Lịch sử phật giáo thế giới
Đại Cương Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới
Andrew Skilton (Dharmacari Sthiramati) Tỳ-kheo Thiện Minh chuyển dịch
29/10/2554 06:27 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

lspg-bia.jpg

MỤC LỤC

Lời giới thiệu
Tác Giả
Cách phát âm chữ Phạn
Lời tựa

PHẦN I - PHẬT GIÁO Ở ẤN ĐỘ

1. Bối cảnh Ấn Độ cổ đại - Tiền sử Phật giáo

Nền văn minh lưu vực sông Indus
Văn hóa Vêđa

2. Đức Phật
3. Lời dạy của Đức Phật

       Các bậc hiểu biết
Tuệ giác của Đức Phật

4. Đường Giác ngộ

Giới (śīla)
Định (samādhi)
Các nhân tố giác ngộ (bodhyaṅgas)
Mục tiêu


5. Tăng già đầu tiên
6. Các đại hội

Đại hội thứ nhất
Đại hội thứ hai
Các đại hội khác

7. Sự phát triển của Tăng già (cho tới TK I trước CN)

Tổ chức của Tăng già
Trú xứ của Tăng già
Những phát triển về việc hành đạo
Những ảnh hưởng chính trị - sự bảo trợ và việc ngược đãi của nhà nước

8. Các trường phái Phật giáo

Bối cảnh việc hình thành các trường phái Phật giáo
Các trường phái ngoài Đại thừa


9. Tam tạng kinh điển - Phật giáo chính truyền

Luật tạng
Cấu trúc của kinh tạng (sūtra pi
aka)

10. Vi diệu pháp (Abhidharma)

Định nghĩa
Nguồn gốc và bối cảnh
Khía cạnh văn học
Các sách thuộc bộ Luận tạng của Theravāda
Các sách thuộc bộ Luận tạng của Sarvāstivādin

11. Nguồn gốc của Đại thừa
12. Các kinh Đại thừa - kinh điển mới

Nguồn gốc
Kinh Bát nhã ba la mật đa (prajñāpāramitā sūtra)
Kinh Diệu pháp liên hoa (Saddharma-puṇḍarīka sūtra hay lotus sūtra)
Kinh Sukhāvatī-vyūha sūtra
Kinh Vimalakīrti-nirdeśa
Các kinh Samādhi
Các kinh Sám hối
Kinh Buddhāvataỵsaka (hay avataỵsaka)
Các kinh Duy thức
Các kinh Tathāgatagarbha
Các tuyển tập Kinh
Các kinh về Luân hồi
Các kinh về "Giới luật"
Các kinh về các Nhân vật


13. Lý tưởng siêu nhiên mới: vị Bồ tát

            Con đường Bồ tát

14. Các trường phái Đại thừa (I) - Trường phái Madhyamaka
15. Các trường phái Đại thừa (II) - Trường phái Yogācārin

Học thuyết Ba bản tính
Việc thực hành của Yogācārin
Kết luận về các trường phái Đại thừa

16. Học thuyết Tathāgatagarbha
17. Phái Tantra và Phật giáo Mật tông
18. Sự suy tàn của Phật giáo tại Ấn Độ


PHẦN II- PHẬT GIÁO Ở NGOÀI ẤN ĐỘ

19. Phật giáo ở Sri Lanka
20. Phật giáo ở Đông Nam Á

Miến Điện
Căm Bốt
Thái Lan
Việt Nam
Inđônêxia

21. Phật giáo tại Trung Á và Kashmir

22. Phật giáo ở Trung Quốc

Các trường phái Ấn Độ ở Trung Hoa
Các trường phái Phật giáo - Bản gốc Trung Hoa:
Thiên thai, Hoa nghiêm, Thiền, Tịnh độ
Giai đoạn cuối của Phật giáo Trung Hoa

23. Phật giáo ở Triều Tiên
24. Phật giáo ở Nhật Bản

            Các hình thức Phật giáo Nhật Bản

25. Phật giáo ở Tây Tạng

Thời kỳ truyền đạo đầu tiên
Thời kỳ truyền đạo lần thứ hai
Các dòng Phật giáo Tây Tạng

26. Phật giáo ở Mông Cổ
27. Phật giáo ở Nêpal
28. Phật giáo ở Ba Tư


Chú thích

 

