PHẦN I - PHẬT GIÁO Ở ẤN ĐỘ
1
BỐI CẢNH ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI-TIỀN SỬ PHẬT GIÁO
Nói về
lịch sử Phật giáo là phải bắt đầu với tiểu sử của vị sáng lập ra nó là Thích Ca
Cồ Đàm, tức Đức Phật lịch sử. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn đánh giá đúng mức
tiểu sử này, chúng ta cũng cần biết đôi chút về lịch sử Ấn Độ thời kỳ đầu, về
bối cảnh mà Đức Thích Ca Cồ Đàm khởi sự cuộc tìm kiếm tâm linh của Ngài. Lịch
sử Ấn Độ là một câu chuyện dài, trở ngược về cả ngàn năm trước thời của Đức
Phật, nên trong mục tiêu tìm hiểu của chúng ta, tốt nhất chúng ta nên bắt đầu
với những di tích đầu tiên có ý nghĩa của nền văn minh đã vượt qua được sự tàn
phá của thời gian để tồn tại.
Giống như phần lớn lịch sử, lịch
sử Ấn Độ thời cổ bị chi phối bởi một số đặc điểm địa lý. Phía Bắc bán lục địa
này là dãy Hi Mã Lạp Sơn sừng sững như một bức tường thành khổng lồ ngăn chặn
đường tiếp xúc với các nền văn hóa ở phía Đông và Bắc. Chỉ có một kẽ hở duy
nhất là những con đường núi đi qua Afghanistan, nằm ở phía Tây Bắc của bán lục
địa. Cũng có hai lưu vực lớn là lưu vực sông Indus
ở Tây Bắc và lưu vực sông Hằng ở Đông Bắc bán lục địa, cả hai con sông đều tạo
thành những môi trường bảo vệ quan trọng để củng cố một nền văn minh phức tạp.
Nền Văn Minh Lưu Vực Sông Indus
Lưu vực thứ nhất đóng vai trò
quan trọng trong lịch sử này là lưu vực của Sông Indus. Tại đây, vào thiên kỷ
thứ 3 trước Công Nguyên (CN.), trên cơ sở một nền văn minh thời đồ đá mới của
dân bản xứ, đã phát sinh một nền văn minh đô thị, từng được biết đến với cái
tên "Văn hóa Lưu vực Indus," phồn thịnh nhờ những sản phẩm nông
nghiệp, ngoại thương, và ngư nghiệp. Hai khu tập trung dân cư đô thị lớn là ở
Mohenjo Daro và Harrapa, và vì vậy nền văn hóa này cũng được đặt tên là
"Nền Văn hóa Harrapa."
Có vẻ đây là một xã hội đã có tổ
chức cao, tập trung, và rất bảo thủ, không thay đổi bao nhiêu qua nhiều thế kỷ.
Những cố gắng nhằm tái hiện những phong tục và tin tưởng của xã hội này phần
lớn chỉ là những suy đoán, tuy rõ ràng cũng đã có những hình thức tế tự khá
tinh vi như nghi lễ thanh tẩy để biểu trưng sự trong sạch của tâm hồn. Những di
vật có ý nghĩa nhất đã được phát hiện gồm nhiều con dấu ấn được sử dụng rộng
rãi trong việc buôn bán và đặc biệt gặp thấy nhiều ở các vùng bờ biển. Những
con dấu này khắc một loại chữ viết (nay vẫn chưa giải mã được) và những hình vẽ
nhỏ xíu nhưng tuyệt đẹp, một số hình vẽ mô tả những nghi tiết. Một con dấu nổi
tiếng vẽ một hình người ở tư thế ngồi thiền, mà một số học giả nghĩ là mô tả
một hình thức ngồi thiền hay suy niệm thời sơ khai.
Nền văn minh này bắt đầu suy
vong dần từ khoảng 1200 trước CN., có lẽ là do hậu quả của những thay đổi về
môi trường, nhưng chắc hơn là do sự đổi hướng dòng chảy của sông Indus, tuy cũng có những dấu vết của sự tàn phá do chiến
tranh. Tuy nhiên, những dấu vết này không liên quan gì đến sự xuất hiện cùng
thời của những bộ tộc xâm lăng từ phía Tây Bắc tràn xuống. Rất có thể những bộ
tộc này đã đến đây đúng vào lúc nền văn hóa này đang tàn lụi.
Văn Hóa Vêđa
Người ta vẫn còn tranh cãi về
bản chất đích thực của cuộc xâm lăng này và các tác giả hiện đại đã coi nó như
là một sự thẩm thấu văn hóa hơn là một cuộc xâm nhập bằng quân sự. Tuy nhiên,
phần lớn các tác giả đều mô tả về những bộ tộc mới tới này như là những đợt di
dân nối tiếp nhau của các bộ tộc du mục bị đẩy ra khỏi quê hương của họ vốn từng
trải dài từ Trung Âu sang Trung Á, nên đã mở đường xuống phía Đông Nam để tìm
những miền đất mới làm chỗ cư ngụ. Ngày nay, chúng ta biết họ là những tổ tiên
của các dân tộc Ấn Âu, các bộ tộc chiến binh rong ruổi trên lưng ngựa và sử
dụng những cỗ xe ngựa làm vũ khí để chiến đấu. Sau khi vượt qua những con đường
xuyên qua Hi Mã Lạp Sơn dẫn tới phía Tây Bắc của biên giới Ấn Độ ngày nay, họ
kiên trì nhưng quyết liệt càn quét theo hướng Đông băng qua toàn thể bán lục
địa, mà phải mất nhiều thế kỷ sau họ mới hoàn toàn chiếm cứ được.
