
nằm, ngồi, ngủ nghỉ, nói năng, im lặng, thảy đều biết rõ’.
“Này Mục-kiền-liên, khi Tỳ-kheo biết rõ sự ra vào, khéo quán sát
phân biệt co, duỗi, cúi, ngước, nghi dung chững chạc, khéo đắp
Tăng-già-lê và các y bát; đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, nghỉ, nói năng, im
lặng thảy đều biết rõ, Như Lai lại dạy tiến thêm ‘Tỳ-kheo, hãy đến đây,
hãy sống cô độc tại nơi xa vắng, trong rừng, trong núi hoặc dưới gốc
cây, những chỗ trống vắng yên tĩnh, sườn non, động đá, đất trống, lùm
cây, hoặc đến trong rừng, hoặc ở ngoài bãi tha ma. Sau khi ngươi đã sống
trong rừng vắng, hoặc đến dưới gốc cây, những chỗ trống vắng yên tĩnh,
hãy trải ni-sư-đàn, ngồi kiết già, chánh thân chánh nguyện[07],
nhiếp niệm nội tâm, đoạn trừ tham lam, tâm không não hại; thấy tài vật
và các nhu dụng sinh sống của người khác
không muốn được về mình. Ngươi đối với tham lam, hãy tịnh trừ tâm
ấy. Cũng vậy, đối với sân nhuế, thụy miên, trạo hối, đoạn nghi độ hoặc,
đối với các thiện pháp không còn do dự. Ngươi đối với nghi hoặc hãy tịnh
trừ tâm ấy. Ngươi đoạn trừ năm triền[08] này, chúng làm tâm ô uế, tuệ yếu kém, rồi ly dục, ly ác bất thiện pháp cho đến chứng đắc Tứ thiền, thành tựu an trụ’.
“Này Mục-kiền-liên, khi Tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, cho
đến chứng đắc Tứ thiền, thành tựu an trụ, thì này Mục-kiền-liên, Như
Lai đã đem lại nhiều lợi ích cho Tỳ-kheo niên thiếu, nghĩa là khéo
khuyên răn, dạy dỗ, khiển trách.
“Này Mục-kiền-liên, nếu có Tỳ-kheo thượng tôn trưởng lão, phạm
hạnh kỳ cựu, Như Lai lại dạy tiến thêm để thành tựu cứu cánh diệt tận
hết thảy lậu.”
Toán số Mục-kiền-liên lại hỏi:
“Sa-môn Cù-đàm, đối với tất cả đệ tử răn dạy như vậy, khiển trách
như vậy, tất cả đều đạt đến cứu cánh trí, nhất định đến Niết-bàn
chăng?”
Thế Tôn đáp:
“Này Mục-kiền-liên, không phải nhất định đạt đến. Hoặc có người đạt được, hoặc có người không “.
Toán số Mục-kiền-liên lại hỏi:
“Cù-đàm, trong đó nhân duyên gì khi có Niết-bàn, có Niết-bàn đạo
và Sa-môn Cù-đàm hiện tại là Đạo Sư đó, mà có Tỳ-kheo được răn dạy như
vậy, được khiển trách như vậy, thì đạt đến cứu cánh Niết-bàn, nhưng một
số khác lại không đạt đến?”
Thế Tôn nói:
“Này Mục-kiền-liên, Ta muốn hỏi lại ông, hãy tùy theo sự hiểu biết mà trả lời.
“Này Mục-kiền-liên, ý ông nghĩ sao? Ông biết rõ thành Vương xá ở đâu, am tường các con đường đến đó chăng?”
Toán số Mục-kiền-liên đáp:
“Thật vậy, tôi biết rõ thành Vương xá ở đâu và cũng am tường các con đường đến đó.”
Thế Tôn hỏi:
“Này Mục-kiền-liên, nếu có một người muốn đi đến thành Vương xá
để yết kiến vua, người ấy hỏi rằng: ‘Tôi muốn đi đến thành Vương xá để
gặp vua, Toán số Mục-kiền-liên biết rõ thành Vương xá ở đâu, am tường
các đường lộ và đường tắt, có thể chỉ cho tôi chăng?’ Ông nói với người
ấy rằng ‘Từ đây đi về phía Đông, đến thôn kia, rồi từ thôn ấy đến ấp
kia, lần lượt như vậy đi đến thành Vương xá. Những gì ở ngoại thành
Vương xá, những khu vườn xinh đẹp, đất bằng phẳng, những lầu đài, ao
tắm, đủ loại bông hoa, có con sông dài, lại có dòng suối trong, sẽ được
thấy hết, được biết hết’. Người ấy sau khi nghe ông chỉ dẫn rồi, đi chưa
bao lâu bèn bỏ con đường chánh mà đi theo con đường lầm lẫn để trở lui
lại. Những gì ngoại thành Vương xá, rừng cây xinh đẹp, đất bằng phẳng,
lâu
đài, ao tắm, đủ loại cây cối, bông hoa, có con sông dài, có dòng
suối trong, người ấy hoàn toàn không thấy, không biết gì hết.
“Lại có một người khác muốn đi đến thành Vương xá để yết kiến
vua. Người ấy hỏi ông rằng: ‘Tôi muốn đi đến thành Vương xá để gặp vua,
Toán số Mục-kiền-liên biết rõ thành Vương xá ở đâu, am tường các đường
lộ và đường tắt, có thể chỉ cho tôi chăng?’
Ông nói với người ấy rằng: ‘Từ đây đi về phía Đông, đến thôn kia,
rồi từ thôn ấy đến ấp kia, lần lượt như vậy đi đến thành Vương xá.
Những gì ở ngoại thành Vương xá, những khu vườn xinh đẹp, đất bằng
phẳng, những lầu đài, ao tắm, đủ loại bông hoa, có con sông dài, lại có
dòng suối trong, sẽ được thấy hết, được biết hết’.
Người ấy sau khi nghe ông chỉ dẫn, bèn từ đây đi về hướng Đông,
đến thôn kia, từ thôn ấy đi đến ấp kia, lần lượt như vậy cho đến thành
Vương xá. Những gì ở ngoại thành Vương xá, những khu vườn xinh đẹp, đất
bằng phẳng, lâu đài, ao tắm, đủ loại bông hoa, có con sông dài, có dòng
suối trong đều được thấy hết, biết hết.
“Này Mục-kiền-liên, trong đó do nhân gì duyên gì, trong khi có
thành Vương xá, có con đường đến thành Vương xá và có ông hiện tại là
đạo sư đó, nhưng người thứ nhất nghe lời ông chỉ dẫn, chẳng bao lâu đã
bỏ con đường chánh mà đi theo con đường lầm lẫn trở lui lại, rồi những
gì ở ngoài thành Vương xá, những khu vườn xinh đẹp, đất bằng phẳng, lâu
đài, ao tắm, đủ loại bông hoa, có con sông dài, có dòng suối trong, tất
cả người ấy đều không thấy, không biết? Còn người thứ hai khi nghe theo
lời ông chỉ dẫn, từ con đường chánh lần lượt đi đến thành Vương xá,
những gì ở ngoại thành Vương xá, những khu vườn xinh đẹp, đất bằng
phẳng, lâu đài, ao tắm, đủ loại bông hoa, có con sông dài, có dòng suối
trong, thảy đều được thấy hết, được biết hết?”
Toán số Mục-kiền-liên đáp:
“Này Cù-đàm, tôi hoàn toàn vô sự. Có thành Vương xá đó, có con
đường dẫn đến thành Vương xá đó, tôi chỉ làm đạo sư. Người thứ nhất
không tùy theo sự chỉ dẫn của tôi, bỏ con đường chánh mà đi theo con
đường lầm lẫn để trở lui lại. Những gì ở ngoài thành Vương xá, những khu
vườn xinh đẹp, đất bằng phẳng, lâu đài, ao tắm, đủ loại bông hoa, có
con sông dài, có dòng suối trong, tất cả người ấy đều không thấy, không
biết. Người thứ hai khi nghe theo lời tôi chỉ dẫn, từ con đường chánh
lần lượt đi đến thành Vương xá, những gì ở ngoại thành Vương xá, những
khu vườn xinh đẹp, đất bằng phẳng, lâu đài, ao tắm, đủ loại bông hoa, có
con sông dài, có dòng suối trong, thảy đều được thấy hết, được biết
hết.”
Thế Tôn nói rằng:
“Cũng vậy, này Mục-kiền-liên, Ta cũng vô sự. Có Niết-bàn đó, có
con đường dẫn đến Niết-bàn đó, Ta chỉ là Đạo Sư, giáo huấn các Tỳ-kheo
như vậy, khiển trách các Tỳ-kheo như vậy, nhưng có người đạt đến cứu
cánh Niết-bàn, có người lại không. Này Mục-kiền-liên, nhưng tùy theo sở
hành của mỗi Tỳ-kheo mà Thế Tôn ghi nhận sở hành ấy, tức là cứu cánh lậu
tận vậy.”
Toán số Mục-kiền-liên bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, tôi đã hiểu. Bạch Cù-đàm, tôi đã rõ.
“Bạch Cù-đàm, cũng như trên mảnh đất tốt, có khu rừng Sa-la,
trong đó có người giữ rừng Sa-la, sáng suốt, không lười biếng, đối với
gốc rễ của các cây Sa-la, tùy theo thời mà cuốc xới, sang chỗ cao, lấp
chỗ thấp, quét dọn rác, tưới nước, không để sai thời. Nếu bên cạnh có
mọc cỏ tạp ô uế thì nhổ sạch hết. Nếu có những cây đâm ngang, cong queo
thì uốn lại cho thẳng hay tỉa đi. Nếu có những cây mọc rất ngay thẳng
thì chăm sóc, giữ gìn, hằng cuốc xới, quét dọn rác, tưới nước, không để
sai thời. Như vậy, trên mảnh đất tốt, rừng cây Sa-la càng ngày càng sum
suê.
“Bạch Cù-đàm, cũng vậy, có người dua nịnh, dối trá, không biết
thi ân, vô tín, giải đãi, không niệm, không định, ác tuệ, tâm cuồng, các
căn rối loạn, trì giới lơ là, không tu trì phát triển. Sa-môn Cù-đàm,
với những người như vậy không thể cộng sự. Vì sao vậy? Bạch Cù-đàm,
những người như vậy là phạm hạnh ô uế.
“Bạch Cù-đàm, nếu có những người không dua nịnh, cũng không dối
trá, biết thi ân, có tín, tinh tấn, không giải đãi, có niệm, có định và
cũng có trí tuệ, rất mực cung kính, tu tập phát triển. Sa-môn Cù-đàm,
với những người như vậy có thể cộng sự. Vì sao vậy? Bạch Cù-đàm, những
người như vậy là phạm hạnh thanh tịnh.
“Bạch Cù-đàm, cũng như trong các loại căn hương[09], trầm hương là bậc nhất. Vì sao vậy? Bạch Cù-đàm, vì trầm hương đối với các loại căn hương, nó là tối thượng.
“Bạch Cù-đàm, cũng như trong các loại Sa-la thọ hương[10], xích chiên đàn là bậc nhất. Vì sao vậy? Bạch Cù-đàm, vì chiên đàn đối với các thứ sa-la thọ hương, nó là tối thượng.
“Bạch Cù-đàm, cũng như trong các loại thủy hoa, hoa sen xanh là
bậc nhất. Vì sao vậy? Bạch Cù-đàm, vì hoa sen xanh đối với các loại thủy
hoa, nó là tối thượng.
“Bạch Cù-đàm, cũng như trong các thứ hoa trên đất, hoa Tu-ma-na
là bậc nhất. Vì sao vậy? Bạch Cù-đàm, vì Tu-ma-na hoa đối với các loại
lục hoa, nó là tối thượng.
“Bạch Cù-đàm, cũng như trong thế gian, giữa các luận sĩ, Sa-môn
Cù-đàm là bậc nhất. Vì sao vậy? Vì Sa-môn Cù-đàm như một luận sĩ có thể
khuất phục tất cả các ngoại đạo dị học vậy.
“Bạch Thế Tôn, nay con tự quy y Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Cúi
mong Thế Tôn nhận con làm Ưu-bà-tắc. Kể từ hôm nay, trọn đời đều tự quy y
cho đến tận mạng.”
Phật thuyết như vậy. Toán số Mục-kiền-liên và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli, M.107. Gaṇaka-Moggallāna-sutta. Biệt dịch, No.70. Phật Thuyết Số Kinh, Tây Tấn, Pháp Cự dịch.
- [02] Toán số Mục-kiền-liên 算 數 目 犍 連. Pāli: Gaṇaka-Moggallāna, có thể là một nhà toán học.
- [03] Trong bản Hán: quán giác 觀 覺.
- [04] Thường niệm bế tắc 常 念 閉 塞.
- [05] Vị
phẫn tránh cố 謂 忿 諍 故, vì sự phẫn nộ và tranh cãi. Pāli:
yatvādhikaraṇam enam…, do nguyên nhân gì mà… Trong bản Hán, adhikaraṇa,
nguyên nhân, được hiểu là sự tranh cãi.
- [06] Thú hướng bỉ cố 趣 向 彼 故; Pāli: (akusalā dhammā) anvāssaveyyṃ, (các pháp bất thiện) có thể khởi lên (trôi chảy vào tâm).
- [07] Chánh
thân chánh nguyện 正 身 正 願; Pāli: ujuṃ kāyaṃ paṇidhāya, ngồi thẳng lưng.
Trong bản Hán, paṇidhāya (sau khi đặt xuống), được hiểu là paṇidhāna:
ước nguyện.
- [08] Ngũ cái 五 蓋. Pāli: pañca nīvaraṇā.
- [09] Căn hương 根 香, hương liệu từ rễ cây; xem kinh 141 trên. Pāli: mūlagandhā.
- [10] Sa-la thọ hương 娑 羅 樹, loại hương trầm bằng lõi cây; xem kinh 141 trên. Pāli: sāragandhā.
-ooOoo-
145. KINH CÙ-MẶC MỤC-KIỀN-LIÊN[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời, sau khi Đức Phật Bát-niết-bàn chưa bao lâu, Tôn giả A-nan du hóa tại thành Vương xá.
Lúc bấy giờ đại thần Vũ Thế[02], nước Ma-kiệt-đà, đang chỉnh trị thành Vương xá để phòng ngừa dân Bạt-kỳ[03]. Rồi đại thần Vũ Thế sai Cù mặïc Mục-kiền-liên, một người làm ruộng[04], đi đến Trúc lâm, vườn Ca-lan-đà.
Bấy giờ Tôn giả A-nan vào lúc sáng sớm khoác y ôm bát vào thành
Vương xá để khất thực, rồi Tôn giả A-nan nghĩ rằng: “Hãy gác việc khất
thực trong thành Vương xá lại đã. Ta hãy đến chỗ Cù-mặïc Mục-kiền-liên,
người làm ruộng.”
Phạm chí Cù-măïc Mục-kiền-liên[05]
từ xa trông thấy Tôn giả A-nan đi đến, bèn rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch
vai áo đang mặc, chắp tay hướng về Tôn giả A-nan, bạch rằng:
“Kính chào A-nan, lâu nay không thấy đến. Xin mời ngồi trên chỗ này.”
Tôn giả A-nan liền ngồi trên chỗ ngồi đó.
Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên sau khi chào hỏi Tôn giả A-nan, rồi ngồi xuống một bên mà bạch rằng:
“Bạch A-nan, tôi có điều muốn hỏi, mong nghe cho chăng?”
Tôn giả A-nan trả lời rằng:
“Mục-kiền-liên, ông cứ hỏi đi. Tôi nghe xong sẽ suy nghĩ .”
Bèn hỏi rằng:
“Bạch A-nan, có Tỳ-kheo nào sánh ngang với Sa-môn Cù-đàm chăng?”
Trong khi Tôn giả A-nan và Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên đang
thảo luận vấn đề này thì đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà đang đi ủy lạo
những người làm ruộng[06],
đến chỗ của Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên, người làm ruộng. Đại thần
Vũ Thế từ xa trông thấy Tôn giả A-nan ở trong chỗ Phạm chí Cù-mặc
Mục-kiền-liên, người làm ruộng, bèn đi đến chỗ Tôn giả A-nan. Sau khi
chào hỏi xong, ngồi xuống một bên, hỏi rằng:
“Bạch A-nan, vừa rồi cùng với Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên thảo luận vấn đề gì vậy? Vì việc gì mà cùng hội họp ở đây?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Vũ Thế, Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên hỏi tôi rằng ‘A-nan, có Tỳ-kheo nào sánh ngang với Sa-môn Cù-đàm chăng?”
Đại thần Vũ Thế, nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
“A-nan, ngài trả lời ông ấy như thế nào?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Này Vũ Thế, hoàn toàn không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Thế Tôn được.”
Đại thần Vũ Thế, nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
“Vâng, A-nan, không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Thế Tôn được.
Nhưng có Tỳ-kheo nào được Sa-môn Cù-đàm trong lúc tại thế lập nên và nói
rằng ‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa của các
Tỳ-kheo’, và vị ấy nay là nơi nương tựa của các người?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Này Vũ Thế, hoàn toàn không một Tỳ-kheo nào được Thế Tôn, Bậc Tri Kiến[07],
được Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác trong lúc tại thế lập
lên và nói rằng ‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho
các Tỳ-kheo’ và ngày nay đang là chỗ nương tựa cho chúng tôi.”
Đại thần Vũ Thế, nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
“Vâng, A-nan, không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Sa-môn Cù-đàm,
cũng không một Tỳ-kheo nào được Sa-môn Cù-đàm trong lúc tại thế lập lên
rằng ‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các
Tỳ-kheo và ngày nay đang là chỗ nương tựa cho các Tỳ-kheo’ và vị ấy nay
là nơi nương tựa cho các người. Nhưng có Tỳ-kheo nào được chúng Tăng hòa
hiệp và bái lập lên rằng ‘Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn là nơi
nương tựa cho các Tỳ-kheo’, và vị ấy nay đang là nơi nương tựa của các
người?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Này Vũ Thế, cũng không có Tỳ-kheo nào được chúng Tăng hòa hiệp
bái lập lên rằng ‘Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương
tựa cho các Tỳ-kheo’ và vị ấy nay đang là chỗ nương tựa cho chúng tôi.”
Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
“Vâng, A-nan, không một Tỳ-kheo nào sánh ngang với Sa-môn Cù-đàm,
cũng không một Tỳ-kheo nào được Sa-môn Cù-đàm trong lúc tại thế lập lên
rằng ‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các
Tỳ-kheo’ để vị ấy nay đang là nơi nương tựa cho các người. Cũng không
Tỳ-kheo nào được Tăng chúng hòa hiệp bái lập lên rằng ‘Tỳ-kheo này sau
khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’ để vị ấy nay
đang là nơi nương tựa cho các người. Này A-nan, nếu vậy các người hiện
tại không có ai để nương tựa, nhưng cùng sống hòa hiệp, không tranh
chấp, an ổn, đồng nhất một giáo pháp, cùng hiệp nhất như nước với sữa,
khoái lạc du hành như trong lúc Sa-môn Cù-đàm tại thế chăng?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Này Vũ Thế, ông đừng nói rằng chúng tôi không có ai để nương tựa. Vì sao vậy? Thật sự chúng tôi có nơi nương tựa.”
Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà đáp rằng:
“Bạch A-nan, những điều được nói trước và sau sao lại không phù
hợp nhau? A-nan vừa nói như vầy ‘Không một Tỳ-kheo nào sánh ngang Thế
Tôn, cũng không một Tỳ-kheo nào được Thế Tôn, Bậc Tri Kiến, là Như Lai,
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác trong lúc tại thế lập lên rằng ‘Tỳ-kheo này
sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’ để vị ấy nay
đang là nơi nương tựa cho chúng tôi. Cũng không có Tỳ-kheo nào được
chúng Tăng hòa hiệp bái lập lên rằng ‘Tỳ-kheo này sau khi Thế Tôn
Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’ để vị ấy nay là nơi nương
tựa cho chúng tôi’. Nhưng này A-nan, do nhân gì, duyên gì, nay lại nói
rằng ‘Thật sự chúng tôi có nơi nương tựa’?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Này Vũ Thế, chúng tôi không nương tựa nơi người, nhưng nương tựa
nơi pháp. Này Vũ Thế, nếu chúng tôi nương tựa nơi thôn ấp mà sống, vào
ngày mười lăm là ngày thuyết Tùng giải thoát, cùng tập họp ngồi tại một
chỗ. Nếu có Tỳ-kheo nào hiểu biết pháp, chúng tôi thỉnh vị ấy thuyết
pháp cho chúng tôi. Nếu chúng Tăng ấy được thanh tịnh, chúng tôi hoan hỷ
phụng hành pháp mà Tỳ-kheo ấy đã nói. Nếu chúng Tăng ấy không thanh
tịnh, tùy theo pháp được nói, chúng tôi khuyên dạy làm cho đúng[08].”
Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà bạch rằng:
“Bạch A-nan, không phải các ngài khuyên dạy làm cho đúng, nhưng
chính là pháp khuyên dạy làm cho đúng. Như vậy, A-nan, một ít pháp hay
có nhiều pháp thảy đều có thể được tồn tại lâu dài, và như vậy A-nan,
các ngài sống hòa hiệp không tranh chấp, an ổn, đồng nhất một giáo pháp,
cùng hiệp nhất như nước với sữa, khoái lạc du hành như lúc Sa-môn
Cù-đàm tại thế.”
Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
“Này A-nan, có vị nào đáng tôn kính chăng?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Này Vũ Thế, có vị xứng đáng được tôn kính.”
Vũ Thế bạch rằng:
“Bạch A-nan, những điều được nói sao lại trước sau không phù hợp
nhau? A-nan vừa nói như vầy ‘Không một Tỳ-kheo nào sánh ngang Thế Tôn,
cũng không một Tỳ-kheo nào được Thế Tôn trong lúc tại thế lập lên rằng
‘Tỳ-kheo này sau khi Ta Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo” để
vị ấy nay đang là nơi nương tựa cho chúng tôi. Cũng không có một
Tỳ-kheo nào được chúng Tăng hòa hiệp bái lập lên rằng ‘Tỳ-kheo này sau
khi Thế Tôn Niết-bàn sẽ là nơi nương tựa cho các Tỳ-kheo’ để nay vị ấy
đang là nơi nương tựa cho chúng tôi. Nhưng này A-nan, do nhân gì, duyên
gì nay lại nói rằng ‘Có vị xứng đáng được tôn kính’?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Này Vũ Thế, Thế Tôn, bậc Tri kiến, là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, đã có dạy về mười pháp đáng tôn kính[09]. Nếu chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào có mười pháp này, chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, lễ sự Tỳ-kheo ấy.”
“Những gì là mười?
“Này Vũ Thế, Tỳ-kheo tu tập cấm giới, thủ hộ Tùng giải thoát, lại
khéo thu nhiếp oai nghi lễ tiết, thấy tội lỗi nhỏ nhặt cũng thường sanh
lòng lo sợ, thọ trì học giới. Này Vũ Thế, nếu chúng tôi thấy Tỳ-kheo
nào tích cực hành trì tăng thượng giới thì chúng tôi cùng ái kính, tôn
trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy.
“Lại nữa, này Vũ Thế, Tỳ-kheo học rộng nghe nhiều, ghi nhớ không
quên, tích lũy sự bác văn, đối với những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, có nghĩa, có văn, cụ túc thanh tịnh, hiển hiện phạm hạnh, đối
với các pháp như vậy, học rộng nghe nhiều, tụng thuộc cho đến hằng
nghìn, chuyên ý tư duy quán sát, thấy rõ, hiểu sâu[10].
Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào tích cực đa văn thì chúng
tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy.
“Lại nữa, này Vũ Thế, Tỳ-kheo ấy xứng đáng là thiện tri thức,
xứng đáng là thiện bằng hữu, xứng đáng là người bạn đồng hành tốt. Này
Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào thật sự xứng đáng là thiện tri
thức, thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ
sự Tỳ-kheo ấy.
“Lại nữa, này Vũ Thế, Tỳ-kheo ưa thích đời sống viễn ly, thành
tựu cả hai sự viễn ly là thân và tâm. Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy
Tỳ-kheo nào thật sự rất ưa thích đời sống viễn ly thì chúng tôi ái kính,
tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy.
“Lại nữa, này Vũ Thế, Tỳ-kheo ưa thích sự tĩnh tọa, nội hành tĩnh chỉ vắng lặng[11], cũng không rời tư sát, thành tựu quán hạnh, tăng trưởng không hành[12].
Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào rất ưa thích sự tĩnh tọa,
thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự
Tỳ-kheo ấy.
“Lại nữa, này Vũ Thế, Tỳ-kheo tri túc, áo cốt che thân, ăn chỉ để
sống, đi đâu đều mang theo y bát, đi không luyến tiếc. Cũng như con
nhạn mang theo đôi cánh bay liệng trong hư không; cũng vậy, Tỳ-kheo tri
túc, áo cốt che thân, ăn chỉ để sống, đi đâu đều mang theo y bát, đi
không luyến tiếc. Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào rất tri túc
thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự
Tỳ-kheo ấy.
“Lại nữa, này Vũ Thế, Tỳ-kheo thường hành chuyên niệm, thành tựu
chánh niệm, những gì đã tập hành từ lâu, những gì đã từng nghe từ lâu,
hằng ghi nhớ không quên. Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào rất
chánh niệm thì chúng tôi thường ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn
phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy.
“Lại nữa, này Vũ Thế, Tỳ-kheo thường hành tinh tấn, đoạn trừ ác
bất thiện, tu tập các thiện pháp, hằng tự khởi ý, chuyên nhất kiên cố,
đối với các gốc rễ thiện pháp không từ bỏ phương tiện. Này Vũ Thế, khi
chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào rất tinh cần thì chúng tôi cùng ái kính, tôn
trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy.
“Lại nữa, này Vũ Thế, Tỳ-kheo tu hành trí tuệ, quán pháp hưng
suy, được như thật trí, thánh tuệ minh đạt, phân biệt thông suốt để chân
chánh diệt tận sự khổ. Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào tích
cực tu hành trí tuệ thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường,
tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy.
“Lại nữa, này Vũ Thế, Tỳ-kheo các lậu đã diệt tận, chứng đắc vô
lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự tri, tự giác, tự tác chứng,
thành tựu an trụ, biết như thật: ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững,
điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’. Này Vũ Thế, khi chúng
tôi thấy Tỳ-kheo nào các lậu đã diệt tận, thì chúng tôi cùng ái kính,
tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự Tỳ-kheo ấy.
“Lại nữa, này Vũ Thế, Thế Tôn, Bậc Tri Kiến, là Như Lai, Bậc Vô
Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, giảng thuyết mười pháp xứng đáng được tôn
kính này. Này Vũ Thế, khi chúng tôi thấy Tỳ-kheo nào hành mười pháp này
thì chúng tôi cùng ái kính, tôn trọng, cúng dường, tôn phụng, lễ sự
Tỳ-kheo ấy.”
Lúc bấy giờ, đám đông ở đây cất cao tiếng lớn nói[13]:
“Có thể tu tập con đường chánh trực chứ không phải không thể tu.
Nếu ai tu tập con đường chánh trực, chứ không phải không thể tu thì vị
ấy là A-la-hán ở trong đời, xứng đáng ái kính, tôn trọng, cúng dường, lễ
sự. Nếu các ngài đối với con đường chánh trực nên tu tập mà có thể tu
tập, thế thì trong đời các ngài là A-la-hán, xứng đáng ái kính, tôn
trọng, cúng dường, lễ sự[14].”
Rồi đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà cùng với đám tùy tùng nói:
“A-nan, nay đang trú tại đâu?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Tôi đang du hành tại Vương xá này, ở trong Trúc lâm, vườn Ca-lan-đà.”
“A-nan, vườn trúc Ca-lan-đà thật là khả ái, đáng ưa, rất chỉnh
đốn, dễ thích. Ban ngày không ồn ào, ban đêm vắng lặng, không có muỗi
mòng, ruồi nhặng, không lạnh, không nóng. A-nan, ngài thích sống trong
Trúc lâm Ca-lan-đà chăng?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Thật vậy, Vũ Thế, vườn trong Trúc lâm Ca-lan-đà rất khả ái, dễ
ưa, rất chỉnh đốn, dễ thích, ban ngày không ồn ào, ban đêm thì vắng
lặng, không có muỗi mòng, không có ruồi nhặng, không lạnh, không nóng.
Này Vũ Thế, tôi thích trú trong vườn Trúc lâm Ca-lan-đà ấy. Vì sao? Vì
được Tôn giả ủng hộ[15].”
Lúc ấy, đại tướng Bà-nan[16] cũng ở giữõa đám đông ấy. Đại tướng Bà-nan thưa:
“Thật vậy, Vũ Thế, vườn trong Trúc lâm Ca-lan-đà rất khả ái, dễ
ưa, rất chỉnh đốn, dễ thích, ban ngày không ồn ào, ban đêm thì vắng
lặng, không có muỗi mòng, không có ruồi nhặng, không lạnh, không nóng.
Tôn giả ấy thích trú tại Trúc lâm Ca-lan-đà. Vì sao vậy? –Vì Tôn giả này
hành thiền tứ, ưa thích thiền tứ[17].”
Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà nghe xong bèn nói:
“Này đại tướng Bà-nan, trước đây, khi Sa-môn Cù-đàm du hành lạc viên Kim-bệ-la[18],
này đại tướng Bà-nan, lúc bấy giờ tôi nhiều lần đến thăm Sa-môn Cù-đàm.
Vì sao vậy? Sa-môn Cù-đàm hành thiền tứ, ưa thích thiền tứ, tán thán
tất cả thiền tứ.”
Tôn giả A-nan nghe xong, nói rằng:
“Vũ Thế, đừng nói rằng: Sa-môn Cù-đàm tán thán tất cả thiền tứ.
Vì sao vậy? Thế Tôn có khi tán thán thiền tứ, nhưng có khi không tán
thán.”
Đại thần Vũ Thế nước Ma Kiệt lại hỏi:
“A-nan, Sa-môn Cù-đàm không tán thán thiền tứ; nhưng không tán thán loại thiền tứ nào?”
Tôn giả A-nan đáp rằng:
“Vũ Thế, hoặc có người bị trói buộc bởi tham dục mà phát khởi
tham dục, không biết như thật sự xuất yếu. Người ấy vì bị chướng ngại
bởi tham dục cho nên thiền tứ, tăng gia thiền tứ mà trầm trọng thiền tứ[19]. Đó là loại thiền tứ thứ nhất mà Thế Tôn không tán thán.
“Lại nữa, Vũ Thế, hoặc có người bị triền phược bởi sân nhuế mà
móng khởi sân nhuế, không biết như thật sự xuất yếu, người ấy vì bị
chướng ngại bởi sân nhuế cho nên thiền tứ, tăng gia thiền tứ mà trầm
trọng thiền tứ. Vũ Thế, đó là loại thiền tứ thứ hai Thế Tôn không tán
thán.
“Lại nữa, này Vũ Thế, bị triền phược bởi thùy miên mà móng khởi
thùy miên, không biết như thật sự xuất yếu. Người ấy vì bị chướng ngại
bởi thùy miên cho nên thiền tứ, tăng gia thiền tứ, mà trầm trọng thiền
tứ. Vũ Thế, đó là loại thiền tứ thứ ba mà Thế Tôn không tán thán.
“Lại nữa, này Vũ Thế, bị triền phược bởi nghi hoặc mà móng khởi
nghi hoặc, không biết như thật sự xuất yếu. Người ấy vì bị chướng ngại
bởi nghi hoặc cho nên thiền tứ, tăng gia thiền tứ, mà trầm trọng thiền
tứ. Vũ Thế, đó là loại thiền tứ thứ tư Thế Tôn không tán thán.
“Này Vũ Thế, Thế Tôn không tán thán bốn loại thiền tứ này.”
Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà bạch rằng:
“Bạch A-nan, bốn loại tư sát này thật đáng ghét, là những trường
hợp đáng ghét, Sa-môn Cù-đàm không tán thán. Vì sao vậy? Vì là Bậc Chánh
Đẳng Giác vậy.”
Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà lại hỏi:
“A-nan, những loại thiền tứ nào được Sa-môn Cù-đàm tán thán?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Vũ Thế, tỳ-kheo ly dục, ly ác bất thiện pháp, cho đến chứng đắc
Tứ thiền, thành tựu an trụ. Này Vũ Thế, Thế Tôn tán thán bốn loại thiền
tứ này.”
Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà bạch rằng:
“Bạch A-nan, bốn loại thiền tứ này thật đáng tán thán, là những
trường hợp đáng tán thán, được Sa-môn Cù-đàm tán thán. Vì sao vậy? Vì là
Bậc Chánh Đẳng Giác vậy. A-nan, tôi nhiều việc ứ đọng, xin phép cáo
từ.”
Tôn giả A-nan nói:
“Xin cứ tùy ý.”
Rồi đại thần Vũ Thế, nước Ma-kiệt-đà sau khi nghe Tôn giả A-nan
nói, cẩn thận ghi nhớ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh Tôn giả ba vòng
rồi trở lui.
Lúc bấy giờ Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên sau khi đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà đi không bao lâu, bạch rằng:
“Bạch A-nan, phải chăng những điều tôi hỏi đã không được trả lời?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Mục-kiền-liên, quả thật tôi đã không trả lời.”
Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên bạch rằng:
“A-nan, tôi lại có điều muốn hỏi, mong nghe cho chăng?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Mục-kiền-liên, ông cứ hỏi. Tôi nghe xong sẽ suy nghĩ.”
Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên bèn hỏi rằng:
“A-nan, giải thoát và tuệ giải thoát của Như Lai, Bậc Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác và giải thoát của A-la-hán, ba giải thoát này có
sự sai biệt nào và có sự thắng liệt nào chăng?”
Tôn giả A-nan đáp:
“Này Mục-kiền-liên, giải thoát và tuệ giải thoát của Như Lai, Bậc
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác và giải thoát của A-la-hán, ba giải thoát
này không có sai biệt, cũng không có sự thắng liệt.”
Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên bạch rằng:
“Bạch A-nan, mong ngài ở lại đây dùng cơm.”
Tôn giả A-nan im lặng nhận lời.
Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên biết Tôn giả A-nan im lặng nhận lời
bèn rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, tự tay lấy nước, rửa dọn các thức ăn
rất tịnh diệu với các loại nhai và nuốt rất thịnh soạn, tự tay châm
chước cho đến no đủ. Ăn xong, dọn dẹp chén bát, dùng nước rửa xong, lấy
một cái giường nhỏ ngồi riêng một bên nghe pháp. Tôn giả A-nan thuyết
pháp cho ông nghe, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi
bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành
tựu hoan hỷ xong, Tôn giả A-nan đứng dậy ra về[20].
Tôn giả A-nan thuyết như vậy. Đại thần Vũ Thế nước Ma-kiệt-đà và
Phạm chí Cù-mặc Mục-kiền-liên sau khi nghe Tôn giả A-nan thuyết, hoan hỷ
phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Bản Hán, quyển 36. Tương đương Pāli M. 108 Gopaka-Moggallāna-suttam.
- [02] Ma-kiệt-đà đại thần Vũ Thế. Pāli: Vassakāro brāmaṇo Magadhamahāmatto. Xem cht.5, kinh 142.
- [03] Xem kinh 142. Theo bản Pāli, chuẩn bị đánh nhau với Pajjo, chứ không phải với Vajji (Bạt-kỳ).
- [04] Cù-mặc
Mục-kiền-liên điền tác nhân 瞿 默 目 犍 連 田 作 人. Pāli: gopakamogallānassa
brāhmaiassa kammanto, chỗ làm việc của Bà-la-môn Gopaka-Moggallāna.
Trong bản Hán, kammanta, chỗ đang làm việc, được hiểu là kassaka: nông
phu?
- [05] Đoạn trên nói ông là người làm ruộng. Xem cht. trên.
- [06] Hán: ủy lạo điền tác nhân 慰 勞 田 作 人. Pāli: kammante anusaññāyamāno, đang đi thị sát chỗ đang làm việc (công trường).
