16. Kinh Ðại
Bát-Niết-Bàn
(Mahàparinibbàna sutta)
Tụng phẩm I
1. Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương
Xá), trên núi Gijjhakùta (Linh Thứu). Lúc bấy giờ, Ajàtasattu Vedehiputta
(A-xà-thế, con bà Vi-đề-hi), vua nước Magadha (Ma-kiệt-đà), muốn
chinh phục dân Vajjì (Bạc-kỳ). Vua tự nói: "Ta quyết chinh phạt dân
Vajjì này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh; ta quyết làm cỏ dân
Vajjì; ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì; ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại
vong".
2. Rồi Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha, nói với
Bà-la-môn Vassakara (Vũ-xá), đại thần nước Magadha:
- Này Bà-la-môn, hãy đi đến Thế Tôn, và nhân
danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Ngài, vấn an Ngài có thiểu bệnh,
thiểu não, khinh an, khỏe mạnh, lạc trú: "Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu
Vedehiputta, vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, vấn an Ngài
có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, lạc trú". Và khanh bạch
tiếp: "Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha muốn
chinh phục dân Vajjì, vua tự nói: "Ta quyết chinh phạt dân Vajjì này,
dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh; ta quyết làm cỏ dân Vajjì; ta sẽ
tiêu diệt dân Vajjì; ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại vong". Thế
Tôn trả lời khanh thế nào, hãy ghi nhớ kỹ và nói lại ta biết. Các
bậc Thế Tôn không bao giờ nói lời hư vọng.
- Ðại vương, xin vâng!
3. Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước Magadha vâng theo
lời dạy của Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha cho thắng những cỗ xe
thù thắng, tự mình cỡi lên một chiếc, cùng với các cỗ xe ấy đi ra
khỏi Ràjagaha (Vương Xá), đến tại núi Linh Thứu, đi xe đến chỗ
còn dùng xe được, rồi xuống xe đi bộ đến chỗ Thế Tôn, khi
đến liền nói những lời chào đón hỏi thăm xã giao với Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Vassakara, đại
thần nước Magadha, bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha
cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả Gotama, vấn an ngài có thiểu bệnh,
thiểu não, khinh an, khỏe mạnh, lạc trú. Tôn giả Gotama, Ajàtasattu
Vedehiputta, vua nước Magadha muốn chinh phục dân xứ Vajjì. Vua tự nói: "Ta
quyết chinh phạt dân Vajjì này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh,
ta quyết làm cỏ dân Vajjì, ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì, ta sẽ làm cho
dân Vajjì bị hoại vọng".
4. Lúc bấy giờ, Tôn giả Ananda đứng quạt sau lưng
Thế Tôn. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì thường hay tụ
họp và tụ họp đông đảo với nhau không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì thường
hay tụ họp và tụ họp đông đảo.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì thường hay tụ họp
và tụ họp đông đảo với nhau, thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì tụ
họp trong niệm đoàn kết giải tán trong niệm đoàn kết, và
làm việc trong niệm đoàn kết không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì tụ họp
trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm
việc trong niệm đoàn kết.
- Này Ananda, khi nào nghe dân Vajjì tụ họp trong
niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc
trong niệm đoàn kết, này Ananda dân Vajjì sẽ được cường thịnh,
không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì không ban hành những
luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được
ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjì như đã ban hành thời
xưa không?
- Bạch Thế Tôn, con nghe dân Vajjì không ban hành
những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã
được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjì như đã ban
hành thuở xưa.
- Này Ananda khi nào dân Vajjì, không ban hành những
luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được
ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjì như đã ban hành thuở
xưa thời, này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng
dường các bậc trưởng lão Vajjì và nghe theo lời dạy của những vị này
không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì tôn sùng,
kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajjì và nghe theo
lời dạy của những vị này.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì tôn sùng, kính
trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajjì và nghe theo lời
dạy của những vị này, thời dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy
giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì không có bắt cóc và cưỡng ép
những phụ nữ và thiếu nữ Vajjì phải sống với mình không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì không có bắt
cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajjì phải sống với mình.
- Này Ananda, khi nào Vajjì không có bắt cóc và cưỡng
ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajjì phải sống với mình thời, này Ananda,
dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có
nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự
miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các
cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp không?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajjì tôn sùng,
kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành
và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã
làm từ trước đúng với quy pháp.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì tôn sùng, kính
trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành và
ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm
từ trước đúng với quy pháp, thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì bảo hộ, che
chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajjì khiến các vị
A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến
được sống an lạc không?
- Bạch Thế Tôn, con nghe dân Vajjì bảo hộ, che chở,
ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajjì khiến các vị A-la-hán
chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được
sống an lạc.
- Này Ananda, khi nào dân Vajjì bảo hộ, che chở, ủng hộ
đúng pháp các vị A-la-hán ở tại Vajjì khiến các vị A-la-hán chưa
đến sẽ đến trong xứ, và những vị A-la-hán chưa đến sẽ đến
trong xứ và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc, thời này
Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
5. Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn Vassakara, đại
thần nước Magadha:
- Này Bà-la-môn, một thời Ta sống ở Vesàli tại tự
miếu Sàrandada, Ta dạy cho dân Vajjì bảy pháp bất thối này. Này
Bà-la-môn, khi nào bảy pháp bất thối được duy trì giữa dân Vajjì, khi nào
dân Vajjì được giảng dạy bảy pháp bất thối này, thời Bà-la-môn, dân Vajjì
sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Khi được nói vậy, Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước
Magadha bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, nếu dân Vajjì chỉ hội đủ một
pháp bất thối này, thời dân Vajjì nhất định được cường thịnh, không bị
suy giảm, huống nữa là đủ cả bảy pháp bất thối. Tôn giả Gotama, Ajàtasattu
Vedehiputta, vua nước Magadha không thể đánh bại dân Vajjì ở chiến
trận trừ phi dùng ngoại giao hay kế ly gián. Tôn giả Gotama, nay chúng con
phải đi, chúng con có nhiều việc và có nhiều bổn phận.
- Này Bà-la-môn, Người hãy làm những gì Người nghĩ
là hợp thời.
Bà-la-môn Vassakara, vị đại thần nước Magadha hoan
hỷ, tán thán lời dạy của Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy và từ
biệt.
6. Khi Bà-la-môn Vassakara đi chưa bao lâu, Thế Tôn
nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đi và tập họp tại giảng đường
tất cả những vị Tỷ-kheo sống gần Ràjagaha (Vương Xá).
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng theo lời dạy Thế Tôn, đi tập
họp tất cả những vị Tỷ-kheo sống gần Vương Xá rồi đi đến
Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, đứng một bên và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Tăng đã tu họp.
Bạch Thế Tôn, Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời.
Rồi Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi
đến giảng đường, ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn và nói với các
vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bảy pháp bất thối.
Hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Những vị Tỷ-kheo ấy trả lời Thế Tôn. Thế
Tôn giảng như sau:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo thường
hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này các Tỷ-kheo,
chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tụ
họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và
làm việc Tăng sự trong niệm đoàn kết, thời này các Tỷ-kheo,
chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ban
hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ
đã được ban hành, sống đúng với những học giới được ban hành, thời
này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy
giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tôn sùng,
kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc Tỷ-kheo thượng tọa
những vị này là những vị giàu kinh nghiệm, niên cao lạp trưởng, bậc cha
của chúng Tăng, bậc thầy của chúng Tăng và nghe theo lời dạy của những vị
này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không bị
chi phối bởi tham ái, tham ái này tác thành một đời sống khác, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo thích
sống những chỗ nhàn tịnh, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ
được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tự thân
an trú chánh niệm, khiến các bạn đồng tu thiện chí chưa đến
muốn đến ở, và các bạn đồng tu thiện chí đã đến ở, được
sống an lạc, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp bất thối này
được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy
bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
7. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bảy pháp bất thối
khác, hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Những vị Tỷ-kheo đáp ứng Thế Tôn. Thế Tôn
nói:
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa
thích làm thế sự, không hoan hỷ làm thế sự, không đam mê làm
thế sự, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa
thích phiếm luận, không hoan hỷ phiếm luận, không đam mê phiếm
luận, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh,
không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa
thích ngủ nghỉ, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không ưa
thích quần tụ, không hoan hỷ quần tụ, không đam mê quần tụ, thời này
các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không có
ác dục vọng, không bị chi phối bởi ác dục vọng, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không bạn
bè ác dục vọng, không thân tín ác dục vọng, không cộng hành với ác
dục vọng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo không
dừng ở nửa chừng, giữa sự đạt đáo những quả vị thấp kém và những quả vị
thù thắng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh,
không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp bất thối này
được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy
bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
8. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bảy pháp bất thối
khác, hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Những vị Tỷ-kheo ấy đáp ứng Thế Tôn. Thế
Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo có tín
tâm, có tàm, có quý, có nghe nhiều, có tinh tấn, có chánh niệm,
có trí tuệ, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp bất thối này
được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy
bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
9. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bảy pháp bất thối
khác, hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Chư Tỷ-kheo đáp ứng. Thế Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tu tập
niệm giác chi, tu tập trạch pháp giác chi, tu tập tinh tấn giác chi, tu tập
khinh an giác chi, tu tập định giác chi, tu tập xả giác chi, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp bất thối này
được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy
bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
10. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bảy pháp bất thối
khác, hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng bạch Thế Tôn!
Những vị Tỷ-kheo ấy đáp ứng Thế Tôn. Thế
Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tu tập
vô thường tưởng, tu tập vô ngã tưởng, tu tập bất tịnh tưởng, tu tập nguy
hiểm tưởng, tu tập xả ly tưởng, tu tập vô tham tưởng, tu tập diệt
tưởng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh,
không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào bảy pháp bất thối này
được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy
bảy pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
11. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng sáu pháp bất thối,
hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Những vị Tỷ-kheo ấy đáp ứng Thế Tôn. Thế
Tôn nói:
- Này các, Tỷ-kheo khi nào các vị Tỷ-kheo đối
với các vị đồng tu phạm hạnh, tại chỗ đông người và vắng người, gìn giữ thân
nghiệp từ hòa, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo đối
với các vị đồng tu phạm hạnh, tại chỗ đông người và vắng người gìn giữ khẩu
nghiệp từ hòa, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo đối
với các vị đồng tu phạm hạnh, tại chỗ đông người và vắng người, gìn giữ ý
nghiệp từ hòa, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo phân
phối không thiên vị, chung thọ hưởng với các bạn giới đức đồng tu,
mọi lợi dưỡng chơn chánh, hợp pháp, cho đến những vật thọ lãnh
trong bình bát khất thực, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo sống
với các bạn đồng tu, tại chỗ đông người và vắng người, trong sự
thọ trì những giới luật đúng với Sa-môn hạnh, những giới luật không bị
gẫy vụn, không bị sứt mẻ, không bị tỳ vết, không bị uế trược,
những giới luật đưa đến giải thoát, được người có trí tán thán,
không bị ô nhiễm bởi mục đích sai lạc, những giới luật hướng đến
định tâm, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh,
không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo sống
với các bạn đồng tu, tại chỗ đông người và vắng người, trong sự
thọ trì những tri kiến đúng với Sa-môn hạnh, những thánh tri kiến
đưa đến giải thoát, hướng đến sự diệt tận khổ đau cho những ai
thực hành theo, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào sáu pháp bất thối này
được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo, khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy
sáu pháp bất thối này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
12. Trong thời gian Thế Tôn ở Vương Xá tại núi Linh
Thứu, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo: "Ðây là Giới,
đây là Ðịnh, đây là Tuệ. Ðịnh cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả
vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Ðịnh sẽ đưa đến quả vị lớn,
lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn
các món lậu hoặc tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh
lậu".
13. Thế Tôn ở Vương Xá cho đến khi Ngài xem là
vừa đủ, rồi Ngài gọi tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Ambalatthikà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda đáp ứng Thế Tôn. Rồi Thế Tôn
cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Ambalatthikà.
14. Tại Ambalatthikà, Thế Tôn thân trú tại nhà nghỉ
mát của vua. Trong thời gian Thế Tôn ở Ambalatthikà, tại nhà nghỉ mát của
vua, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo.
- Ðây là Giới, đây là Ðịnh, đây là Tuệ, Ðịnh
cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu
với Ðịnh sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ
sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu,
hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
15. Thế Tôn ở Ambalatthikà cho đến khi Ngài xem
là vừa đủ, rồi Ngài bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Nalandà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn
cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Nalandà. Tại đây, Thế Tôn ở
Pavarikambavana (Ba-ba-lợi Âm-bà-lâm).
16. Tôn giả Sàriputta (Xá-lợi-phất) đến tại
chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và xuống một bên. Tôn giả Sàriputta bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến
nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại không
thể có một Sa-môn, một Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn, sáng suốt
hơn Thế Tôn về phương diện chánh giác.
- Này Sàriputta, lời nói của Ngươi thật là đại ngôn,
thật là gan dạ. Ngươi thật đã rống tiếng rống con sư tử: "Con tin
tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai
cũng như ở hiện tại không thể có một Sa-môn, một Bà-la-môn nào có
thể vĩ đại hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về phương diện chánh
giác". Này Sàriputta, có phải Ngươi đã biết tất cả những Thế
Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở quá khứ, Ngươi đã biết tâm những
Vị này nói với tâm của Ngươi: "Những Thế Tôn này ở quá khứ có
giới đức như vậy, có thiền định như vậy, có trí tuệ như vậy, có
hạnh trú như vậy, có giải thoát như vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, có phải Ngươi đã biết tất cả
những Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở tương lai, Ngươi đã
biết tâm những vị này với tâm của Ngươi: "Những Thế Tôn này ở
tương lai có giới đức như vậy, có thiền định như vậy, có trí tuệ
như vậy, có hạnh trú như vậy, có giải thoát như vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, có phải Ngươi biết Ta là bậc
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở hiện tại, Ngươi đã biết tâm Ta với tâm
của Ngươi. "Thế Tôn có giới đức như vậy, có thiền định như
vậy, có trí tuệ như vậy, có hạnh trú như vậy, có giải thoát như
vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, như vậy Ngươi không có tha tâm thông
đối với các vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở quá khứ, tương lai và
hiện tại. Như vậy, này Sàriputta, vì sao Ngươi lại thốt ra những lời
đại ngôn, lời nói gan dạ, rống lên tiếng rống con sư tử: "Bạch
Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá
khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại không thể có một Sa-môn, một
Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về
phương diện chánh giác"?
17. - Bạch Thế Tôn, con không có tha tâm thông đối
với các vị Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở quá khứ, tương lai và hiện
tại. Nhưng con biết truyền thống về chánh pháp. Bạch Thế Tôn,
như vị vua có một thành trì tại Biên cảnh, thành này có hào lũy kiên cố,
có thành quách tháp canh kiên cố và chỉ có một cửa ra vào. Tại đây có một
người gác cửa thông minh, biệt tài và nhiều kinh nghiệm, không cho
vào các người lạ mặt, chỉ cho vào những người quen mặt. Người này trong khi
đi tuần trên con đường chạy vòng quanh thành trì ấy có thể không thấy
các chỗ nối hay khe hở của tường, cho đến chỗ một con mèo có
thể lọt ra được, nhưng người ấy chỉ cần biết rằng các sinh vật
to lớn vào hay ra thành trì này tất cả đều đi vào hay đi ra bởi cửa
này. Bạch Thế Tôn, cũng vậy con biết truyền thống về chánh
pháp. Bạch Thế Tôn, tất cả các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trong quá
khứ, tất cả vị Thế Tôn này đã diệt trừ Năm Triền cái, những
nhiễm tâm khiến cho trí tuệ yếu ớt, đã an trú tâm vào Bốn
Niệm xứ, đã chân chánh tu tập Bảy Giác chi, đã chứng được Vô thượng
Chánh Ðẳng Giác. Bạch Thế Tôn, tất cả các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác
trong tương lai, tất cả Thế Tôn này đã diệt trừ Năm Triền cái,
những nhiễm tâm khiến cho trí tuệ yếu ớt, đã an trú tâm vào Bốn
Niệm xứ, đã chân chánh tu tập Bảy Giác chi, đã chứng được Vô thượng
Chánh Ðẳng Giác. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hiện tại đã diệt trừ
Năm Triền Cái, những nhiễm tâm khiến cho trí tuệ yết ớt, đã
an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã chân chánh tu tập Bảy Giác chi, đã
chứng được Vô thượng Chánh Ðẳng Giác.
18. Trong thời gian Thế Tôn ở tại Nalandà, rừng
Pavarikamba, pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo.
- Ðây là Giới, đây là Ðịnh, đây là Tuệ. Ðịnh
cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu
với Ðịnh sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ
sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu,
hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
19. Thế Tôn ở Nalandà cho đến khi Ngài xem là
vừa đủ, rồi gọi tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Pàtaligàma.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn
cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Pàtaligàma.
20. Lúc bấy giờ, các cư sĩ ở Pàtaligàma được nghe
Thế Tôn đã đến làng Pàtaligàma. Các cư sĩ ở Pàtaligàma đi
đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống
một bên, các cư sĩ ở Pàtaligàma bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn,
mong Thế Tôn hãy đến ở tại nhà nghỉ mát của chúng con". Thế
Tôn im lặng nhận lời.
21. Các cư sĩ ở Pàtaligàma được biết Thế Tôn
đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân phía hữu
hướng về Ngài và từ biệt. Các cư sĩ này đi đến nghỉ mát, rải
cát khắp tất cả sàn nhà, sắp đặt chỗ ngồi, đặt ghè nước, chuẩn bị
dầu đèn rồi đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng một bên, các
cư sĩ ở Pàtaligàma bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, tất cả nhà nghỉ mát đã được
rải cát, các chỗ ngồi đã được sắp đặt, ghè nước đã đặt sẵn, dầu
đèn đã được chuẩn bị. Bạch Thế Tôn, Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ
là phải thời.
22. Rồi Thế Tôn đắp y, cầm y bát, cùng với đại
chúng Tỷ-kheo đi đến nhà nghỉ mát, sau khi đến liền rửa chân
bước vào nhà, ngồi xuống, lưng dựa vào bức tường ở giữa, mặt hướng về
phía Ðông. Chúng Tỷ-kheo sau khi rửa chân, bước vào nhà ngồi xuống, lưng
dựa vào bức tường phía Ðông, hướng mặt phía Tây, đối diện Thế
Tôn.