Họ mang theo nền văn hóa đặc
trưng riêng của họ, gồm những vị thần riêng của họ như Indra, Varuna, Rudra,
Vjus, v. v. . ., rất giống với những thần Hi Lạp cổ, ví dụ Dyaus Pitr, thần Bầu
Trời, rõ ràng rất giống với thần Zeus của Hi Lạp và thần Jupiter của Roma. Họ
cũng mang theo cơ cấu xã hội đặc trưng của họ được chia làm ba thành phần là tư
tế, chiến binh, và nông dân. Thành phần thứ nhất gồm những gia đình đặc biệt
chuyên làm nghề ngâm vịnh và cử hành nghi lễ, là tiền thân của giai cấp tư tế
brāhmaṇa sau này;
hai thành phần sau sẽ trở thành những giai cấp chiến binh kṣatriya và giai
cấp thứ dân vaiṣya.
Họ cũng mang theo một thứ nguyên
liệu bí ẩn gọi là soma, có thể là một thứ rượu hay nấm gây ảo giác, hình
như để tạo ra những trạng thái xuất thần. Bất luận nó là gì, hình như nó đã gợi
hứng cho rất nhiều bài thánh ca và bài thơ còn được lưu truyền từ thời kỳ này
và sẽ trở thành bộ kinh Vêđa. Những nghi lễ do những nhà chuyên môn này
thực hiện sẽ mang một ý nghĩa đặc biệt, vì các giai đoạn và các yếu tố của nghi
lễ được nhìn như là phản chiếu và điều khiển các khía cạnh của vũ trụ - vì vậy
việc thực hiện nghi lễ một cách đúng đắn sẽ bảo đảm cho vũ trụ này được tiếp
tục tồn tại. Hơn nữa, cũng như vũ trụ được duy trì nhờ việc các tư tế "đặt
tên" cho các đồ vật một cách mầu nhiệm, một số các tư tế bắt đầu nghĩ rằng
có thể vũ trụ này đã phát sinh từ "Một" và nếu con người có thể đặt
tên được cho cái "Một" này, thì họ sẽ có khả năng điều khiển được cái
là nền tảng của toàn thể vũ trụ. Theo nghĩa này, việc thực hành tôn giáo ở thời
kỳ này có thể được coi như là một cuộc tìm kiếm quyền năng.
Chúng ta biết được tất cả những
điều trên đây nhờ những văn bản do những người này đã viết ra. Không hẳn chúng
đã được viết ngay từ thời kỳ đầu, vì lúc ban đầu truyền thống đã được lưu
truyền bằng miệng - được giữ riêng trong giới các gia đình tư tế, và được
truyền từ đời cha sang đời con. Các tài liệu này đã được làm thành ba sưu tập
lớn gọi là Rg, Yajur, và Sma Veđa, tạo thành bộ kinh được coi là
Kinh thánh cung cấp ba nguồn tri thức. Một sưu tập Vêđa thứ tư được soạn
hơi muộn hơn, gồm những lời bùa chú để xua đuổi ma quỉ, gọi là Atharva Veđa.
Sau đó, những sưu tập này lại lần lượt được tiếp nối bằng hai đợt biên soạn
liên tiếp để hình thành các bộ kinh gọi là Brhmaṇas và Āraṇyakas, trong đó
ta càng ngày càng thấy rõ khuynh hướng suy tư huyền bí về bản chất vũ trụ và
việc điều khiển vũ trụ bằng pháp thuật "đặt tên" cho các sự vật.
Một thời gian ngắn trước Đức
Phật, bản kinh Upaniṣads bằng
văn xuôi đã được biên soạn. Như tên của nó gợi ý, kinh Upaniṣads thu thập
những lời giảng bí truyền, chỉ truyền từ ông thầy sang học trò mà thôi, vì chữ upa-ni-sad
có nghĩa là "ngồi gần." Bộ kinh này được coi là giai đoạn cuối cùng
của kinh Vêđa, và vì thế được gọi là Vedānta, "kết hay tột đỉnh của
Vêđa." Ở đây, các yếu tố nghi lễ không có tầm quan trọng như trong các bộ
kinh thời kỳ trước, thay vào đó, chúng ta thấy nhấn mạnh lời giảng dạy bí
truyền và đầy ấn tượng về sự tái sinh và đầu thai. Sự quan tâm này rõ ràng thúc
đẩy việc tìm kiếm cái "Một" là nền tảng của vũ trụ, và nhờ việc điều
khiển được nó (bằng việc biết nó và gọi tên nó), người môn sinh có thể kiểm
soát được vũ trụ, và nhờ đó thoát được vòng luân hồi vô tận của cái chết.