 

 

LỜI GIỚI THIỆU

 

Quyển "Đại Cương Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới" mà quý độc giả hiện có trong tay do Andrew Skilton tức Đại đức Dharmacari Sthiramati biên soạn bằng Anh ngữ, được Tu sĩ Nguyễn Văn Sáu dịch ra tiếng Việt, giới thiệu một cách bao quát về sự phát triển của Phật giáo ở Ấn Độ và các nước trên thế giới. Trong tựa đề nguyên tác, tác giả chỉ ghi là "Đại Cương Lịch Sử Phật Giáo" (A Concise History Of Buddhism) nhưng tựa đề bản dịch tiếng Việt ghi thêm từ "Thế Giới" có lẽ vì dịch giả nhận thấy một phần ba số trang của quyển sách đề cập đến sự du nhập và phát triển của Phật giáo ở các nước châu Á nói riêng và thế giới nói chung.

Hiện nay, có ít nhất ba quyển sách giới thiệu về Phật Giáo Thế Giới:

Quyển thứ nhất có tựa đề là "2500 Năm Phật Giáo" (2500 Years of Buddhism) dày hơn 400 trang, do một tập thể tác giả biên soạn dưới sự chủ biên của giáo sư P.V. Bapat, được bộ Thông Tin và Tuyên Truyền của Chính phủ Ấn Độ xuất bản lần đầu vào năm 1956, được Nguyễn Đức Tư và Hữu Song dịch ra tiếng Việt và NXB Văn Hóa Thông Tin xuất bản năm 2002. Mặc dù, tựa đề tác phẩm đề cập đến chiều dài 2500 năm của Phật giáo, nội dung của tác phẩm lại nhấn mạnh đến việc giới thiệu các phương diện khác nhau của Phật giáo như văn học Phật giáo, nền giáo dục Phật giáo, nghệ thuật Phật giáo, thánh địa Phật giáo, tín đồ Phật giáo, các công trình nghiên cứu về Phật giáo; dĩ nhiên cũng có chương giới thiệu về nguồn gốc của đạo Phật, bốn thời kỳ biên tập Kinh điển Phật giáo, các trường phái Phật giáo. Cách tiếp cận học đường như vậy tuy phong phú nhưng lại khó giúp cho độc giả nắm bắt được tiến trình phát triển của Phật giáo trải qua chiều dài lịch sử mấy ngàn năm ở khắp năm châu và bốn biển.

Quyển thứ hai là quyển "Phật Giáo Khắp Thế Giới" (gần 500 trang) của Đại đức Thích Nguyên Tạng biên soạn và xuất bản tại châu Úc vào năm 2001. Tác phẩm này thực ra là tuyển tập các bài biên dịch bao quát của tác giả đăng tải trên báo và nguyệt san Giác Ngộ từ năm 1990 đến 2001 (dĩ nhiên đã đưa lên trang nhà Đạo Phật Ngày Nay, http://buddhismtoday.com và trang nhà Quảng Đức, http://quangduc.com) về ba phương diện: a) xứ sở Phật giáo, b) nhân vật Phật giáo và c) các sự kiện Phật giáo khắp thế giới. Quyển sách nhấn mạnh đến sự ra đời và phát triển của Phật giáo ở 20 nước thuộc châu Âu, châu Mỹ và châu Úc, bên cạnh Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên, Thái Lan. Đóng góp chính của tác phẩm này là ở chỗ ngoài 20 nước có sự hiện diện của Phật giáo, còn giới thiệu các tổ chức, hội đoàn, các nhân vật Phật giáo nổi tiếng và các sự kiện Phật giáo quan trọng xảy ra trong suốt quá trình mà Phật giáo đã du nhập vào các nước có nền văn minh hoàn toàn xa lạ với đạo Phật.

Quyển thứ ba là quyển "Phật Giáo Việt Nam và Phật Giáo Thế Giới" của cư sĩ Nhất Tâm và Thiền sư Đinh Lực biên soạn và được NXB Văn Hóa Thông Tin ấn hành vào năm 2003. Phần lịch sử Phật giáo gồm 200 trang, trong khi phần giới thiệu về Thiền và Phật giáo chiếm hơn 400 trang. Điều rất ngạc nhiên là cư sĩ Nhất Tâm đã copy (?) nguyên xi toàn bộ phần này của Đại đức Thích Nguyên Tạng, với vài thay đổi nhỏ về cách xếp thứ tự của các nước Phật giáo trong mục lục, mà không nói rõ xuất xứ trong lời nói đầu, làm cho người đọc có cảm giác cư sĩ Nhất Tâm chính là tác giả của phần này, thay vì Đại đức Thích Nguyên Tạng!