23. Thế Tôn nói với các cư sĩ ở Pataligama:
- Này các Gia chủ, có năm sự nguy hiểm cho những ai
phạm giới, sống trái giới luật. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Gia chủ, người phạm giới, sống
trái giới luật sẽ bị tiêu hao tiền của rất nhiều vì sống phóng dật.
Ðó là điều nguy hiểm thứ nhất cho những ai phạm giới, sống trái giới
luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái
giới luật bị tiếng dữ đồn xa. Ðó là điều nguy hiểm thứ hai cho
những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái
giới luật khi vào hội chúng nào, hoặc Sát Ðế Lỵ, hoặc Bà-la-môn,
hoặc gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần sợ hãi, bối rối.
Ðó là điều nguy hiểm thứ ba cho những ai phạm giới, sống trái giới
luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái
giới luật sẽ chết với tâm hồn rối loạn. Ðó là điều nguy hiểm
thứ tư cho những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người phạm giới, sống trái
giới luật sau khi thân hoại mạng chung, sẽ bị sanh vào khổ cảnh, ác thú,
đọa xứ, địa ngục. Ðó là điều nguy hiểm thứ năm cho những ai
phạm giới, sống trái giới luật.
Này các gia chủ, đó là năm điều nguy hiểm cho
những ai phạm giới, sống trái giới luật.
24. Này các Gia chủ có năm sự lợi ích cho những ai giữ
giới, sống theo giới luật. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo
giới luật sẽ có tiền của dồi dào rất nhiều vì sống không phóng dật.
Ðó là sự lợi ích thứ nhất cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo
giới luật được tiếng tốt đồn xa. Ðó là sự lợi ích thứ hai cho những
ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo
giới luật khi đi vào hội chúng nào, hoặc Sát Ðế Lỵ, hoặc Bà-la-môn,
hoặc gia chủ, hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần không sợ hãi,
không bối rối. Ðó là sự lợi ích thứ ba cho những ai giữ giới, sống theo
giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo
giới luật sẽ chết với tâm hồn không rối loạn. Ðó là sự lợi ích thứ
tư cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia chủ, người giữ giới, sống theo
giới luật sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh vào thiện thú, thiên
giới. Ðó là sự lợi ích thứ năm cho những ai giữ giới, sống theo giới luật.
25. Thế Tôn giảng pháp cho những cư sĩ ở
Pàtaligàma cho đến khuya, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm
hoan hỷ rồi bảo các cư sĩ ấy:
- Này các Gia chủ, đêm đã khuya, nay các Ngươi hãy
làm những gì các Ngươi nghĩ là phải thời.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Các người cư sĩ của Pàtaligàma vâng lời Thế Tôn,
từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về
Ngài từ tạ ra về. Thế Tôn, sau khi các cư sĩ ở Pàtaligàma đi không
bao lâu, liền trở vào phòng riêng.
26. Lúc bấy giờ Sunidha và Vassakara, hai vị đại thần
xứ Magadha đang dựng thành trì để ngăn chặn dân Vajjì. Một số rất lớn
các thiên thần tụ họp hàng ngàn tại các trú địa ở Pàtaligàma. Chỗ
nào có thiên thần có đại oai lực tụ họp, các vị này khiến tâm các
vua chúa, các đại thần có đại oai lực, hướng đến sự xây dựng các trú
xá. Tại chỗ nào các thiên thần bậc trung tụ họp, các vị này
khiến tâm các vua chúa, các đại thần bậc trung hướng đến sự xây
dựng các trú xá. Tại chỗ nào các thiên thần bậc hạ đẳng tụ họp,
các vị này khiến tâm các vua chúa, các đại thần bậc hạ đẳng hướng
đến sự xây dựng các trú xá.
27. Thế Tôn với thiên nhãn, thanh tịnh, siêu nhân
thấy hàng ngàn các thiên thần tụ họp tại các trú địa ở Pàtaligàma,
Thế Tôn thức dậy khi đêm chưa tàn và nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, ai đang xây dựng thành trì ở Pataligama?
- Sunidha và Vassakara, bạch Thế Tôn, hai vị đại
thần xứ Magadha, đang xây dựng thành trì ở Pataligama để ngăn chận dân
Vajjì.
28. Này Ananda, thật giống như đã hỏi ý kiến
các vị thiên thần ở cõi trời Ba mươi ba, các đại thần ở Magadha, Sunidha và
Vassakara đang xây thành trì ở Pataligama để ngăn chận dân Vajjì. Này
Ananda ở đây với thiên nhãn, thanh tịnh, siêu nhân Ta thấy hàng ngàn thiên
thần tụ họp tại các trú địa ở Pataligama. Chỗ nào có thiên thần có
đại oai lực tụ họp, các vị ấy khiến tâm các vua chúa, các đại thần
có đại oai lực, hướng đến sự xây dựng các trú xá. Chỗ nào các
thiên thần bậc trung tụ họp, các vị ấy khiến tâm các vua chúa, các
đại thần bậc trung hướng đến sự xây dựng các trú xá. Chỗ nào các
thiên thần bậc hạ đẳng tụ họp, các vị này khiến tâm các vua chúa,
các đại thần bậc hạ đẳng hướng đến sự xây dựng các trú xá. Này
Ananda, chỗ nào các vị Ariyans an trú, chỗ nào các nhà thương mãi qua
lại, chỗ ấy sẽ thiết lập một thành thị bậc nhất tên gọi là
Pàtaliputta, một trung tâm thương mãi. Nhưng này Ananda, Pàtaliputta sẽ bị ba
hiểm nạn về lửa, về nước hay chia rẽ bất hòa.
29. Sunidha và Vassakara, hai vị đại thần nước Magadha,
đến tại chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong liền nói những lời
chào đón hỏi thăm xã giao rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, vị đại
thần xứ Magadha, Sunidha và Vassakara bạch Thế Tôn: "Mong Thế Tôn
nhận lời mời dùng cơm tại nhà chúng con hôm nay cùng với đại chúng
Tỷ-kheo". Thế Tôn im lặng nhận lời.
30. Hai vị đại thần xứ Magadha, Sunidha và Vassakara sau
khi biết Thế Tôn đã nhận lời liền đi về nhà ở, cho soạn tại
nhà của mình các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm, rồi cử
người đến tin Thế Tôn: "Tôn giả Gotama, giờ đã đến, cơm
đã sẵn sàng".
Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, mang theo y bát cùng
với đại chúng Tỷ-kheo đi đến trú sở của hai vị đại thần xứ
Magadha, Sunidha và Vassakara, sau khi đi đến liền ngồi trên chỗ đã
soạn sẵn. Rồi hai vị đại thần xứ Magadha, Sunidha và Vassakara tự tay mời chúng
Tỷ-kheo với Thế Tôn là thượng thủ, các món ăn thượng vị, loại cứng
và loại mềm. Sau khi Thế Tôn dùng cơm xong và cất tay khỏi bình bát,
Sunidha và Vassakara, hai vị đại thần xứ Magadha liền lấy chiếc ghế
thấp khác và ngồi xuống một bên.
31. Sau khi Sunidha và Vassakara, hai vị đại thần
xứ
Magadha đã ngồi xuống một bên, Thế Tôn đọc bài kệ cảm tạ:
Tại chỗ nào người sáng suốt lấy làm chỗ
trú xứ.
Hãy nuôi dưỡng người giữ giới và người phạm hạnh.
Và san sẽ công đức với Chư Thiên trú tại chỗ
ấy.
Ðược tôn kính, chúng sẽ tôn kính lại.
Ðược trọng vọng, chúng sẽ trọng vọng lại.
Chúng sẽ mến thương người ấy như người mẹ
thương mến con.
Và những ai được thiên thần thân mến luôn luôn được thấy may mắn.
Sau khi Thế Tôn tán thán Sunidha và Vassakara, hai vị
đại thần xứ Magadha với bài kệ này, Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy và
ra về.
32. Sunidha và Vassakara, hai vị đại thần xứ Magadha đi
sau lưng Thế Tôn và nói:
- "Hôm nay Sa-môn Gotama đi ra cửa nào cửa ấy sẽ
được đặt tên là Gotama; Sa-môn Gotama lội qua sông từ bến nào, bến
ấy sẽ được đặt tên là Gotama. Và cửa Sa-môn Gotama đi ra được đặt tên
là cửa Gotama".
33. Rồi Thế Tôn đi đến sông Gangà (sông Hằng).
Lúc bây giờ, sông Gangà tràn ngập nước đến bờ đến nỗi con quạ
có thể uống được. Có người đang đi tìm thuyền, có người đang đi
tìm phao, có người cột bè để qua bờ bên kia. Thế Tôn mau lẹ như
người lực sĩ duỗi cánh tay được co lại hay co cánh tay đã duỗi ra,
biến mất từ bờ bên này và hiện ra trên bờ bên kia với chúng
Tỷ-kheo.
34. Thế Tôn thấy những người kia, người đang đi
tìm thuyền, người đang đi tìm phao, người đang đi cột bè để qua bờ
bên kia. Thế Tôn hiểu được ý nghĩa của cảnh này, lúc ấy bèn
ứng khẩu lời cảm khái:
"Những ai làm cầu vượt biển trùng dương,
bỏ lại đất sũng đầm ao, trong khi người phàm phu đang cột bè.
Những người ấy thật là những vị trí tuệ được giải thoát"
Tụng phẩm II
1. Rồi Thế Tôn gọi tôn giả Ananda: "Này Ananda, chúng ta
hãy đi đến Kotigàma"
- "Xin vâng, bạch Thế Tôn". Tôn giả Ananda
đáp ứng Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi
đến Kotigàma. Tại đây, Thế Tôn ở tại Kotigàma.
2. Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không
thông hiểu Bốn Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu
năm, Ta và các Ngươi. Bốn Thánh đế ấy là gì?
Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không
thông hiểu Khổ Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu
năm, Ta và các Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không
thông hiểu Khổ Tập Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi
lâu năm, Ta và các Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không
thông hiểu Khổ Diệt Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển luân
hồi lâu năm, Ta và các Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không
thông hiểu Khổ Diệt Ðạo Thánh đế mà chúng ta phải lưu chuyển
luân hồi lâu năm,
Ta và các Ngươi. Này các Tỷ-kheo khi Khổ Thánh
đế này được giác ngộ, được thông hiểu; khi Khổ Tập Thánh đế
này được giác ngộ, được thông hiểu; khi Khổ Diệt Thánh đế này
được giác ngộ, được thông hiểu; khi Khổ Diệt Ðạo Thánh đế
này được giác ngộ, được thông hiểu, thời hữu ái được diệt trừ,
sự dắt dẫn đến một đời sống được đoạn tuyệt, nay không còn hậu
hữu nữa.
3. Thế Tôn thuyết như vậy. Thiện Thệ lại
nói thêm:
- Chính vì không thấy như thật Bốn Thánh đế nên
có sự luân chuyển lâu ngày trong nhiều đời. Khi những sự thực này
được nhận thức, nguyên nhân của một đời sống khác được trừ diệt, khi
khổ căn được đoạn trừ, sẽ không còn một đời sống khác nữa.
4. Trong thời gian Thế Tôn ở Kotigama, pháp thoại này
được giảng cho chúng Tỷ-kheo:
- Ðây là Giới, đây là Ðịnh, đây là Tuệ. Ðịnh
cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu
với Ðịnh sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ
sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu,
hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
5. Thế Tôn, sau khi ở Kotigama cho đến khi Ngài
xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Nadika.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn
cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến. Nadika, tại ngôi nhà gạch
(Ginjakàvasatha).
6. Rồi Tôn giả Ananda đến chỗ Thế Tôn,
đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Salada mệnh chung tại
Nadika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào?
Tỷ-kheo ni Nandà mệnh chung tại Nadika đã được sanh ở cõi nào, hậu
thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Sudatta mệnh
chung tại Nàdika đã được sanh cõi nào, hậu thế trạng thái như thế
nào? Bạch Thế Tôn, nữ cư sĩ Sujàtà mệnh chung tại Nàdika đã được
sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư
sĩ Kakudha mệnh chung tại Nàdika đã được sanh cõi nào, hậu thế trạng
thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Kàlinga... Bạch Thế Tôn,
cư sĩ Nikata... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Katissabha... Bạch Thế Tôn, cư sĩ
Tuttha... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Santuttha... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Bhadda...
Bạch Thế Tôn, cư sĩ Subhadda đã mệnh chung tại Nadika đã được sanh
ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào?
7. Này Ananda, Tỷ-kheo Sàtha diệt tận các lậu
hoặc, tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay hiện
tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Này Ananda, Tỷ-kheo ni
Nandà đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sanh (thiên giới) và từ đó
nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ananda, cư sĩ Sudatta,
diệt trừ ba kiết sử làm giảm thiểu tham, sân, si, chứng quả Nhứt
lai sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau. Này Ananda,
nữ cư sĩ Sujata diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhứt định
không còn đọa vào ác đạo, đạt đến Chánh giác. Này Ananda, cư sĩ
Kakudha đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sanh (thiên giới), và từ đó
nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ananda, cư sĩ
Kalinga... Này Ananda, cư sĩ Nikata... Này Ananda, cư sĩ Katissabha... Này Ananda,
cư sĩ Tuttha... Này Ananda, cư sĩ Santuttha... Này Ananda, cư sĩ Bhadada... Này
Ananda, cư sĩ Subhadda đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh
(thiên giới), và từ đó nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa.
Này Ananda, hơn năm mươi cư sĩ mệnh chung tại Nàdita, đoạn trừ năm hạ
phần kiết sử, hóa sanh (thiên giới) và từ đó nhập Niết Bàn không
còn trở lại đời này nữa. Này Ananda, hơn chín mươi chín nam nữ cư sĩ
mệnh chung tại Nàdika, diệt trừ ba kiết sử, làm giảm thiểu tham,
sân si, chứng quả Nhứt lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ diệt
tận khổ đau. Này Ananda, hơn năm trăm cư sĩ, mệnh chung tại Nadika,
diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhứt định không còn đọa
vào ác đạo, đạt đến Chánh giác.
8. Này Ananda, thật không có gì lạ, vấn đề con
người phải mệnh chung. Nhưng mỗi lần có người mệnh chung lại
đến hỏi Như Lai về vấn đề này thời Ananda, như vậy làm phiền
nhiễu Như Lai. Này Ananda, vì vậy ta sẽ giảng Pháp kính (Gương chánh pháp)
để Thánh đệ tử, sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn, sẽ
tự tuyên bố về mình như sau: "Ðối với ta, sẽ không còn địa ngục,
sẽ không còn tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã
chứng quả Dự lưu, nhứt định không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh
giác".
9. Này Ananda, Pháp kính ấy là gì mà Thánh đệ tử,
sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn, sẽ tự tuyên bố về mình
như sau: "Ðối với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không còn tái sanh cõi
bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự lưu, nhứt
định không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác". Này Ananda, vị Thánh
đệ tử có chánh tín đối với đức Phật: "Thế Tôn là bậc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn". Vị ấy có chánh tín đối với chánh pháp: "Chánh pháp được
Thế Tôn khéo giảng dạy, thiết thực, vượt ngoài thời gian chi phối,
đến để mà thấy, có khả năng giải thoát, được kẻ trí tự mình
thâm hiểu". Vị ấy có chánh tín đối với chúng Tăng: "Chúng Tăng
đệ tử Thế Tôn chân chánh tu hành, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn
chân trực tu hành, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn chân trí tu hành, chúng
Tăng đệ tử Thế Tôn chân tịnh tu hành, tức là bốn đôi tám vị.
Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn đáng được nghênh đón, đáng được cúng
dường, đáng được chiêm ngưỡng, đáng được chấp tay, là phước điền
vô thượng ở trên đời, cụ túc giới hạnh, được bậc Thánh mến chuộng,
được viên mãn không mảy mún, được vẹn toàn không sứt mẻ, không tỳ
vết, không ô nhiễm, những giới hạnh đưa đến giải thoát, được
người trí tán thán, không bị ảnh hưởng bởi đời sau, hướng dẫn đến
thiền định".
Này Ananda, chính Pháp kính này mà Thánh đệ tử sau
khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn sẽ tự tuyên bố về mình như
sau: "Ðối với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không còn tái sanh cõi
bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự lưu, nhứt
định không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác".
10. Khi Thế Tôn ở Nàdika, pháp thoại này được
giảng cho chúng Tỷ-kheo:
- Ðây là Giới, đây là Ðịnh, đây là Tuệ. Ðịnh
cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu
với Ðịnh sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ
sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu,
hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
11. Rồi Thế Tôn, sau khi ở Nàdika cho đến khi
Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Vesàli.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn
cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Vasali. Ở đây, Thế Tôn
trú tại vườn Ambapàli.
12. Thế Tôn bảo các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, các Ngươi phải sống an trú
chánh niệm, tỉnh giác. Ðó là lời dạy của Ta cho các Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo an trú
chánh niệm? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với thân, quán thân, tinh
tấn, tỉnh giác, chánh niệm nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên
đời, đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán
pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu
bi ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là chánh niệm.
13. Này các Tỷ-kheo thế nào là Tỷ-kheo tỉnh
giác? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ Kheo tỉnh giác khi đi tới, đi lui,
tỉnh giác khi ngó tới, ngó lui; tỉnh giác khi co tay, duỗi tay, tỉnh giác
khi mang áo sanghati (tăng-già-lê) mang bát, mang y, tỉnh giác khi ăn, khi uống,
khi nhai, khi nếm, tỉnh giác khi đại tiện, tiểu tiện; tỉnh giác
khi đi; khi đứng, khi ngồi, khi nằm, khi thức, khi nói, khi im lặng. Này các
Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo phải sống an trú chánh niệm, tỉnh giác. Ðó là lời dạy của Ta
cho các Ngươi.
14. Lúc bấy giờ dâm nữ Ambapàli được nghe:
"Thế Tôn đã đến Vesàli và ở tại vườn xoài của ta". Dâm
nữ Ambapàli liền cho thắng các cỗ xe thù thắng, tự leo lên một
chiếc, cùng với các cỗ xe thù thắng xuất phát ra khỏi Vesàli và đi
đến vườn xoài. Nàng cỡi xe cho đến chỗ còn có thể cỡi xe
được, rồi xuống xe đi bộ đến tại chỗ Thế Tôn, khi đến
liền đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên, Thế Tôn thuyết pháp cho
dâm nữ Ambapàli đang ngồi một bên, giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn
khởi, khiến tâm hoan hỷ.