Phương pháp tìm kiếm này có hai
khía cạnh - một mặt người ta đi tìm cái nền tảng của thế giới hiện tượng, cốt
tuỷ của mọi đồ vật và sự vật ngoại giới, và cái đó được gọi là brahman; mặt
khác người ta đi tìm cái sự vật hiện hữu tối hậu bên trong mỗi cá nhân,
là cái cho chúng ta sự sống và ý thức, và cái này được gọi là ātman. Có
lẽ tất yếu người ta sẽ đi đến giáo huấn bí truyền cuối cùng là đồng hóa hai
thực tại này, và cho rằng tman và brahman chỉ là một thực tại duy
nhất. Trực giác này được tóm gọn trong các kinh Upaniṣads bằng
những phát biểu nổi tiếng như tat tvam asi, "ngươi là cái đó,"
và brahmo'ham, "tôi là brahman," v. v. . . Người ta nghĩ rằng
khi suy niệm những lời giảng này, người môn sinh đưa trực giác đó vào nội tâm
của mình, nhờ đó được giải thoát khỏi vòng tái sinh và khỏi cái chết.
Trên đây là bức tranh khái quát
về bối cảnh tôn giáo của Đức Phật, nhưng chúng ta cũng còn phải ghi nhận những
đổi thay xã hội tổng quát hơn và có tầm quan trọng vào thời kỳ đó. Đặc biệt,
chúng ta phải ghi nhận sự phát triển của kỹ thuật thời Đồ Sắt vào cùng thời kỳ
này, bắt đầu khoảng 800 năm trước CN., giúp cho việc khai hoang những vùng rừng
thưa rộng lớn để lấy đất canh tác - khiến cho cả vùng lưu vực sông Hằng đã trở
thành khu dân cư từ khoảng 600 trước CN. - và nó cũng giúp phát sinh một kiểu
chiến tranh mới cho giai cấp chiến binh kṣatriya. Các
phương pháp nông nghiệp mới, đặc biệt lưỡi cày bằng sắt, giúp cải tiến sản xuất
và thậm chí tạo ra một sản phẩm dư thừa, có thể dùng để cung cấp cho những tổ
chức chính quyền và tôn giáo rộng lớn hơn.
Có những sự thăng trầm xã hội
rộng lớn do sự tranh giành quyền lực của các vua chúa muốn bành trướng vương
quốc của mình, dần dần thâu tóm những cơ cấu xã hội cũ theo cơ chế gia đình và
bộ tộc của thời kỳ Vêđa. Đến thời Đức Phật sinh ra, chỉ còn có 16 thành phố tự
trị trong các vùng Trung và Đông Bắc Ấn Độ do người Aryan xâm chiếm. Cũng như
sự phát triển của tôn giáo Bà La Môn đã đi song song với cuộc xâm lăng từ từ
của các bộ tộc Aryan ở khắp miền Bắc bán lục địa, thì tôn giáo của thời Vêđa
và Brāhmaṇa cũng
ngày càng liên kết với sự chính thống của cơ cấu xã hội, và với những chính
quyền tập trung của thời kỳ đó.
Một hệ quả rất quan trọng của
điều này là sự sản sinh ra một giai cấp thực hành tôn giáo mới từ bỏ những
truyền thống Bà La Môn cũ và phủ nhận lời tuyên bố của họ là có đặc quyền trong
việc hiểu biết sự khôn ngoan thần linh (kinh Vêđa) do giai cấp của họ
được thừa hưởng. Giai cấp mới này được gọi là hành giả (parivrjaka) hay
người khất sĩ. Vị hành giả (parivrjaka) là người bất mãn với những cơ
cấu của xã hội hiện hành và với tôn giáo vụ lễ nghi của xã hội này, đã bỏ nhà
và vai trò của mình trong xã hội để đi lang thang khắp nơi tùy thích, sống nhờ
của bố thí và tìm kiếm giải thoát tâm linh. Sau này chính Đức Phật cũng gia
nhập giai cấp những vị hành giả này khi Ngài bắt đầu con đường tìm kiếm giải
thoát cho mình.
Chúng ta có những tài liệu vững
chắc về ba phương pháp mà những vị hành giả (parivrjaka) này sử dụng để
thể hiện cuộc tìm kiếm của họ (3). Có những người nhấn mạnh vào tính
siêu thế, tu luyện nhiều phương pháp luyện thiền khác nhau, giữ tâm linh thanh
thản và tập trung vào một vật duy nhất. Nhóm người thứ hai nhấn mạnh sự tự tại
và sức mạnh hầu như dựa trên ma thuật mà họ có thể đạt được nhờ trực giác được
bản tính, thậm chí biết được tên gọi của nguyên lý tối cao làm nền tảng cho vũ
trụ. Rồi cũng có những người thuộc nhóm thứ ba quan tâm hơn tới sự thanh tịnh
và ô trọc của thân xác con người, nên dùng những hình thức tu đức khác nhau để
thanh tẩy tâm hồn mình nhờ đó tâm hồn được nhẹ bớt khỏi những sự ô uế và có thể
bay bổng lên tới đỉnh cao vũ trụ tâm linh. Các vị thiền sư thuộc các trường
phái dị biệt này được gọi là Sa-môn (srmanas), có nghĩa là "người
cố gắng" hay "người mệt mỏi [vì thế giới?]"(chán đời).