Sở dĩ chúng tôi điểm qua ba quyển sách trên là vì nhờ so sánh với bố cục của chúng mà chúng ta thấy được sự đóng góp của tác giả Andrew Skilton trong tác phẩm của mình.

Tác giả đã dành hai phần ba sách giới thiệu về Phật giáo của Ấn Độ, vì đây là cái nôi đã khai sinh ra đạo Phật. Trong phần này, tác giả giới thiệu bối cảnh Ấn Độ cổ đại trước khi Phật giáo ra đời để giúp cho độc giả thấy được sự đóng góp to lớn của đức Phật cho lịch sử tôn giáo và văn minh Ấn Độ nói riêng và Ấn Độ nói chung. Tác giả đã trình bày một đức Phật lịch sử, với những lời dạy về đạo đức và trí tuệ rất đặc sắc, loại bỏ các yếu tố thần quyền và huyền thoại. Con đường hoằng pháp của Phật, giáo đoàn đầu tiên của Ngài, sự phân chia giáo phái Phật giáo do bất đồng về quan niệm Giới luật, học thuyết và phương thức hành trì, các đại hội biên tập Kinh điển, ba kho tàng kinh sách Phật giáo v.v... đã được tác giả trình bày rất cô động và rõ ràng. Các trường phái chính của Phật giáo Đại thừa hay còn gọi là Phật giáo phát triển, như Trung Quán Tông (Madhyamaka), Duy Thức Tông (Yogācāra) và Mật Tông (Tantric Buddhism) cũng như một số học thuyết quan trọng của Phật giáo Đại thừa đã được tác giả trình bày rất khách quan và nghiêm túc. Nguyên nhân của sự suy tàn Phật giáo tại Ấn Độ cũng là mối quan tâm của tác giả, vì nó giúp cho các giáo hội Phật giáo ngày nay tránh được vết xe lịch sử.

Riêng về phần Phật giáo ở ngoài Ấn Độ, tác giả chỉ giới thiệu các nước thuộc châu Á như Nepal, Tích Lan, Miến Điện, Campuchia, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Tây Tạng, Mông Cổ, Ba Tư (nay là Iran) và vài nước Trung Á. Sự du nhập và tương tác của Phật giáo trong các nền văn hóa châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Úc lẽ ra là phần mà tác giả nên chú trọng tương đương với các nước châu Á, lại không được đề cập đến. Có lẽ chủ ý của tác giả là nhằm giới thiệu các hình thái của đạo Phật ở châu Á cho người phương Tây, hơn là sự xuất hiện quá mới mẻ của Phật giáo ở các xứ sở của họ.

Riêng về bản dịch, Đại đức Thiện Minh đã để nguyên nhân danh và địa danh có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài, theo mặc ước học đường. Tên của các tác phẩm, dịch giả cũng giữ nguyên nguyên bản. Đối với độc giả Việt Nam có thói quen đọc nhân danh, địa danh nước ngoài theo phiên âm Hán Việt, dịch giả nên chua phần phiên âm và dịch nghĩa được sử dụng quen thuộc trong các sách Phật học từ trước đến giờ, để độc giả khỏi ngỡ ngàng khi gặp các từ nước ngoài.

Tác phẩm này được xem như một quyển sổ tay cho các du khách Việt Nam có thể tự mình cất bước trên cuộc hành trình tìm về quê hương của Phật giáo cũng như những nước mà giáo lý Phật giáo đã trở thành một phần văn hóa tinh thần của người địa phương. Nhờ cuộc tự hành trình không mạo hiểm nhưng đầy thú vị của quyển sách này, quý độc giả sẽ thấy được tính thích ứng của Phật giáo ở mọi thời và mọi nơi, không giới hạn trong quốc gia, sắc tộc hay tôn giáo.