- [07] Hán:
vị Thế Tôn sở tri kiến 為 世 尊 所 知 見; có lẽ dư chữ sở, vì những nơi khác
trong bản Hán đều cho thấy như vậy. Pāli: tena bhagavatā janatā passatā
arahatā…, bởi Thế Tôn, Bậc Tri Giả, Bậc Kiến Giả, là A-la-hán…
- [08] Pāli:
tasmiṃ ce bhaññamāne hoti bhikkussa āpatti hoti vītakamo, taṃ mayaṃ
yathādhammaṃ yathāsathaaṃ karmati, “nếu trong những điều được thuyết ấy,
có Tỳ-kheo nào vi phạm, chúng tôi khiến vị ấy làm đúng theo Pháp, đúng
theo Luật”.
- [09] Thập pháp nhi khả tôn kính 十 法 而 可 尊 敬. Pāli: dasa pasādaniyā dhammā, mười pháp khả hỷ, khiến cho tin tưởng.
- [10]
Hán: ý sở duy quán, minh kiến thâm đạt 意 所 惟 觀 明 見 深 達. Pāli:
manasānupekkhitā diṭṭhiyā suppaṭividdhā, chiêm nghiệm một cách chuyên ý,
thâm nhập bằng sự thấy rõ.
- [11] Nội hành chánh chỉ 內 行 正 止.
- [12] Tăng trưởng không hành 增 長 空 行.
- [13] Vì các chi tiết không được mạch lạc, không rõ đám đông này là những ai.
- [14]
Đoạn này bản Hán hơi tối nghĩa. Trong bản Pāli, đây là lời của
Vassakāra nói với tướng quân Upananda; đại ý: đối với những vị chân
chánh tu hành, mà nếu các Tỳ-kheo không tôn trọng, thì còn tôn trọng ai?
- [15]
Trong bản Hán: dĩ thế tôn ủng hộ cố 以 世 尊 擁 護 故; có lẽ dư chữ thế. Tham
chiếu Pāli: yathā taṃ tumhādisehi rakkhakehi gopakehi, nhờ những người
ủng hộ, bảo vệ như ngài.
- [16]
Bà-nan 婆 難, Pāli: Upananda senāpati.
- [17]
Hành tứ lạc tứ 行 伺 樂 伺; hành tứ ở đây được hiểu là hành thiền. Pāli:
jhāyino ca jhānasīlino ca, là những người hành thiền, có xu hướng (tập
quán) hành thiền.
- [18]
Kim-bệ-la lạc (hay nhạc?) viên 金 鞞 羅 樂 園; không rõ địa danh này, Có thể
Pāli là Kimbilā, một thị trấn bên bờ sông Hằng, trong một khu rừng tre.
Nhưng trong bản tương đương: Vesāliyaṃ Mahāvane Kūṭāgārasālāyaṃ, ở
giảng đường Trùng các (ngôi nhà lầu) trong rừng Đại lâm thành Vesāli.
- [19]
Tứ, tăng tứ, nhi trọng tứ 伺 增 伺 而 重 伺, có thể hiểu là “dò xét, tăng gia
dò xét, trầm trọng dò xét”. Xem các thí dụ trong kinh số 131 trên.
Pāli: jhāyati pajjhāyati nijjhāyati apajjhāyati: thiền tứ (trầm ngâm suy
nghĩ), mãi miết thiền tứ (= bị dày vò), chìm đắm thiền tứ (= bị thiêu
đốt), chuyên chú thiền tứ. Trong Pāli, động từ jhāyati (Skt. dhyāyati,
danh từ phái sinh: jhāna, Skt. dhyāna, âm: thiền), có nghĩa là tư duy
hay trầm tư; nhưng cũng có nghĩa là thiêu đốt hay hỏa táng (Hán âm:
xà-duy hay trà-tì, hỏa táng; Skt. kṣāyati).
- [20] Đoạn trong ngoặc, bản chữ Hán có thể sót; ở đây, theo những nơi khác, thêm vào cho đủ nghĩa.
-ooOoo-
146. KINH TƯỢNG TÍCH DỤ[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ dị học Ti-lô[02]
vào lúc sáng sớm ra khỏi nước Xá-vệ, đi đến chỗ Phật, cúi đầu làm lễ
rồi ngồi xuống một bên. Phật thuyết pháp cho ông nghe, khuyến phát khát
ngưỡng, thành tựu hoan hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết
pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ xong rồi Phật ngồi im
lặng.
Dị học Ti-lô sau khi được Phật thuyết pháp, khuyến phát khát
ngưỡng, thành tựu hoan hỷ xong, rời chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân
Phật, đi quanh ba vòng rồi lui về.
Bấy giờ, Phạm chí Sanh Văn[03]
ngồi trên cỗ xe trắng rất đẹp, cùng với năm trăm đệ tử, vào lúc sáng
sớm, khi ra khỏi Xá-vệ, đi đến một khu rừng để dạy đệ tử tụng đọc kinh
thơ. Phạm chí Sanh Văn từ xa trông thấy dị học Ti-lô đi đến, bèn hỏi:
“Này Bà-ta[04], mới sáng sớm đã từ đâu về vậy?”
Dị học Ti-lô đáp:
“Này Phạm chí, tôi đi thăm Đức Thế Tôn, lễ sự, cúng dường rồi về đây.”
Phạm chí Sanh Văn hỏi:
“Có biết Sa-môn Cù-đàm ở nơi trống vắng yên tĩnh học trí tuệ chăng[05]?”
Dị học Ti-lô đáp:
“Phạm chí, hạng người nào mà có thể biết Thế Tôn ở nơi trống vắng
yên tĩnh học trí tuệ? Này Phạm chí, nếu biết Thế Tôn ở nơi trống vắng
yên tĩnh, học trí tuệ thì cũng phải bằng Thế Tôn. Nhưng, này Phạm chí,
kinh thơ mà tôi đọc có bốn cú nghĩa[06]
và do bốn cú nghĩa này mà tôi nhất định tin tưởng Thế Tôn là Như Lai,
Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được nói bởi Thế Tôn là toàn
thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng.
“Này Phạm chí, cũng như thợ săn voi rành nghề, đi rảo trong một
khu rừng, ở giữa rừng cây nhìn thấy dấu chân voi to lớn, thấy rồi thì
nhất định tin tưởng con voi này phải là rất lớn mới có dấu chân như vậy.
Này Phạm chí, tôi cũng như vậy. Trong kinh thơ mà tôi đọc có bốn cú
nghĩa, do bốn cú nghĩa này mà tôi nhất định tin rằng Thế Tôn là Như Lai,
Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được nói bởi Thế Tôn là toàn
thiện, Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú hướng.
“Bốn cú nghĩa ấy là thế nào?
“Này Phạm chí, các luận sĩ Sát-lợi có trí tuệ, học rộng, quyết định[07],
có thể khuất phục người đời, không thứ gì là không biết, rồi đem những
điều được thấy mà tạo tác văn chương, lưu hành trong thế gian. Họ nghĩ
như vầy, ‘Ta đến chỗ Sa-môn Cù-đàm hỏi sự việc như vầy, nếu trả lời
được, Ta lại hỏi nữa. Nếu không trả lời được, Ta khuất phục rồi bỏ đi’.
Họ nghe Thế Tôn đang trú tại một thôn ấp nào đó, bèn tìm đến. Sau khi
gặp Thế Tôn, hỏi còn không dám, há lại nói đến sự khuất phục. Này Phạm
chí, kinh thư mà tôi đã đọc dùng được cho cú nghĩa thứ nhất này. Nhân ý
nghĩa này, tôi nhất định tin rằng Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác, pháp được nói bởi Thế Tôn là toàn thiện,
Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú hướng.
“Cũng vậy, những Phạm chí có trí tuệ, những Cư sĩ có trí tuệ,
những luận sĩ Sa-môn có trí tuệ, đa văn, quyết định, có khả năng khuất
phục người đời, không điều gì là không biết, rồi đem những điều được
thấy tạo tác văn chương lưu hành thế gian. Họ nghĩ như vầy, ‘Ta đến chỗ
Sa-môn Cù-đàm hỏi sự việc như vầy, nếu trả lời được, Ta lại hỏi nữa. Nếu
không trả lời được, Ta khuất phục rồi bỏ đi’. Họ nghe Thế Tôn đang trú
tại một thôn ấp nào đó, bèn tìm đến. Sau khi gặp Thế Tôn, hỏi còn không
dám, há lại nói đến sự khuất phục. Này Phạm chí, kinh thư mà tôi đã đọc
dùng được cho cú nghĩa thứ tư này. Nhân ý nghĩa này, tôi nhất định tin
rằng Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được nói
bởi Thế Tôn là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử của Như Lai khéo thú
hướng.
“Này Phạm chí, kinh thơ mà tôi được đọc có bốn cú nghĩa này. Tôi
do bốn cú nghĩa này mà nhất định tin tưởng rằng Thế Tôn là Như Lai, Bậc
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh
chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng.”
Phạm chí Sanh Văn nói rằng:
“Này Bà-ta, ông thật hết sức cúng dường Sa-môn Cù-đàm. Do sở nhân, sở duyên này mà hoan hỷ phụng hành.
Dị học Ti-lô đáp:
“Này Phạm chí, thật vậy, thật vậy, tôi hết sức cúng dường Đức Thế
Tôn ấy và cũng hết sức tán thán. Tất cả thế gian cũng nên cúng dường.”
Lúc bấy giờ Phạm chí Sanh Văn trên xe bước xuống, quỳ gối phải
xuống đất, chắp tay hướng về rừng Thắng, vườn Cấp cô độc ba lần làm lễ:
“Nam mô Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác.”
Ba lần như vậy xong, trở lên cỗ xe trắng rất đẹp, đi đến rừng
Thắng, vườn Cấp cô độc. Đến chỗ xe có thể đi được, rồi xuống xe đi bộ,
tiến về chỗ Phật, chào hỏi xong ngồi xuống một bên, đem câu chuyện mà
Phạm chí Sanh Văn vừa thảo luận với dị học Ti-lô, kể lại hết cho Phật
nghe.
Thế Tôn nghe xong, nói rằng:
“Này Phạm chí, dị học Ti-lô nói thí dụ về dấu chân voi chưa được
hoàn hảo, chưa được trọn vẹn. Thí dụ về dấu chân voi mà được nói một
cách hoàn hảo, trọn vẹn để Ta nói cho ông nghe. Hãy khéo nghe kỹ.
“Này Phạm chí, cũng như thợ săn voi rành nghề, đi vào trong một
khu rừng, ở giữa đám cây rừng, nhìn thấy dấu chân voi to lớn. Thấy rồi,
có thể tin rằng con voi kia phải hết sức to lớn mới có dấu chân như vậy.
“[08]Này Phạm chí, thợ săn voi rành nghề ấy, hoặc giả không tin, vì rằng trong khu rừng ấy có một loại voi cái được gọi là Gia-lê-nậu[09],
thân thể rất cao lớn, nó có dấu chân này. Rồi thợ săn tìm theo dấu
chân. Lại thấy dấu chân voi rất lớn. Thấy rồi có thể tin rằng con voi
này hết sức to lớn mới có dấu chân như vậy.
“Này Phạm chí, thợ săn rành nghề ấy, hoặc giả vẫn không tin, vì
rằng trong khu rừng ấy lại còn có loại voi cái được gọi là Gia-la-lê[10],
thân thể rất cao lớn, nó có dấu chân này. Rồi thợ săn tìm theo dấu chân
này, lại thấy dấu chân voi to lớn. Thấy rồi, có thể tin rằng con voi
này phải hết sức to lớn mới có dấu chân như vậy.
“Này Phạm chí, thợ săn rành nghề ấy, hoặc giả vẫn không tin, vì rằng trong rừng này còn có loại voi cái được gọi là Bà-hòa-nậu[11],
thân thể rất cao lớn, nó có dấu chân này. Bèn đi tìm dấu chân này. Lại
thấy dấu chân voi to lớn. Thấy rồi có thể tin rằng con voi này phải hết
sức to lớn mới có dấu chân này. Thợ săn sau khi tìm theo dấu chân, thấy
dấu chân voi rất lớn. Dấu chân voi rất lớn, vuông vức, rất dài, rất
rộng, toàn thể chu vi bàn chân lún sâu xuống đất, và thấy con voi ấy
hoặc đi lui, hoặc đi tới, hoặc dừng lại, hoặc chạy, hoặc đứng, hoặc nằm.
Thấy con voi ấy rồi bèn nghĩ ‘Nếu có dấu chân lớn ấy tất phải con voi
lơn này’.
“Này Phạm chí, cũng vậy, nếu trong đời xuất hiện Như Lai, Bậc Vô
Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Chúng Hựu; vị ấy
đối với thế gian này, gồm chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ
người đến người, mà tự tri, tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ,
biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã
làm xong, không còn tái sanh nữa’. Vị ấy thuyết pháp, sơ thiện, trung
thiện, hậu thiện, có văn, có nghĩa, trọn đủ thanh tịnh, hiển hiện phạm
hạnh, pháp được vị áy thuyết giảng, hoặc Cư sĩ, hoặc con nhà Cư sĩ, nghe
xong được tín tâm. Sau khi ở trong chánh pháp luật của Như Lai mà được
tín tâm rồi, bèn nghĩ rằng ‘Tại gia chật hẹp, đầy những nhọc nhằn bụi
bặm.
Đời xuất gia học đạo rộng rãi bao la. Ta nay sống tại gia bị những
phiền lớn khóa chặt, không được trọn đời tịnh tu phạm hạnh. Vậy ta hãy
từ bỏ những tài vật ít hay tài vật nhiều, từ giã thân thuộc lớn hay thân
thuộc nhỏ, cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình,
sống không gia đình để học đạo’.
“Người ấy về sau hãy từ bỏ những tài vật ít hay tài vật nhiều, từ
giã thân thuộc lớn hay thân thuộc nhỏ, cạo bỏ râu tóc, khoác áo ca-sa,
chí tín lìa bỏ gia đình, sống không gia đình để học đạo. Vị ấy sau khi
xuất gia, từ giã thân thuộc, thọ yếu pháp Tỳ-kheo, tu tập cấm giới, thủ
hộ Tùng giải thoát; lại khéo thu nhiếp các oai nghi, lễ tiết, thấy những
lỗi nhỏ nhặt cũng thường đem lòng lo sợ, thọ trì học giới.
“Người ấy lìa bỏ sát sanh, đoạn trừ sát sanh, dẹp bỏ dao gậy, có
tàm, có quý, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến côn trùng.
Người ấy đối với sự sát sanh, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự lấy của không cho, đoạn trừ sự lấy của không
cho, chỉ lấy của được cho, vui trong sự lấy của được cho, thường ưa bố
thí, hoan hỷ không keo kiết, không trông chờ báo đáp. Người ấy đối với
sự lấy của không cho, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa phi phạm hạnh, đoạn trừ phi phạm hạnh, siêng tu
phạm hạnh, tinh cần diệu hạnh thanh tịnh vô uế, ly dục, đoạn dâm. Người
ấy đối với sự phi phạm hạnh tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa nói láo, đoạn trừ nói láo, nói lời chắc thật, an
trụ trên sự thật không di động, nói tất cả những lời đều đáng tin,
không lừa gạt thế gian. Người ấy đối với sự nói láo, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa nói hai lưỡi, đoạn trừ nói hai lưỡi, sống không
hai lưỡi, không phá hoại người khác. Không nghe người này nói lại người
kia để phá hoại người này. Không nghe từ người kia nói lại người này để
phá hoại người kia. Chia rẽ thì làm cho hòa hợp, đã hòa hợp thì làm cho
hoan hỷ. Không kết bè đảng, không vui theo bè đảng, không ca ngợi việc
kết bè đảng. Người ấy đối với hai lưỡi, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa lời nói cộc cằn, đoạn trừ nói cộc cằn. Nếu có
lời nói nào mà lời lẽ thô lỗ, tiếng dữ chói tai, mọi người không vui,
mọi người không thích, khiến người khác khổ não, khiến không được định,
đoạn trừ những lời như vậy. Nếu có những lời nào mà ôn hòa, mềm mỏng,
nghe lọt tai, thấm vào lòng, đáng ưa, đáng thích, khiến người khác an
ổn, lời tiếng rõ ràng đầy đủ, không khiến người sợ, khiến người được
định. Nói những lời như vậy. Người ấy đối với sự nói cộc cằn, tâm đã
tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa nói thêu dệt, đoạn trừ nói thêu dệt; nói đúng
thời, nói đúng sự thật, nói đúng pháp, nói đúng nghĩa, nói tịch tịnh,
nói sự ưa thích tịch tịnh, hợp sự việc, hợp thời cơ, khéo khuyến giáo,
khéo khiển trách. Người ấy đối với sự nói thêu dệt, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa việc buôn bán, dẹp bỏ cân đong và đấu hộc; cũng
không nhận hàng hóa, không buộc trói người, không mong đong lừa, cân
thiếu, không vì lợi nhỏ mà xâm hại, gạt gẫm người. Người ấy đối với sự
buôn bán, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận đàn bà góa, đồng nữ, đoạn trừ sự
thâu nhận đàn bà góa, đồng nữ. Đối với sự thâu nhận đàn bà góa, đồng nữ,
người ấy tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận nô tỳ, đoạn trừ sự thâu nhận nô tỳ. Người ấy đối với sự thâu nhận nô tỳ, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận voi, ngựa, bò, dê, đoạn trừ sự thâu
nhận voi, ngựa, bò, dê. Người ấy đối với sự thâu nhận voi, ngựa, bò,
dê, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận gà, heo, đoạn trừ sự thâu gà, heo. Người ấy đối với sự thâu nhận gà, heo, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận ruộng vườn, quán xá, đoạn trừ sự
thâu nhận ruộng vườn, quán xá. Người ấy đối với sự thâu nhận ruộng vườn,
quán xá, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận lúa, thóc, đậu sống, đoạn trừ sự
thâu nhận lúa, thóc, đậu sống. Người ấy đối với sự thâu nhận lúa, thóc,
đậu sống, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa rượu, đoạn trừ rượu. Người ấy đối với sự uống rượu, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa giường cao rộng lớn, đoạn trừ giường cao rộng lớn. Người ấy đối với giường cao rộng lớn, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp; đoạn
trừ tràng hoa, anh lạc, hương bột, phấn sáp. Người ấy đối với tràng hoa,
anh lạc, hương bột, phấn sáp, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa ca, vũ, xướng, kỹ và đi đến xem nghe; đoạn trừ
ca, vũ, xướng, kỹ và đi đến xem nghe. Người ấy đối với ca, vũ, xướng, kỹ
và đi đến xem nghe, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự thâu nhận tiền bạc, đoạn trừ sự thâu nhận tiền bạc. Người ấy đối với sự thâu nhận tiền bạc, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy xa lìa sự ăn quá ngọ, đoạn trừ sự ăn quá ngọ. Người ấy đối với sự ăn quá ngọ, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy sau khi thành tựu Thánh giới tụ này rồi, lại sống hết
sức tri túc, áo chỉ cốt che thân, ăn chỉ cốt nuôi thân, du hành đến đâu
đều mang theo y bát, đi không luyến tiếc, cũng như con nhạn mang theo
đôi cánh bay liệng trong không.