Dâm nữ Ambapàli sau khi được Thế Tôn giảng dạy,
khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, liền bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn ngày mai nhận lời
mời dùng cơm của chúng con với chúng Tỷ-kheo.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Dâm nữ Ambapali được
biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài,
thân bên phải hướng về đức Phật và từ biệt.
15. Các người Licchavi ở Vesàli được nghe:
"Thế Tôn đến Vesàli hiện ở vườn Ambapàli", liền cho
thắng các cỗ xe thù thắng leo lên xe rồi xuất phát ra khỏi Vesàli với
những cỗ xe ấy. Có những vị Licchavi toàn xanh, màu sắc xanh, mặc vải màu
xanh, mang đồ trang sức màu xanh. Có những vị Licchavi toàn vàng, màu sắc
vàng, mặc vải màu vàng, mang đồ trang sức màu vàng. Có những vị Licchavi
toàn đỏ, màu sắc đỏ, mặc vải màu đỏ, mang đồ trang sức màu đỏ. Có
những vị Licchavi toàn trắng, màu sắc trắng, mặc vải màu trắng, mang đồ trang
sức màu trắng.
16. Lúc bấy giờ dâm nữ Ambapàli đánh xe va chạm với
các thanh niên Licchavi, trục xe chạm với trục xe, bánh xe chạm với bánh xe,
gọng xe chạm với gọng xe. Các Licchavi nói với dâm nữ Ambapàli:
- Này Ambapàli, tại sao nàng lại đánh xe va chạm với
các thanh niên Licchavi, trục xe chạm với trục xe, bánh xe chạm với bánh xe,
gọng xe chạm với gọng xe?
- Này quý Công tử của tôi, tôi vừa mới mời
Thế Tôn cùng chúng Tỷ-kheo ngày mai đến dùng cơm.
- Này Ambapàli, hãy nhường cho chúng ta bữa cơm ấy
đổi lấy một trăm ngàn.
- Dầu quý Công tử có cho tôi cả thành Vesàli cùng
với các đất phụ thuộc, tôi cũng không nhường bữa cơm quan trọng này.
Các vị Licchavi này tức tối búng ngón tay và nói:
- Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này đả thắng!
Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này phỗng tay trên. Và các vị Licchavi này
cùng đi đến vườn Ambapàli.
17. Thế Tôn từ xa thấy các vị Licchavi liền nói với
các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo nếu có vị Tỷ-kheo nào chưa
thấy các chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên, hãy ngó chúng Licchavi, hãy nhìn
chúng Licchavi. Này các Tỷ-kheo chúng Licchavi cũng giống như chúng Tam thập
tam thiên".
18. Các vị Licchavi ấy cỡi xe cho đến chỗ còn
có thể cỡi xe được, rồi xuống xe đi bộ đến tại chỗ Thế
Tôn, khi đến, liền đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế Tôn
thuyết pháp cho những vị Licchavi đang ngồi một bên, giảng dạy, khích
lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.
Các vị Licchavi sau khi được Thế Tôn giảng dạy,
khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ liền bạch
Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn ngày mai nhận lời
mời dùng cơm của chúng con với chúng Tỷ-kheo.
- Này các Licchavi, ngày mai Ta đã nhận lời mời dùng
cơm của dâm nữ Ambapàli rồi.
Các vị Licchavi này tức tối búng ngón tay và nói:
"Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này đả thắng! Chúng ta bị cô
thiếu nữ xoài này phỗng tay trên... "
Rồi những vị Licchavi này, hoan hỷ tán thán lời dạy
Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên hữu hướng
về đức Phật và từ biệt.
19. Lúc bấy giờ dâm nữ Ambapali, đêm vừa tàn canh,
liền cho sửa soạn tại vườn của mình các món ăn thượng vị loại cứng và
loại mềm và cho báo tin Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, giờ đã
đến, cơm đã sẵn sàng". Thế Tôn buổi sáng đắp y, đem theo y
bát, cùng với chúng Tỷ-kheo đến tại túc xá của dâm nữ Ambapàli, sau
khi đến liền ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn. Rồi dâm nữ Ambapàli tự
tay thân hành mời chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị thượng thủ, dùng các
món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm.
Khi Thế Tôn dùng xong, tay đã rời bát, dâm nữ
Ambapàli lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống
một bên, dâm nữ Ambapàli bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, con xin
cúng dường ngôi vườn này cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị thượng
thủ".
Thế Tôn nhận lãnh khu vườn. Thế Tôn thuyết
pháp cho dâm nữ Ambapàli, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan
hỷ, rồi đứng dậy ra về.
20. Trong thời gian Thế Tôn ở Vesàli, pháp thoại này
được giảng cho chúng Tỷ-kheo:
- Ðây là Giới, đây là Ðịnh, đây là Tuệ. Ðịnh
cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu
với Ðịnh sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ
sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu,
hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
21. Rồi Thế Tôn, sau khi ở Vesàli cho đến khi
Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến làng Baluvà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn
cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến làng Baluvà. Và Thế Tôn trú
tại làng này.
22. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ Kheo hãy an cư trong mùa mưa xung quanh
Vesàli tại chỗ có bạn bè quen thuộc và thân tín. Còn Ta sẽ an cư ở
đây, tại làng Baluvà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Những Tỷ Kheo này vâng đáp Thế Tôn và tìm
chỗ an cư mùa mưa xung quanh Vesàli tại chỗ có bạn bè quyến thuộc
và thân tín. Còn Thế Tôn an cư tại làng Baluvà.
23. Trong khi Thế Tôn an cư trong mùa mưa, một cơn
bệnh trầm trọng khởi lên, rất đau đớn, gần như muốn chết. Nhưng
Thế Tôn giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau ấy, không
một chút ta thán. Thế Tôn tự nghĩ: "Thật không hợp lẽ nếu Ta
diệt độ mà không có một lời với các đệ tử hầu cận Ta, không từ
biệt chúng Tỷ-kheo. Vậy Ta hãy lấy sức tinh tấn, nhiếp phục cơn
bệnh này, duy trì mạng căn và tiếp tục sống". Và Thế Tôn với
sức tinh tấn, nhiếp phục bệnh ấy duy trì mạng căn.
24. Rồi Thế Tôn lành bệnh. Sau khi lành bệnh
không bao lâu, đức Phật rời khỏi tịnh xá và ngồi trên ghế đã soạn
sẵn, trong bóng mát của ngôi tịnh xá. Lúc bấy giờ tôn giả Ananda đến
tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi
xuống một bên, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con được thấy Thế Tôn khỏe
mạnh. Bạch Thế Tôn, con được thấy Thế Tôn kham nhẫn, bạch Thế
Tôn, thấy Thế Tôn bệnh hoạn, thân con cảm thấy yếu ớt như lau
sậy, mắt con mờ mịt không thấy rõ phương hướng, dầu cho, bạch Thế Tôn,
con được một chút an ủi rằng, Thế Tôn sẽ không diệt độ, nếu
Ngài chưa có lời di giáo lại cho chúng Tỷ-kheo.
25. Này Ananda, chúng Tỷ-kheo còn mong mỏi gì nữa ở
Ta! Này Ananda, Ta đã giảng Chánh pháp, không có phân biệt trong ngoài
(mật giáo và không phải mật giáo), vì này Ananda, đối với các Pháp, Như Lai
không bao giờ là vị Ðạo sư còn nắm tay (còn giữ lại một ít mật giáo chưa
giảng dạy). Này Ananda, những ai nghĩ rằng: "Như Lai là vị cầm đầu chúng
Tỷ-kheo"; hay "chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Như
Lai" thời này Ananda, người ấy sẽ có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo.
Này Ananda, Như Lai không nghĩ rằng: "Ta là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo;
hay "chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Ta" thời này Ananda, làm
sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo? Này Ananda, Ta nay đã
già, đã thành bậc trưởng thượng, đã đến tuổi lâm chung, đã đến
tám mươi tuổi. Này Ananda, như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được
là nhờ dây thắng chằng chịt, cũng vậy thân Như Lai được duy trì sự sống
giống như chính nhờ chống đỡ dây chằng. Này Ananda, chỉ trong khi Như Lai
không tác ý đến tất cả tướng, với sự diệt trừ một số cảm
thọ, chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy thân Như Lai
được thoải mái.
26. Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì
khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương
tựa, chớ nương tựa một gì khác. Này Ananda, thế nào là vị Tỷ-kheo
hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình,
không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh
pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?
Này Ananda, ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân quán
thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu
bi trên đời; đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp,
quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái,
ưu bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác,
dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa,
không nương tựa một gì khác.
Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là
ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa
một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ
nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda,
là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha
thiết học hỏi.
Tụng phẩm III
1. Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, đem theo y bát, vào
Vesàli để khất thực. Sau khi khất thực ở Vesàli, ăn xong và trên đường
khất thực trở về Ngài nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy lấy tọa cụ. Ta muốn đi đến
điện thờ Càpàla, để nghỉ trưa.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn, lấy tọa cụ
và đi theo sau lưng Thế Tôn.
2. Thế Tôn đi đến điện thờ Càpàla, khi
đến Ngài ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Tôn giả Ananda đảnh lễ Thế
Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang ngồi một
bên:
- Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện
thờ Udena, khả ái thay điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ
Sàttambaka, khả ái thay điện thờ Bahuputta, khả ái thay điện thờ
Sàrandada, khả ái thay điện thờ Càpàla.
3. Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu tập
nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu
luyện, thiện xảo, thời nếu muốn người ấy có thể sống đến
một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần
túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền
vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn Như Lai có
thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại.
4. Nhưng Tôn giả Ananda không thể nhận hiểu sự
gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn; tôn
giả không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở
lại cho đến trọn kiếp. Thiện Thệ hãy ở lại cho đến
trọn kiếp vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài
Trời và loài Người". Vì tâm tôn giả bị Ma vương ám ảnh.
5. Lần thứ hai Thế Tôn... lần thứ ba Thế Tôn
nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện
thờ Udena, khả ái thay điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ
Sattambaka, khả ái thay điện thờ Bahuputta, khả ái thay điện thờ
Sàrandada, khả ái thay điện thờ Capala!" Này Ananda, những ai đã tu
bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật
bền vững, điêu luyện, thiện xảo, thời nếu người ấy muốn, có
thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay
Như Lai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật
chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda,
nếu muốn, Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp
còn lại.
Nhưng tôn giả Ananda không thể nhận hiểu sự gợi
ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, Tôn giả
không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại
cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến
trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài
Trời và loài Người". Vì tâm của tôn giả bị Ác ma ám ảnh.
6. Rồi Thế Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda hãy đi và làm những gì Ngươi nghĩ là
phải thời.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi
đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên hữu hướng về Thế Tôn và đi ra.
7. Tôn giả Ananda đi ra chưa bao lâu, Ác ma liền
đến chỗ Thế Tôn, khi đến xong liền đứng một bên. Sau khi
đứng một bên, Ác ma nói với Thế Tôn.
- Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ,
Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời
Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói:
"Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo của Ta chưa
trở thành những vị đệ tử chân chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn
sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống
chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có
thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích, và
giải thích rõ ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên chưa có thể chất
vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh
pháp thần diệu".
8. Bạch Thế Tôn, nay những Tỷ-kheo của Thế
Tôn, đã trở thành những vị đệ tử chân chánh, sáng suốt, có kỷ
luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp và tùy pháp, sống chân chánh,
sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, đã có thể tuyên
bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ
ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên đã có thể chất vấn và hàng
phục một cách khéo léo, đã có thể truyền bá Chánh pháp thần
diệu. Như vậy, nay Thế Tôn, hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy
diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt
độ!
Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói:
"Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo ni của Ta
chưa trở thành những vị đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật...
khi nào những nam cư sĩ của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chơn
chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn duy trì Chánh pháp, thành
tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi
học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày,
xác định, khai minh, phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có
tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo,
chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu". Bạch Thế
Tôn, nay những nam cư sĩ của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn
chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, đầy
đủ Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi
học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác
định, khai minh, phân tích và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo
khởi lên, đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, và có
thể truyền bá Chánh pháp thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy
diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn nay đã
đến thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói:
"Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những nữ cư sĩ của Ta chưa
trở thành những vị đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn
sàng, đa văn, duy trì, Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống
chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có
thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và
giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, chưa có thể
chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá
chánh pháp một cách thần diệu". Bạch Thế Tôn, nay những nữ cư sĩ
của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có
kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và
tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo
lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh,
phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên,
đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, có thể
truyền bá Chánh pháp một cách thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy
diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã
đến thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói:
"Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào phạm hạnh Ta giảng dạy chưa
thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được
khéo giảng dạy cho loài người". Bạch Thế Tôn, nay phạm hạnh Thế
Tôn giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá,
biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài người. Như vậy, nay
Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế
Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.
9. Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Ác ma:
"Này Ác ma hãy yên tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba
tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ".
10. Và tại điện thờ Capala, Thế Tôn chánh
niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành (không duy trì mạng sống lâu hơn
nữa). Khi Thế Tôn từ bỏ, không duy trì mạng sống thêm nữa, thời đại
địa chấn động, ghê rợn, tóc lông dựng ngược, sấm trời vang dậy. Thế
Tôn nhận hiểu ý nghĩa của sự kiện ấy, liền thốt câu kệ
cảm khái như sau:
Mạng sống có hạn hay vô hạn,
Tu sĩ từ bỏ, không kéo dài.
Nội tâm chuyên nhất trú thiền định.
Như tháo áo giáp đang mang mặc.
11. Lúc bấy giờ, tôn giả Ananda suy nghĩ: "Thật là
kỳ diệu! Thật là hy hữu! Ðại địa chấn động, đại địa rung động như
vậy, ghê rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang dậy. Do nhân gì, do
duyên gì, đại địa chấn động như vậy?".
12. Rồi tôn giả Ananda đến tại chỗ Thế Tôn,
đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Khi ngồi xuống một bên, tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu! Bạch Thế
Tôn thật là hy hữu! Ðại địa chấn động, đại địa rung động như vậy, ghê
rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang dậy. Bạch Thế Tôn, do nhân
gì, do duyên gì, đại địa chấn động như vậy?
13. - Này Ananda, có tám nhân, có tám duyên khiến
đại địa chấn động. Thế nào là tám? Này Ananda, đại địa này thiết
lập trên nước, nước ở trên gió và gió ở tại hư không. Này Ananda,
đến thời đại phong khởi lên, gió lớn khi thổi làm nổi sóng nước, và
khi nước nổi sóng thì quả đất rung động. Ðó là nhân thứ nhất, duyên thứ
nhất, đại địa chấn động.
14. Lại nữa này Ananda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn có
thần thông, tâm được chế ngự, hay hàng chư Thiên có đại thần thông,
có đại uy lực; những vị này quán địa tánh có hạn, quán thủy tánh vô
lượng, vị ấy có thể khiến quả đất này rung động, chuyển động
mạnh. Ðó là nhân thứ hai, duyên thứ hai khiến đại địa chấn động.
15. Lại nữa, này Ananda, khi vị Bồ-tát ở cõi Tusita
(Ðâu suất) từ bỏ thân, chánh niệm, tỉnh giác, nhập vào mẫu thai, khi ấy
quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Ðó là nhân thứ
ba, duyên thứ ba khiến đại địa chấn động.
16. Lại nữa, này Ananda, khi vị Bồ-tát, chánh niệm,
tỉnh giác, ra khỏi mẫu thai, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động,
chấn động mạnh. Ðó là nhân thứ tư, duyên thứ tư khiến đại địa chấn
động.
17. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai chứng ngộ vô
thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, khi ấy quả đất rung động, chuyển động,
chấn động mạnh. Ðó là nhân thứ năm, duyên thứ năm khiến đại địa
chấn động.
18. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai chuyển bánh xe
Pháp, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Ðó
là nhân thứ sau, duyên thứ sau, khiến đại địa chấn động.
19. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai, chánh niệm,
tỉnh giác, từ bỏ, không duy trì mạng sống, khi ấy quả đất này rung động,
chuyển động, chấn động mạnh. Ðó là nhân thứ bảy, duyên thứ bảy,
khiến đại địa chấn động.
20. Lại nữa, này Ananda, khi Như Lai nhập vô dư y
Niết Bàn, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động
mạnh. Ðó là nhân thứ tám duyên thứ tám, khiến đại địa chấn động.
Này Ananda, do tám nhân này, tám duyên này, khiến đại địa chấn động.
21. Này Ananda, có tám chúng. Thế nào là tám? Chúng
Sát-đế-Lỵ, chúng Bà-la-môn, chúng Cư sĩ, chúng Sa-môn, chúng Bốn
Thiên vương, chúng Tam thập tam thiên, chúng Ma, chúng Phạm thiên.
22. Này Ananda, Ta nhớ lại Ta đã đến chúng Sát
-đế-lỵ hơn một trăm lần. Tại đây trước khi Ta ngồi, trước khi Ta
nói chuyện, và trước khi cuộc đối thoại bắt đầu, dung sắc của chúng
Sát-đế-lỵ như thế nào, dung sắc của Ta cũng như vậy; giọng
nói chúng như thế nào, giọng nói của Ta cũng như vậy. Và với bài
pháp thoại, Ta giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan
hỷ. Khi Ta đang nói, chúng không biết: "Kẻ nói ấy là ai, là chư
Thiên chăng, là Người chăng?" Sau khi Ta giảng dạy, khích lệ, làm cho
phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ với bài pháp thoại, Ta biến mất. Khi
Ta biến mất, chúng không biết: "Kẻ biến mất ấy là ai, là chư
Thiên chăng, là Ngươi chăng?".