Cũng còn có những nhóm các vị
hành giả khác chủ trương những quan điểm triết học khác nhau. Có thể kể đến
những người Ajīvakas - những người theo thuyết tất định, chăm chú phân tích chi
tiết hiện tại, và chủ trương rằng mọi chúng sinh đều dần dần tiến tới sự hoàn
thiện bất kể họ có cố gắng hay không; những người Lokyatas - những người theo
thuyết duy vật, bề ngoài có vẻ chủ trương khoái lạc thuyết, vì họ phủ nhận nhân
quả thuyết và cho rằng người ta phải hành động theo ý thích của mình; rồi cũng
có những người theo thuyết hoài nghi - thường được đề cập đến trong Kinh Phật
bằng biệt danh xấu là amavrvikkhepikas (kẻ giỏi luồn lách) - họ không
nhìn nhận mà cũng chẳng phủ nhận bất kỳhọc thuyết hay niềm tin đặc biệt nào; và
ta có thể họ là đa số những vị hành giả này chẳng nhắm mục tiêu tìm kiếm tâm
linh nào cả, mà chỉ là thích một cuộc sống khoáng đạt và trốn tránh trách nhiệm
xã hội mà thôi. Ta có thể tìm hiểu một số quan điểm của một số người đương thời
với Đức Phật trong các kinh Phạm Võng Kinh (Brahmajla) và Sa-môn quả
Kinh (Smannaphala) trong Trường Bộ Kinh (Dīgha-Nikya (4).
2
ĐỨC PHẬT
Chúng ta đã tìm hiểu bối
cảnh văn hóa và tôn giáo Ấn Độ từ thời kỳ đầu cho tới thời Đức Phật, vậy còn
bản thân Đức Phật thì sao? Đức Phật sinh tại Lumbinī, một thành phố ở gần
Kapilavastu, thủ phủ của một vùng mà ngày nay nằm giữa biên giới Ấn Độ và
Nêpal, bản địa của bộ tộc Thích Ca (Sakya). Trước kia, dựa vào các tài liệu sử
học Sri Lanka cổ xưa, các học giả phương Tây vẫn chấp nhận năm sinh của Đức
Phật là 563 trước CN., một truyền thống thứ hai xuất phát từ Ấn Độ đã nhận năm
sinh của Đức Phật là 450 trước CN. Các nghiên cứu mới nhất dựa vào Dīpavamsa
gợi ý rất có thể Ngài sinh năm 485 trước CN (5).
Thời Đức Phật sinh ra, ở vùng
chân núi Hi Mã Lạp Sơn vẫn còn có một số nước cộng hòa sống theo tổ chức bộ tộc
chống lại sự bành trướng ngày càng gia tăng của các chế độ quân chủ mới ở vùng
lưu vực trung phần sông Hằng. Trong số những nước này có nước của bộ tộc Thích
ca (Sakya), và cha của Thích Ca Cồ Đàm là một người cai trị bộ tộc này. Cha của
Ngài là một thành viên thuộc thiểu số cầm quyền của bộ tộc và đồng thời Ngài
cũng là một chiến binh, và mặc dầu vào thời đó, có thể xã hội Bà La Môn truyền
thống như đã mô tả ở chương trước chưa tạo được ảnh hưởng quan trọng nào trong
vùng ven lưu vực sông Hằng, nhưng khi Đức Phật đã qua lại giữa xã hội Bà La
Môn, Ngài cảm thấy có thể mô tả thích hợp nhất nguồn gốc xã hội của mình là
thuộc giai cấp chiến binh ksatriya. Các truyền thống sau này, vì chỉ
biết đến những chế độ quân chủ đã từng xâm chiếm các nước cộng hòa trước kia,
nên đã ngộ nhận khi gọi Thích Ca Siddhartha là một "hoàng tử" và cha
Ngài là một "ông vua".
Ngay từ đầu, đời sống của vị
sáng lập ra con đường giải thoát của Phật giáo đã được các môn đệ của Ngài hết
sức quan tâm. Thế nhưng có điều nghịch lý là, mặc dù đã có khá nhiều sách viết
về tiểu sử Đức Phật, nhưng chúng ta không thể chắc chắn điều nào là sự kiện
lịch sử và điều nào có thể chỉ là kết quả của lòng sùng mộ và của sự thêu dệt
do ý hướng tốt lành. Trong kinh điển của truyền thống Pali, có một số kinh cung
cấp cho chúng ta từng mảnh lẻ tẻ những chi tiết chủ yếu về tiểu sử Đức Phật.
Kinh Āriyapariyesana Sutta (6) mô tả thời kỳ đầu và cuộc Giác
ngộ sau này của Đức Phật; giai đoạn này cũng được mô tả trong các kinh Bhayabherava,
Dvedvittaka, và sách Mahsaccaka Suttas (7). Kinh Mahparinibbna
Sutta (8) mô tả những ngày tháng cuối cùng cuộc đời Đấng Giác
ngộ. Những năm giữa cuộc đời, từ sau cuộc Giác ngộ, Đức Phật đi chu du khắp
vùng đồng quê ngày nay là các nước Bihar và Đông Uttar Pradesh, bao gồm một
lượng lớn các bài thuyết pháp của Đức Phật, gọi là suttras, như được lưu
lại trong Tam Tạng (Suttra Pitaka) của thánh điển. Những bài giảng này
không được sắp xếp theo thứ tự thời gian của cuộc đời Ngài, nên người đọc phải
sử dụng những bản văn khác nhau để có một hình ảnh chung về cuộc đời giảng
thuyết của Đức Phật.