“Người ấy sau khi thành tựu Thánh giới tụ này và hết sức tri túc
rồi, lại thủ hộ các căn, thường niệm sự khép kín, niệm tưởng muốn minh
đạt, thủ hộ niệm tâm mà được thành tựu, hằng mướn khởi ý. Khi mắt thấy
sắc, không chấp thủ sắc tướng, không đắm sắc vị; vì sự phẫn tránh[12] mà thủ hộ căn con mắt, trong tâm không sanh tham lam, ưu não, ác bất thiện pháp, vì thú hướng đến kia[13],
nên thủ hộ căn con mắt. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, khi ý biết pháp
không chấp thủ pháp tướng, không đắm pháp vị; vì sự phẫn tránh mà thủ
hộ ý căn, trong tâm không sanh tham lam, ưu não, ác bất thiện pháp, vì
thú hướng đến kia, nên thủ hộ ý căn.
“Người ấy sau khi thành tựu Thánh giới tụ này và hết sức tri túc,
thủ hộ các căn rồi, lại biết rõ chân chánh sự ra vào, khéo quán sát
phân biệt sự co, duỗi, cúi, ngước, nghi dung chững chạc, khéo đắp
Tăng-già-lê và mang các y bát; đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, nghỉ, nói năng
thảy đều biết rõ chân chánh.
“Người ấy sau khi thành tựu Thánh giới tụ này và hết sức tri túc,
thủ hộ các căn, biết rõ chân chánh sự ra vào rồi lại sống cô độc tại
nơi xa vắng, ở trong rừng vắng, trong rừng sâu, dưới gốc cây, những nơi
trống vắng yên tĩnh, sườn non, động đá, đất trống, lùm cây, hoặc đến
trong rừng, hoặc giữa bãi tha ma. Người ấy sau khi ở trong rừng vắng,
hoặc đến gốc cây, những chỗ không nhàn yên tĩnh, trải ni-sư-đàn, ngồi
xếp kiết già, chánh thân chánh nguyện, hướng niệm nội tâm[14],
đoạn trừ tâm tham lam, không có não hại, thấy tài vật và các nhu dụng
sinh sống của người khác mà không khởi tâm tham lam muốn khiến về mình.
Người ấy đối với tham lam, tâm được tịnh trừ.
“Cũng vậy, đối với sân nhuế, thùy miên, trạo hối, đoạn trừ nghi
hoặc, đối với các thiện pháp không còn do dự. Vị ấy đối với sự nghi
hoặc, tâm đã tịnh trừ.
“Người ấy đoạn trừ năm triền cái này, những thứ làm tâm ô uế, tuệ
yếu kém, ly dục, ly ác bất thiện pháp, có giác có quán, có hỷ lạc do ly
dục sanh, chứng đắc Sơ thiền, thành tựu an trụ.
“Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai khuất, được Như Lai
hành, được Như Lai phục, nhưng người ấy không cho đây là cứu cánh để nói
rằng ‘Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được
Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng’.
“Rồi người ấy giác quán đã dứt, nội tĩnh, nhất tâm, không giác,
không quán, hỷ lạc do định sanh, chứng đắc Nhị thiền, thành tựu an trụ.
“Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai khuất, được Như Lai
hành, được Như Lai phục, nhưng người ấy không cho đây là cứu cánh để nói
rằng ‘Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được
Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng’.
“Rồi người ấy ly hỷ dục, xả, vô cầu, an trụ nơi chánh niệm, chánh
trí, thân cảm lạc thọ, điều mà Thánh nói là Thánh sở xả niệm lạc trụ
thất, đạt đến Tam thiền, thành tựu an trụ.
“Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai khuất, được Như Lai
hành, được Như Lai phục, nhưng người ấy không cho đây là cứu cánh để nói
rằng ‘Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được
Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng’.
“Rồi người ấy lạc diệt, khổ diệt, ưu hỷ vốn cũng đã diệt, không
lạc, không khổ, xả niệm thanh tịnh, đạt đến Tứ thiền, thành tựu an trụ.
“Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai khuất, được Như Lai
hành, được Như Lai phục, nhưng người ấy không cho đây là cứu cánh để nói
rằng ‘Thế Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được
Thế Tôn nói là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng’.
“Người ấy sau khi đạt đến tịnh tâm như vậy, thanh tịnh, không uế,
không phiền, nhu nhuyến, an trụ vững vàng, đạt được bất động tâm, thú
hướng đến sự tác chứng lậu tận trí thông. Người ấy biết như thật đây là
Khổ, biết như thật đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt, đây là Khổ diệt đạo,
biết như thật đây là lậu, biết như thật đây là lậu tận, đây là lậu
diệt, đây là lậu diệt đạo.
“Người ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm giải thoát dục lậu, tâm
giải thoát hữu lậu, vô minh lậu. Giải thoát rồi thì biết mình đã giải
thoát, biết như thật rằng ‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững, điều cần
làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.
“Này Phạm chí, đó gọi là điều được Như Lai khuất, được Như Lai
hành, được Như Lai phục, Người ấy lấy đây làm cứu cánh để nói rằng ‘Thế
Tôn là Như Lai, Bậc Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, pháp được Thế Tôn nói
là toàn thiện, Thánh chúng đệ tử Như Lai khéo thú hướng’.
“Này Phạm chí, ý ông nghĩ sao? Thí dụ về dấu chân voi như vậy là khéo trình bày được trọn vẹn chăng?”
Phạm chí Sanh Văn bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã rõ. Bạch Thế
Tôn, con nay tự quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo Tăng. Cúi mong Thế Tôn
nhận con làm Ưu-bà-tắc, kể từ hôm nay tự quy y cho đến mạng tận[15].”
Phật thuyết như vậy. Phạm chí Sanh Văn và Dị học Ti-lô sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli M.27 Cūḷa-hatthīpadoma-sutta, ví dụ về dấu chân voi.
- [02] Ti-lô dị học 卑 盧 異 學; Pāli: Pilotika-paribbājaka, một du sĩ trẻ, thuộc bộ tộc Vacchāyma.
- [03]
Sanh Văn 生 聞, Jāṇussonī, các kinh tiếp theo sau. Ông được kể
trong số những Bà-la-môn lỗi lạc đương thời Phật. Ông thường ở tại
Xá-vệ và thường đến gặp Phật để thảo luận. A. ghi chép nhiều nhất các
cuộc đối thoại này.
- [04] Bà-ta 婆 磋. Pāli: Vacchāyana, xem chú thích (2) ở trên.
- [05]
Trong bản Pāli: taṃ kiṃ maññati (…) samaṇanassa Gotamasasa
paññāveyyattiyaṃ, paṇḍito…, ông có nghĩ rằng Sa-môn Cù- đàm có trí tuệ
đặc sắc, …, là người thông bác chăng?
- [06] Tứ
cú nghĩa 四 句 義. Pāli: Samaṇne Gotame cattāri padāni, bốn dấu chân nơi
Sa-môn Gatama. Trong Pāli, pada, có nghĩa dấu chân, cũng có nghĩa là câu
văn.
- [07] Hán: quyết định 決 定; bản Paøli: nipuṇe: tinh tế.
- [08] Không tin là voi lớn nhất. Sẽ còn có con lớn hơn nữa.
- [09] Gia-lê-nậu 加 梨 [少/兔] Pāli: Kaṇerukā, tên một loại voi cái.
- [10]
Gia-la-lê 加 羅 梨; Pāli: Kaḷārikā, cũng tên một loại voi cái.
- [11] Bà-hòa-nậu 婆 惒 [少/兔] ; Pāli: Vāmanikā, loại voi cái rất lớn và lùn.
- [12]
Xem cht.5, kinh 144.
- [13]
Xem cht.6, kinh 144.
- [14]
Chánh thân chánh nguyện phản niệm bất hướng 正 身 正 願 反 念 不 向. Pāli: ujuṃ
kāyaṃ paṇidhāya, parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā, giữ thân ngay thẳng;
dựng chánh niệm để trước mặt. Trong bản Pāli, paṇidhāya, “đặt để” trong
bản Hán hiểu là paṇidhāna, “ước nguyện”.
- [15] Đối chiếu kinh số 149 ở sau.
-ooOoo-
147. KINH VĂN ĐỨC[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Phạm chí Sanh Văn[02], sau giữa trưa thong dong tản bộ đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên, bạch rằng:
“Cù-đàm, tôi có điều muốn hỏi, Ngài nghe cho mới dám trình bày.”
Thế Tôn nói:
“Này Phạm chí, muốn hỏi gì xin cứ hỏi.”
Phạm chí Sanh Văn bèn hỏi:
“Đệ tử của Sa-môn Cù-đàm, hoặc có người tại gia, hoặc có người xuất gia học đạo, nhưng vì mục đích gì mà bác văn, tụng tập?”
Thế Tôn đáp:
“Đệ tử của Ta, hoặc tại gia hay xuất gia học đạo mà bác văn, tụng
tập là muốn tự điều phục, muốn tự tịch tịnh, tự tìm cầu cứu cánh tịch
diệt. Này Phạm chí, đệ tử của Ta tại gia hay xuất gia học đạo vì mục
đích này mà bác văn tụng tập.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Này Cù-đàm, bác văn tụng tập có sự sai biệt chăng? Bác văn tụng tập có công đức chăng?”
Thế Tôn nói:
“Này Phạm chí, bác văn tụng tập có sự sai biệt, bác văn tụng tập cũng có công đức.”
Phạm chí Sanh Văn hỏi:
“Cù-đàm, bác văn tụng tập có sự sai biệt gì? Có công đức gì?”
Thế Tôn nói:
“Này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử ban ngày làm các công nghiệp
cốt để mưu cầu lợi ích, nhưng công nghiệp của họ thất bại, không thành.
Khi những công nghiệp của họ thất bại không thành, họ không ưu sầu,
phiền muộn, khóc than; không vật mình, áo não; cũng không phát cuồng.
Này Phạm chí, nếu Đa văn Thánh đệ tử ban ngày làm các công nghiệp mà
những công nghiệp ấy thất bại không thành; dù những công nghiệp ấy đã
thất bại không thành, họ vẫn không ưu sầu phiền muộn, khóc than; không
vật mình áo não; cũng không phát si phát cuồng, này Phạm chí, đó là bác
văn tụng tập có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử có những yêu thương mà
bị đổi thay, tán thất, không còn sum họp, cách biệt chia lìa, nhưng vẫn
không ưu sầu phiền muộn, khóc than; không vật mình áo não, cũng không
phát si phát cuồng. Này Phạm chí, nếu da văn Thánh đệ tử có những yêu
thương mà bị đổi thay, tán thất, không còn sum họp, cách biệt, chia lìa,
nhưng vẫn không ưu sầu, phiền muộn, khóc than; không vật mình áo não,
cũng không phát si phát cuồng, này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập mà
có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử biết rằng những tài
vật sở hữu này thảy đều vô thường, nên nghĩ đến sự xuất gia học đạo. Này
Phạm chí, nếu Đa văn Thánh đệ tử biết rằng những tài vật sở hữu thảy
đều vô thường nên nghĩ đến sự xuất gia học đạo, này Phạm chí, đó là bác
văn tụng tập mà có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử sau khi biết rằng tài
vật sở hữu thảy đều vô thường, bèn cạo bỏ râu tóc, chí tín, lìa bỏ gia
đình, sống không gia đình, học đạo. Này Phạm chí, nếu Đa văn Thánh đệ tử
sau khi biết rằng những sở hữu tài vật thảy đều vô thường, bèn cạo bỏ
râu tóc, khoác áo ca-sa, chí tín lìa bỏ gia đình sống không gia đình học
đạo, này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập mà có sự sai biệt, có công
đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử có thể nhẫn nại đói
khát, lạnh nóng, muỗi mòng, chí rận, gió nắng bức bách, tiếng dữ, gậy
hèo cũng có thể nhẫn; thân thể gặp các thứ bệnh tật rất đau đớn đến gần
như tuyệt mạng và những điều không khả lạc thảy đều có thể nhẫn nại. Này
Phạm chí, nếu Đa văn Thánh đệ tử có thể kham nhẫn đói khát, lạnh nóng,
muỗi mòng, chí rận, gió nắng bức bách, tiếng dữ, gậy hèo cũng có thể
nhẫn; thân thể gặp các bệnh tật rất đau đớn đến gần như tuyệt mạng và
những điều không khả lạc thảy đều có thể nhẫn nại, thì này Phạm chí, đó
là bác văn tụng tập mà có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử nhẫn nại những điều
không hoan lạc. Khi những điều không hoan lạc đã sanh, trong lòng không
hề bị vướng bận. Này Phạm chí, nếu Đa văn Thánh đệ tử nhẫn nại những
điều không hoan lạc; những điều không hoan lạc đã sanh, trong tâm không
hề bị vướng bận, thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập mà có sự sai
biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử nhẫn nại sự sợ hãi.
Khi sự sợ hãi phát sanh, trong tâm không hề bị vướng bận. Này Phạm chí,
nếu Đa văn Thánh đệ tử nhẫn nại sự sợ hãi, khi sự sợ hãi phát sanh,
trong tâm không hề vướng bận, thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập
mà có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử khi sanh khởi ba niệm
ác bất thiện là: niệm dục, niệm nhuế và niệm hại, với ba niệm ác bất
thiện này, trong tâm không hề bị dính trước. Này Phạm chí, nếu Đa văn
Thánh đệ tử phát sanh ba niệm ác bất thiện, niệm dục, niệm nhuế và niệm
hại, với ba niệm ác bất thiện này mà trong tâm không hề bị dính trước,
thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập mà có sự sai biệt, có công đức
này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử ly dục, ly ác bất
thiện pháp, cho đến chứng đắc Tứ thiền, thành tựu an trụ. Này Phạm chí,
nếu Đa văn Thánh đệ tử ly dục, ly ác bất thiện pháp, cho đến chứng đắc
Tứ thiền, thành tựu an trụ, thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập mà
có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử ba kết sử đã đoạn tận,
chứng đắc Tu-đà-hoàn, không đọa pháp ác, quyết định đi đến chánh giác,
tối đa bảy lần tái sanh. Sau khi bảy lần qua lại nhân gian thiên thượng
rồi đạt đến khổ biên. Này Phạm chí, nếu Đa văn Thánh đệ tử ba kết sử đã
đoạn tận, chứng đắc Tu-đà-hoàn, không đọa pháp ác, quyết định đi đến
chánh giác, tối đa bảy lần tái sanh; sau khi bảy lần qua lại nhân gian
và thiên thượng rồi đạt đến khổ biên, thì này Phạm chí, đó là bác văn
tụng tập mà có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử ba kết sử đã đoạn tận,
dâm, nộ và si đã mỏng, chứng đắc Nhất lai, chỉ một lần qua lại thiên
thượng và nhân gian rồi đạt đến khổ biên. Này Phạm chí, nếu Đa văn Thánh
đệ tử ba kết sử đã đoạn tận, dâm, và nộ si đã mỏng, chứng đắc Nhất lai,
chỉ một lần qua lại thiên thượng và nhân gian rồi đạt đến khổ biên, thì
này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập mà có sự sai biệt, có công đức
này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử năm hạ phần kết đã
đoạn tận, sanh vào nơi kia mà Bát-niết-bàn, chứng đắc pháp bất thối,
không trở lại thế gian này. Này Phạm chí, nếu Đa văn Thánh đệ tử năm hạ
phần kết đã đoạn tận, sanh vào nơi kia mà Bát-niết-bàn, chứng đắc pháp
bất thối, không trở lại thế gian này, thì này Phạm chí, đó là bác văn
tụng tập mà có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử có tịch tịnh giải thoát, ly sắc, chứng vô sắc, với định như thế mà[03]
thân tác chứng, thành tựu an trụ, do tuệ quán mà vĩnh viễn đoạn trừ các
lậu. Này Phạm chí, nếu Đa văn Thánh đệ tử có tịch tịnh giải thoát, ly
sắc, chứng vô sắc, với định như thế mà thân tác chứng, thành tựu an trụ,
do tuệ quán mà vĩnh viễn đoạn trừ các lậu, thì này Phạm chí, đó là bác
văn tụng tập mà có sự sai biệt, có công đức này.
“Lại nữa, Đa văn Thánh đệ tử với các như ý túc là thiên nhĩ, tha
tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, các lậu đã đoạn tận, chứng đắc vô
lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời hiện tại mà tự tri,
tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật ‘Sự sanh đã dứt,
phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’.
Này Phạm chí, Đa văn Thánh đệ tử này với các như ý túc là thiên nhĩ, tha
tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, các lậu đã đoạn tận, chứng đắc vô
lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời hiện tại mà tự tri,
tự giác, tự tác chứng, thành tựu an trụ, biết như thật ‘Sự sanh đã dứt,
phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa’,
thì này Phạm chí, đó là bác văn tụng tập mà có sự sai biệt, có công
đức này.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Bạch Thế Tôn, bác văn tụng tập có sự sai biệt này, có công đức
này. Còn có sự sai biệt nào, còn có công đức nào tối thượng, tối diệu,
tối thắng nữa chăng?”
Thế Tôn nói:
“Này Phạm chí, bác văn tụng tập này có sự sai biệt này và với
công đức này không còn có sự sai biệt, không còn có công đức nào tối
thượng, tối diệu, tối thắng nữa.”
Phạm chí Sanh Văn bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã rõ. Bạch Thế
Tôn, con nay tự quy y Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Cúi mong Thế Tôn nhận
con làm Ưu-bà-tắc, kể từ hôm nay trọn đời quy y cho đến tận mạng.”