23. Này Ananda. Ta nhớ lại Ta đã đến chúng
Bà-la-môn hơn một trăm lần... chúng Cư sĩ... chúng Sa-môn... chúng Bốn Thiên
vương... chúng Tam thập tam thiên... chúng Ma... chúng Phạm thiên hơn trăm
lần, tại đây trước khi Ta ngồi, trước khi Ta nói chuyện và trước khi
cuộc đối thoại bắt đầu dung sắc của chúng Phạm thiên như thế nào, dung
sắc của Ta cũng vậy; giọng nói của chúng như thế nào, giọng nói
của Ta cũng vậy. Và với bài pháp thoại, Ta giảng dạy, khích lệ, làm cho
phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ. Khi Ta đang nói, chúng không biết:
"Kẻ nói ấy là ai, là chư Thiên chăng, là Người chăng?" Sau khi Ta
giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, Ta
biến mất. Khi Ta biến mất, chúng không biết: "Kẻ biến mất
đó là ai, là chư Thiên chăng, là Người chăng?" Này Ananda, như vậy là
tám chúng.
24. Này Ananda, có tám thắng xứ. Thế nào là tám?
25. Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại
sắc, có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ nhất.
26. Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại
sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng
chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ hai.
27. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các
loại ngoại sắc có hạn lượng đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi
nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ ba.
28. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các
loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi
nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ tư.
29. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các
loại ngoại sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh - như
bông gai màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh - như lụa
Ba-la-nại, cả hai mặt láng trơn, màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh
sáng xanh. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại
ngoại sắc màu xanh, tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh. Vị ấy nhận
thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó
là thắng xứ thứ năm.
30. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các
loại ngoại sắc màu vàng, sắc màu vàng, tướng màu vàng, hình sắc vàng, ánh
sáng vàng - như bông Kanikàra màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh
sáng vàng - như lụa sa Balanại, cả hai mặt láng trơn màu vàng, tướng sắc
vàng hình sắc vàng - như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy
các loại ngoại sắc màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng,
vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta
thấy", đó là thắng xứ thứ sáu.
31. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các
loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, hình sắc đỏ, ánh
sáng đỏ - như bông bandhujìvaka màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình
sắc đỏ, ánh sáng đỏ - như lụa sa Balanại, cả hai mặt láng trơn màu đỏ,
sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Như vậy vị này
quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, tướng sắc
đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi
nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ bảy.
32. Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các
loại ngoại sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng -
như sao mai Osadhi màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng
- như lụa sa Balanại, cả hai mặt láng trơn màu trắng, tướng sắc trắng, hình
sắc trắng, ánh sáng trắng. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm,
thấy các loại ngoại sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh
sáng trắng, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta
biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ tám. Này Ananda như vậy là tám
thắng xứ.
33. Này Ananda, tám giải thoát. Thế nào là tám?
Tự mình có sắc, thấy các sắc; đó là sự giải thoát
thứ nhất.
Quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc;
đó là sự giải thoát thứ hai.
Quán tưởng (sắc là) tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy;
đó là sự giải thoát thứ ba.
Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các
tưởng hữu đối, không tác ý đến những tưởng khác biệt, với suy
tư "hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ; đó là
sự giải thoát thứ tư.
Vượt khỏi hoàn toàn Không vô biên xứ, với suy tư
"thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ; đó là giải
thoát thứ năm.
Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư
"không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ; đó là sự giải
thoát thứ sáu.
Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi
tưởng phi phi tưởng xứ; đó là sự giải thoát thứ bảy.
Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng
và trú Diệt thọ tưởng; đó là sự giải thoát thứ tám.
Này Ananda, như vậy là tám giải thoát.
34. Này Ananda, một thời Ta ở tại Uruvelà, trên bờ sông
Neranjara, dưới gốc cây Ajapàlanigrodha khi Ta mới thành đạo. Này Ananda, lúc
bấy giờ Ác ma đến tại chỗ Ta ở, khi đến xong liền đứng một
bên. Này Ananda, sau khi đứng một bên, Ác ma nói với Ta: "Bạch Thế
Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ.
Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ".
35. Này Ananda, khi được nói vậy, Ta nói với Ác ma:
- "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào
những Tỷ-kheo của ta chưa thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt,
có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp
và Tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo
lý chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh,
phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa
có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá
Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những
Tỷ-kheo ni của Ta chưa trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt,
có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp
và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo
lý chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh,
phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa
có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể
truyền bá Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những nam
cư sĩ của Ta chưa trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có
kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu chánh pháp và
tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo chánh pháp, sau khi học hỏi giáo
lý chưa có thể tuyên bố diễn giảng trình bày, xác định, khai minh,
phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa
có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể
truyền bá Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những nữ
cư sĩ của Ta chưa trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có
kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu chánh pháp và
tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo chánh pháp, sau khi học hỏi giáo
lý chưa có thể tuyên bố diễn giảng trình bày, xác định, khai minh,
phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa
có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể
truyền bá Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta không diệt độ khi nào phạm hạnh mà
Ta giảng dạy chưa được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá,
biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài Người.
36. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Ác ma
đến Ta, sau khi đến liền đứng một bên. Này Ananda, Ác ma đứng
một bên nói với Ta như sau:
"Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt
độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến
thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã
nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo của Ta
chưa trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn
sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống
chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có
thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và
giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể
chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá
Chánh pháp thần diệu". Bạch Thế Tôn, nay những Tỷ-kheo của
Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ
luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy
pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý
đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân
tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên, đã có
thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, đã có thể truyền
bá Chánh pháp một cách thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt
độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến
thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn đây là lời Thế Thôn đã nói:
"Này Ác ma, ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo ni của Ta...
; khi nào những cư sĩ của Ta... ; khi nào phạm hạnh Ta giảng dạy chưa được
thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn nghĩa là được
khéo giảng dạy cho loài Người". Bạch Thế Tôn, nay phạm hạnh Thế
Tôn giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá,
biến mãn nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài Người. Như vậy, nay
Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế
Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ".
37. Khi được nói vậy, Ta nói với Ác ma:
"Này Ác ma, hãy an tâm, không bao lâu Như Lai sẽ
diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ".
Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai
chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành (không duy trì mạng sống lâu
hơn nữa).
38. Khi được nói vậy, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn
kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho loài Trời và loài Người.
- Thôi đi, này Ananda, đừng có thỉnh cầu Như Lai nữa.
Này Ananda, nay thỉnh cầu Như Lai không còn kịp thời.
39. Lần thứ hai, tôn giả Ananda... Lần thứ ba, tôn giả
Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến
trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp,
vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.
- Này Ananda, Ngươi có tin sự giác ngộ Thế Tôn
không?
- Bạch Thế Tôn, con có tin!
- Vậy, này Ananda, sao Ngươi lại làm phiền Như Lai
đến ba lần.
40. - Bạch Thế Tôn, chính con được tận mặt, đích
thân nghe Thế Tôn dạy như sau: "Này Ananda, những ai đã tu bốn thần
túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền
vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu muốn, người ấy có thể
sống đến một kiếp, hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai
đã tu bốn thần túc... Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần
kiếp còn lại".
- Này Ananda, Ngươi có tin tưởng không?
- Bạch Thế Tôn, con có tin tưởng!
- Này Ananda, như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy
là khuyết điểm của Ngươi, đã không nhận hiểu sự gợi ý quá
rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Như Lai, Ngươi không thỉnh cầu
Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến
trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp,
vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài
Người". Này Ananda, nếu Ngươi thỉnh Như Lai, Như Lai có thể bác
bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như Lai có thể nhận lời.
Này Ananda như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết điểm của
Ngươi.
41. Này Ananda, một thời Ta ở tại Vương Xá, núi Linh
Thứu (Gijjha Kuta). Tại đấy Ta nói với ngươi: "Này Ananda, khả ái thay
thành Vương Xá! Khả ái thay núi Linh Thứu! Này Ananda, những ai đã tu bốn
thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật
bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu người ấy muốn, có
thể sống đến một kiếp, hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay
Như Lai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật
chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda,
nếu muốn, Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp
còn lại". Dầu vậy, này Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi
ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn. Ngươi
không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại
cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến
trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài
Trời và loài Người". Này Ananda, nếu Ngươi cầu thỉnh Như Lai, Như
Lai có thể bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như Lai
có thể nhận lời. Này Ananda, như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là
khuyết điểm của Ngươi".
42. Này Ananda, một thời Ta ở thành Vương Xá, tại
Nigrodhàràma... Ta cũng ở thành Vương Xá tại Corapapàta... Ta cũng ở thành
Vương Xá, hang Sattapanni trên núi Vebhàra... Ta cũng ở thành Vương Xá, tại
hang đá Kàla, trên núi Isigili... Ta cũng ở thành Vương Xá, tại khu rừng Sita
trong hang đá Sappasondika... Ta cũng ở thành Vương Xá, tại Tapodàràma... Ta
cũng ở thành Vương Xá, Trúc Lâm, hồ Kalandaka... Ta cũng ở thành Vương Xá,
tại rừng Jìvakambavana... Ta cũng ở thành Vương Xá tại Maddakucchi ở Lộc
Uyển.
43. Này Ananda, tại đấy Ta nói: "Này Ananda, khả ái
thay thành Vương Xá, khả ái thay núi Linh Thứu, khả ái thay Nigrodhàràma, khả
ái thay Corapapàta, khả ái thay hang Sattapanni trên núi Vebhara, khả ái thay hang
đá Kàla trên núi Isigili, khả ái thay hang đá Sappasondika trong rừng Sìta,
khả ái thay suối nước nóng Tapodàràma, khả ái thay hồ con sóc ở tại Trúc
Lâm, khả ái thay rừng Jìvakambavana, khả ái thay vườn Nai ở tại
Maddakucchi"!
44. "Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu
tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững,
điêu luyện, thiện xảo thời, nếu người ấy muốn, có thể sống
đến một kiếp, hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu
bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật
bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn, Như Lai
có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại". Dầu
vậy, này Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng,
sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn. Ngươi không thỉnh cầu
Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến
trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp,
vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng
cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài
Người". Này Ananda, nếu Ngươi cầu thỉnh Như Lai, Như Lai có thể
bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như Lai có thể nhận
lời. Này Ananda, như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết
điểm của Ngươi".
45. Này Ananda, một thời Ta ở Vesàli tại điện thờ
Udena. Tại đấy, này Ananda, Ta cũng nói. "Này Ananda, khả ái thay Vesàli,
khả ái thay điện thờ Udena. Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu
tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững,
điêu luyện, thiện xảo thời, nếu người ấy muốn, có thể sống
đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu
bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật
bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu muốn, Như Lai có
thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại". Dầu vậy,
này Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự
hiện tướng quá rõ ràng của Như Lai, Ngươi không thỉnh cầu Như Lai:
"Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp,
Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho
chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì
lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Này
Ananda, nếu Ngươi cầu thỉnh Như Lai, Như Lai có thể bác bỏ hai lần
cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như Lai có thể nhận lời. Này Ananda,
như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết điểm của Ngươi.
46. Này Ananda, một thời Ta ở thành Vesàli tại điện
thờ Gotamaka... ta cũng ở thành Vesàli tại điện thờ Sattambaka... Ta cũng ở
thành Vesàli tại điện thờ Bahuputta... Ta cũng ở thành Vesàli tại
điện thờ Sàrandada...
47. Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Ta nói
với ngươi: "Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện thờ
Udena, khả ái thay điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ Sattamba,
khả ái thay điện thờ Buhuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada, khả
ái thay đền Càpàla. Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu tập
nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu
luyện, thiện xảo thời, nếu muốn, người ấy có thể sống
đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, Như Lai đã tu bốn
thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật
bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn, Như Lai
có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại". Dầu
vậy, này Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng,
sự hiện tướng quá rõ ràng của Như Lai, Ngươi không thỉnh cầu Thế
Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn
kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi
ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho
đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài
Người". Này Ananda, nếu Ngươi cầu thỉnh Như Lai; Như Lai có thể
bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như Lai có thể nhận
lời. Này Ananda, như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết
điểm của Ngươi.
48. Này Ananda, phải chăng ngay từ ban đầu Ta đã từng
tuyên bố rằng mọi vật ưu ái, thân hình đều phải bị thay đổi, trở
về hư không, biến dịch? Này Ananda, làm sao có thể được như vầy:
Những gì sanh khởi, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại mong khỏi
có sự biến diệt? Thật không có sự trạng ấy. Này Ananda, những gì Như
Lai đã từ bỏ, dứt khoát, xả ly, phóng xả, khước từ, chính là thọ,
hành. Như Lai đã nói và nói một cách dứt khoát: "Không lâu, Như Lai sẽ
diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ". Nói
rằng Như Lai vì muốn sống mà phản lại lời tuyên bố trên thời thật không có
sự trạng ấy.
Này Ananda, chúng ta hãy đi đến giảng đường
Kùtagàra tại rừng Ðại Lâm.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
49. Rồi Thế Tôn cùng tôn giả Ananda đi đến
giảng đường Kùtagàra vườn Ðại Lâm, khi đi đến, Thế Tôn nói với
tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đi mời tất cả Tỷ-kheo sống ở gần
Vesàli tụ họp tại giảng đường này.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, đi mời tất cả vị
Tỷ-kheo sống ở gần Vesàli tụ họp tại giảng đường, rồi đi đến
chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng một bên,
tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, chúng Tỷ-kheo đã tụ họp.
Bạch Thế Tôn, Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là hợp thời.
50. Thế Tôn liền đi đến giảng đường và
ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với các vị
Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nay những pháp do Ta chứng ngộ và
giảng dạy cho các Ngươi, các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập
và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh
phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người. Này các
Tỷ-kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các Ngươi
phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho phạm
hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho
chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an
lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần,
Bốn Thần túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần.
Này các Tỷ-kheo, chính những pháp này do Ta chứng ngộ và giảng dạy, mà
các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng
để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh,
vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho
loài Trời và loài Người.
51. Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, đây là lời Ta nhắn nhủ các
Ngươi. Các hành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát,
không lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai
sẽ diệt độ.
Ðó là lời Thế Tôn dạy. Sau khi nói vậy, Thiện
Thệ lại nói thêm:
Ta đã già, dư mạng chẳng còn bao,
Từ biệt các Ngươi, Ta đi một mình.
Tự mình làm sở y cho chính mình,
Hãy tinh tấn, chánh niệm, giữ giới luật,
Nhiếp thúc ý chí, bảo hộ tự tâm.
Ai tinh tấn trong pháp và luật này
Sẽ diệt sanh tử, chấm dứt khổ đau.
Tụng phẩm IV
1. Rồi Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, đem theo y bát, vào
Vesàli để khất thực. Sau khi khất thực ở Vesàli, ăn xong và trên đường
khất thực trở về, Thế Tôn nhìn Vesàli với cái nhìn của con voi chúa
rồi nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, lần này là lần cuối cùng, Như Lai nhìn
Vesàli. Này Ananda, chúng ta hãy đi đến làng Bhandagàma.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn
cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Bhandagàma. Tại đây, Thế Tôn
ở tại Bhandagàma.
2. Rồi Thế Tôn nói với Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không
chứng đạt bốn Pháp mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong
biển sanh tử. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, chính vì không
giác ngộ, không chứng đạt Thánh Giới mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi
lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ,
không chứng đạt Thánh Ðịnh mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn
trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không
chứng đạt Thánh Tuệ mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong
biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không chứng
đạt Thánh giải thoát mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong
biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, khi Thánh Giới được giác ngộ, được
chứng đạt; khi Thánh Ðịnh được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh
Tuệ được giác ngộ, được chứng đạt; khi Thánh Giải thoát được giác
ngộ, được chứng đạt, thời tham ái một đời sống tương lai được trừ
diệt, những gì đưa đến một đời sống mới được dứt sạch, nay không
còn một đời sống nào nữa.
3. Ðó là lời Thế Tôn dạy. Sau khi nói vậy,
Thiện Thệ lại nói thêm:
Giới, Ðịnh, Tuệ và Giải thoát vô thượng
Gotama danh xưng đã chứng ngộ.
Ðấng Giác Ngộ giảng pháp chúng Tỷ-kheo.
Ðạo Sư diệt khổ, pháp nhãn, tịnh lạc.
4. Trong thời gian Thế Tôn ở tại Bhandagàma, pháp
thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo:
- Ðây là Giới, đây là Ðịnh, đây là Tuệ, Ðịnh
cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu
với Ðịnh sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ
sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu,
hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
5. Rồi Thế Tôn, sau khi ở Bhandagàma cho đến khi
Ngài xem là vừa đủ, liền nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Hatthigam...
Ambagama... Jambugama..., hãy đi đến Bhoganagara.
6. - Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn. Rồi Thế Tôn
cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Bhoganagara.
7. Tại đây, Thế Tôn ở Bhoganagara tại đền
Ananda, Ngài nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng bốn Ðại giáo pháp,
hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Các Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, Thế Tôn
giảng như sau:
8. - Này các Tỷ-kheo, có thể có Tỷ-kheo nói:
"Này Hiền giả, tôi tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân
lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị
Ðạo Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên
hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi
mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và
đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với Kinh,
đối chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương
ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những
lời này không phải là lời Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo
sai lầm". Và này các Tỷ kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh
với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng phù hợp với Kinh,
tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn
những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ
giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo, như vậy là Ðại giáo pháp thứ
nhất, các Ngươi hãy thọ trì.
9. Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nói:
"Tại trú xứ kia, có Tăng chúng ở với các vị Thượng tọa, với các
Thủ chúng. Tôi tự thân nghe từ miệng Tăng chúng, tự thân lãnh thọ,
như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Ðạo
Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên hủy
báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi
mỗi chữ, mỗi mỗi câu, phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so
sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng không phù hợp với
Kinh, không tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận:
"Chắc chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và Tỷ-kheo
ấy đã thọ giáo sai lầm". Và này các Tỷ-kheo, các Ngươi hãy từ
bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu
chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể
kết luận: "Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn,
và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo, như
vậy là Ðại giáo pháp thứ hai, các Ngươi hãy thọ trì.