Hình như việc biên soạn một tiểu
sử đúng nghĩa không phải mối quan tâm chủ yếu của thế hệ các môn đệ đầu tiên;
hơn nữa khi được biên soạn, nó thường theo khuynh hướng khai triển một câu
chuyện cơ bản, là một đặc điểm dễ nhận ra ngay cả ở những sách "tiểu
sử" được biên soạn sớm nhất. Một khía cạnh quan trọng trong việc biên soạn
này là việc kể lại rất nhiều những cuộc đời của Đức Phật khi chưa giác ngộ,
được gọi là Bồ Tát, là thời kỳ Ngài làm vô vàn những hành động cao quý để chuẩn
bị cho cuộc đời khi Ngài đã giác ngộ. Trong số những tiểu sử này, có thể kể đến
Phật Bản Hạnh Trường Kinh (Mahvastu) của Trường Phái Mahasanghika
(thế kỷ II trước CN.), Kinh Phật sở hành tán (Buddacarita) của thi sĩ Asvaghoṣa (thế kỷ
I CN.), cuốn thần thông du hí Kinh (Lalitavistara) của Trường
Sarvstivdin (thế kỷ I trước CN.), cuốn Nidnakath, chú giải Theravdin về Jtaka
(thế kỷ IV CN.), và cuốn Abhiniṣkramaṇa Sūtra,
có lẽ thuộc về bộ Dharmaguptaka.
Tuy nhiên, trong tất cả các
nguồn tài liệu này, ta luôn luôn tìm thấy một hạt nhân chung cho mọi nguồn tài
liệu, và chúng ta có thể tin rằng nó phản ánh những biến cố thực sự của cuộc
đời Đức Phật, ít ra theo như cảm nghiệm của các đệ tử của Ngài. Tiểu sử
"hạt nhân" này giữ vai trò mẫu mực cho các Phật tử qua nhiều thế kỷ,
và chúng tôi có thể cống hiến một tóm lược các chi tiết ở đây.
Thích Ca Cồ Đàm xuất thân trong
một gia đình quý tộc. Cha Ngài, ông Suddhodana, là một người giàu có và quyền
thế, và mẹ Ngài, bà Mayadevi, là một phụ nữ phong lưu và tinh tế. Khi Ngài sinh
ra, một nhà tiên tri tên Asita đã tiên báo cậu bé sẽ có mệnh nắm giữ một vương
quốc chính trị hay một vương quốc tinh thần, và hẳn nhiên cha mẹ cậu cảm thấy
lời tiên tri này thích hợp cho con của họ. Có lẽ vì vậy họ đã chọn cho con một
tên gọi đúng với ý nghĩa này, là Sarvrthasiddha, "người thành đạt
mọi mục tiêu", hay Siddhrtha,"người thành đạt mục tiêu của
mình". Mẹ cậu chết không bao lâu sau khi sinh ra cậu, và cậu sớm được nuôi
dưỡng và trông nom bởi bà cô tên là Mahprajpati. Tuy quan tâm chủ yếu là việc
huấn luyện thích hợp cho một thiếu niên ở địa vị của mình, tuổi trẻ của cậu
tràn đầy sự xa hoa, vì cha cậu muốn đứa con trai yêu quý của mình phải được gắn
liền với những lợi thế từ của cải và quyền lực, nghĩa là ông muốn chọn cho cậu
đời sống của một vương quốc chính trị. Khi cậu 16 tuổi, cha cậu đã cưới cho cậu
một cô vợ trẻ tên là Yaśodhar.
Thế nhưng ông sẽ không thành đạt
các dự tính của mình, vì vào khoảng thời gian này, cậu con trai của ông đã bắt
đầu cuộc tìm hiểu môi trường sống vật chất và tinh thần của mình, và cuộc khám
phá này sẽ dẫn đến những hậu quả to lớn khôn lường. Thời kỳ phát triển này được
mô tả một cách biểu tượng bằng câu chuyện về "bốn thị kiến," là bốn
kinh nghiệm mà chàng trai này đã trải qua khi đi chu du trên cỗ xe của mình ra
ngoài lãnh thổ. Vừa gặp một ông lão bên đường, chàng trai trẻ Thích Ca lần đầu
tiên chứng nghiệm được sự tất yếu của tuổi già, tiếp theo là những lần đối diện
với bệnh tật và cái chết, những "thị kiến" về thân phận con người này
đã làm đảo lộn sự tự mãn vốn có của chàng trong đời sống xa hoa tiện nghi của
mình và buộc chàng nhận ra rằng cuộc sống đau khổ và khốn nạn đó đang chờ đợi
chàng và cô vợ trẻ đẹp của chàng, cũng như nó chắc chắn đang chờ đợi hết thảy
chúng sinh. Thị kiến thứ bốn, khi Ngài gặp một người khất sĩ, gọi là parivrjaka,
đã gieo vào tâm trí chàng một hạt giống để chàng ngẫm nghĩ trong những tháng
tiếp theo về thân phận của mình, để rồi hạt giống ấy lớn lên thành niềm xác tín
rằng người ta không tất yếu phải thụ động cam chịu sự đau khổ và sự huỷ diệt,
nhưng có thể tìm kiếm con đường giải thoát, tuy rằng con đường này cũng đòi hỏi
sự từ bỏ triệt để và hành động quyết liệt, thậm chí rất đau đớn.
Sau cùng, một biến cố có vẻ như
đã đẩy Ngài đi tới tột đỉnh của quyết định tìm kiếm tự do để khám phá ra
"Chân đế," và cuộc tìm kiếm này sẽ dẫn đưa Ngài tới vương quốc tinh
thần mà nhà tiên tri Asita đã tiên báo. Đó là khi đứa con trai Yaśodhar sinh
ra. Trong tâm trạng thất vọng, Ngài coi con trai mình sinh ra như là sự xuất
hiện một gông cùm xiềng xích vậy.