Phật thuyết như vậy. Phạm chí Sanh Văn sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Không thấy các bản tương đương.
- [02] Xem kinh số 146 trên.
- [03] Như kỳ tượng định; với một thiền định thích hợp nào đó.
-ooOoo-
148. KINH HÀ KHỔ[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Phạm chí Sanh Văn[02], sau giữa trưa thong dong tản bộ đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên, bạch rằng:
“Này Cù-đàm, tôi có điều muốn hỏi, mong Ngài nghe cho, tôi mới dám trình bày.”
Thế Tôn nói:
“Ông muốn hỏi điều gì xin cứ hỏi.”
Phạm chí Sanh Văn bèn hỏi:
“Cù-đàm, người tại gia có những sự khổ nào? Và người xuất gia có những khổ nào?”
Đức Thế Tôn trả lời rằng:
“Người tại gia vì không được tự do mà khổ. Người xuất gia vì tự do mà khổ.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Cù-đàm, tại sao người tại gia vì không được tự do mà khổ? Và tại sao người xuất gia vì tự do mà khổ?”
Thế Tôn đáp:
“Nếu người tại gia mà tiền tài không tăng trưởng, kim ngân, chơn
châu, lưu ly, thủy tinh thảy đều không tăng trưởng; súc mục, lúùa, gạo
cùng nô tỳ, sai dịch cũng không tăng trưởng; lúc bấy giờ người tại gia
ưu sầu, khổ não. Do sự kiện này mà người tại gia có nhiều ưu tư khổ
nhọc, trong lòng mang nhiều sầu bi.
“Này Phạm chí, nếu người xuất gia học đạo mà sống theo dục vọng,
theo sân nhuế, ngu si, lúc bấy giờ xuất gia học đạo có nhiều ưu sầu khổ
não. Do sự kiện này mà có người xuất gia có nhiều ưu tư khổ nhọc, trong
lòng chất nhiều sầu bi.
“Này Phạm chí, như vậy người tại gia vì không được tự do mà khổ, và người xuất gia học đạo vì tự do mà khổ.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Cù-đàm, tại gia có những gì là hoan lạc? Và xuất gia học đạo có những gì là hoan lạc?”
Thế Tôn đáp:
“Tại gia vì tự do mà được hoan lạc, xuất gia học đạo vì không tự do mà được hoan lạc”.
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Cù-đàm, tại sao tại gia vì tự do mà được hoan lạc? Và tại sao xuất gia học đạo vì không tự do mà được hoan lạc?”
Thế Tôn đáp:
“Này Phạm chí, nếu người tại gia mà được tiền tài tăng trưởng,
kim ngân, chơn châu, lưu ly, thủy tinh đều được tăng trưởng; súc mục,
lúa gạo và nô tỳ, sai dịch cũng đều được tăng trưởng. Lúc bấy giờ tại
gia là khoái lạc, hoan hỷ. Do sự kiện này mà người tại gia có nhiều
khoái lạc hoan hỷ.
“Này Phạm chí, người xuất gia học đạo sống không tùy theo dục
vọng, không tùy theo sân nhuế, lúc bấy giờ xuất gia học đạo là khoái lạc
hoan hỷ. Do sự kiện này mà người xuất gia học đạo có nhiều khoái lạc
hoan hỷ.
“Này Phạm chí, như vậy người tại gia vì tự do mà được hoan lạc, người xuất gia vì không tự do mà được hoan lạc.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Cù-đàm, do sự kiện nào mà chư Thiên và Nhân loại nhất định không
có lợi nghĩa? Do sự kiện nào mà chư Thiên và Nhân loại tất có lợi
nghĩa?”
Thế Tôn đáp:
“Này Phạm chí, nếu chư Thiên và Nhân loại đấu tranh lẫn nhau, tất
không có lợi nghĩa. Nếu chư Thiên và Nhân loại không đấu tranh lẫn nhau
tất có lợi nghĩa.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Cù-đàm, tại sao nếu chư Thiên và Nhân loại đấu tranh lẫn nhau,
tất không có lợi nghĩa? Và tại sao chư Thiên và Nhân loại không đấu
tranh lẫn nhau tất có lợi nghĩa?”
Thế Tôn đáp:
“Này Phạm chí, lúc nào chư Thiên, nhân loại đấu tranh thù nghịch,
lúc bấy giờ chư Thiên, nhân loại có ưu tư, khổ nhọc, sầu bi. Do sự kiện
này mà chư Thiên và Nhân loại có nhiều ưu tư khổ nhọc, sầu bi. Nếu lúc
nào chư Thiên và Nhân loại không đấu tranh thù nghịch, bấy giờ chư Thiên
và Nhân loại được khoái lạc hoan hỷ. Do sự kiện này, chư Thiên và Nhân
loại có nhiều khoái lạc hoan hỷ.
“Này Phạm chí, như vậy chư Thiên và Nhân loại đấu tranh lẫn nhau
tất không có lợi nghĩa. Nếu chư Thiên và Nhân loại không đấu tranh lẫn
nhau tất có lợi nghĩa.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Do sự kiện nào khiến cho chư Thiên, nhân loại nhất định không
được nhiêu ích, phải gặp khổ nhọc? Do sự kiện nào khiến cho chư Thiên và
Nhân loại tất được nhiêu ích, tất được hoan lạc?”
Thế Tôn đáp:
“Này Phạm chí, nếu chư Thiên và Nhân loại sống bằng phi pháp, làm
điều dữ, tất không được nhiêu ích, tất phải khổ nhọc. Nếu chư Thiên và
Nhân loại hay sống đúng như pháp, không làm dữ, tất được nhiêu ích, tất
được hoan lạc.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Cù-đàm, thế nào là chư Thiên và Nhân loại sống bằng phi pháp và
làm điều dữ để nhất định không được nhiêu ích, nhất định phải khổ nhọc?
Thế nào là chư Thiên và Nhân loại sống đúng như pháp và không làm điều
dữ để nhất định được nhiêu ích, được hoan lạc?”
Thế Tôn nói:
“Này Phạm chí, chư Thiên và Nhân loại thân làm điều phi pháp và
làm điều dữ, miệng và ý làm điều phi pháp và làm điều dữ, lúc bấy giờ
chư Thiên và Nhân loại tất sẽ tổn giảm, A-tu-la tất sẽ hưng thạnh. Này
Phạm chí, nếu chư Thiên và Nhân loại mà thân làm đúng như pháp, thủ hộ
thân và ý làm đúng như pháp, thủ hộ miệng và ý, thì bấy giờ chư Thiên và
Nhân loại tất sẽ hưng thạnh, A-tu-la tất sẽ tổn giảm.
Này Phạm chí, như vậy chư Thiên và Nhân loại nếu sống bằng phi
pháp và làm điều dữ, tất không được ích lợi, tất phải khổ nhọc. Nếu chư
Thiên và Nhân loại sống đúng như pháp, không làm điều dữ, tất được ích
lợi, tất được hoan lạc.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Cù-đàm, nên quán sát ác tri thức như thế nào?”
Thế Tôn đáp:
“Hãy quán sát ác tri thức như mặt trăng.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Thế nào là quán sát ác tri thức như mặt trăng?”
Thế Tôn đáp:
“Như mặt trăng dần đến biến mất, càng ngày càng giảm, vành trăng
cũng giảm, ánh sáng cũng giảm, hình sắc cũng giảm, càng lúc càng khuyết
dần.
Này Phạm chí, rồi đến một lúc mặt trăng biến mất hẳn, không còn
thấy nữa. Này Phạm chí, người ác tri thức đối với chánh pháp luật của
Như Lai cũng có được tín tâm, nhưng người ấy được tín tâm rồi, về sau
lại không hiếu thuận, cũng không cung kính, hành vi trái ngược, không
vững chánh trí, không hướng đến pháp tùy pháp; người ấy bèn mất tín tâm,
mất trì giới, bác văn, thí, xả, và trí tuệ cũng mất luôn.
Này Phạm chí, cho đến lúc thiện pháp nơi ác tri thức ấy hoàn toàn
tiêu diệt, cũng như mặt trăng mất hút. Này Phạm chí, như vậy hãy quán
sát ác tri thức như mặt trăng.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Cù-đàm, nên quán sát thiện tri thức như thế nào?”
Thế Tôn đáp:
“Này Phạm chí, hãy quán sát thiện tri thức như mặt trăng.”
Phạm chí Sanh Văn lại hỏi:
“Cù-đàm, thế nào là quán sát thiện tri thức như mặt trăng?”
Thế Tôn đáp:
“Này Phạm chí, cũng như mặt trăng trong thời mới mọc, còn non,
trong vắt, càng ngày càng tăng trưởng. Này Phạm chí, cho đến một lúc,
vào ngày mười lăm trong tháng, vành trăng tròn đầy. Này Phạm chí, cũng
vậy, thiện tri thức đối với pháp luật của Như Lai mà có được tín tâm,
người ấy được tín tâm rồi, sau đó lại có hiếu thuận, cung kính, hành vi
tùy thuận, vững vàng trên chánh trí, hướng đến pháp tùy pháp. Người ấy
lúc bấy giờ tăng trưởng tín, trì giới, bác văn, thí xả, trí tuệ cũng
tăng trưởng. Này Phạm chí, cho đến một lúc, thiện pháp nơi thiện tri
thức ấy được trọn đủ như mặt trăng ngày rằm vậy. Này Phạm chí, như vậy
hãy quán sát thiện tri thức như mặt trăng.”
- Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng này:
- Như thể trăng tròn không bợn,
- Du hành trong khoảng hư không;
- Sáng lấp muôn ngàn tinh đẩu,
- Rạng ngời một cõi mênh mông.
- Cũng vậy, tín tâm, bác văn,
- Thi ân, độ lượng, bao dung;
- Sáng lấp trần gian bỏn sẻn,
- Rạng ngời thí xả mênh mông.
- Như thể đại long thần lực,
- Kéo mây, nổi sóng, điện giăng,
- Mưa đổ nước trào lai láng,
- Tràn đầy mặt đất mênh mông.
- Cũng vậy, tín tâm, bác văn,
- Thi ân, độ lượng, bao dung,
- Ẩm thực cho người no đủ,
- Hằng khuyên thí xả gia tăng.
- Như thể sấm truyền vang dội,
- Như trời hắt trận mưa rào;
- Phước thí như mưa quảng đại,
- Cơn mưa thí chủ dâng cao.
- Đời này tiền tài, danh dự,
- Đời sau cõi thiện sanh lên,
- Phước báo người này lãnh thọ
- Chết rồi tất sẽ sanh thiên.
Phật thuyết như vậy. Phạm chí Sanh Văn sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli: A. 5. 31 Sumanā. Tham chiếu Hán, No.125(17.8).
- [02] Xem các
Kinh 146, 147 trên.
-ooOoo-
149. KINH HÀ DỤC[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ, Phạm chí Sanh Văn, sau giữa trưa thong dong tản bộ đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi xuống một bên, bạch rằng:
“Cù-đàm, tôi có điều muốn hỏi, mong Ngài nghe cho, tôi mới dám trình bày.”
Đức Thế Tôn nói:
“Ông muốn hỏi điều gì xin cứ hỏi.”
Phạm chí Sanh Văn hỏi rằng:
“Cù-đàm, người Sát-lợi ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập bằng cái gì? Y cứ trên sự gì? Có mục đích gì[02]?”
Thế Tôn đáp:
“Người Sát-lợi ước muốn được tài vật, thực hành nơi trí tuệ, thiết lập bằng gươm dao[03], y cứ trên nhân dân[04], lấy tự do làm mục đích.”
Phạm chí Sanh Văn hỏi:
“Người Cư sĩ ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ trên sự gì? Có mục đích gì?”
Thế Tôn đáp:
“Người Cư sĩ ước muốn được tài vật. Thực hành nơi trí tuệ. Thiết
lập bằng kỹ thuật. Y cứ trên nghề nghiệp. Lấy sự cứu cánh của nghề
nghiệp làm mục đích”.
Phạm chí Sanh Văn hỏi:
“Cù-đàm, đàn bà ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ trên sự gì? Có mục đích gì?”
Thế Tôn đáp:
“Đàn bà ước muốn được đàn ông. Thực hành sự trang điểm. Thiết lập bằng con cái. Y cứ trên sự không đối thủ[05]. Lấy tự do làm mục đích.”
Phạm chí Sanh Văn hỏi:
“Cù-đàm, trộm cướp ước muốn cái gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ trên sự gì? Có mục đích gì?
Thế Tôn đáp:
“Trộm cướp ước muốn lấy của không cho. Thực hành nơi chỗ lén lút.
Thiết lập bằng gươm dao. Y cứ nơi bóng tối. Lấy sự không bị khám phá
làm mục đích “.
Phạm chí Sanh Văn hỏi:
“Cù-đàm, người Phạm chí ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ trên sự gì? Có mục đích gì?”
Thế Tôn đáp:
“Người Phạm chí ước muốn được tài vật. Thực hành nơi trí tuệ. Thiết lập bằng kinh thơ[06]. Y cứ trên trai giới[07]. Lấy Phạm thiên làm mục đích.”
Phạm chí Sanh Văn hỏi:
“Sa-môn ước muốn gì? Thực hành cái gì? Thiết lập cái gì? Y cứ trên sự gì? Có mục đích gì?”
Thế Tôn đáp:
“Sa-môn ước muốn được chân lý[08], thực hành nơi trí tuệ, thiết lập bằng giới, y cứ trên vô xứ[09], lấy Niết-bàn làm mục đích.”
Phạm chí Sanh Văn bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã rõ. Bạch Thế
Tôn, nay con xin tự quy y Phật, Pháp và Tỳ-kheo Tăng. Cúi mong Thế Tôn
nhận con làm Ưu-bà-tắc, kể từ hôm nay con trọn đời tự quy y cho đến lúc
mạng tận.”
Phật thuyết như vậy. Phạm chí Sanh Văn sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Bản Hán, quyển 37. Tương đương Pāli: A.6. Khattiya. Tham chiếu, Hán, No.125 (37.8).
- [02] Hán:
hà dục hà hành hà lập hà y hà ngật 何 欲 何 行 何 立 何 依 何 訖. Pāli:
kim-adhippayā kim-upavicārā kim-adhiṭṭhānā kim-abhinivesā
kim-pariyosanā, ham muốn gì, tâm niệm gì (cận hành), y cứ gì, tham vọng,
cứu cánh gì?
- [03] Sở lập dĩ đao 所 立 以 刀. Pāli: balādhiṭṭhānā, chấp cứ sức mạnh. Có lẽ bản Hán chép nhầm đao 刀 thay vì lực 力.
- [04] Y ư nhân dân 依 於 人 民. Pāli: pathavībhinivesā, tham vọng cõi đất (chinh phục).
- [05] Vô đối 無 對. Pāli: asapatī, không vợ nhỏ của chồng.
- [06] Pāli: mantadhiṭṭhānā, chấp chú thuật.
- [07] Hán: trai giới 齋 戒, cần hiểu là trai tự hay tế tự. Pāli: yaññābhinivesā.
- [08] Hán: chân đế 真 諦. Pāli: khantisoraccādhippayā, nhẫn nhục và nhu hòa.
- [09] Pāli: ākiñcanābhinivesā, vô sở hữu, không có gì.
-ooOoo-
150. KINH UẤT-SẤU-CA-LA[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương xá, trú trong Trúc lâm, vườn Ca-lan-đa.
Bấy giờ Phạm chí Uất-sấu-ca-la[02], sau giữa trưa, thong dong tản bộ đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi sang một bên, bạch rằng:
“Thưa Cù-đàm, tôi có điều muốn hỏi, mong Ngài nghe cho mới dám trình bày.”
Thế Tôn nói:
“Hãy cứ tùy ý mà hỏi.”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la bèn hỏi rằng:
“Thưa Cù-đàm, Phạm chí thiết lập bốn loại phụng sự cho bốn chủng
tánh, tức thiết lập loại phụng sự cho Phạm chí, loại phụng sự cho
Sát-lợi, cho Cư sĩ[03], cho Công sư[04].
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại phụng sự cho Phạm chí, tức
là Phạm chí phải phụng sự Phạm chí; Sát-lợi, Cư sĩ và Công sư cũng phải
phụng sự Phạm chí. Này Cù-đàm, bốn chủng tánh này phải phụng sự Phạm
chí.
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại phụng sự cho Sát-lợi tức là
Sát-lợi phải phụng sự cho Sát-lợi; Cư sĩ và Công sư cũng phải phụng sự
cho Sát-lợi. Này Cù-đàm, ba chủng tánh này phải phụng sự Sát-lợi.
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại phụng sự cho Cư sĩ, tức là
Cư sĩ phải phụng sự Cư sĩ, Công sư cũng phải phụng sự Cư sĩ. Này Cù-đàm,
hai chủng tánh này phải phụng sự cho Cư sĩ.
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại phụng sự cho Công sư, tức là
Công sư phải phụng sự Công sư. Ai thấp hèn hơn nữa để được chủ trương
phải phụng sự Công sư? Duy chỉ có Công sư phụng sự Công sư.”
Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Phạm chí, các Phạm chí có tự mình biết rõ[05]
khi thiết lập bốn loại phụng sự cho bốn chủng tánh này; thiết lập loại
phụng sự cho Phạm chí, thiết lập loại phụng sự cho Sát-lợi, cho Cư sĩ,
cho Công sư?”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la đáp:
“Không biết rõ, Cù-đàm. Nhưng các Phạm chí tự nói như vầy, ‘Ta ở
trong đời này, chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người đến trời,
Phạm chí không tự mình biết rõ khi thiết lập bốn loại phụng sự cho bốn
chủng tánh, tức thiết lập loại phụng sự cho Phạm chí, thiết lập loại
phụng sự cho Sát-lợi, thiết lập loại phụng sự cho Cư sĩ, thiết lập loại
phụng sự cho Công sư’.”
Thế Tôn nói:
“Này Phạm chí, cũng như một người đưa cho người khác một miếng
thịt, bắt ép và nói rằng ‘Này ông bạn, hãy ăn đi và hãy trả tiền cho
tôi’. Này Phạm chí, ngươi nói cho các Phạm chí ấy cũng giống như vậy. Vì
sao? Vì Phạm chí không tự mình biết rõ khi thiết lập bốn loại phụng sự
cho bốn chủng tánh, tức thiết lập loại phụng sự cho Phạm chí, thiết lập
loại phụng sự cho Sát-lợi, cho Cư sĩ, cho Công sư.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Này Phạm chí, thế nào là phụng sự? Có loại phụng sự, do sự phụng
sự này mà chỉ có hạ liệt, chứ không có sự ưu thắng. Loại phụng sự này
chăng? Có loại phụng sự, do sự phụng sự này mà có sự ưu thắng, chứ không
có sự hạ liệt. Loại phụng sự này chăng?