10. Này các Tỷ-kheo, có thể có vị Tỷ-kheo
nói: "Tại trú xứ kia có nhiều Tỷ-kheo Thượng tọa ở, những vị
này là bậc đa văn, gìn giữ truyền thống, trì pháp, trì luật, trì pháp
yếu. Tôi tự thân nghe từ miệng những vị Thượng tọa ấy, tự thân
lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị
Ðạo Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên
hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi
mỗi chữ, mỗi mỗi câu, phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so
sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với Kinh, đối
chiếu với Luật, và nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng với
Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải là
lời Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm". Và, này các Tỷ-kheo, các Ngươi
hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu với Luật, nếu chúng
phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc
chắn những lời ấy phải là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn
chánh". Này các Tỷ-kheo, như vậy là Ðại giáo pháp thứ ba, các Ngươi hãy thọ
trì.
11. Này các Tỷ-kheo, có thể có Tỷ-kheo nói:
"Tại trú xứ kia, có một vị Thượng tọa, vị này là bậc đa văn, gìn
giữ truyền thống, trì pháp, trì luật, trì pháp yếu. Tôi tự thân nghe
từ Thượng tọa, tự thân lãnh thọ; như vậy là Pháp, như vậy là Luật,
như vậy là lời dạy của vị Ðạo Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi
không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không
tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải
được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đối chiếu với
Luật. Khi đem so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật, và nếu chúng
không phù hợp với Kinh, không tương ứng với Luật, thời các ngươi có
thể kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải là lời của
Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm". Và này các
Tỷ-kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối
chiếu với Luật, nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng với Luật,
thời các ngươi có thể kết luận: "Chắc chắn những lời ấy phải
là lời dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn
chánh". Này các Tỷ-kheo, như vậy là Ðại giáo pháp thứ tư, các
Ngươi hãy thọ trì.
Này các Tỷ-kheo, bốn Ðại giáo pháp này, các
Ngươi hãy thọ trì.
12. Trong khi Thế Tôn ở tại Bhoganagara, pháp thoại
này được giảng cho chúng Tỷ-kheo:
- Ðây là Giới, đây là Ðịnh, đây là Tuệ, Ðịnh
cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu
với Ðịnh sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ
sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu,
hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
13. Rồi Thế Tôn, sau khi ở tại Bhoganagara cho
đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta sẽ đi đến Pàvà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. Và Thế Tôn
cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Pàvà, tại vườn xoài của Cunda,
một người thợ sắt.
14. Thợ sắt Cunda nghe: "Nay Thế Tôn đã đến
Pàvà và hiện đang ở trong vườn xoài của ta". Rồi thợ sắt Cunda
đến tại chỗ Thế Tôn, khi đến xong liền đảnh lễ Ngài và
ngồi xuống một bên. Và Thế Tôn thuyết pháp cho thợ sắt Cunda đang
ngồi một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.
15. Và thợ sắt Cunda, sau khi được Thế Tôn
thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ,
liền bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời
mời của con ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo". Thế Tôn
im lặng nhận lời.
16. Thợ sắt Cunda, sau khi biết Thế Tôn đã nhận
lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân phía hữu hướng
về Ngài và từ biệt.
17. Và thợ sắt Cunda, sau khi đêm đã mãn, liền cho
sửa soạn tại nhà các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm và
nhiều thứ Sùkara-maddave (một loại mộc nhĩ), và báo tin cho Thế Tôn:
"Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng".
18. Và Thế Tôn buổi sáng đắp y, mang theo y bát,
cùng với chúng Tỷ-kheo đến nhà thợ sắt Cunda, khi đến xong
liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi. Thế Tôn nói với
thợ sắt Cunda:
- Này Cunda, loại mộc nhĩ đã soạn sẵn, hãy dọn cho
ta. Còn các món ăn khác đã soạn sẵn, loại cứng và loại mềm, hãy
dọn cho chúng Tỷ-kheo.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Thợ sắt Cunda vâng lời Thế Tôn, dọn cho Thế
Tôn các món mộc nhĩ đã soạn sẵn, và dọn cho chúng Tỷ-kheo các món
ăn khác, loại cứng và loại mềm.
19. Rồi Thế Tôn nói với thợ sắt Cunda:
- Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại. Ngươi hãy đem
chôn vào một lỗ. Này Cunda, Ta không thấy một ai ở cõi Trời, cõi Người,
ở Ma giới, ở Phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa-môn và
chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên, Nhân, ăn món mộc nhĩ này mà có thể
tiêu hóa được, trừ Như Lai.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Thợ sắt Cunda vâng theo Thế Tôn, đem chôn món ăn
mộc nhĩ còn lại vào một lỗ, đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ
Ngài và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho thợ sắt Cunda
đang ngồi xuống một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan
hỷ rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
20. Sau khi dùng cơm của thợ sắt Cunda, Thế Tôn bị
nhiễm bệnh nặng, bệnh lỵ huyết, đau đớn gần như đến
chết, và Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, chịu đựng cơn
bệnh.
Rồi Thế Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Kusinàra.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Tôi nghe: Sau khi dùng cơm tại nhà thợ sắt Cunda.
Cơn bệnh khốc liệt bỗng khởi lên, gần như chết đến nơi.
Sau khi cùng món ăn loại mộc nhĩ.
Kịch bệnh khởi lên nơi bậc Ðạo Sư.
Ðiều phục bệnh hoạn, Thế Tôn dạy rằng:
"Ta đi đến thành Kusinàra".
21. Rồi Thế Tôn bước xuống đường, đến một
gốc cây và nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy xếp tư áo Sanghàti. Ta cảm thấy
mệt mỏi và muốn ngồi nghỉ, này Ananda.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn và xếp tư áo
Sanghàti lại.
22. Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, và nói
với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đem nước cho Ta. Này Ananda, Ta nay
đang khát và muốn uống nước.
Khi được nói vậy, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, vừa mới có khoảng năm trăm cỗ
xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên, nước trở thành nông cạn, khuấy động và
vẩn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh,
dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế Tôn có
thể uống nước và làm dịu mát chân tay.
23. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ananda, Ta
nay đang khát và muốn uống nước.
Lần thứ hai tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, vừa mới có khoảng năm trăm cỗ
xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên, nước trở thành nông cạn, khuấy động và
vẩn đục. Bạch Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh,
dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó, Thế Tôn có
thể uống nước và làm dịu mát chân tay.
24. Lần thứ ba, Thế Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đem nước uống cho Ta. Này Ananda, Ta
nay đang khát và muốn uống nước.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, lấy bát và đi
đến con sông nhỏ. Con sông đang chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục,
khi tôn giả Ananda đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng, không
vẩn đục.
25. Tôn giả Ananda tự nghĩ: "Thật kỳ diệu thay,
thật hy hữu thay thần túc và uy lực của Như Lai. Con sông nhỏ đang chảy nông
cạn, khuấy động và vẩn đục này, khi ta đến, liền trở thành trong
trẻo, sáng lặng và không vẩn đục". Sau khi dùng bát lấy nước, tôn giả
Ananda đến chỗ Thế Tôn và bạch với Ngài:
- Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu! Bạch Thế
Tôn thật là hy hữu. Bạch Thế Tôn, con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy
động và vẩn đục này, khi con đến, liền trở thành trong trẻo, sáng
lặng và không vẩn đục. Xin thỉnh Thế Tôn dùng nước. Xin thỉnh Thiện
Thệ dùng nước!
Và Thế Tôn uống nước.
26. Lúc bấy giờ, Pukkusa, dòng họ Mallà, đệ tử
của ngài Alàra Kàlàma đang đi trên con đường từ Kusinàra đến Pàvà.
Pukkusa, dòng họ Mallà thấy Thế Tôn ngồi dưới
gốc cây, liền đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống
một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Pukkusa, dòng họ Mallà, bạch Thế
Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu, bạch Thế
Tôn thật là hy hữu, trạng thái trầm tĩnh của một vị xuất gia!
27. Bạch Thế Tôn, thuở xưa, ngài Alàra Kàlàma đang
đi trên đường. Rồi ngài bước xuống đường và ngồi xuống một gốc cây,
không xa con đường để nghỉ trưa. Bạch Thế Tôn, lúc ấy có khoảng
năm trăm cỗ xe đi ngang qua gần ngài Alàra Kàlàma. Bạch Thế Tôn, có
một người đi theo sau lưng đoàn xe ấy, đễn chỗ ngài Alàra Kàlàma và
nói với ngài: "Tôn giả có thấy khoảng năm trăm cỗ xe vừa đi qua
không?" - "Này Hiền giả, ta không thấy". - "Tôn giả có
nghe tiếng không?" - "Này Hiền giả, ta không nghe
tiếng". - "Có phải Tôn giả đang ngủ không?" - "Này
Hiền giả, không phải ta đang ngủ". - "Vậy có phải Tôn giả đang
thức tỉnh?" - "Này Hiền giả, ta đang thức tỉnh". - "Tôn
giả đang thức tỉnh nhưng không thấy khoảng năm trăm cỗ xe vừa đi ngang
qua gần một bên, cũng không nghe thấy tiếng. Bạch Tôn giả, cái áo của
Tôn giả cũng bị lấm bụi". - "Này Hiền giả, phải, áo ta bị lấm
bụi".
Bạch Thế Tôn, người ấy liền tự nghĩ:
"Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu sự trầm tĩnh của vị xuất gia. Trong
khi giác tỉnh, còn thức nhưng không thấy năm trăm cỗ xe vừa đi ngang qua
gần một bên, cũng không nghe tiếng". Sau khi tỏ sự thâm tín đối với
ngài Alàra Kàlàma, vị ấy từ biệt.
28. - Này Pukkusa, nhà ngươi nghĩ thế nào? Cái gì
khó làm hơn, cái gì khó thực hiện hơn? Một người trong khi giác tỉnh,
còn thức mà không thấy năm trăm cỗ xe vừa đi ngang qua gần một bên, cũng
không nghe tiếng. Hay một người đang giác tỉnh, còn thức, trong khi trời
đang mưa, mưa tầm tã ào ào, trong khi điện quang chớp lòa, sấm sét vang
động, mà không thấy, cũng không nghe tiếng?
29. - Bạch Thế Tôn, nói gì đến năm trăm cỗ
xe này, cho đến hoặc sáu trăm, hoặc bảy trăm, hoặc tám trăm, hoặc chín
trăm, hoặc một ngàn, cho đến trăm ngàn cỗ xe, cũng không thể so
sánh được. Thật khó làm hơn, khó thực hiện hơn, một người đang giác
tỉnh, còn thức, trong khi trời đang mưa, mưa tầm tã ào ào, trong khi điện
quang chớp lòa, sấm sét vang động, mà không thấy cũng không nghe tiếng.
30. - Này Pukkusa, một thời, Ta ở Atumà, tại nhà đập
lúa. Lúc bấy giờ trời mưa, mưa tầm tã ào ào, điện quang chớp lòa, sấm
sét vang động, có hai anh em nông phu, và bốn con bò đực bị sét đánh
chết. Này Pukkusa, một số đông người từ Atumà đi ra đến tại chỗ
hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết...
31. Này Pukkusa, lúc bấy giờ Ta từ nhà đập lúa đi ra
và đi qua đi lại ngoài trời, trước cửa nhà đập lúa, Này Pukkusa, có một
người từ nơi đám đông ấy đi ra, đến chờ Ta, đảnh lễ và đứng một
bên. Và Ta nói với người ấy đang đứng một bên:
32:
- "Này Hiền giả, vì sao có số đông người tụ họp như vậy?" - Bạch Thế
Tôn vừa rồi trời đang mưa, mưa tầm tã ào ào, điện quang chớp lòa, sấm
sét vang động, có hai anh em nông phu, và bốn con bò đực bị sét đánh
chết. Do vậy mà có số đông người ấy tụ họp tại đây. Bạch Thế Tôn, lúc
ấy Ngài ở tại chỗ nào?" - "Này Hiền giả, lúc ấy Ta ở tại đây". "Bạch
Thế Tôn, Ngài không thấy gì cả sao?" - "Này Hiền giả, Ta không thấy
gì". - "Bạch Thế Tôn, Ngài không nghe tiếng gì cả sao?" - "Này Hiền
giả, Ta không nghe tiếng gì?" - "Bạch Thế Tôn, có phải Ngài đang ngủ,
phải không?" - "Này Hiền giả, không phải ta đang ngủ". - "Bạch Thế Tôn,
có phải Ngài đang tỉnh thức phải không?" - "Này Hiền giả, phải". -
"Bạch Thế Tôn, Ngài đang tỉnh thức, nhưng trong khi trời mưa, mưa tầm
tã ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông
phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết, nhưng Ngài không thấy, cũng
không nghe gì". - Này Hiền giả, phải như vậy".
33. Này Pukkusa, người ấy liền tự nghĩ: "Thật
là kỳ diệu, thật là hy hữu sự trầm lặng của vị xuất gia, khi thức tỉnh,
dầu có mưa tầm tã ào ào, điện quang chói lòa, sấm sét vang động, có
hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết mà không thấy
gì, không nghe gì hết". Sau khi nói lên lòng tin tưởng ở nơi Ta,
người ấy đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về phía Ta và từ biệt.
34. Khi được nói vậy, Pukkusa, dòng họ Mallà bạch
Thế Tôn:
-
Bạch Thế Tôn, sự tin tưởng của con đối với ngài Alàra, Kàlàma, nay con
đem rải rắc trước luồng gió lớn, nay con đem thả trôi vào dòng nước
cuốn. Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Hy hữu thay bạch Thế Tôn! Bạch Thế
Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra
những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào
trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp
đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày. Bạch Thế Tôn, con xin
quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con
làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
35. Rồi Pukkusa, dòng họ Mallà nói với một người
khác: "Này bạn, hãy đem đến một cặp áo màu kim sắc, vàng chói và
sẵn sàng để mặc". - "Tôn giả, xin vâng". Người ấy vâng lời
Pukkusa, dòng họ Mallà và đem đến một cặp áo màu kim sắc, vàng chói
và sẵn sàng để mặc.
Rồi Pukkusa, dòng họ Mallà đem dâng một cặp áo màu
kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc ấy cho Thế Tôn và nói:
- Bạch Thế Tôn, cặp áo màu kim sắc, vàng chói và
sẵn sàng để mặc. Mong Thế Tôn vì thương xót con mà thâu nhận cho.
- Này Pukkusa, hãy đắp cho Ta một áo và đắp cho Ananda
một áo.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Pukkusa, dòng họ Mallà vâng lời Thế Tôn, đắp
một áo cho Ngài và đắp một áo cho tôn giả Ananda.
36. Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho Pukkusa, người
dòng họ Mallà, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.
Và Pukkusa, người dòng họ Mallà, sau khi được Thế Tôn thuyết
pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, liền từ
chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về
Thế Tôn và từ biệt.
37. Khi Pukkusa, dòng họ Mallà đi chưa được bao
lâu, tôn giả Ananda đem cặp áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để
mặc này đặt trên thân Thế Tôn, và khi cặp áo này được đặt trên thân
Thế Tôn, màu sắc sáng chói của áo như bị lu mờ đi. Và Tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu, bạch Thế
Tôn thật là hy hữu, sự thanh tịnh và sáng chói màu da của Như Lai! Bạch
Thế Tôn, khi con đặt trên thân Thế Tôn, cặp áo màu kim sắc vàng chói
và sẵn sàng để mặc này, màu sắc sáng chói của áo như bị lu mờ đi.
- Thật vậy, này Ananda. Này Ananda, có hai trường hợp,
màu da của Như Lai hết sức thanh tịnh và sáng chói. Thế nào là hai?
Này Ananda, trong đêm Như Lai chứng vô thượng Chánh Ðẳng Giác và trong đêm
Như Lai sắp diệt độ, nhập Niết-bàn giới, không còn dư y sanh tử nữa.
Này Ananda, đó là hai trường hợp, màu da của Như Lai hết sức thanh tịnh
và sáng chói.
38. Này Ananda, hôm nay khi canh cuối cùng đã mãn, tại
Upavattana ở Kusinàrà, trong rừng Sàla của dòng họ Mallà, giữa hai cây
sàla song thọ, Như Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, chúng ta hãy đi
đến sông Kakutthà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn:
Cặp áo kim sắc này.
Pukkusa mang đến.
Ðắp áo kim sắc này,
Da Ðạo Sư sáng chói.
39. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi
đến con sông Kakutthà, xuống sông tắm và uống nước rồi lội qua bờ bên
kia, đi đến rừng xoài và tại đây, nói với đại đức Cundaka:
- Này Cundaka, hãy xếp áo Sanghàti làm bốn cho Ta.
Này Cundaka, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Ðại đức Cundaka vâng lời Thế Tôn và xếp áo
Sanghàti làm bốn.
40. Rồi Thế Tôn nằm xuống phía hông bên mặt như
dáng điệu con sư tử, hai chân để trên nhau, chánh niệm, tỉnh
giác, suy tư, với ý niệm ngồi dậy lại khi phải thời. Và đại đức
Cundaka ngồi phía trước Thế Tôn.
41.
Ðức Phật tự đi đến
Con sông Kakutthà.
Con sông chảy trong sáng.
Mát lạnh và thanh tịnh.
Vị Ðạo Sư mỏi mệt
Ði dần xuống mé sông.
Như Lai đấng Vô Thượng
Ngự trị ở trên đời
Tắm xong, uống nước xong,
Lội qua bên kia sông.
Bậc Ðạo Sư đi trước,
Giữa Tăng chúng Tỷ-kheo,
Vừa đi vừa diễn giảng.
Chánh pháp thật vi diệu.
Rồi bậc Ðại Sĩ đến,
Tại khu vực rừng xoài.
Cho gọi vị Tỷ-kheo,
Tên họ Cundaka:
"Hãy gấp tư áo lại,
Trải áo cho ta nằm.
Nghe dạy, Cundaka
Lập tức vâng lời dạy,
Gấp tư và trải áo,
Một cách thật mau lẹ.
Bậc Ðạo Sư nằm xuống
Thân mình thật mệt mỏi.
Tại đây Cundaka,
Ngồi ngay phía trước mặt.
42. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, rất có thể có người làm cho thợ sắt
Cunda hối hận: "Này Hiền giả Cunda, thật không lợi ích gì cho Ngươi,
thật là tai hại cho Ngươi, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ Ngươi cúng
dường, và nhập diệt". Này Ananda, cần phải làm tiêu tan sự hối hận
ấy của thợ sắt Cunda: "Này Hiền giả, thật là công đức cho bạn, vì
được Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ bạn cúng dường, và nhập diệt.