Phật giáo lúc đầu xuất hiện như một "viếng sáng châu Á" nhưng dần dần đã trở thành ánh đạo vàng của Đông Tây, hiện hữu ở mọi châu lục, đáp ứng được nhu cầu cao cấp của đời sống tâm linh của nhân loại, không lệ thuộc vào thần quyền, tha lực, nhưng đặt nặng sự chuyển hóa tâm tư bằng những nỗ lực tự thân như thiền định, đời sống đạo đức và nhận thức tuệ giác.

Vấn đề chính yếu của người Phật tử Việt Nam không phải là làm thế nào để truyền bá Phật giáo sâu rộng ở các nước phương Tây, mà là làm thế nào để Phật giáo Việt Nam có lịch sử trên dưới 2000 năm tại đất nước con Rồng cháu Tiên. Hy vọng rằng quyển Đại Cương Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới sẽ giúp độc giả Việt Nam nhìn thấy được các thành tựu ngoạn mục của Phật giáo ở Âu Mỹ trong vòng 200 năm để nhìn lại chính mình đã, đang và sẽ làm gì cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam, trong bối cảnh của cuộc cách mạng tin học hiện nay.

Trên tinh thần này, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu dịch phẩm này đến với quý độc giả.

Giác Ngộ, ngày 30-10-2003
Kính ghi, Đại đức Thích Nhật Từ

 

 

TÁC GIẢ

 

Sinh tại Croydon, nước Anh, năm 1957, ANDREW SKILTON đã bắt đầu quan tâm đến Phật giáo nhiều năm trước khi ông được thụ giới để trở thành một Tỳ khưu của Phật giáo Phương Đông năm 1979, và nhận Pháp danh Sthiramati. Ông đã hoạt động nhiều năm trong việc phát triển một trung tâm Phật giáo ở Croydon, trước khi ông đến Briston và khởi xướng những hoạt động của trung tâm Phật giáo Briston năm 1980. Ngày càng được lôi kéo nhiều hơn vào việc nghiên cứu giáo lý và lịch sử Phật giáo, ông miệt mài học tập và năm 1988 ông tốt nghiệp Cử nhân Thần học và Tôn giáo tại Đại học Bristol. Sau khi bắt đầu học tiếng Phạn và tiếng Pāli tại đây, ông đã dành ba năm để nghiên cứu riêng, dịch và viết sách, trước khi ông đến Oxford năm 1991 để bắt đầu nghiên cứu chuẩn bị cho một luận án về kinh Samādhirāja Sūtra.

Hiện ông đang là một nghiên cứu sinh tại Học viện College, Oxford, và là thành viên của Hội Hoàng gia về châu Á. Cộng tác với Kate Crosby, ông vừa hoàn thành một bản dịch và nghiên cứu về tác phẩm Bodhicaryāvatāra của Śāntideva, được Oxford University Press xuất bản năm 1995 trong bộ sách Các Tác Phẩm Cổ Điển của Thế Giới.

 

 

CÁCH PHÁT ÂM CHỮ PHẠN

 

Trong sách này, các thuật ngữ chuyên môn thường được trích dẫn bằng tiếng Phạn thay vì tiếng Pali, trừ khi trích trực tiếp từ bản văn gốc Pali. Tất cả các tham chiếu về kinh điển Pali đều dựa trên các ấn bản của Hội Pali Text. Khi số tham chiếu nói về cả một kinh Sutta, thì chỉ ghi số của kinh Sutta đó. Khi tham chiếu nói về một đoạn trích trong một kinh, thì có ghi cả số quyển và số trang của bản văn Pali (theo lối thực hành quy ước). Trong các bản dịch tiếng Anh do Hội Pali Text xuất bản, những số này thường được in ở đầu trang, phần lề phía trong.