Phản ứng của ngài trước biến cố
này tỏ ra rất quyết liệt. Chẳng được sự chấp thuận của cha mẹ, hoặc giả ngay cả
các ngài không hề hay biết, Ngài đã bỏ trốn khỏi nhà, để lại vợ và đứa con nhỏ,
cùng với gia đình và địa vị xã hội, mọi thú vui và những đặc quyền đặc lợi.
Ngài xuống tóc đi tu ở tuổi hai mươi chín, mặc bộ áo cà sa rách rưới của một
người khất sĩ, và bắt đầu cuộc truy tìm chân đế và sự giải thoát.
Ý tưởng đầu tiên của Ngài là
phải tìm một vị thiền sư. Ngài đi xuôi xuống miền Nam, và khi tới Rajagha, Ngài
gặp nhà vua nước Magadha tên là Bimbisāra - một giai thoại được mô tả rất cảm
động trong bản thi ca thời kỳ đầu, đó là bản Pabbajjā Sutta của Sutta
Nipāta (9). Ngài đã gặp vị thiền sư đầu tiên của mình, tên là Ālāra
Kālāma, vị thiền sư này đã dạy Ngài cách hành thiền có thể dẫn tới nhập định,
được gọi bằng thuật ngữ chuyên môn là ākiỵcanyāyatana, nghĩa là
"không vô biên xứ". Thế nhưng, tuy Ngài đã luyện được một mức độ
ngang với thầy mình, Thích Ca nhận ra rằng tình trạng nhập thiền này, nếu không
kèm theo tính chất đạo đức và tri thức (10) thì cũng không thể tạo
được sự khác biệt triệt để nào cho thân phận con người của mình: vẫn còn già,
vẫn còn bệnh, vẫn còn chết, và vì thế Ngài chưa đạt được sự tìm kiếm của mình.
Tuy thầy Ālāra Kālāma đề nghị Ngài phụ tá thầy trong việc trông coi các đệ tử,
Thích Ca đã từ khước và bỏ đi để tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình. Ngài gặp một
vị thầy khác, Udraka Rāmaputra, ông này dạy Ngài đạt tới bậc thiền gọi là naivasaỵjñānāsaỵjñaàyatana,
"phi tưởng, phi phi tưởng xứ" và cuối cùng vị thầy này cũng đề
nghị Thích Ca một mình dạy dỗ các đệ tử của ông. Một lần nữa, đây cũng không
phải mục tiêu tìm kiếm của Ngài, và bây giờ Ngài quyết tâm đi vào phương pháp
khổ luyện với hi vọng phương pháp này có thể tỏ lộ một giải pháp cho cuộc tìm
kiếm của mình. Ngài sống khoảng 5 tới 6 năm ở Uruvilvā, bên bờ sông Nairañjanā,
cùng với năm bạn khổ tu, lúc đầu là những người bạn, sau trở thành đệ tử của
Ngài. Ngài thực hiện những việc hành xác khắc khổ tột độ, nín hơi thở rất lâu,
và thời kỳ sau còn nhịn ăn nhịn uống. Những câu chuyện về giai đoạn tìm kiếm
này của Ngài được kể trong Mahāsaccaka Sutta (11).
Lối sống khổ luyện này suýt làm
Ngài mất mạng, nhưng kết quả của nó đã không làm Thích Ca thỏa mãn. Ngài từ
khước lối sống này và coi nó là nguy hiểm và phí thời giờ. Ngài bắt đầu ăn uống
đều đặn trở lại, vì thế các đệ tử của Ngài ruồng bỏ Ngài và họ bỏ đi nơi khác,
tới rừng nai ở Isipatana, gần nơi ngày nay gọi là Benares. Trong tâm trạng đầy
quyết tâm thâm sâu, Ngài ngồi dưới gốc một cây bên bờ sông Nairañjanā, ở đây
Ngài gợi nhớ lại một kinh nghiệm thiền tự nhiên và không gò bó là dhyāna, một
loại thiền trầm tưởng, mà Ngài từng kinh nghiệm thời còn trẻ khi ngồi dưới gốc
cây; Ngài coi đây như dấu chỉ của một phương pháp hài hòa và quân bình hơn để
đi tìm chân lý, và ban đêm, khi suy niệm về điều huyền bí của sanh và tử, cuối
cùng Ngài đã có được thiền quán mới mẻ và sâu xa về bản chất thân phận con
người, và về bản chất thực nơi vạn vật. Đây là cuộc Giác ngộ của Ngài, sự
"tỉnh thức" của Ngài để hiểu biết chân tính sự vật (yathaàbhūta),
và vì lí do này Ngài bắt đầu có tên gọi là Phật, tức là "người đã tỉnh
thức". Sự kiện này xảy ra khi Ngài 35 tuổi.