“Này Phạm chí, nếu phụng sự Phạm chí và do sự phụng sự này mà có sự hạ liệt chứ không có sự ưu thắng. Loại phụng sự này chăng?
“Phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư, do sự phụng sự này mà có sự hạ liệt chứ không có sự ưu thắng. Loại phụng sự này chăng?
“Này Phạm chí, nếu phụng sự Phạm chí, do sự phụng sự này mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt. Loại phụng sự này chăng?
“Phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư, do sự phụng sự này mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt. Loại phụng sự này chăng?”
Uất-sấu-ca-la đáp:
“Cù-đàm, nếu tôi phụng sự và do sự phụng sự này mà có sự hạ liệt chứ không có sự ưu thắng, tôi không nên phụng sự như vậy.
“Nếu tôi phụng sự, do sự phụng sự này mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt, tôi nên phụng sự như vậy.
“Này Cù-đàm, nếu phụng sự Phạm chí và do sự phụng sự này mà có sự
hạ liệt chứ không có sự ưu thắng, tôi không nên theo loại phụng sự này.
“Nếu phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự phụng sự này mà có
sự hạ liệt chứ không có sự ưu thắng, tôi không nên phụng sự như vậy.
“Này Cù-đàm, nếu phụng sự Phạm chí và do sự phụng sự này mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt, tôi nên phụng sự như vậy.
“Nếu phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự phụng sự này mà có
sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt, tôi nên phụng sự như vậy.”
Thế Tôn nói:
“Này Phạm chí, nếu lại có một Phạm chí đến đây, người ấy không
phải ngu, không phải si, cũng không phải điên đảo, tâm không điên đảo,
tự do tự tại, rồi Ta hỏi Phạm chí ấy rằng: ‘Này Phạm chí, ý ông nghĩ
sao? Nếu có loại phụng sự, do loại phụng sự ấy mà có sự hạ liệt chứ
không có sự ưu thắng. Loại phụng sự này chăng? Nếu có loại phụng sự, do
sự phụng sự này mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt. Loại phụng sự
này chăng? Này Phạm chí, nếu phụng sự Phạm chí, do sự phụng sự này mà
có sự hạ liệt chứ không có sự ưu thắng. Loại phụng sự này chăng? Phụng
sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự phụng sự này mà có sự hạ liệt chứ
không có sự ưu thắng. Loại phụng sự này chăng? Nếu phụng sự Phạm chí và
do sự phụng sự này mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt. Loại phụng
sự này chăng? Phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự phụng sự này
mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt. Loại phụng sự này chăng?’
“Này Phạm chí, nếu người Phạm chí ấy không phải ngu, không phải
si, không phải điên đảo, tâm không điên đảo, tự do tự tại, trả lời Ta
rằng: ‘Cù-đàm, nếu tôi phụng sự và do sự phụng sự này mà có sự hạ liệt
chứ không có sự ưu thắng, tôi không nên phụng sự như vậy. Nếu tôi phụng
sự và do sự phụng sự này mà có sự ưu thắng chứ không có sự hạ liệt, tôi
nên phụng sự như vậy.
‘Này Cù-đàm, nếu phụng sự Phạm chí và do sự phụng sự này mà có sự
hạ liệt chứ không có sự ưu thắng, tôi không nên phụng sự như vậy. Nếu
phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự phụng sự này mà có sự hạ liệt
chứ không có sự ưu thắng, tôi không nên phụng sự như vậy.
‘Này Cù-đàm, nếu phụng sự Phạm chí và do sự phụng sự này mà có sự
ưu thắng chứ không có sự hạ liệt, tôi nên phụng sự như vậy. Nếu phụng
sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự phụng sự này mà có sự ưu thắng chứ
không có sự hạ liệt, tôi nên phụng sự như vậy’.”
Rồi Thế Tôn lại hỏi:
“Này Phạm chí, ý ông nghĩ sao? Nếu có loại phụng sự và do sự
phụng sự này mà mất tín, giới, văn, thí xả và tuệ. Loại phụng sự này
chăng? Nếu có loại phụng sự và do sự phụng sự này mà gia tăng tín, giới,
bác văn, thí xả và trí tuệ. Loại phụng sự này chăng? Này Phạm chí, nếu
phụng sự Phạm chí và do sự phụng sự này mà mất tín, giới, bác văn, thí
xả, trí tuệ. Loại phụng sự này chăng? Phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư
và do sự phụng sự này mà mất tín, giới, bác văn, thí xả, trí tuệ. Loại
phụng sự này chăng? Này Phạm chí, nếu phụng sự Phạm chí và do sự phụng
sự này mà gia tăng tín, giới, bác văn, thí xả[06], trí tuệ. Loại phụng sự này chăng? Phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự phụng sự này mà gia tăng tín, giới, bác văn,
thí xả, trí tuệ. Loại phụng sự này chăng?”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la đáp:
“Cù-đàm, nếu tôi phụng sự và do sự phụng sự này mà mất tín, giới, bác văn, thí xả, trí tuệ, tôi không nên phụng sự như vậy.
“Nếu tôi phụng sự và do sự phụng sự này mà gia tăng tín, giới, bác văn, thí xả, trí tuệ, tôi nên phụng sự như vậy.
“Này Cù-đàm, nếu phụng sự Phạm chí và do sự phụng sự này mà mất
tín, giới, bác văn, thí xả, trí tuệ, tôi không nên phụng sự như vậy.
“Phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự phụng sự này mà mất
tín, giới, bác văn, thí xả, trí tuệ, tôi không nên phụng sự như vậy. Này
Cù-đàm, nếu phụng sự Phạm chí và do sự phụng sự này mà gia tăng tín,
giới, bác văn, thí xả, trí tuệ, tôi nên phụng sự như vậy. Nếu phụng sự
Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự phụng sự này mà gia tăng tín, giới, bác
văn, thí xả, trí tuệ, tôi nên phụng sự như vậy.”
Thế Tôn nói:
“Này Phạm chí, nếu có một Phạm chí đến đây, người ấy không phải
ngu, không phải si, cũng không phải điên đảo, tâm không điên đảo, tự do
tự tại và Ta hỏi Phạm chí ấy rằng, ‘Này Phạm chí, ý ông nghĩ sao? Nếu có
loại phụng sự và do sự phụng sự này mà mất tín, giới, bác văn, thí xả,
trí tuệ; loại phụng sự này chăng?
‘Nếu có loại phụng sự và do sự phụng sự này mà gia tăng tín, giới, bác văn, thí xả, trí tuệ; loại phụng sự này chăng?
‘Phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự phụng sự này mà mất
tín, giới, bác văn, thí xả, trí tuệ; loại phụng sự này chăng? Nếu phụng
sự Phạm chí và sự phụng sự này mà gia tăng tín, giới, bác văn, thí xả,
trí tuệ; loại phụng sự này chăng?
‘Phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và sự phụng sự này mà gia tăng tín, giới, bác văn, thí xả, trí tuệ; loại phụng sự này chăng?’
“Này Phạm chí, nếu Phạm chí này không phải ngu, không phải si,
cũng không phải điên đảo, tâm không điên đảo, tự do tự tại, tất cũng sẽ
trả lời Ta như vậy, rằng: ‘Này Cù-đàm, nếu tôi phụng sự và do sự phụng
sự này mà mất tín, giới, bác văn, thí xả, trí tuệ; tôi không nên phụng
sự như vậy. Nếu tôi phụng sự và do sự phụng sự này mà gia tăng tín,
giới, bác văn, thí xả, trí tuệ; tôi nên phụng sự như vậy. Này Cù-đàm,
nếu phụng sự Phạm chí và do sự phụng sự này mà mất tín, giới, bác văn,
thí xả, trí tuệ; tôi không nên phụng sự như vậy. Phụng sự Sát-lợi, Cư
sĩ, Công sư và do sự phụng sự này mà mất tín, giới, bác văn, thí xả, trí
tuệ; tôi không nên phụng sự như vậy. Này Cù-đàm, nếu phụng sự Phạm chí
và do sự phụng sự này mà gia tăng tín, giới, bác văn, thí xả, trí tuệ;
tôi nên phụng sự như vậy. Phụng sự Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư và do sự
phụng sự này mà gia tăng tín, giới, bác văn, thí xả, trí tuệ; tôi nên
phụng sự như vậy’.”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la bạch rằng:
“Phạm chí thiết lập bốn loại tài vật tự hữu[07] cho bốn chủng tánh, tức thiết lập loại tài vật tự hữu cho Phạm chí, thiết lập loại tài vật tự hữu cho Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư.
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại tài vật tự hữu cho Phạm chí
là, này Cù-đàm, Phạm chí chủ trương rằng, tài vật tự hữu của Phạm chí do
khất cầu[08].
Nếu Phạm chí khinh mạn sự khất cầu, tức là khinh mạn tài vật tự hữu.
Khinh mạn tài vật tự hữu tức là thất lợi. Cũng như người chăn bò không
thể trông chừng bò, tức là thất lợi. Cũng vậy, Phạm chí chủ trương tài
vật tự hữu của Phạm chí là do khất cầu. Nếu Phạm chí khinh mạn sự khất
cầu tức là khinh mạn tài vật tự hữu. Khinh mạn tài vật tự hữu tức là
thất lợi.
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại tài vật tự hữu cho Sát-lợi
là, này Cù-đàm, Phạm chí chủ trương tài vật tự hữu của Sát-lợi là cung
tên. Nếu Sát-lợi khinh mạn cung tên tức là khinh mạn tài vật tự hữu. Nếu
khinh mạn tài vật tự hữu tức là thất lợi. Cũng như người chăn bò mà
không thể trông chừng được bò, tức là thất lợi. Cũng vậy, này Cù-đàm,
Phạm chí chủ trương tài vật của Sát-lợi là cung tên, nếu Sát-lợi khinh
mạn cung tên tức là khinh mạn tài vật tự hữu. Khinh mạn tài vật tự hữu
tức là thất lợi.
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại tài vật tự hữu cho Cư sĩ là,
này Cù-đàm, Phạm chí chủ trương tài vật tự hữu của Cư sĩ là nông nghiệp[09].
Nếu Cư sĩ khinh mạn nông nghiệp tức là khinh mạn tài vật tự hữu. Khinh
mạn tài vật tự hữu tức là thất lợi. Cũng như người chăn bò mà không thể
trông chừng được bò tức là thất lợi. Cũng vậy, này Cù-đàm, Phạm chí chủ
trương tài vật tự hữu của Cư sĩ là nông nghiệp. Nếu Cư sĩ khinh mạn nông
nghiệp tức là khinh mạn tài vật tự hữu. Khinh mạn tài vật tự hữu tức là
thất lợi.
“Này Cù-đàm, Phạm chí thiết lập loại tài vật tự hữu cho Công sư
là, này Cù-đàm, Phạm chí chủ trương tài vật tự hữu của Công sư là gai[10].
Nếu Công sư khinh mạn gai tức là khinh mạn tài vật tự hữu. Khinh mạn
tài vật tự hữu tức là thất lợi. Cũng như người chăn bò mà không thể
trông chừng bò được, tức là thất lợi. Cũng vậy, này Cù-đàm, Phạm chí chủ
trương tài vật tự hữu của Công sư là gai. Nếu Công sư khinh mạn gai tức
là khinh mạn tài vật tự hữu. Khinh mạn tài vật tự hữu tức là thất lợi.”
Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Phạm chí, các Phạm chí có tự biết rõ[11]
khi thiết lập bốn loại tài vật tự hữu cho bốn chủng tánh, nghĩa là
thiết lập loại tài vật tự hữu cho Phạm chí, thiết lập loại tài vật tự
hữu cho Sát-lợi, cho Cư sĩ, cho Công sư chăng?”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la đáp rằng:
“Không tự biết rõ, bạch Cù-đàm, nhưng các Phạm chí tự nói rằng
‘Ta ở trong đời này, chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm chí, từ người đến
trời, Phạm chí không tự mình biết rõ khi thiết lập loại tài vật tự hữu
cho bốn chủng tánh tức là thiết lập loại tài vật tự hữu cho Phạm chí,
thiết lập loại tài vật tự hữu cho Sát-lợi, cho Cư sĩ, cho Công sư.”
Thế Tôn nói rằng:
“Này Phạm chí, cũng như một người đưa cho một người khác một
miếng thịt, bắt ép và nói rằng ‘Này ông bạn, hãy ăn và hãy trả tiền cho
tôi. Này Phạm chí, ngươi nói cho các Phạm chí cũng giống như vậy’. Vì
sao? Vì các Phạm chí không tự mình biết rõ khi thiết lập bốn loại tài
vật tự hữu cho bốn chủng tánh tức thiết lập loại tài vật tự hữu cho Phạm
chí, thiết lập loại tài vật tự hữu cho Sát-lợi, cho Cư sĩ, cho Công sư.
“Nhưng, này Phạm chí, Ta tự mình biết rõ, thấu triệt khi thiết
lập tài vật tự hữu cho mọi người, đó là pháp tịch tịnh, pháp tịch diệt,
pháp giác đạo, pháp thiện thú.”
Rồi Thế Tôn lại hỏi:
“Này Phạm chí, ý ngươi nghĩ sao? Có trường hợp nào mà hư không
này chỉ là sự không dính trước, không trói buộc, không xúc chạm, không
ngăn ngại đối với Phạm chí mà thôi, chứ không đối với Sát-lợi, Cư sĩ hay
Công sư?”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la đáp:
“Này Cù-đàm, hư không này vốn không dính trước, không trói buộc,
không xúc chạm, không ngăn ngại đối với Phạm chí, đối với Sát-lợi, Cư sĩ
hay Công sư cũng vậy.”
“Cũng vậy, này Phạm chí, Ta tự mình biết rõ, thấu triệt khi thiết
lập tài vật tự hữu cho mọi người, đó là pháp tịch tịnh, pháp tịch diệt,
pháp giáo đạo, pháp thiện thú.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Này Phạm chí, ý ngươi nghĩ sao? Có trường hợp nào chỉ riêng Phạm
chí mới có thể hành từ tâm, không kết, không oán, không nhuế, không
tranh; còn Sát-lợi, Cư sĩ và Công sư thì không thể chăng?”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la đáp:
“Cù-đàm, Phạm chí có thể hành từ tâm, không kết, không oán, không nhuế, không tranh. Sát-lợi, Cư sĩ, Công sư cũng vậy.”
“Cũng vậy, này Phạm chí, Ta tự mình biết rõ, thấu triệt khi thiết
lập loại tài vật tự hữu hco mọi người, đó là pháp tịch tịnh, pháp tịch
diệt, pháp giáo đạo, pháp thiện thú.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Này Phạm chí, ý ông nghĩ sao, nếu những người thuộc trong chủng tánh khác nhau[12]
cùng đến đây và giả sử có một người nói với những người ấy rằng, ‘Các
ngươi hãy đến đây, nếu ai sanh trong chủng tộc Sát-lợi hay chủng tộc
Phạm chí thì chỉ những người ấy mới có thể mang bột tắm[13]
đi đến nước để tắm rửa, trừ khử dơ bẩn cho sạch sẽ’. Này Phạm chí, ý
ngươi nghĩ sao? Phải chăng chỉ có những người thuộc chủng tộc Sát-lợi
hay Phạm chí mới có thể mang bột tắm đi tắm rửa, trừ khử dơ bẩn cho sạch
sẽ và những người thuộc chủng tộc Cư sĩ hay không Công sư không thể
mang bột tắm đi đến nước để tắm rửa, trừ khử dơ bẩn cho thật sạch sẽ
chăng? Hay tất cả những người trong một trăm chủng
tộc khác nhau đều có thể mang bột tắm đi đến nước để tắm rửa, trừ
khử dơ bẩn cho thật sạch sẽ?”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la đáp:
“Cù-đàm, tất cả những người trong một trăm chủng tộc khác nhau ấy
đều có thể mang bột tắm đi đến nước để tắm rửa, trừ khử dơ bẩn cho thật
sạch sẽ.”
“Cũng vậy, này Phạm chí, Ta tự mình biết rõ, thấu triệt khi thiết
lập tài vật tự hữu cho mọi người, đó là pháp tịch tịnh, pháp tịch diệt,
pháp giác đạo, pháp thiện thú.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Này Phạm chí, ý ngươi nghĩ sao? Nếu những người trong trăm chủng
tộc khác nhau cùng đến đây và giả sử có một người nói với họ rằng, ‘Các
ngươi hãy đến đây. Nếu ai sanh trong chủng tộc Sát-lợi hay chủng tộc
Phạm chí, thì những người ấy mới có thể dùng cây chiên đàn và sa-la thật
khô làm mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát lửa và bùng cháy’. Này
Phạm chí, ý ngươi nghĩ sao? Phải chăng chỉ chủng tộc Sát-lợi hay chủng
tộc Phạm chí, những người này mới có thể dùng cây chiên đàn và sa-la
thật khô làm mồi lửa, lấy dùi mà dùi cho phát lửa và bùng cháy? Còn
những người thuộc chủng tộc Cư sĩ hay Công sư phải lấy ván máng heo,
máng chó khô, cây Y-lan-đàn và các thứ gỗ xấu khác để làm mồi lửa, rồi
lấy dùi mà dùi cho phát lửa và bùng cháy? Hay tất cả những người trong
chủng
tộc khác đều có thể dùng bất cứ loại cây nào làm mồi lửa, rồi lấy
dùi mà dùi cho phát lửa và bùng cháy?”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la đáp rằng:
“Cù-đàm, tất cả những người trong chủng tộc khác nhau đều có thể
dùng bất cứ loại cây gỗ nào làm mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát lửa
và bùng cháy.”