Việc dùng các thuật ngữ bằng chữ Phạn và Pali trong sách này là không thể tránh được. Chúng được in với các dấu phụ (âm tiết, trọng âm) được sử dụng để chuyển âm 48 chữ cái của tiếng Phạn sang 25 chữ cái của tiếng Latinh. Những bạn độc giả không biết tiếng Phạn và tiếng Pali có thể thấy rắc rối, nhưng hướng dẫn dưới đây sẽ cho các bạn những âm xấp xỉ tương đương với các âm tiếng Việt. Các nguyên âm "ngắn" (a, i, u) được phát âm ngắn hơn các nguyên âm "dài" (ā, ī, ū). Dấu trọng âm thường rơi vào âm tiết áp chót của một từ, trừ khi âm tiết này có một nguyên âm ngắn theo sau là một phụ âm, trong trường hợp này dấu nhấn được chuyển ngược trở về phía trước tới một âm tiết không có những đặc tính đó. Ví dụ, trọng âm được đặt ở âm tiết đầu tiên trong từ sāsana. Mỗi khi có thể, các thuật ngữ kép được gạch nối để giúp dễ đọc.

Dưới đây là một ít hướng dẫn về cách phát âm:

Nguyên âm:

a giống như a trong cát
ā giống như a trong cam
i giống như i trong ít
ī giống như i trong chim
u giống như u trong út
ū giống như u trong thun
e giống như ê trong tê
o giống như ô trong ô tô
ai giống như ai trong hai
au giống như ao trong sao

Phụ âm:

g giống như g trong ga
c giống như ch trong chào
j giống như d trong dao
śş giống như s trong sang
d đọc như đ trong tiếng Việt.
t đọc như t trong tiếng Việt.

Các âm mũi: , ñ, , n,m:

Trước một phụ âm, đọc giọng mũi bình thường kèm theo phụ âm đi liền nó:

k đọc như ngk
g đọc như ng
ñc đọc như ngch
ñj đọc như ngd
đọc như n
m đọc giống m tiếng Việt

Trước một nguyên âm: ñ giống như nh trong nhà

Các phụ âm có tiếng gió như: gh, ch, th,. . . . đọc giống trong tiếng Việt.

Các phụ âm đôi đọc đầy đủ cả hai phụ âm: sadda đọc là xáđ-đa

 

 

 

LỜI TỰA

 

 

Có thể nói về Phật giáo bằng nhiều cách khác nhau. Trong số những thuật ngữ xấp xỉ đồng nghĩa với nhau, tôi thấy gama là một thuật ngữ có ý nghĩa đặc biệt phong phú. Nó dùng để nói về một di sản kinh điển được lưu truyền từ đời nọ sang đời kia, đặc biệt là những bài giảng của Đức Phật, cũng được gọi là gama trong những trường phái Phật giáo Ấn Độ sử dụng tiếng Phạn làm ngôn ngữ viết. Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, thuật ngữ này có nghĩa là "cái gì đến" theo nghĩa là một cái gì được lưu truyền tới chúng ta bằng một truyền thống có sẵn, và vì vậy, theo tôi, nó không chỉ nói về một sưu tập các văn bản, mà còn bao gồm những phương pháp đã được công nhận trong việc chú giải, hiểu, và áp dụng những bản văn đó - rồi đến lượt những phương pháp này lại được chấp nhận và làm giàu thêm bởi những tổ chức của Phật giáo. Chính vì những hàm ý rộng lớn này mà tôi thấy thuật ngữ gama giàu ý nghĩa nhất, vì nó nhấn mạnh rằng Phật giáo là một cái gì được để lại, được lưu truyền lại qua các thế hệ Phật tử nối tiếp nhau trong suốt 25 thế kỷ qua.

Tuy có sự nối tiếp liên tục này, truyền thống Phật giáo lại vô cùng khác biệt, và đây là lý do chính thúc đẩy tôi viết ra cuốn sách thuộc loại này. Cách đây khoảng 18 năm, khi tôi thực sự tiếp xúc với Phật giáo lần đầu tiên, tôi mang một cảm giác ngạc nhiên, sửng sốt, thất vọng, và hoang mang vì sự khác biệt này - nhưng ở đây tôi không muốn xác định cảm giác nào là mạnh hơn. Chủ yếu lần sơ ngộ đó đã cho tôi một nguồn cảm hứng để cố gắng tìm ra những lý tưởng nòng cốt của Phật giáo, nhưng cũng còn có cảm giác vui khóai, thích thú, và đôi khi bán tín bán nghi đối với một số điều mâu thuẫn bề ngoài hay thực sự của nó. Dần dà, nó đã tạo cho tôi một sự tò mò không thể nào dập tắt.