Chúng ta còn phải kể lại phần
sau của cuộc đời Ngài, về sự nghiệp kéo dài thêm bốn mươi năm nữa của cuộc đời
Ngài, thời kỳ Ngài giong ruổi khắp các xứ ở miền Bắc Ấn Độ, cho tới các thành
phố và các quận ở lưu vực Trung bộ sông Hằng. Ngay sau khi được Giác ngộ, Ngài
ở lại một ít tuần ở gần khu vực cây Bồ Đề (sau này được gọi là vùng Bodh Gay),
trầm tư mặc tưởng và hấp thụ ảnh hưởng của trực giác biến đổi cuộc đời của Ngài
(12). Ngài hoài nghi về giá trị của việc chia sẻ kinh nghiệm này cho
người khác, nhưng được phạm thiên brahm tên là Sahaỵpati kêu nài, Ngài
đã đi chia sẻ cho những ai có thể hưởng nhận lợi ích khi hiểu được thông điệp
của Ngài. Ngài nghĩ trước hết tới các vị thầy dạy trước kia của Ngài, Alra Klma
và Udraka Rmaputra, nhưng khi biết rằng lúc này các vị đó đã chết cả rồi, thì
Ngài bắt đầu nhớ tới các bạn tu khổ luyện đã từng rời bỏ Ngài với sự khinh bỉ,
nên giờ đây Ngài tìm đến với họ ở Isipatana (nay là Sarnath). Tại đây Ngài
giảng dạy trong công viên nai, cách thành phố chính khoảng sáu dặm về phía Bắc,
và do lúc ban đầu họ còn rất miễn cưỡng nghe Ngài giảng, nên thời gian đã phải
kéo dài khá lâu, nhưng rốt cuộc Ngài cũng đã mang đến được cho năm vị này sự
giác ngộ mà bản thân Ngài đã chứng nghiệm được ở Bodh Gay.
Sau cuộc thành công đầy vất vả
này, việc hoằng pháp của Ngài được tưởng thưởng bằng một thành công lớn trong
việc giảng dạy cho thêm 55 thanh niên nữa, từ đó Ngài đã có được một nhóm đồ đệ
tiên khởi là 60 người, mỗi người phân tán đi một ngả, nhưng tất cả cùng chung
sức loan truyền sự giác ngộ này về chân chất của sự vật, vì lợi ích của nhiều
người (bāhujanahitya). Phần Đức Phật, Ngài còn tiếp tục giảng dạy thêm
một thời gian 45 năm nữa. Đoàn đệ tử của Ngài cứ ngày một gia tăng, và tuy rõ
ràng Ngài ưa thích sự cô tịch (13), nhưng các kinh đều ghi nhận rằng
Ngài sống phần lớn thời gian ở các trung tâm đô thị, như Rjagqha, Vaiślỵ, và
Śrvastỵ, vì tại những nơi này Ngài thường có cơ hội tiếp xúc với một số đông
đảo quần chúng hơn. Trong thực tế, hình như Ngài đã sống 20 hay 25 năm cuối
cuộc đời của mình ở Śrvastỵ (14), thủ phủ của Kośala, một thành phố
lớn và phồn thịnh ở giao lộ của hai con đường thương mại lớn, tại đây một môn
đệ quan trọng sống tại gia tên là Anthapiṇḍada đã
dâng cúng một công viên rất đẹp để cho Đức Phật và các môn đệ của Ngài sử dụng.
Khi 80 tuổi, Đức Phật ngã bệnh
nặng tại Vaiślỵ, và Ngài biết rằng chỉ còn ba tháng nữa mình sẽ chết, hay vào
cõi Niết bàn. Nguyên nhân trực tiếp của cái chết của Ngài là một bữa ăn (món
thịt heo hay món nấm, chúng ta không thể chắc) do một người thợ sắt tên là
Cunda dâng cho Ngài, khiến Ngài bị kiết lỵ. Ngài qua đời tại một khu rừng cây
nhỏ ở Kuśinagara. Những lời sau cùng của Ngài là vayadhamm saṃkhr,
appamdena sampdetha, "Mọi loài mang xác thể đều sẽ phải hoại diệt;
hãy cố ghi nhớ điều này" (15).
Bảy ngày sau, xác Ngài được hoả
táng, và tro cốt của Ngài được phân phối cho các vị vương công địa phương để
đặt trong mười đài kỷ niệm gọi là các Bảo Tháp stpa.
3
LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
Đức Phật được giác ngộ năm
Ngài 35 tuổi. Ngài dành phần còn lại của đời mình chuyên lo truyền đạt lại kinh
nghiệm này cho những người khác, và Ngài khuyến khích các môn đệ cũng làm như
Ngài. Đức Phật đã ngộ được chân lý thâm sâu về bản chất thân phận con người để
dẫn tới sự giải thoát. Giác ngộ chân lý này có nghĩa là chính bản tính của
Thích Ca Cồ Đàm đã được biến đổi tận căn. Nó đã biến đổi hoàn toàn đến nỗi Ngài
không còn phải chịu lệ thuộc chu kỳ chết và tái sinh liên tục ở trần gian này
nữa, như số phận bình thường của chúng sinh không giác ngộ mà truyền thống gọi
là vòng luân hồi (saỵsāra). Chính sự giác ngộ này, sự giác ngộ có tính
biến đổi tận căn thế giới và con người này, tạo nên nền tảng của trí tuệ, hay prajñ,
trong truyền thống Phật giáo.