“Cũng vậy, này Phạm chí, Ta tự mình biết rõ, thấu triệt khi thiết
lập loại tài vật tự hữu cho mọi người. Đó là pháp tịch tịnh, pháp tịch
diệt, pháp giáo đạo, pháp thiện thú.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Này Phạm chí, những người trong chủng tộc khác nhau ấy đều có
thể dùng bất cứ loại cây gỗ nào làm mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát
lửa và bùng cháy. Tất cả những thứ lửa ấy đều có ngọn, có màu sắc, có
sức nóng, có ánh sáng, đều có thể dùng vào công việc lửa. Có trường hợp
nào chỉ độc nhất loại này mới có ngọn, có màu sắc, có sức nóng, có ánh
sáng, có thể dùng vào công việc lửa? Hay chỉ độc nhất loại lửa kia không
có ngọn, không có màu sắc, không có sức nóng, không có ánh sáng, không
thể dùng vào việc lửa? Hay tất cả thứ lửa ấy đều có ngọn, có màu sắc, có
ánh sáng, có thể dùng vào việc lửa?”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la đáp rằng:
“Cù-đàm, những người trong trăm chủng tộc khác nhau đều có thể
dùng bất cứ loại cây gỗ nào để làm mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát
lửa và bùng cháy. Tất cả những thứ lửa ấy đều có ngọn, có màu sắc, có
sức nóng, có ánh sáng, đều có thể dùng vào việc lửa. Nếu nói độc nhất
chỉ có loại lửa này mới có ngọn, có màu sắc, có sức nóng, có ánh sáng và
có thể dùng vào việc lửa, trường hợp này không thể có.Và nếu nói rằng
độc nhất loại lửa kia không có ngọn, không có màu sắc, không có sức
nóng, không có ánh sáng, không thể dùng vào việc lửa, trường hợp này
cũng không thể có.
Nhưng tất cả thứ lửa ấy đều có ngọn, có màu sắc, có sức nóng, có ánh sáng và đều có thể dùng vào việc lửa.”
“Cũng vậy, này Phạm chí, Ta tự mình biết rõ, thấu triệt khi thiết
lập tài vật tự hữu cho mọi người. Đó là pháp tịch tịnh, pháp tịch diệt,
pháp giáo đạo, pháp thiện thú.”
Thế Tôn lại hỏi:
“Này Phạm chí, ý ngươi nghĩ sao? Nếu những người trăm chủng tộc
khác nhau ấy đều có thể dùng bất cứ loại cây gỗ nào để làm mồi lửa, rồi
lấy dùi mà dùi cho phát lửa và bùng cháy, và giả sử có người mang cỏ khô
hay cây khô bỏ vào trong lửa, bốc cháy thành ngọn, thành màu sắc, thành
sức nóng, thành khói. Có trường hợp nào mà ngọn, màu sắc, sức nóng và
khói của lửa này khác với ngọn, với màu sắc, sức nóng và khói của lửa
kia khác nhau chăng?”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la đáp:
“Cù-đàm, nếu những người trăm chủng tộc khác nhau ấy đều có thể
dùng bất cứ loại cây gỗ nào để làm mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát
lửa và bùng cháy, và giả sử có người mang cỏ khô hay cây khô bỏ vào
trong lửa, bốc cháy thành ngọn, thành màu sắc, thành sức nóng, thành
khói, thì tôi đối với ngọn, với màu sắc, sức nóng và khói của kửa kia
không cho rằng có sự khác nhau.”
Thế Tôn nói:
“Cũng vậy, lửa mà Ta đạt được, sự không phóng dật mà Ta đạt được
có khả năng đốt cháy sự phóng dật và mạn cống cao. Ta đối với lửa này
hay lửa kia, không hề chủ trương có sự sai biệt.”
Phạm chí Uất-sấu-ca-la bạch rằng:
“Bạch Thế Tôn, con đã hiểu. Bạch Thiện Thệ, con đã rõ. Bạch Thế
Tôn, con nay xin tự quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo. Cúi mong Thế Tôn
nhận con làm Ưu-bà-tắc. Kể từ hôm nay, trọn đời quy y cho đến mạng tận.”
Phật thuyết như vậy. Phạm chí Uất-sấu-ca-la sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương đương Pāli: M. 96. Esukārisuttaṃ.
- [02] Uất-sấu-ca-la 鬱 瘦 歌 邏; Pāli: Esukārī.
- [03] Cư sĩ 居 士; Pāli: Vessa (Phệ-xá), giai cấp thứ dân. Nơi khác, từ Cư sĩ đồng nhất với Pāli: gahapati, gia chủ, hay trưởng giả.
- [04] Công sư 一 師; Pāli: Sudda (Thủ-đà-la), cùng đinh hay nô lệ.
- [05] Hán:
tự tri 自 知, ở đây nên hiểu là “được đồng ý” theo nghĩa được thí dụ
dưới. Pāli: kiṃ pana… sabbo loko… etad abbhanujānāti, có phải tất cả thế
gian đều đồng ý điều này?
- [06] Nguyên Hán: thứ cơ 庶 幾, chỉ sự rộng lượng, hay cho người khác.
- [07] Pāli: sandhana, tài sản, hay tư hữu.
- [08] Pāli: bhikkhacāriya, sự khất thực.
- [09] Hán: điền tác 田 作. Pāli: kasigorakkha, cày ruộng và nuôi bò.
- [10]
Hán: ma 麻. Bản Pāli: asitabyābhaṅgī, lưỡi liềm và đòn gánh.
- [11]
Xem cht.5 trên.
- [12] Nguyên Hán: bách chủng nhân 百 種 人.
- [13] Nguyên Hán: tháo đậu 澡 豆.
-ooOoo-
151. KINH PHẠM CHÍ A-NHIẾP-HÒA[1]
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy giờ có một số đông Phạm chí ở Câu-tát-la nhóm họp tại học đường, cùng nhau bàn luận như thế này:
“Dòng Phạm chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí
da trắng, ngoài ra đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải
Phạm chí thì không được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ
miệng Phạm thiên, được hóa sanh bởi Phạm thiên. Nhưng Sa-môn Cù-đàm nói,
bốn chủng tánh thảy đều thanh tịnh, với sự giảng giải, hiển thị.”
Những vị ấy nghĩ như thế này:
“Này chư Hiền, ai là người có khả năng đến Sa-môn Cù-đàm, đem sự kiện này đúng như pháp mà cật vấn?”
Họ lại nghĩ như thế này:
“A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp[02]
được cha mẹ sinh ra với sự thọ sanh thanh tịnh, cho đến bảy đời cha mẹ
không dứt tuyệt dòng họ, đời đời không có tiếng xấu, nghe nhiều hiểu
rộng, đọc thuộc bốn kinh điển[03], thấu suốt nhân duyên, chánh văn, hí truyện thứ năm, cú thuyết[04].
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp có khả năng để có thể đến Sa-môn
Cù-đàm, đem sự kiện này đúng như pháp mà cật vấn. Này chư Hiền, hãy đến
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp để nói sự kiện này. Tùy theo những gì
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp nói, chúng ta sẽ ghi nhận.”
Rồi số đông các Phạm chí ở Câu-tát-la đi đến chỗ
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp cùng chào hỏi rồi ngồi qua một bên và
nói rằng:
“Này Ma-nạp, chúng tôi một số đông các Phạm chí ở Câu-tát-la nhóm
họp tại học đường, cùng nhau bàn luận như thế này, ‘Dòng Phạm chí là
hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng, ngoài ra đều là
da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí thì không được
thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm thiên, được hóa
sanh bởi Phạm thiên. Nhưng Sa-môn Cù-đàm nói: bốn chủng tánh thảy đều
thanh tịnh, với sự giảng giải, hiển thị’. Những vị ấy nghĩ như thế này,
‘Này chư Hiền, ai là người có khả năng đến Sa-môn Cù-đàm, đem sự kiện
này đúng như pháp mà cật vấn?’ Họ lại nghĩ như thế này,
‘A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp được cha mẹ sinh ra với sự thọ sanh
thanh tịnh, cho đến bảy đời cha mẹ không dứt tuyệt dòng họ, đời đời
không có tiếng
xấu, nghe nhiều hiểu rộng, đọc thuộc bốn kinh điển, thấu suốt nhân
duyên, chánh văn, hí truyện ngũ, cú thuyết. A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na
Ma-nạp có khả năng để có thể đến Sa-môn Cù-đàm, đem sự kiện này đúng như
pháp mà cật vấn’.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp nói với các Phạm chí rằng:
“Này chư Hiền, Sa-môn Cù-đàm đúng như pháp mà thuyết pháp. Nếu đúng như pháp mà thuyết pháp thì không thể cật vấn.”
Số đông Phạm chí ở Câu-tát-la nói rằng:
“Này Ma-nạp, ngươi chưa bị khuất phục thì chưa thể tự mình chịu
khuất phục trước. Vì sao? Vì A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp do cha mẹ
sinh ra với sự thọ sanh thanh tịnh, cho đến bảy đời cha mẹ không dứt
tuyệt dòng họ, đời đời không làm các việc ác, nghe nhiều hiểu rộng, đọc
thuộc bốn bộ kinh điển, thấu suốt nhân duyên, chánh văn, hí truyện ngũ,
cú thuyết. A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp có khả năng để có thể đến
Sa-môn Cù-đàm, đem sự kiện này đúng như pháp mà cật vấn.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bèn im lặng nhận lời số đông Phạm chí ở Câu-tát-la.
Rồi A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp cùng với số đông Phạm chí ở
Câu-tát-la đến chỗ Phật, cùng chào hỏi, rồi ngồi qua một bên mà bạch
rằng:
“Bạch Cù-đàm, con có điều muốn hỏi, mong Ngài nghe cho chăng?”
Đức Thế Tôn nói rằng:
“Này Ma-nạp, hãy tùy ý mà hỏi.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp hỏi rằng:
“Thưa Cù-đàm, các Phạm chí nói như thế này, ‘Dòng tộc Phạm chí là
hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng, ngoài ra đều
là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí thì không được
thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm thiên, được hóa
sanh bởi Phạm thiên’. Nhưng chưa biết Sa-môn Cù-đàm sẽ nói như thế nào?”
Đức Thế Tôn nói rằng:
“Nay Ta hỏi ngươi, hãy tùy theo sự hiểu biết mà trả lời.
“Này Ma-nạp, ngươi có nghe nói ở nước Dư-ni[05] và Kiếm-phù[06]
chỉ có hai chủng tánh là chủ nhân và đầy tớ; sau khi làm chủ nhân, lại
trở thành đầy tớ; sau khi làm đầy tớ lại trở thành chủ nhân chăng?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, con nghe tại hai nước Dư-ni và Kiếm-phù có hai
chủng tánh, chủ nhân và đầy tớ; chủ nhân làm đầy tớ, đầy tớ làm chủ
nhân.”
“Như vậy, này Ma-nạp, nếu Phạm chí có thú hướng chân chánh thì
Phạm chí ấy được hiểu biết rõ và tự tri đúng như pháp. Sát-lợi, Cư sĩ
hay Công sư nếu hướng đến chân chánh cũng được sự hiểu biết khéo léo và
tự tri đúng như pháp.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, thật là thích thú
với ví dụ này. Nhưng các Phạm chí vẫn nói như thế này, ‘Dòng tộc Phạm
chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng, ngoài ra
đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí thì không
được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm thiên, được
hóa sanh bởi Phạm thiên’.”
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Ma-nạp, ngươi nghĩ sao? Phải chăng chỉ độc nhất có Phạm chí
đối với hư không này mà không bị dính, không bị trói, không bị xúc chạm,
không bị ngăn ngại; còn Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư thì không như vậy
sao?[07]“
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, Phạm chí đối với hư không này không bị dính, không
bị trói, không bị xúc chạm, không bị ngăn ngại; Sát-lợi, Cư sĩ hay Công
sư cũng vậy.”
“Như vậy, này Ma-nạp, nếu Phạm chí có thú hướng chân chánh thì
Phạm chí ấy được hiểu biết rõ và tự tri đúng như pháp. Sát-lợi, Cư sĩ
hay Công sư nếu hướng đến chân chánh cũng được sự hiểu biết khéo léo và
tự tri đúng như pháp.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, thật là thích thú
với ví dụ này. Nhưng các Phạm chí vẫn nói như thế này, ‘Dòng tộc Phạm
chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng, ngoài ra
đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí thì không
được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm thiên, được
hóa sanh bởi Phạm thiên’.”
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Phải chăng chỉ có Phạm chí mới có
thể hành từ tâm, không kết, không oán, không nhuế, không tránh? Còn
Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư thì không như vậy?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, Phạm chí có thể hành từ tâm, không kết, không oán,
không nhuế, không tránh. Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư cũng như vậy.”
“Như vậy, này Ma-nạp, nếu Phạm chí có thú hướng chân chánh thì
Phạm chí ấy được hiểu biết rõ và tự tri đúng như pháp. Sát-lợi, Cư sĩ
hay Công sư nếu hướng đến chân chánh cũng được sự hiểu biết khéo léo và
tự tri đúng như pháp.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, thật là thích thú
với ví dụ này. Nhưng các Phạm chí vẫn nói như thế này, ‘Dòng tộc Phạm
chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng, ngoài ra
đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí thì không
được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm thiên, được
hóa sanh bởi Phạm thiên’.”
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Nếu có những người thuộc một trăm
chủng tộc khác nhau đến, và có người nói với họ rằng, ‘Các ngươi hãy đến
đây. Nếu ai sanh trong chủng tộc Sát-lợi hay chủng tộc Phạm chí thì
những người ấy mới có thể mang bột tắm đến nước mà tắm, tắm rửa thật
sạch cấu bẩn’. Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Chỉ những người trong chủng
tộc Sát-lợi hay chủng tộc Phạm chí thì những người ấy mới có thể mang
bột tắm đến nước tắm rửa cho thật sạch các cấu bẩn chăng? Hay những
người trong chủng tộc Cư sĩ, chúng tộc Công sư, những người này không
thể mang bột tắm đến nước mà tắm rửa cho thật sạch các cấu bẩn? Hay tất
cả mọi người trong một trăm chủng tộc khác nhau vẫn có thể mang đậu tắm
đến nước mà tắm rửa thật sạch các cấu bẩn?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, tất cả mọi người trong trăm chủng tộc khác nhau ấy
đều có thể mang đậu tắm đến nước mà tắm rửa thật sạch các cấu bẩn.
“Như vậy, này Ma-nạp, nếu Phạm chí có thú hướng chân chánh thì
Phạm chí ấy được hiểu biết rõ và tự tri đúng như pháp. Sát-lợi, Cư sĩ
hay Công sư nếu hướng đến chân chánh cũng được sự hiểu biết khéo léo và
tự tri đúng như pháp.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, thật là thích thú
với ví dụ này. Nhưng các Phạm chí vẫn nói như thế này, ‘Dòng tộc Phạm
chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng, ngoài ra
đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí thì không
được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm thiên, được
hóa sanh bởi Phạm thiên’.”
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Nếu có người thuộc một trăm chủng
tộc khác nhau đến, và có người nói với họ rằng, ‘Các người hãy đến đây.
Nếu ai sanh trong chủng tộc Sát-lợi hay chủng tộc Phạm chí, chỉ những
người ấy mới có thể dùng nhánh sa-la rất khô hay gỗ chiên-đàn làm mồi
lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho lửa phát ra và cháy lớn lên’. Này Ma-nạp, ý
ngươi nghĩ sao? Chỉ những người trong chủng tộc Sát-lợi và chủng tộc
Phạm chí, những người này mới có thể dùng nhánh sa-la rất khô hay gỗ
chiên-đàn làm mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát ra lửa và cháy lớn
lên chăng? Hay những người trong chủng tộc Cư sĩ, chủng tộc Công sư,
những người này cũng sẽ dùng nhánh sa-la rất khô, hay gỗ chiên đàn làm
mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát ra lửa và cháy lớn lên? Hay những
người
thuộc một trăm chủng tộc khác nhau đều có thể dùng bất cứ loại gì mà
làm mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho phát ra lửa và cháy lớn lên?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, tất cả những người trong một trăm chủng tộc khác
nhau kia đều có thể dùng bất cứ loại gỗ nào làm mồi lửa, rồ lấy dùi mà
dùi cho phát ra lửa và cháy lớn lên.”
“Như vậy, này Ma-nạp, nếu Phạm chí có thú hướng chân chánh thì
Phạm chí ấy được hiểu biết rõ và tự tri đúng như pháp. Sát-lợi, Cư sĩ
hay Công sư nếu hướng đến chân chánh cũng được sự hiểu biết khéo léo và
tự tri đúng như pháp.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, thật là thích thú
với ví dụ này. Nhưng các Phạm chí vẫn nói như thế này, ‘Dòng tộc Phạm
chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng, ngoài ra
đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí thì không
được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm thiên, được
hóa sanh bởi Phạm thiên’.”
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Ma-nạp, ý ông nghĩ sao? Nếu những người trong một trăm chủng
tộc khác nhau kia đều có thể dùng bất cứ loại gỗ nào làm mồi lửa rồi
lấy dùi mà dùi cho phát ra lửa và cháy lớn lên, phải chăng tất cả lửa ấy
đều có ngọn, có màu sắc, có sức nóng, có ánh sáng, đều có thể dùng vào
các công việc do lửa đem lại? Hay chỉ độc nhất thứ lửa này mới có ngọn,
có màu sắc, có sức nóng, có ánh sáng, có thể dùng vào các công việc do
lửa đem lại? Hay độc nhất thứ lửa kia không có ngọn, không màu sắc,
không sức nóng, không ánh sáng, không thể dùng vào các công việc do lửa
đem lại? Hay tất cả thứ lửa kia đều có ngọn, có màu sắc, có sức nóng, có
ánh sáng, đều có thể dùng vào các công việc do lửa đem lại?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, nếu những người trong một trăm chủng tộc khác nhau
ấy đều dùng bất cứ loại cây nào làm mồi lửa, rồi lấy dùi mà dùi cho lửa
phát ra và cháy lớn lên. Tất cả những thứ lửa ấy đều có ngọn, có màu
sắc, có sức nóng, có ánh sáng, đều có thể dùng vào các công việc do lửa
đem lại. Nếu độc nhất chỉ thứ lửa kia có ngọn, có màu sắc, có sức nóng,
có ánh sáng, có thể dùng vào công việc của lửa, trường hợp này không thể
có. Nếu độc nhất chỉ có thứ lửa kia không có ngọn, không màu sắc, không
sức nóng, không ánh sáng và không thể dùng vào các công việc của lửa,
cũng không có trường hợp đó. Bạch Cù-đàm, nhưng tất cả những thứ lửa kia
đều có ngọn, có màu sắc, có sức nóng, có ánh sáng, đều có thể dùng vào
các công việc do lửa đem lại.”