Tôi không phải người đầu tiên cảm nghiệm sự tò mò này, vì truyền thống Phật giáo đã có biết bao thế hệ sử gia trước thế hệ của chúng ta rồi. Tôi càng không phải người duy nhất ở thế kỷ này đã chứng kiến sự đua nở của vô số các cố gắng nhằm tháo gỡ những nút thắt của các truyền thống địa phương, để đan kết lại thành một lịch sử duy nhất về Phật giáo. Tôi luôn luôn tự đặt ra những câu hỏi về truyền thống, những câu hỏi mà đôi khi hình như không có câu trả lời đầy đủ hay không phù hợp với đầu óc hoài nghi của tôi. Tôi không nghi ngờ cuốn sách này phản ánh sự thôi thúc đó, nhưng tôi luôn xác tín rằng mang tâm trạng hoài nghi không phải là vô đạo, cũng không phải là thiếu đức tin. Dù sao, nó cũng có những nguy hiểm, đặc biệt nếu chúng ta để mình rơi vào thái độ ngạo mạn hay bất cần đời, và tôi hi vọng tôi đã tránh được cả hai mối nguy hiểm này khi viết về truyền thống Phật giáo trong cuốn sách này.

Tôi có nhiều tham vọng khi viết cuốn "lịch sử" này. Nó được bắt đầu do lời yêu cầu của Dharmacri Lokamitra, để đáp ứng những nhu cầu của một chương trình nghiên cứu của trường Trailokya Bauddha Mahsangha Sahayak Gana. Tuy nhiên, nó cũng được viết cho một thành phần độc giả rộng hơn, với hi vọng rằng, tuy ngắn gọn, nó có thể mang lại lợi ích cho bất cứ ai muốn có một hình ảnh toàn diện về lịch sử phát triển của Phật giáo.

Tôi hi vọng quyển sách này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng thể về lịch sử Phật giáo để làm cơ sở nghiên cứu xa hơn, dù là về Giáo pháp hay về lịch sử. Tôi tin rằng cuốn sách này có thể hữu ích cả cho những người muốn tìm hiểu Phật giáo lẫn những tín đồ Phật giáo, cả hai có lẽ đều đã có một số hiểu biết về Phật giáo rồi, nhưng muốn có một cái nhìn tổng thể để có thể đi sâu hơn và chuyên môn hơn, hay để làm bối cảnh đối chiếu các kinh nghiệm của bản thân họ về Giáo pháp.

Tôi xác định tôi đã dành phần lớn cuốn sách này để nói về lịch sử Phật giáo Ấn Độ, và chỉ trình bày lịch sử này cho tới thế kỷ XIX mà thôi. Việc mô tả lịch sử Phật giáo hiện đại không phải là mục tiêu tôi đề ra cho mình khi đặt bút viết cuốn sách này, và tôi mừng vì đã trung thành với sự giới hạn này. Tuy nhiên, tôi hi vọng tác phẩm này có thể giúp độc giả có một cái nhìn quân bình hơn về sự phát triển của Phật giáo trong thế giới ngày nay, và có thể đạt được một sự hiểu biết tận ngọn nguồn những hình thức Phật giáo mà chúng ta sẽ gặp trong cuộc sống của thế giới hiện đại.

Có thể một số Phật tử cảm thấy chướng tai khi nghe nói đến một lịch sử Phật giáo, vì họ vẫn coi lịch sử này chỉ như là những tia sáng chợt loé lên rồi vụt tắt và chỉ là một thứ trang sức không cần thiết cho công việc chủ yếu là thành thạo giáo thuyết và thực hành. Tôi cũng nhìn nhận rằng cốt tuỷ của Phật pháp là phi lịch sử, theo nghĩa nó nói về những chân lý phổ quát và nhắm vào thân phận phổ quát của con người, nhưng lịch sử của Giáo pháp cũng tỏ lộ cho chúng ta thấy những cố gắng mà các bậc tiền bối của chúng ta đã làm để thể hiện giáo lý và thực hành trong đời sống xã hội, và để khắc phục được cản trở to lớn nhất trong việc đạt mục tiêu ấy - đó là bản tính con người. Là những Phật tử thời nay, chúng ta sẽ rơi vào nguy hiểm nếu chúng ta bỏ qua những bài học lịch sử của mình.

ANDREW SKILTON
(Dharmacari Sthiramati)

(budhhanet.net)