Này Hiền giả Cunda, tôi tự thân nghe, tự thân lãnh thọ lời nói này
của Thế Tôn: "Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo,
đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn
uống khác? Thế nào là hai? Một là bữa ăn trước khi Như Lai chứng vô
thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hai là bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ
Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử. Hai bữa ăn này đồng một quả
báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng
dường ăn uống khác. Nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được hưởng
tuổi thọ; nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được hưởng sắc đẹp;
nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được hưởng an lạc; nhờ hành động
này, đại đức Cunda sẽ được hưởng danh tiếng; nhờ hành động này, đại
đức Cunda sẽ được hưởng cõi trời, nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ
được hưởng uy quyền".
Này Ananda, cần phải làm cho thợ sắt Cunda tiêu tan hối
hận.
43. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu ý nghĩa này,
liền thốt lời cảm khái như sau:
Công đức người bố thí,
Luôn luôn được tăng trưởng,
Trừ được tâm hận thù.
Không chất chứa, chế ngự,
Kẻ chí thiện từ bỏ.
Mọi ác hạnh bất thiện,
Diệt trừ tham, sân, si.
Tâm giải thoát thanh tịnh.
Tụng phẩm V
1. Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy đi qua bờ bên kia sông
Hirannavati, đến ở Kusinàrà - Upavatama - rừng Sàlà của dòng họ
Màllà.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn, cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi
đến bên kia sông Hirannavati, tại Kusinàrà Upavattana, rừng Sàlà của dòng
họ Mallà, khi đi đến nơi liền nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy trải chỗ nằm, đầu hướng về
phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ: này Ananda, Ta nay mệt mỏi, muốn
nằm nghỉ.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, trải chỗ nằm,
đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ. Và Thế Tôn
nằm xuống, về phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, hai chân
để lên nhau chánh niệm và giác tỉnh.
2. Lúc bấy giờ, cây sàlà song thọ trổ hoa trái
mùa, tràn đầy cành lá. Những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung vãi
trên thân Như Lai để cúng dường Ngài. Những thiên hoa Mandàrava từ trên
hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để
cúng dường Ngài. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi xuống, rơi lên,
gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường Ngài, nhạc trời
trên hư không trổi dậy để cúng dường Như Lai. Thiên ca trên hư không
vang lên để cúng dường Như Lai.
3. Rồi Như Lai nói với tôn giả Ananda:
-- Này Ananada, các cây sàlà song thọ tự nhiên trổ
hoa trái mùa tràn đầy cành lá, những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung
vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Những thiên hoa Mandàrava từ trên
hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để
cúng dường. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo
khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường. Nhạc trời trên hư
không trổi dậy để cúng dường Như Lai. Thiên ca trên hư không vang lên
để cúng dường Như Lai.
Nhưng, này Ananda, như vậy không phải kính trọng,
tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường hay lễ kính Như Lai. Này Ananda, nếu có
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu Chánh pháp
và Tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp, hành trì đúng Chánh pháp,
thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai với
sự cúng dường tối thượng. Do vậy, này Ananda, hãy thành tựu Chánh pháp và
Tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp và hành trì đúng Chánh pháp. Này
Ananda, các Người phải học tập như vậy.
4. Lúc bấy giờ, tôn giả Upavàna đứng trước mặt
Thế Tôn và quạt Ngài. Thế Tôn liền quở trách tôn giả Upavàna:
"Này Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng trước mặt Ta."
Tôn giả Ananda, liền tự suy nghĩ: "Ðại đức
Upavàna này là thị giả sống gần và hầu cận Thế Tôn đã lâu ngày. Nay
Thế Tôn trong giờ phút cuối cùng lại quở trách đại đức Upavàna:
"Này Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng trước mặt Ta". Do
nhơn gì, do duyên gì, Thế Tôn quở trách đại đức Upavàna: "Này
Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng trước mặt ta"?.
5. Rồi tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Ðại đức Upavàna này là thị giả, sống gần và hầu
cận Thế Tôn đã lâu ngày. Nay Thế Tôn trong giờ phút cuối cùng lại
quở trách đại đức Upavàna: "Này Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có
đứng trước mặt Ta." Do nhơn gì, do duyên gì, Thế Tôn quở trách đại
đức Upavàna: "Này Tỷ-kheo hãy đứng một bên, chớ có đứng trước
mặt Ta"?
-- Này Ananda, rất đông các vị Thiên thần ở mười
phương thế giới tụ hội để chiêm ngưỡng Như Lai. Này Ananda, cho
đến mười hai do tuần xung quanh Kusinàrà, Upavattana, rừng Sàlà thuộc dòng
họ Mallà, không có một chỗ nào, nhỏ cho đến đầu một sợi tóc có
thể chích được mà không đầy những Thiên thần có uy lực tụ họp.
Này Ananda, các vị Thiên Thần đang than phiền: "Chúng ta từ rất xa
đến chiêm ngưỡng Như Lai. Thật rất là hy hữu, các Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, và tối hôm nay, trong canh cuối cùng,
Như Lai sẽ nhập diệt. Và nay Tỷ-kheo có oai lực này lại đứng ngang
trước Thế Tôn, khiến chúng ta không thể chiêm ngưỡng Như Lai trong
giờ phút cuối cùng". Này Ananda, các chư Thiên than phiền như vậy.
6. -- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đang nghĩ đến
hạng chư Thiên nào?
- Này Ananda, có hạng chư Thiên ở trên hư không nhưng
có tâm tư thế tục, những vị này khóc than, với đầu bù tóc rối, khóc
than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân bổ nhoài dưới đất, lăn lộn qua
lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt
quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Này Ananda, có hạng Thiên thần ở trên đất với tâm tư
thế tục, những vị này khóc than với đầu bù tóc rối, khóc than với cánh
tay duỗi cao, khóc than thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại:
"Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện
Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá
sớm".
Có chư Thiên đã diệt trừ ái dục, những vị này
bình thản, tỉnh giác chịu đựng, với tâm suy tư: "Các hành là vô
thường, làm sao sự kiện có thể khác được?"
7. -- Bạch Thế Tôn, thuở trước các Tỷ-kheo sau
khi thọ an cư, từ các địa phương đến chiêm ngưỡng Như Lai, chúng
con được sự lợi ích tiếp kiến, hầu cận những Tỷ-kheo tu hành
điêu luyện. Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn nhập diệt, chúng con
sẽ không được sự lợi ích tiếp kiến, hầu cận những Tỷ-kheo tu
hành điêu luyện.
8. - Này Ananda, có bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần
phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Thế nào là bốn?
"Ðây là chỗ Như Lai đản sanh". Này Ananda,
đó là thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
"Ðây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng
Chánh Ðẳng Giác", này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần
phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
"Ðây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô
thượng", này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm
ngưỡng và tôn kính.
"Ðây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư
y Niết-bàn", này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải
chiêm ngưỡng và tôn kính.
Này Ananda, đó là bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cư
sĩ cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Này Ananda, các thiện tín
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ sẽ đến với niềm suy
tư: "Ðây là chỗ Như Lai đản sanh", "Ðây là chỗ Như Lai
chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác", "Ðây là chỗ Như
Lai chuyển Pháp luân vô thượng", "Ðây là chỗ Như Lai
diệt độ, nhập Vô dư y Niết-bàn".
Này Ananda, những ai, trong khi chiêm bái những Thánh
tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân
hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên.
9. -- Bạch Thế Tôn, chúng con phải cư xử với phái
nữ như thế nào?
-- Này Ananda, chớ có thấy chúng.
-- Bạch Thế Tôn, nếu phải thấy chúng, thời phải
như thế nào?
-- Này Ananda, chớ có nói chuyện với chúng.
-- Bạch Thế Tôn, nếu phải nói chuyện với
chúng, thời phải như thế nào?
-- Này Ananda, phải an trú chánh niệm.
10. -- Bạch Thế Tôn, chúng con phải xử sự thân
xá-lợi Như Lai như thế nào?
-- Này Ananda, các Ngươi đừng có lo lắng vấn đề
cung kính thân xá-lợi của Như Lai. Này Ananda, các Người hãy nỗ lực, hãy
tinh tấn hướng về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng
về tự độ. Này Ananda, có những học giả Sát-đế-lỵ, những
học giả Bà-la-môn, những học giả gia chủ thâm tín Như Lai, những vị
này sẽ lo cho sự cung kính cúng dường thân xá-lợi của Như Lai.
11. -- Bạch Thế Tôn, cần phải xử sự thân Như Lai
như thế nào?
-- Này Ananda, xử sự thân Chuyển luân Thánh Vương
như thế nào, hãy xử sự thân xá-lợi Như Lai như vậy.
-- Bạch Thế Tôn, người ta xử sự thân chuyển
luân Thánh vương như thế nào?
-- Này Ananda, thân của Chuyển luân Thánh vương
được vấn tròn với vải mới. Sau khi vấn vải mới xong, lại được vấn thêm
với vải gai bện. Sau khi vấn vải gai bện, lại vấn thêm với vải mới,
và tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải. Rồi thân
được đặt vào trong một hòm dầu bằng sắt, hòm sắt này được một hòm sắt
khác đậy kín. Xong một giàn hỏa gồm mọi loại hương được xây dựng
lên, thân của vị Chuyển luân Thánh vương được đem thiêu trên giàn hỏa
này và tại ngã tư đường, tháp của vị Chuyển luân Thánh vương được
xây dựng lên. Này Ananda, đó là pháp táng thân vị Chuyển luân Thánh
vương.
Này Ananda, pháp táng thân vị Chuyển luân Thánh
vương như thế nào, pháp táng thân Thế Tôn cũng như vậy. Tháp của
Như Lai phải được dựng lên tại ngã tư đường. Và những ai đem tại chỗ
ấy vòng hoa, hương, hay hương bột nhiều màu, đảnh lễ tháp, hay khởi tâm
hoan hỷ (khi đứng trước mặt tháp), thời những người ấy sẽ được lợi
ích, hạnh phúc lâu dài.
12. Này Ananda, bốn hạng người sau này đáng được xây
tháp. Thế nào là bốn? Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác xứng đáng
xây tháp. Ðộc Giác Phật xứng đáng xây tháp. Ðệ tử Thanh Văn của Như
Lai xứng đáng xây tháp. Chuyển luân Thánh vương xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ
khi nghĩ đến: "Ðây là tháp của Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri. " Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng
sẽ sanh lên thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này,
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì, bậc Ðộc Giác Phật xứng
đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ khi nghĩ
đến: "Ðây là tháp của Thế Tôn Ðộc Giác Phật". " Do
tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ được sanh
thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này, bậc Ðộc
Giác Phật xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì, đệ tử Thanh Văn của
Như Lai xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ khi
nghĩ đến: "Ðây là tháp đệ tử Thanh Văn của Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri." Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng
chung, chúng sẽ được sanh thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì
lý do này, đệ tử Thanh Văn của Như Lai xứng đáng xây tháp .
Này Ananda, vì lý do gì, Chuyển luân Thánh
vương xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ khi
nghĩ đến: "Ðây là tháp của vị Pháp vương trị vì đúng pháp."
Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ được sanh
thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này, Chuyển
luân Thánh vương xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, đó là bốn hạng người xứng đáng xây
tháp.
13. Rồi tôn giả Ananda đi vào trong tịnh xá, dựa trên
cột cửa và đứng khóc: "Ta nay vẫn còn là kẻ hữu học, còn phải tự
lo tu tập. Nay bậc Ðạo Sư của ta sắp diệt độ, còn ai thương tưởng ta
nữa!"
Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, Ananda ở tại đâu?
-- Bạch Thế Tôn, tôn giả Ananda đi vào trong tịnh
xá, dựa trên cột cửa và đứng khóc: "Ta nay vẫn còn là kẻ hữu học,
còn phải tự lo tu tập. Nay bậc Ðạo Sư của ta sắp diệt độ, còn ai
thương tưởng ta nữa!"
Thế Tôn liền nói với một Tỷ-kheo:
-- Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta, nói với
Ananda: "Này Hiền giả Ananda, bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền giả."
-- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Vị Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, đi đến
chỗ tôn giả Ananda, sau khi đến, liền nói với tôn giả: "Này
Hiền giả Ananda, bậc Ðạo Sư cho gọi Hiền giả." - "Thưa
vâng, Hiền giả. " Tôn giả Ananda vâng lời vị Tỷ-kheo ấy, đi
đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
14. Thế Tôn nói với tôn giả Ananda đang ngồi một
bên:
-- Thôi vừa rồi, Ananda, chớ có buồn rầu, chớ có khóc
than. Này Ananda, Ta đã tuyên bố trước với ngươi rằng mọi vật ái
luyến, tốt đẹp đều phải sanh biệt, tử biệt và dị biệt.
Này Ananda làm sao được có sự kiện này: "Các pháp sanh, trú, hữu vi,
biến hoại đừng có bị tiêu diệt?" Không thể có sự kiện
như vậy được. Này Ananda, đã lâu ngày, ngươi đối với Như Lai, với thân
nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng với
khẩu nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô
lượng với ý nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không
hai, vô lượng. Này Ananda, ngươi là người tác thành công đức. Hãy cố gắng
tinh tấn lên, ngươi sẽ chứng bậc Vô lậu, không bao lâu đâu.
15. Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo, những vị A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác trong thời quá khứ, những bậc Thế Tôn này đều có những thị giả
tối thắng như Ananda của Ta. Này Tỷ-kheo, những vị A-la-hán, Chánh Ðẳng
Giác thời vị lai, những bậc Thế Tôn này cũng sẽ có những vị thị giả
tối thắng như Ananda của Ta vậy.
Này các Tỷ-kheo, Ananda là người có trí và
hiểu rõ: "Nay đúng thời để các Tỷ-kheo yết kiến
Thế Tôn, nay đúng thời để các Tỷ-kheo ni, nay đúng thời để
các nam cư sĩ, nay đúng thời để các nữ cư sĩ, nay đúng thời để
các vua chúa, để các đại thần, để các ngoại đạo sư, để các
đệ tử các ngoại đạo sư yết kiến Thế Tôn!"
16. Này các Tỷ-kheo, Ananda có bốn đức tánh kỳ
cựu, hy hữu. Thế nào là bốn?
Này các Tỷ-kheo, nếu có chúng Tỷ-kheo
đến yết kiến Ananda, chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì được
yết kiến Ananda, và nếu Ananda thuyết pháp chúng ấy sẽ được
hoan hỷ vì bài thuyết pháp, và nếu Ananda làm thinh thời, này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo ấy sẽ thất vọng.
Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo ni..., chúng
nam cư sĩ... chúng nữ cư sĩ đến yết kiến Ananda, chúng ấy sẽ
được hoan hỷ, vì được yết kiến Ananda, và nếu Ananda
thuyết pháp, chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì bài thuyết pháp và
nếu Ananda làm thinh thời này các Tỷ-kheo, chúng nữ cư sĩ ấy sẽ thất
vọng.
Này các Tỷ-kheo, vị Chuyển luân Thánh vương có
bốn đức tánh kỳ diệu, hy hữu.
Này các Tỷ-kheo, nếu có chúng
Sát-đế-lỵ... chúng Bà-la-môn... chúng gia chủ... chúng Sa-môn đến
yết kiến vị Chuyển luân Thánh vương, chúng sẽ được hoan hỷ
vì được yết kiến vị Chuyển luân Thánh vương và nếu vị
Chuyển luân Thánh vương nói chuyện, chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì
bài nói chuyện, và nếu vị Chuyển luân Thánh vương làm thinh thời
chúng Sa-môn ấy sẽ thất vọng.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ananda có bốn đức tánh
kỳ diệu, hy hữu. Nếu có chúng Tỷ-kheo... chúng Tỷ-kheo ni...
chúng nam cư sĩ... chúng nữ cư sĩ đến yết kiến Ananda, chúng ấy
sẽ được hoan hỷ vì được yết kiến Ananda, và nếu Ananda
thuyết pháp chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì bài thuyết pháp, và
nếu Ananda làm thinh, thời này các Tỷ-kheo chúng nữ cư sĩ ấy sẽ thất
vọng.
Này các Tỷ-kheo, Ananda có bốn đức tánh kỳ
diệu, hy hữu như vậy.
17. Khi được nói vậy, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chớ có diệt độ
tại đô thị nhỏ bé này, tại đô thị hoang vu này, tại đô thị phụ thuộc
này. Bạch Thế Tôn, có những đô thị khác to lớn hơn như Campà
(Chiêm-bà), Ràjagaha (Vương Xá), Sàvatthi (Xá-vệ), Sàketa (Sa-kỳ), Kosambi
(Kiều-thương-di), Bàrànasi (Ba-la-nại). Thế Tôn hãy diệt độ tại
chỗ ấy. Tại chỗ ấy, có đại chúng Sát-đế-lỵ, có đại chúng
Bà-la-môn, có đại chúng gia chủ rất tin tưởng Như Lai, các vị này sẽ cúng
dường thân xá-lợi Như Lai.
-- Này Ananda, chớ có nói như vậy, này Ananda, chớ có
nói đô thị này nhỏ bé, đô thị này hoang vu, đô thị này phụ thuộc.
18. Này Ananda, thuở xưa có vị vua tên là Mahasudassana
(Ðại Thiện Kiến). Vị này là Chuyển luân vương, trị vì như pháp, là
vị pháp vương, thống lãnh bốn thiên hạ, chinh phục hộ trì quốc dân, đầy
đủ bảy báu. Này Ananda, đô thị Kusinàrà này là kinh đô của vua
Mahasudassana, tên là Kusàvatì (Câu-xá-bà-đề), phía Ðông và phía Tây
rộng đến mười hai do tuần, phía Bắc và phía Nam rộng đến bảy do
tuần.
Này Ananda, kinh đô Kusàvatì này rất phồn thịnh, phú
cường, dân cư đông đúc, dân chúng sung mãn, thực phẩm phong phú. Này
Ananda, cũng như kinh đô Alakamanda của chư thiên rất phồn thịnh, phú cường
dân cư đông đúc, Thiên chúng sung mãn, thực phẩm phong phú, cũng vậy này
Ananda, kinh đô Kusàvatì này cũng rất phồn thịnh, phú cường, dân cư đông
đúc, nhân chúng sung mãn.