“Như vậy, này Ma-nạp, nếu Phạm chí có thú hướng chân chánh thì
Phạm chí ấy được hiểu biết rõ và tự tri đúng như pháp. Sát-lợi, Cư sĩ
hay Công sư nếu hướng đến chân chánh cũng được sự hiểu biết khéo léo và
tự tri đúng như pháp.”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bạch rằng:
“Bạch Cù-đàm, thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, thật là thích thú
với ví dụ này. Nhưng các Phạm chí vẫn nói như thế này, ‘Dòng tộc Phạm
chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng, ngoài ra
đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí thì không
được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sinh từ miệng Phạm thiên, được
hóa sanh bởi Phạm thiên’.”
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Ma-nạp, nếu thân này được thọ sanh vào đâu, thì nó được kể
thuộc loại đó. Nếu sanh trong chủng tộc Phạm chí, nó được kể là chủng
tộc Phạm chí. Nếu sanh trong chủng tộc Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư, nó
được kể là chủng tộc Công sư.
“Này Ma-nạp, cũng như tùy theo lửa được phát sanh như thế nào thì
được kể thuộc loại đó, tức đó là số của lửa. Nếu nhân nơi cây mà phát
sanh thì nó được kể là loại lửa cây. Nếu nhân nơi cỏ rác hay củi mà phát
sanh thì nó được kể là loại lửa cỏ, lửa rác, lửa củi.
“Như vậy, này Ma-nạp, thân này được thọ sanh vào đâu thì nó được
kể thuộc loại đó. Nếu sanh trong chủng tộc Phạm chí, nó được gọi là
chủng tộc Phạm chí. Nếu sanh trong chủng tộc Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư
thì nó được gọi là chủng tộc Công sư.”
Đức Thế Tôn hỏi rằng:
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Nếu con gái của Sát-lợi cùng con
trai của Phạm chí hiệp hội với nhau, họ do sự hiệp hội ấy mà sau đó sanh
con, hoặc giống cha nó, hoặc giống mẹ nó, hoặc không giống cả hai. Ý
ngươi nghĩ sao? Đứa trẻ kia là Sát-lợi chăng? Là Phạm chí chăng?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, con gái của Sát-lợi cùng con trai của Phạm chí hiệp
hội với nhau, do sự hiệp ấy mà sau đó sanh con, hoặc giống cha nó, hoặc
giống mẹ nó, hoặc không giống cả hai. Con không nói là Sát-lợi, cũng
không nói là Phạm chí. Bạch Cù-đàm, con chỉ nói là thân khác”.
“Này Ma-nạp, thân này được thọ sanh vào đâu thì nó được kể vào
loại đó. Nếu sanh trong chủng tộc Phạm chí thì nó được kể là chủng tộc
Phạm chí. Nếu sanh trong chủng tộc Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư thì nó
được kể là chủng tộc Công sư.”
Đức Thế Tôn lại hỏi rằng:
“Này Ma-nạp, nếu con gái của Phạm chí cùng con trai của Sát-lợi
hiệp hội với nhau, do sự hiệp hội này mà sau đó sanh con, hoặc giống cha
nó, hoặc giống mẹ nó, hoặc không giống cả hai. Ý ngươi nghĩ sao? Đứa
trẻ kia là Phạm chí chăng? Là Sát-lợi chăng?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, con gái của Phạm chí cùng con trai của Sát-lợi hiệp
hội với nhau, do sự hiệp hội này mà sau đó sanh con, hoặc giống cha nó,
hoặc giống mẹ nó, hoặc không giống cả hai. Con không nói nó là Phạm
chí, cũng không nói nó là Sát-lợi. Bạch Cù-đàm, con chỉ nói nó là thân
khác.”
“Như vậy, này Ma-nạp, thân này được thọ sanh vào đâu thì nó được
kể vào loại đó. Nếu sanh trong chủng tộc Phạm chí thì nó được kể là
chủng tộc Phạm chí. Nếu sanh trong chủng tộc Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư
thì nó được kể là chủng tộc Công sư.”
Đức Thế Tôn lại hỏi:
“Này Ma-nạp, ý ngươi nghĩ sao? Nếu một người có nhiều ngựa cái,
người ấy thả một con lừa đực vào trong đám ngựa cái ấy, chúng cùng con
lừa đực hiệp hội, do sự hiệp hội ấy mà sau đó sanh con ngựa câu. Ý ngươi
nghĩ sao? Nó là con lừa chăng? Là con ngựa chăng?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp đáp rằng:
“Bạch Cù-đàm, nếu ngựa và lừa hiệp hội với nhau, do sự hiệp hội
này mà sau đó sanh ngựa câu. Con không nói nó là lừa, cũng không nói nó
là ngựa. Bạch Cù-đàm, con chỉ nói nó là con la.”
“Như vậy, này Ma-nạp, thân này được thọ sanh vào đâu thì nó được
kể vào loại đó. Nếu sanh trong chủng tộc Phạm chí thì nó được kể là
chủng tộc Phạm chí. Nếu sanh trong chủng tộc Sát-lợi, Cư sĩ hay Công sư
thì nó được kể là chủng tộc Công sư.”
Đức Thế Tôn lại nói rằng:
“Này Ma-nạp, thuở xưa có nhiều vị tiên nhân sống trên một chỗ cao
của rừng vắng. Họ sinh ra ác kiến như thế này, ‘Dòng Phạm chí là hơn
hết, ngoài ra không có ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng, ngoài ra đều là
da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí thì không được
thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, được hóa
sanh bởi Phạm thiên’. Khi ấy, A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la[08]
nghe có nhiều tiên nhân sống trên một chỗ cao của rừng vắng đã sinh ra
ác kiến như thế này rồi, ông khoác áo ca-sa, quấn khăn lên đầu, chống
gậy, cầm lọng, mang guốc vải trắng[09], không theo cửa vào, đến trụ xứ của tiên nhân, đi kinh hành nơi tịnh thất.
“Rồi trên chỗ cao của khu rừng vắng, nói có nhiều tiên nhân sống
chung này, có một tiên nhân thấy A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la khoác áo
ca-sa, quấn khăn lên đầu, chống gậy, cầm lọng, mang guốc vải trắng,
không theo cửa vào, đến trụ xứ của tiên nhân, đi kinh hành nơi tịnh
thất, thấy rồi, bèn đến chỗ những tiên nhân sống chung trên chỗ cao của
khu rừng này và nói như thế này, ‘Này chư Hiền, nay có một người khoác
áo ca-sa, quấn khăn lên đầu, chống gậy cầm lọng, mang guốc vải trắng,
không theo cửa vào, đến trụ xứ của tiên nhân, đi kinh hành nơi tịnh thất
chúng ta nên đến mà chú thuật nó rằng, ‘Ngươi hãy thành tro! Ngươi hãy
thành tro!’
“Rồi số đông các tiên nhân sống chung trên chỗ cao của khu rừng
vắng bèn đến chỗ A-tư-la tiên nhân Đề-bệ-la. Đến rồi, dùng thần chú:
‘Ngươi hãy thành tro! Ngươi hãy thành tro!’, như vậy, như vậy... rồi,
nhưng vị ấy sắc mặt càng thêm rạng rỡ, thân thể càng xinh tươi.
“Chúng tiên nhân kia liền nghĩ như thế này, ‘Trước kia dùng thần
chú ‘Ngươi hãy thành tro! Ngươi hãy thành tro!’, mà hễ chú đến người nào
thì người ấy trở thành tro. Nay chúng ta chú người này ‘Ngươi hãy thành
tro! Ngươi hãy thành tro!’, chúng ta dùng đúng theo thần chú ấy để chú
người này mà sao sắc mặt càng thêm rạng rỡ, thân thể càng xinh tươi? Ta
nên hỏi xem’.
“Họ bèn hỏi:
“–Ông là ai?
“A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la đáp rằng:
“–Này chư Hiền, các ngươi có nghe đến A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la chăng?
Đáp rằng:
“–Chúng tôi có nghe đến A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la.
“Lại nói rằng:
“–Chính là ta đó.
“Các vị tiên nhân kia liền cùng nhau xin lỗi A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la rằng:
“–Mong tha thứ cho. Vì chúng tôi không biết Tôn giả là A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la.
“Khi ấy, A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la nói với các vị tiên nhân kia:
“–Ta đã tha thứ rồi. Có thật các người sinh ác kiến này, ‘Dòng
Phạm chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng,
ngoài ra đều là da đen. Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí
thì không được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm
thiên, được hóa sanh bởi Phạm thiên’ không?
“Các tiên nhân kia đáp rằng:
“–Quả như vậy.
“A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la lại hỏi các tiên nhân rằng:
“–Các người có biết rõ cha mình chăng?
“Các tiên nhân đáp rằng:
“–Biết rõ. Vị Phạm chí ấy lấy vợ là người Phạm chí, chứ không lấy
người không Phạm chí. Cha của cha ấy, cho đến bảy đời đều lấy vợ là
người Phạm chí, không lấy người không phải Phạm chí.
“A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la lại hỏi các tiên nhân kia rằng:
“–Các ông có biết rõ mẹ mình chăng?
“Các tiên nhân kia đáp rằng:
“–Biết rõ. Vị Phạm chí ấy lấy chồng là người Phạm chí, không lấy
người không phải Phạm chí. Mẹ của mẹ ấy, cho đến bảy đời mẹ, những vị
Phạm chí ấy đều lấy chồng người Phạm chí, không lấy người không phải
Phạm chí.
“A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la lại hỏi các tiên nhân rằng:
“–Các người có biết rõ sự thọ thai chăng?
“Các tiên nhân kia đáp rằng:
“–Biết rõ. Do ba sự hiệp hội mà thọ thai, là sự hiệp hội của cha mẹ, thời gian người mẹ có thể thọ thai[10] và hương ấm đã đến[11]. Này A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la, phải hội đủ ba sự này mà có sự nhập thai mẹ.
“A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la lại hỏi các tiên nhân:
“–Nhưng có thể biết sự thọ sanh này là trai hay gái? Biết nó từ
đâu đến? Từ chủng tộc Sát-lợi, từ Phạm chí, Cư sĩ hay Công sư đến chăng?
Từ phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc mà đến chăng?
“Các tiên nhân kia đáp rằng:
“–Không biết.
“A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la lại nói với các tiên nhân kia rằng:
“–Này chư Hiền, các người không thấy nó, không biết nó. Các người
không biết thọ thai ai, nó từ đâu đến, nó là trai hay gái; nó từ
Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ hay Công sư; nó từ phương Đông, phương Nam,
phương Tây, phương Bắc, nhưng các người lại nói như thế này, ‘Dòng Phạm
chí chí là hơn hết, ngoài ra không ai bằng. Dòng Phạm chí da trắng,
ngoài ra đều là da đen, Phạm chí được thanh tịnh, không phải Phạm chí
thì không được thanh tịnh. Phạm chí con Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm
thiên’.
“Này Ma-nạp, các tiên nhân cùng sống chung với nhau trên chỗ cao
của rừng vắng kia bị A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la khéo dạy, khéo quở
trách nên không thể chủ trương Phạm chí là thanh tịnh, huống nữa là các
thầy trò ngươi, những người luống mặc áo da, áo cỏ.”
Khi ấy, A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp bị Thế Tôn chỉ trích
ngay mặt, trong lòng sầu não, cúi đầu im lặng, không biện bạch được một
lời.
Đức Thế Tôn sau khi chỉ trích A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp, Ngài lại muốn khuyên cho Ma-nạp được vui vẻ, bèn hỏi:
“Này Ma-nạp, có Phạm chí trai tự, bố thí; người này có bốn người
con, hai đứa ham học hỏi, hai đứa không học hỏi. Ý Ma-nạp nghĩ sao?
Người Phạm chí này sẽ dành cho ai trước tiên chỗ ngồi bậc nhất, nước tắm
bậc nhất và thức ăn bậc nhất?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp thưa rằng:
“Bạch Cù-đàm, người Phạm chí ấy tất dành cho hai người con ham
học hỏi của mình trước tiên về chỗ ngồi bậc nhất, nước tắm bậc nhất và
thức ăn cũng bậc nhất.”
Đức Thế Tôn lại hỏi rằng:
“Này Ma-nạp, lại có một Phạm chí trai tự, bố thí; Phạm chí này có
bốn người con; hai đứa ham học hỏi nhưng không tinh tấn, thích làm việc
ác; còn hai đứa kia tuy không học hỏi, nhưng rất tinh tấn, thích làm
việc thiện. Ý Ma-nạp nghĩ sao? Phạm chí này trước tiên dành cho ai về
chỗ ngồi bậc nhất, nước tắm bậc nhất và thức ăn bậc nhất?”
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp thưa rằng:
“Bạch Cù-đàm, Phạm chí ấy tất dành cho hai người con tuy không
học vấn nhưng rất tinh tấn, thích làm việc thiện trước tiên về chỗ ngồi
bậc nhất, nước tắm bậc nhất và thức ăn cũng bậc nhất.”
Đức Thế Tôn nói rằng:
“Này Ma-nạp, trước kia ngươi khen ngợi sự học hỏi, sau đó ngươi
khen ngợi sự trì giới. Này Ma-nạp, như vậy Ta nói bốn chủng tánh thảy
đều thanh tịnh, với sự giảng giải hiển thị, ngươi cũng nói bốn chủng
tánh này đều thanh tịnh với sự giảng giải hiển thị.”
Khi ấy, A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ dưới chân Phật.
Bấy giờ đại chúng càng cao giọng mà nói rằng:
“Sa-môn Cù-đàm thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay, có đại như ý
túc, có đại oai đức, có đại phước hựu, có đại oai thần. Vì sao? Bởi vì
Sa-môn Cù-đàm nói ‘Bốn chủng tánh thảy đều thanh tịnh, với sự giảng giải
hiển thị” khiến cho A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp cũng nói theo rằng
‘Bốn chủng tánh thảy đều thanh tịnh, với sự giảng giải hiển thị’.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn biết tâm niệm đại chúng ấy[12], liền bảo:
“Như vậy đủ rồi, này A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp, chỉ cần trong lòng thấy thỏa mãn là được. Hãy trở về ngồi lại chỗ cũ.
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp cúi đầu lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên.
Đức Thế Tôn bèn thuyết pháp cho nghe, khuyến phát khát ngưỡng,
thành tựu hơn hỷ. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp cho
nghe, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ rồi, Ngài ngồi im lặng.
Khi ấy, A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp sau khi được Đức Phật
thuyết pháp, khuyến phát khát ngưỡng, thành tựu hoan hỷ rồi, liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra.
Bấy giờ số đông các Phạm chí ở Câu-tát-la trở về chưa bao xa, dùng đủ thứ ngôn ngữ khiển trách A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp:
“Ngươi muốn làm gì? Muốn khuất phục Sa-môn Cù-đàm, ngược lại bị
Sa-môn Cù-đàm hàng phục mà trở về. Cũng như một người đi vào rừng để tìm
con mắt, nhưng ngươi lại bị mất con mắt mà trở về.
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp, ngươi cũng vậy, muốn khuất phục Sa-môn
Cù-đàm, nhưng ngược lại bị Sa-môn Cù-đàm hàng phục mà trở về. Cũng như
một người vì muốn uống nước nên xuống ao, nhưng ngược lại bị khát nước
mà trở về. A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp, ngươi cũng như vậy, muốn
khuất phục Sa-môn Cù-đàm nhưng ngược lại bị Sa-môn Cù-đàm hàng phục mà
trở về. A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp, ngươi muốn làm gì?”
Bấy giờ, A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp nói với số đông Phạm chí ở Câu-tát-la rằng:
“Này chư Hiền, tôi đã nói trước rồi, Sa-môn Cù-đàm đúng như pháp
mà thuyết pháp. Ai thuyết pháp đúng như pháp, người ấy không thể cật
vấn.”
Phật thuyết như vậy. A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp nghe Phâït thuyết, hoan hỷ phụng hành.
-ooOoo-
Chú thích:
- [01] Tương
đương Pāli M.93 Assalāyana-sutta. Hán, biệt dịch No.71 Phạm Chí
An-ba-la-diên Vấn Chủng Tôn Kinh, Đông Tấn, Trúc Đàm-vô-lan dịch.
- [02]
A-nhiếp-hòa-la-diên-da-na Ma-nạp 阿 攝 惒 邏 延 那 摩 納. Pāli:
Āssalāyana- mānava. Bản Pāli xác định: mới 16 tuổi thôi. No.71: khoảng
15 hay 16 tuổi.
- [03] Tứ điển kinh, chỉ bốn bộ Vệ-đà.
- [04] Nhân
duyên, chánh văn, hí ngũ, cú thuyết. Theo Pāli: nighandu (từ vựng),
keṭubha (lễ nghi), ākkharappabheda (ngữ nguyên), itihāsa (hí truyện),
padakoveyyakarana (cú thuyết, văn phạm).
- [05] Dư-ni 餘 尼; Pāli: Yoni, tên một nước ở Tây bắc Ấn-độ.
- [06] Kiếm-phù 劍 浮; Pāli: Kamboja, tên nước, thuộc địa phương A-phú-hãn ngày nay.
- [07] Xem kinh số 150 trên.
- [08] A-tư-la tiên nhân Đề-phệ-la 阿 私 羅 仙 人 提 鞞 邏. Pāli: Asita-Devala-Isi.
- [09] Bạch
y tiệp 白 衣 屧. Ở trên, nói: “mặc áo ca-sa” nên đây không thể là “áo
trắng”. Tiệp, bản Cao-li chép là biến 變. Trong bản Pāli: upāhanā
ārohitvā, mang dép cỏ.
- [10] Dịch thoát ý; nguyên Hán: vô mãn kham nại 無 滿 堪 奈. Pāli: mātā ca tunī hoti, người mẹ trong thời có kinh.
- [11] Pāli: gandhabbo ca paccupaṭṭhito, hương ấm hiện diện.
- [12] Ngài biết họ cố ý cản trở thanh niên này theo Phật.
-ooOoo-