Này Ananda, kinh đô Kusàvatì này, ngày đêm vang dậy
chín loại tiếng, tức là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe,
tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng tỳ bà, tiếng hát,
tiếng xập xỏa, tiếng chuông và tiếng thứ mười là lời kêu
gọi: "Hãy uống đi, hãy ăn đi".
19. Này Ananda, hãy đi vào Kusinàrà và nói với dân
Mallà Kusinàrà: "Này các Vàsetthà, đêm nay, vào canh cuối cùng, Như Lai
sẽ diệt độ".
- Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Này Vàsetthà,
các Ngươi hãy đến. Về sau chớ có hối hận: "Như Lai đã diệt
độ tại làng vườn chúng ta mà chúng ta không được chiêm ngưỡng Như
Lai".
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, đắp y, đem theo y
bát và cùng một vị khác làm bạn đồng hành đi vào Kusinàrà.
20. Lúc bấy giờ, dân Mallà ở Kusinàrà đang tụ họp
tại giảng đường vì một vài công sự. Tôn giả Ananda đến tại giảng
đường của dân Mallà ở Kusinàrà. Sau khi đến, tôn giả liền nói vói
dân Mallà ở Kusinàrà:
- Này Vàsetthà, đêm nay, vào canh cuối cùng Như Lai sẽ
diệt độ, Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Này Vàsetthà, các
Ngươi hãy đến. Về sau chớ có hối hận: "Như Lai đã diệt độ
tại làng vườn chúng ta mà chúng ta không được chiêm ngưỡng Như Lai".
21. Dân Mallà cùng với con trai, con gái và vợ, khi nghe
tôn giả Ananda nói như vậy, liền đau đớn, sầu muộn, tâm tư khổ não. Kẻ
thì khóc than với đầu bù tóc rối, kẻ thì khóc than với cánh tay duỗi
cao, kẻ thì khóc than thân bổ nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế
Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn
biến mất ở trên đời quá sớm".
Và dân Mallà cùng với con trai, con gái và vợ đau
đớn, sầu muộn, tâm tư khổ não, đi đến Upavattana, khu rừng Sàlà của
dòng họ Mallà và đến chỗ tôn giả Ananda.
22. Tôn giả Ananda tự nghĩ: "Nếu ta để dân
Mallà ở Kusinàrà đảnh lễ Thế Tôn từng người một, thời đêm sẽ tàn
trước khi Thế Tôn được tất cả dân Mallà đảnh lễ. Vậy ta hãy để
dân Mallà ở Kusinàrà đảnh lễ theo từng gia tộc".
- Bạch Thế Tôn, gia tộc Mallà này với vợ con, đồ
chúng, bạn bè đến cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.
Và tôn giả Ananda, theo phương tiện này trong canh
một, khiến dân Mallà ở Kusinàrà đảnh lễ Thế Tôn.
23. Lúc bấy giờ, du sĩ ngoại đạo Subhadda ở tại
Kusinàrà. Du sĩ ngoại đạo Subhadda được nghe: "Tối nay canh cuối cùng,
Sa-môn Gotama sẽ diệt độ".
Và du sĩ ngoại đạo Subhadda suy nghĩ: "Ta nghe các
du sĩ ngoại đạo niên cao lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng:
"Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy
hữu. Và đêm nay, vào canh cuối cùng Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay
có nghi vấn này khởi lên trong tâm ta. Ta tin Sa-môn Gotama có thể
thuyết pháp và giải được nghi vấn cho ta".
24. Rồi du sĩ ngoại đạo Subhadda đi đến Upavattana,
khu rừng Sàla của dân Mallà, đến tại chỗ tôn giả Ananda và thưa với
tôn giả:
- Hiền giả Ananda, tôi nghe các du sĩ ngoại đạo,
niên cao lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu, và đêm nay,
vào canh cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này
khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Gotama có thể thuyết pháp giải
được nghi vấn cho tôi. Hiền giả Ananda, hãy cho phép tôi được yết
kiến Sa-môn Gotama.
Khi được nói vậy, tôn giả Ananda nói với du sĩ ngoại
đạo Subhadda:
- Thôi đi Hiền giả Subhadda, chớ có phiền nhiễu
Như Lai. Thế Tôn đang mệt.
Lần thứ hai, du sĩ ngoại đạo Subhadda ... Lần thứ ba, du
sĩ ngoại đạo Subhadda nói với tôn giả Ananda:
- Hiền giả Ananda, tôi nghe các du sĩ ngoại đạo,
niên cao lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu, và đêm nay,
vào canh cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này
khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Gotama có thể thuyết pháp giải
được nghi vấn cho tôi. Hiền giả Ananda, hãy cho phép tôi được yết
kiến Sa-môn Gotama.
Lần thứ ba, tôn giả Ananda nói với du sĩ ngoại đạo
Subhadda:
- Thôi đi Hiền giả Subhadda, chớ có phiền nhiễu
Như Lai. Thế Tôn đang mệt.
25. Thế Tôn nghe được câu chuyện của tôn giả
Ananda với du sĩ ngoại đạo Subhadda, Ngài liền nói với tôn giả Ananda:
- Thôi Ananda, chớ có ngăn trở Subhadda, Ananda, hãy
để cho Subhadda được phép yết kiến Như Lai. Những gì Subhadda hỏi
Ta là hỏi để hiểu biết chớ không phải để phiền nhiễu Ta.
Và những gì Ta trả lời các câu hỏi, Subhadda sẽ hiểu ý nghĩa một
cách mau lẹ.
Tôn giả Ananda liền nói với du sĩ ngoại đạo
Subhadda:
- Này Hiền giả Subhadda, hãy vào. Thế Tôn đã
cho phép Hiền giả.
26. Rồi du sĩ ngoại đạo Subhadda đến chỗ
Thế Tôn, nói lên những lời chúc tụng hỏi thăm xã giao, rồi ngồi xuống
một bên. Sau khi ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Subhadda bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, có những Sa-môn, Bà-la-môn là những
vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có
danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, như các ngài
Pàrana Kassapa, Makkhali Gosàla, Ajita Kesakambalì, Pakadha Kaccàyana, Sanjaya
Belatthiputta, Nigantha Nàthaputta, tất cả những vị này có phải là giác ngộ
như các vị đã tự cho như vậy, hay tất cả chưa giác ngộ, hay một số đã
giác ngộ và một số chưa giác ngộ?
- Thôi Subhadda, hãy để vấn đề này yên một
bên: "Tất cả những vị này có phải là đã giác ngộ như các vị đã tự
cho như vậy, hay tất cả chưa giác ngộ, hay một số đã giác ngộ và một số
chưa giác ngộ". Này Subhadda, Ta sẽ thuyết pháp cho Ngươi. Hãy nghe và
suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Du sĩ ngoại đạo Subhadda vâng lời Thế Tôn. Thế
Tôn nói như sau:
27. - Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát
Thánh đạo, thời ở đây không có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng không
có đệ nhị Sa-môn, cũng không có đệ tam Sa-môn, cũng không có
đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda trong pháp luật nào có Bát Thánh đạo, thời ở
đây có đệ nhất Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ
tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, chính trong pháp
luật này có Bát Thánh Ðạo, thời này Subhadda, ở đây có đệ nhất
Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, cũng
có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có
những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những vị Tỷ-kheo này sống chơn chánh,
thời đời này không vắng những vị A-la-hán.
Này Subhadda, năm hai mươi chín,
Ta xuất gia hướng tìm chân thiện đạo.
Trải năm mươi năm với thêm một năm
Từ khi xuất gia, này Subhadda,
Ta là du sĩ tu Trí, tu Ðức.
Ngoài lãnh vực này, không có Sa-môn đệ nhất
cũng không có Sa-môn đệ nhị, cũng không có Sa-môn đệ tam, cũng
không có Sa-môn đệ tứ. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không
có những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những Tỷ-kheo sống chơn chánh, thì
đời này không vắng những vị A-la-hán.
28. Khi được nói vậy, du sĩ ngoại đạo Subhadda bạch
Thế Tôn:
- Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu
thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã
xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng,
đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy
sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương
tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy
y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong con được xuất gia với Thế Tôn. Con
xin thọ đại giới.
- Này Subhadda, ai trước kia là ngoại đạo, nay muốn
xuất gia muốn thọ đại giới trong Pháp, Luật này phải sống bốn tháng
biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, các vị Tỷ-kheo nếu
đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị
Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy cá tánh con người sai biệt nhau.
29. - Bạch Thế Tôn, nếu những người xưa kia là
ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này
phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, các vị
Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới, thời con
sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt trú bốn năm, nếu
các vị Tỷ-kheo đồng ý, hãy cho con xuất gia, cho con thọ đại giới
để thành vị Tỷ-kheo.
Và Thế Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananada, hãy xuất gia cho Subhadda.
- Xin vâng, bạch Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.
30. Du sĩ ngoại đạo Subhadda nói với tôn giả Ananda:
- Thật là lợi ích, thưa Tôn giả Ananda, thật là
thiện lợi, thưa Tôn giả Ananda, được thọ lễ quán đảnh làm đệ
tử trước mặt bậc Ðạo Sư!
Và du sĩ ngoại đạo Subhadda được xuất gia, được
thọ đại giới với Thế Tôn. Thọ đại giới không bao lâu, đại đức
Subhadda ở một mình, an tịnh, không phóng dật, tinh tấn, sống nhiệt tâm,
cần mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu
các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng
đến. Ðó là vô thượng phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự giác chứng
và an trú. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau
đời này sẽ không có đời sống khác nữa.
Và đại đức Subhadda trở thành một A-la-hán nữa. Ðại
đức là vị đệ tử cuối cùng được Thế Tôn tế độ.
Tụng phẩm VI
1. Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, nếu trong các ngươi có người nghĩ
rằng: "Lời nói của bậc Ðạo sư không còn nữa. Chúng ta không có Ðạo
sư (giáo chủ)". Này Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy. Này Ananda,
Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính
Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo Sư của các Ngươi.
2. Này Ananda, nay các vị Tỷ-kheo xưng hô với nhau
là Hiền giả. Sau khi Ta diệt độ, chớ có xưng hô như vậy. Này Ananda,
vị Tỷ-kheo niên lão hãy gọi vị Tỷ-kheo niên thiếu, hoặc bằng
tên, hoặc bằng họ, hoặc bằng tiếng Hiền giả. Vị Tỷ-kheo niên
thiếu, hãy gọi vị Tỷ-kheo niên lão là Thượng tọa (Bhante) hay
Ðại đức.
3. Này Ananda, nếu chúng Tăng muốn, sau khi Ta
diệt độ có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt chi tiết.
4. Này Ananda, sau khi Ta diệt độ, hãy hành tội Phạm
đàn (Brahmadanda) đối với Tỷ-kheo Channa.
- Bạch Thế Tôn, thế nào là Phạm đàn?
- Này Ananda, Tỷ-kheo Channa muốn nói gì thì nói.
Chúng Tỷ-kheo sẽ không nói, sẽ không giảng dạy, sẽ không giáo giới
Tỷ-kheo Channa.
5. Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nào nghi
ngờ hay phân vân gì về đức Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương
pháp, thời này các Tỷ-kheo các Người hãy hỏi đi. Sau chớ có hối
tiếc: "Bậc Ðạo Sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không tận mặt
hỏi Thế Tôn".
Khi được nói vậy, các Tỷ-kheo ấy im lặng. Một lần
thứ hai, Thế Tôn.... Một lần thứ ba, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nếu có một Tỷ-kheo có nghi
ngờ hay phân vân gì về đức Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp, thời
này các Tỷ-kheo, các ngươi hãy hỏi đi. Sau chớ có hối
tiếc: "Bậc Ðạo Sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không tận mặt
hỏi Thế Tôn".
Lần thứ ba, các Tỷ-kheo ấy giữ im lặng.
Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nếu có vị nào vì lòng kính
trọng bậc Ðạo Sư mà không hỏi, thời này các Tỷ-kheo, giữa bạn đồng
tu, hãy hỏi nhau.
Khi được nói vậy, những vị Tỷ-kheo ấy giữ im
lặng.
6. Rồi tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu thay, bạch Thế
Tôn, thật hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, con tin rằng trong chúng Tỷ-kheo
này, không có một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật,
Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp.
- Này Ananda, ngươi có tín nhiệm nên nói vậy.
Nhưng ở đây, này Ananda, Như Lai biết rằng trong chúng Tỷ-kheo này,
không có một Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật,
Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp. Này Ananda, trong năm trăm Tỷ-kheo
này, Tỷ-kheo thấp nhất đã chứng được quả Dự lưu, không còn đọa
lạc, chắc chắn hướng đến Chánh giác.
7. Và Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nay Ta khuyên dạy các ngươi:
"Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật".
Ðó là lời cuối cùng Như Lai.
8. Rồi Thế Tôn nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ
thiền, Ngài nhập Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập Tam
thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài
nhập định Không vô biên xứ. Xuất Không vô biên xứ, Ngài nhập định Thức
vô biên xứ. Xuất Thức vô biên xứ, Ngài nhập định Vô sở hữu xứ. Xuất Vô
Sở hữu xứ, Ngài nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng phi
phi tưởng xứ, Ngài nhập Diệt thọ tưởng định.
Khi ấy tôn giả Ananda nói với tôn giả Anuruddha:
- Thưa Tôn giả, Thế Tôn đã diệt độ.
- Này Hiền giả Ananda, Thế Tôn chưa diệt
độ. Ngài mới nhập Diệt thọ tưởng định.
9. Rồi xuất Diệt thọ tưởng định, Ngài nhập Phi
tưởng phi phi tưởng xứ định. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài nhập Vô
sở hữu xứ định. Xuất Vô sở hữu xứ, Ngài nhập Thức vô biên xứ định. Xuất
thức Vô biên xứ, Ngài nhập Hư không vô biên xứ định. Xuất Hư không vô
biên xứ, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Tam
thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị
thiền, Ngài nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập định
Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam
thiền, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài lập tức
diệt độ.
10. Khi Thế Tôn diệt độ, cùng với sự diệt
độ, đại địa chấn động khủng khiếp, râu tóc dựng ngược, sấm trời vang
động.
Khi Thế Tôn diệt độ, Phạm thiên Sahampati, cùng
lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
Chúng sanh ở trên đời,
Từ bỏ thân ngũ uẩn
Bậc đạo sư cũng vậy,
Ðấng Tuyệt luân trên đời.
Bậc Ðại hùng Giác ngộ
Như Lai đã diệt độ.
Khi Thế Tôn diệt độ, Thiên chủ Sakka, cùng lúc
Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
Các hành là vô thường,
Có sanh phải có diệt
Ðã sanh, chúng phải diệt,
Nhiếp chúng là an lạc.
Khi Thế Tôn diệt độ, tôn giả Anuruddha, cùng
lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
Không phải thở ra vào
Chính tâm trú chánh định
Không tham ái tịch tịnh
Tu sĩ hướng diệt độ
Chính tâm tịnh bất động
Nhẫn chịu mọi cảm thọ
Như đèn sáng bị tắt
Tâm giải thoát hoàn toàn.
Khi Thế Tôn diệt độ, tôn giả Ananda, cùng lúc
Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
Thật kinh khủng bàng hoàng,
Thật râu tóc dựng ngược,
Khi Bậc Toàn thiện năng,
Bậc Giác ngộ nhập diệt.
Khi Thế Tôn diệt độ, những Tỷ-kheo chưa
giải thoát tham ái, có vị thì khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị thì
khóc than, thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập
diệt quá sớm, Thiện Thệt nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến
mất ở trên đời quá sớm". Còn những Tỷ-kheo đã diệt trừ tham
ái, những vị này an trú chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, suy tư: "Các
hành là vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện ấy?"
11. Lúc bấy giờ, tôn giả Anuruddha nói với các
Tỷ-kheo:
- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu não, chớ có khóc
than. Này các Hiền giả, phải chăng Thế Tôn đã tuyên bố ngay từ ban
đầu rằng mọi vật ưu ái thân tình đều phải sanh biệt, tử
biệt và dị biệt. Này các Hiền giả, làm sao có thể được như
vầy: "Những gì sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại mong
khỏi có sự biến dịch? Thật không có sự trạng ấy". Này các Hiền
giả, chính chư Thiên đang trách đó.
- Thưa Tôn giả Anuruddha, Tôn giả đang nghĩ đến
hạng chư Thiên nào?
- Hiền giả Ananda, có hạng chư Thiên ở trên hư
không nhưng có tâm tư thế tục, những vị này khóc than với đầu bù tóc
rối, khóc than với cánh tay duỗi cao, khóc than thân bổ nhoài dưới đất,
lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ
nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Hiền giả Ananda, có hạng chư Thiên ở trên đất với
tâm tư thế tục, những vị này khóc than với đầu bù tóc rối, khóc than
với cánh tay duỗi cao, khóc than thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua
lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt
quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm". Còn những chư
Thiên diệt trừ ái dục, những vị này chánh niệm tỉnh giác, chịu đựng
với tâm suy tư: "Các hành là vô thường, làm sao có thể khác
được?"
12. Tôn giả Anuruddha và tôn giả Ananda luận bàn về
Chánh pháp suốt cả đêm còn lại. Rồi tôn giả Anuruddha nói với tôn giả
Ananda:
- Hiền giả Ananda, hãy vào thành Kusinàrà: "Này
Vàsetthà, Thế Tôn đã diệt độ, hãy làm những gì các ngươi nghĩ
phải làm".
- Tôn giả, xin vâng!
Tôn giả Ananda vâng lời tôn giả Anuruddha, buổi sáng
đắp y, đem theo y bát cùng một thị giả, vào thành Kusinàrà.
Lúc bấy giờ, dân Mallà ở Kusinàrà đang tụ họp
tại giảng đường vì một vài công vụ. Tôn giả Ananda đến tại giảng
đường của dân Mallà ở Kusinàrà, sau khi đến liền nói với dân Mallà
ở Kusinàrà: "Này Vàsetthà, Thế Tôn đã diệt độ, hãy làm những
gì các ngươi nghĩ phải làm".
Dân Mallà cùng với con trai, con gái và vợ, khi nghe tôn
giả Ananda nói như vậy liền đau đớn sầu muộn, tâm tư khổ não, kẻ thì
khóc than với đầu bù tóc rối, kẻ thì khóc than với cánh tay duỗi cao, kẻ
thì khóc than thân bổ nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn
nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn
biến mất ở trên đời quá sớm".
13. Rồi dân Mallà ở Kusinàrà ra lệnh cho những
người làm: "Các người hãy gom góp hương, tràng hoa và tất cả nhạc khí
ở Kusinàrà".
Rồi dân Kusinàrà đem theo hương, tràng hoa, tất cả
nhạc khí và năm trăm cuộn vải đi đến Upavattana, tại rừng Sàlà của
dòng họ Mallà, đến tại chỗ thân xá lợi của Thế Tôn, rồi
chúng ở lại cả ngày tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá
lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm
những bảo cái bằng vải và tràng hoa Mandala.
Rồi dân Mallà ở Kusinàrà suy nghĩ: "Hôm nay,
nếu thiêu thân xá lợi Thế Tôn thời quá sớm. Ngày mai, chúng ta sẽ
làm lễ thiêu thân xá lợi của Thế Tôn". Rồi dân Mallà ở Kusinàrà,
cả ngày thứ hai, tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi
Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương, làm những
bảo cái bằng vải và tràng hoa Mandala, ngày thứ ba cũng như vậy, ngày thứ tư
cũng như vậy, ngày thứ năm cũng như vậy. Ngày thứ sáu cũng như vậy.
14. Ðến ngày thứ bảy, dân Mallà ở Kusinàrà suy
nghĩ: "Chúng ta đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân
xá lợi Thế Tôn với các điệu múa hát, nhạc, tràng hoa, hương, nay
chúng ta hãy chở thân xác xá lợi Thế Tôn ra ngoài thành về phía Nam
và làm lễ thiêu thân tại chỗ ấy".
Lúc bấy giờ tám vị tộc trưởng Mallà gội đầu, mặc
áo mới với ý định khiêng nổi thân xá lợi Như Lai nhưng khiêng không
nổi được. Các vị Mallà ở Kusinàrà bạch Tôn giả Anuruddha:
- Bạch Tôn giả, do nhân gì, do duyên gì tám vị tộc
trưởng Mallà này gội đầu, mặc áo mới với ý định khiêng nổi thân xá
lợi Như Lai, nhưng không khiêng nổi được?
- Này Vàsetthà, vì ý định của các Ngươi khác,
ý định của chư Thiên khác.
15. - Bạch Tôn giả, ý định của chư Thiên là gì?
- Này các Vàsetthà, ý định của các Ngươi như
sau:
"Chúng ta đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ,
cúng dường thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng
hoa, hương. Nay chúng ta hãy chở thân xá lợi Thế Tôn ra ngoài thành
về phía Nam và làm lễ thiêu thân tại chỗ ấy".
Này các Vàsetthà, ý định của chư Thiên như sau:
"Chúng ta đã tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi
Thế Tôn với các điệu múa, hát, nhạc, tràng hoa, hương của
Chư thiên, nay chúng ta hãy khiêng thân xá lợi Thế Tôn về hướng Bắc
phía Bắc của thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Bắc, hãy khiêng qua Trung tâm
của thành, rồi hướng về phía Ðông, khiêng đến phía Ðông của
thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Ðông, hãy khiêng đến phía Ðông của
thành, tại đền của dân Mallà tên là Makuta-bandhana và chúng ta sẽ thiêu
thân Thế Tôn tại chỗ ấy".
- Bạch Tôn giả, ý định của chư Thiên thế nào,
ý định của chúng con cũng vậy.
16. Lúc ấy, khắp cả Kusinàrà cho đến đống bụi,
đống rác, được rải la liệt lên đến đầu gối toàn hoa Mandaràva.
Rồi chư Thiên và các dân Mallà ở Kusinàrà, sau khi đã tôn trọng, cung
kính, đảnh lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa,
hát, nhạc, tràng hoa, hương của chư Thiên và loài Người, liền khiêng
thân xá lợi Thế Tôn về phía Bắc của Thành. Sau khi khiêng qua cửa
phía Bắc, liền khiêng qua Trung tâm của thành, rồi hướng về phía
Ðông, khiêng đến phía Ðông của thành. Sau khi khiêng qua cửa phía Ðông,
liền khiêng đến phía Ðông của thành, tại đền của dân Mallà tên
là Makuta-bandhana và đặt thân xá lợi của Thế Tôn tại chỗ ấy.
17. Rồi dân Mallà bạch tôn giả Ananda:
- Bạch Tôn giả Ananda, chúng con nay phải xử sự như
thế nào đối với thân xá lợi Như Lai?
- Này các Vàsetthà, xử sự thân Chuyển luân Thánh
vương như thế nào, hãy xử sự thân xá lợi Như Lai như vậy.
- Bạch Tôn giả Ananda, xử sự thân Chuyển luân Thánh
vương phải như thế nào?
- Này các Vàsetthà, thân Chuyển luân Thánh vương
được vấn tròn với vải mới. Sau khi vấn vải mới, lại được vấn thêm với
vải gai bện. Sau khi vấn với vải gai bện, lại vấn thêm với vải mới và
tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải. Rồi thân
được đặt trong một hòm dầu bằng sắt, hòm sắt này được một hòm sắt khác
đậy kín. Xong một giàn hỏa gồm mọi loại hương được xây dựng lên,
thân vị Chuyển luân Thánh vương được đem thiêu trên giàn hỏa này, và
tại ngã tư đường, tháp vị Chuyển luân Thánh vương này được xây dựng
lên. Này các Vàsetthà, đó là pháp táng thân của vị Chuyển luân Thánh
vương.
Này các Vàsetthà, pháp táng thân của vị Chuyển
luân Thánh vương như thế nào, pháp táng thân của Thế Tôn cũng như
vậy. Tháp của Như Lai phải được dựng lên tại ngã tư đường. Và những ai
đem đến tại chỗ ấy vòng hoa, hương, hay hương bột nhiều màu,
đảnh lễ tháp hay khởi tâm hoan hỷ (khi đứng trước mặt tháp) , thời
những người ấy sẽ được lợi ích, hạnh phúc lâu dài.
18. Và các người Mallà ở Kusinàrà sai những người
làm công:
- Hãy đem lại tất cả vải gai bện của Mallà .
Rồi những người Mallà ở Kusinàrà vấn tròn thân
Thế Tôn với vải mới. Sau khi vấn vải mới xong, lại vấn thêm với vải gai
bện. Sau khi vấn với vải gai bện lại vấn thêm với vải mới và tiếp
tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải. Rồi đặt thân Như Lai
vào trong một hòm dầu bằng sắt, đậy hòm sắt này vào một hòm sắt khác,
dựng lên một giàn hỏa gồm mọi loại hương và đặt thân Thế Tôn trên
giàn hỏa.
19. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahà Kassapa đang đi giữa
đường từ Pàvà đến Kusinàrà với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm
vị. Rồi Tôn giả Mahà Kassapa bước xuống đường và đến ngồi tại một
gốc cây.
Lúc bấy giờ có một tà mạng ngoại đạo lấy một hoa
Mandàrava ở Kusinàrà và đang đi trên một con đường đến Pàvà.
Tôn giả Mahà Kassapa thấy tà mạng ngoại đạo đi từ
đàng xa đến. Thấy vậy, tôn giả liền hỏi tà mạng ngoại đạo ấy:
- Này Hiền giả, Hiền giả có biết bậc Ðạo
sư chúng tôi không?
- Này Hiền giả, tôi có biết. Sa-môn Gotama đã
diệt độ cách hôm nay một tuần. Từ chỗ ấy, tôi được hoa Mandàrava
này.
Lúc ấy những Tỷ-kheo chưa giải thoát tham ái, có
vị thì khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị thì khóc than, thân nằm
nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm,
Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời
quá sớm". Còn những Tỷ-kheo đã diệt trừ tham ái, những vị này
an trú chánh niệm, tỉnh giác, nhẫn nại suy tư: "Các hành là vô
thường, làm sao tránh khỏi sự kiện ấy?"
20. Lúc bấy giờ, Subhadda được xuất gia khi đã lớn
tuổi đang ngồi trong hội chúng này. Subhadda được xuất gia khi đã lớn tuổi
nói với những Tỷ-kheo ấy:
- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu não, chớ có khóc
than. Chúng ta đã được thoát khỏi hoàn toàn vị Ðại Sa-môn ấy, chúng ta
đã bị phiền nhiễu quấy rầy với những lời: "Làm như thế này
không hợp với các Ngươi. Làm như thế này hợp với các Ngươi". Nay
những gì chúng ta muốn, chúng ta làm, những gì chúng ta không muốn, chúng ta
không làm.
Tôn giả Mahà Kassapa mới nói với các vị Tỷ-kheo:
- Thôi các Hiền giả, chớ có sầu não, chớ có khóc
than. Này các Hiền giả, phải chăng Thế Tôn đã tuyên bố ngay từ ban
đầu rằng mọi vật ưu ái thân tình đều phải bị sanh biệt, tử
biệt và dị biệt. Này các Hiền giả, làm sao có thể được như
vầy: Những gì sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại mong khỏi
có sự biến dịch? Thật không có sự trạng ấy.
21. Lúc bấy giờ bốn vị tộc trưởng Mallà gội đầu,
mặc áo mới với ý định châm lửa thiêu giàn hỏa Thế Tôn nhưng châm
lửa không cháy.
Các vị Mallà ở Kusinàrà bạch tôn giả Anuruddha:
- Bạch Tôn giả, do nhân gì, do duyên gì, bốn vị tộc
trưởng Mallà này gội đầu, mặc áo mới với ý định châm lửa thiêu giàn
hỏa Thế Tôn, nhưng châm lửa không cháy?
- Này các Vàsetthà, ý định của chư Thiên khác.
- Bạch Tôn giả, ý định của chư Thiên như thế
nào?
- Này các Vàsetthà, ý định của chư Thiên như sau:
"Tôn giả Mahà Kassapa nay đang đi giữa đường giữa Pàvà và Kusinàrà
cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Giàn hỏa Thế Tôn chỉ
được đốt cháy khi tôn giả Mahà Kassapa cúi đầu đảnh lễ Thế Tôn".
- Bạch Tôn giả, ý định chư Thiên như thế nào,
hãy làm y như vậy.
22. Rồi Tôn giả Mahà Kassapa đến tại đền Makuta
Bandhana của những vị Mallà tại giàn hỏa Thế Tôn, khi đến xong
liền choàng áo phía một bên vai, chấp tay, đi nhiễu phía tay phải xung
quanh giàn hỏa ba lần, cởi mở chân ra và cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.
Năm trăm vị Tỷ-kheo ấy choàng áo phía một bên vai,
chấp tay, đi nhiễu qua phía tay phải xung quanh giàn hỏa ba lần và cúi đầu
đảnh lễ chân Thế Tôn.
Và khi tôn giả Mahà Kassapa và năm trăm vị Tỷ-kheo
đảnh lễ xong, thời giàn hỏa Thế Tôn tự bắt lửa cháy.
23. Khi thân Thế Tôn đã cháy, từ da ngoài cho
đến da mỏng, thịt, dây gân hay nước giữa các khớp xương, thảy đều
cháy sạch không có tro, không có than, chỉ có xương xá lợi còn lại.
Như sanh tô hay dầu bị cháy, tất cả đều cháy sạch
không có tro, không có than, cũng vậy khi thân Thế Tôn cháy, từ da ngoài
cho đến da mỏng, thịt, dây gân hay nước giữa khớp xương, tất cả
đều cháy sạch không có tro, không có than, chỉ có xương xá lợi còn
lại. Và năm trăm tầng lớp vải gai bện, cả hai lớp trong nhất và lớp
ngoài nhất đều bị cháy thiêu.
Khi thân Thế Tôn bị thiêu cháy xong, một dòng nước
từ hư không chảy xuống tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn, và một dòng nước
từ kho nước (hay từ cây sàlà) phun lên tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn, và
các người Mallà ở Kusinàrà dùng nước với mọi loại hương tưới tắt
giàn hỏa Thế Tôn.
Rồi các người Mallà xứ Kusinàrà đặt xá lợi Thế
Tôn trong giảng đường, dùng cây thương làm hàng rào, dùng cây cung làm bức
thành xung quanh và trong bảy ngày tôn trọng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường
với các điệu múa, hát, nhạc, vòng hoa, hương.
24. Vua nước Magadha tên là Ajàtasattu Vedehiputta nghe tin
Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà. Vua liền gởi một sứ giả
đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người
Sát-đế-lỵ, ta cũng là người Sát-đế-lỵ. Ta cũng xứng đáng
được một phần xá lợi Thế Tôn, ta cũng dựng tháp và tổ chức nghi lễ
đối với xá lợi Thế Tôn".
Những người Licchavì ở Vesàli nghe tin Thế Tôn đã
diệt độ ở Kusinàrà liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở
Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là
người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được phần xá lợi
Thế Tôn. Chúng tôi cũng dựng tháp và tổ chức nghi lễ đối với xá-lợi
Thế Tôn".
Các người Sakyà ở Kapilavatthu nghe tin Thế Tôn đã
diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các người Mallà
ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng
là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá
lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ với
xá-lợi Thế Tôn".
Những người Buli ở Allakappa nghe tin Thế Tôn đã
diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các người Mallà
ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng
là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần
xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ
đối với xá lợi Thế Tôn".
Những người Koli ở Rãmagãma nghe tin Thế Tôn đã
diệt độ ở Kusinàrà , liền gởi một sứ giả đến các người Mallà
ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng
là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá
lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối
với xá lợi Thế Tôn."
Bà-la-môn Vethadìpaka nghe tin Thế Tôn đã diệt
độ ở Kusinàrà, liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở
Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, tôi là người
Bà-la-môn. Tôi cũng xứng đáng được một phần xá lợi Thế Tôn. Tôi cũng
sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn".
Các người Mallà ở Pàvà nghe tin Thế Tôn đã
diệt độ liền gửi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà:
"Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người
Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá-lợi Thế
Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi
Thế Tôn".
25. Khi được nói vậy, các người Mallà ở Kusinàrà
liền tuyên bố giữa đại chúng:
- Thế Tôn đã diệt độ tại làng vườn của
chúng tôi, chúng tôi sẽ không cho phần xá lợi nào của Thế Tôn.
Khi nghe vậy, Bà-la-môn Dona nói với chúng:
Tôn giả, hãy nghe lời tôi nói!
Phật dạy chúng ta phải kham nhẫn.
Thật không tốt nếu có tranh giành.
Khi chia xá lợi bậc Thượng nhân.
Chúng ta hãy đoàn kết nhất tâm,
Hoan hỷ chia xá lợi tám phần.
Chúng ta hãy dựng tháp mọi phương,
Ðại chúng mười phương tin Pháp nhãn...
- Này Tôn giả Bà-la-môn, Ngài hãy phân chia xá lợi ra
tám phần đồng đều.
- Xin vâng, các Tôn giả.
Bà-la-môn Dona vâng lời hội chúng ấy, phân chia xá-lợi
Thế Tôn thành tám phần đồng đều rồi thưa hội chúng:
- Các Tôn giả, hãy cho tôi cái bình dùng để đong
chia xá-lợi này. Tôi sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ cho cái bình.
Và hội chúng ấy tặng Bà-la-môn Dona cái bình.
26. Và người Moriyà ở Pipphalivana nghe tin Thế Tôn
đã diệt độ liền gởi một sứ giả đến các người Mallà ở
Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là
người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được hưởng một phần
xá lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ
đối với xá-lợi Thế Tôn". - "Nay không còn phần xá-lợi Thế
Tôn nào. Xá-lợi Thế Tôn đã được phân chia, hãy lấy tro còn lại".
Rồi các vị nầy lấy than tro còn lại.
27. Và vua nước Magadha tên là Ajàtasattu, con bà Videhi
xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Vương Xá và tổ chức lễ cúng
dường.
Những người Licchavi ở Vesàli cũng xây dựng tháp trên
xá-lợi Thế Tôn tại Vesàli và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Sakya ở Kapilavatthu cũng xây dựng trên
xá-lợi Thế Tôn tại Kapilavatthu và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Buli ở Allakappa cũng xây dựng tháp trên
xá lợi Thế Tôn tại Allakappa và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Koli ở Ràmagama cũng xây dựng tháp trên
xá-lợi Thế Tôn tại Ràmagama và tổ chức lễ cúng dường.
Bà-la-môn Vethadìpaka cũng xây dựng tháp trên xá-lợi
Thế Tôn tại Vethadìpa và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Mallà ở Pàvà cũng xây dựng tháp trên
xá-lợi Thế Tôn tại Pàvà và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Màllà ở Kusinàrà cũng xây dựng tháp
trên xá-lợi Thế Tôn tại Kusinàrà và tổ chức lễ cúng dường.
Bà-la-môn Dona cũng xây dựng tháp trên bình (dùng
để đong chia xá-lợi) và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Moriyà ở Pipphalivana cũng xây dựng tháp
trên những than tro và tổ chức lễ cúng dường.
Như vậy có tám tháp xá-lợi, tháp thứ chín trên bình
(dùng để đong chia xá-lợi) và tháp thứ mười trên tro (xá-lợi).
Ðó là truyền thống thời xưa như vậy.
28.
Ðấng Pháp Nhãn Vô Thượng
Xá-lợi phân tám phần.
Bảy phần được cúng dường.
Tại Jambudìpa.
Một phần Long vương cúng.
Tại Ràmagàma.
Một răng Phật được cúng,
Tại cõi Tam Thiên giới,
Một tại Gandhàra,
Một tại Kalinga.
Một răng, vua Long vương.
Tự mình riêng cúng dường.
Quả đất được chói sáng,
Với hào quang xá-lợi,
Với lễ vật cúng dường.
Hạng thượng phẩm, thượng đẳng.
Xá-lợi đấng Pháp Nhãn.
Như vậy được cúng dường,
Bởi những bậc tôn trọng
Cúng kính lễ cúng dường,
Bởi những bậc tôn trọng
Cúng kính lễ cúng dường.
Bởi Thiên, Long, Nhơn chủ,
Bởi bậc Tối thượng nhơn.
Các người hãy chắp tay,
Cung kính lễ cúng dường.
Khó thay sự chiêm ngưỡng.
Tôn nhan bậc Như Lai.
Trải nhiều nhiều trăm kiếp,
May lắm được một lần.
Hòa thượng Thích Minh
Châu dịch Việt