Các Bậc Hiểu Biết
Chúng ta có thể nói gì về sự
Giác ngộ của Phật? Có gì để nói về nó không? Theo một quan điểm nào đó thì câu
trả lời phải là "Không!" Thế nhưng những bằng chứng về đời sống của
bản thân Đức Phật cho thấy hiển nhiên cũng đáng để thử nói về nó. Người ta có
thể trả lời "không" nếu người ta suy tư về bản chất sự giác ngộ mà
Đức Phật đã đạt được vào đêm lịch sử ấy, vì từ trước đến giờ ai ai cũng hiểu
rằng sự giác ngộ ấy là cái gì siêu vượt lí trí, siêu vượt trí hiểu, và đó chính
là lý do nó có một tác động biến đổi to lớn đến thế, cả đối với Phật cũng như
đối với những môn đệ nào của Ngài đã từng đạt đến cùng sự giác ngộ ấy. Vì thế,
vượt quá trí hiểu và những phương tiện truyền đạt của trí hiểu tức là lời nói,
bản chất sự giác ngộ của Đức Phật là cái gì không thể diễn tả được. Vẫn có
nhiều bài tường thuật hay tóm lược để mô tả bản chất sự giác ngộ của Phật,
nhưng rốt cuộc chúng cũng không diễn tả nổi chính kinh nghiệm ấy - nếu không
người ta đã có thể trở thành Phật mà chỉ cần đọc một cuốn sách, hay nghe một
bài chú giải Phật Pháp.
Cách phân biệt giữa các mức độ
hiểu biết, mức độ trí tuệ này, được nhìn nhận đầy đủ nơi truyền thống Phật
giáo, và được triển khai như một cuộc tiến lên dần thông qua ba bậc trí tuệ,
hay prajñ. Trước hết có bậc śrutamayỵ prajñ, là sự hiểu biết bằng
việc lắng nghe, sruta. Đây là loại hiểu biết ta có được sau khi nghe
giảng giải bằng lời, hay đọc trong sách. Đây là loại hiểu biết hời hợt nhất mà
chúng ta có thể có. Đây là giai đoạn hiểu biết mà chúng ta chấp nhận sự vật dựa
trên sự tin tưởng vào lời nói của một người khác.
Mức độ hiểu biết thứ hai (cintamayỵ
prajñ) là trí tuệ hay, hiểu biết nhờ suy tư (cint), sự sáng suốt mà
người ta tạo cho bản thân mình thông qua việc suy niệm liên tục về một đề tài
đặc biệt nào. Cần nhớ rằng ba bậc tri thức tạo thành một thang hiểu biết lên
dần, có nghĩa là truyền thống Phật giáo coi sự hiểu biết bằng suy tư thì cao
hơn sự hiểu biết nhờ nghe một người khác hay đọc một cuốn sách (điều này gợi
ý rằng "đức tin" hiểu theo nghĩa tin tưởng chấp nhận thụ động một
chân lý là điều xa lạ đối với quan điểm Phật giáo, và khi chúng ta gặp từ
"đức tin" trong một văn mạch Phật giáo, chúng ta phải hiểu nó theo
một nghĩa khác với nghĩa chúng ta thường hiểu trong bối cảnh thần học).
Mức độ hiểu biết thứ ba (bhvanmayī
prajñ) là trí tuệ hay sự hiểu biết được phát huy nhờ tham thiền (bhvan),
dịch sát chữ là "làm cho trở thành". Mức hiểu biết này là sự đồng
hóa hoàn toàn một tập hợp các ý tưởng để nó thấm sâu vào một con người. Đây là
loại hiểu biết sâu nhất mà ta có thể có - một sự hiểu biết không chỉ về một sự
vật ta được nghe, cũng không phải chỉ là một tư tưởng có trong đầu óc ta, mà là
đưa sự vật hoàn toàn vào trong cái tâm của ta, khiến cho mỗi suy nghĩ, hành
động, hay tri giác đều luôn luôn được thấm nhuần sự hiểu biết mới của mình. Hơn
nữa, bậc hiểu biết cao nhất này chỉ có thể đạt được nhờ tích cực tu luyện hành
thiền mà thôi.
Tuệ Giác Của Đức Phật
Tuệ giác mà Đức Phật đạt được
trong đêm Ngài Giác ngộ đã được thuật lại trong nhiều kinh, và mỗi nơi nó lại
được mô tả theo một kiểu khác nhau. Tại một số nơi, nó được mô tả như một bậc
đã tới ba bậc thần thông (abhijñ) là thiên nhãn, sự nhớ lại các tiền
kiếp và sự huỷ diệt những thành kiến. Ở nơi khác, nó được mô tả như sự hiểu
biết của Phật về pratỵtya-samutpda (duyên sinh, hay tính lệ thuộc phổ
quát của vạn vật). Ở nơi khác nữa, nó được mô tả như là skandha (những
yếu tố cơ bản tạo thành hiện hữu có điều kiện). Trong khi đó, kinh Āriyapariyesana
Sutta
(16) lại có một kiểu mô tả độc đáo của mình. Tất cả
những điều này xác nhận có khó khăn nội tại trong việc sử dụng những từ ngữ để
tả lại kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật. Vì vậy, có lẽ tốt hơn hết chúng ta
nên nhìn vào những lời giảng mà truyền thống cho là của Đức Phật giảng cho năm
môn đệ tu khổ hạnh tại Vrṇasỵ. Những lời giảng này được
giữ lại trong hai kinh gọi là kinh Dhammacakkappavattana Sutta (17) và kinh Anattalakkhaṇa Sutta
(18). Tôi sẽ trình bày chung hai kinh này như một toàn thể duy
nhất.
A - Thế Giới Ba Đặc Tướng (Lakxaịa)
Chúng ta có thể bắt đầu bằng một
câu tóm gọn kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật "nhìn thấy bản chất thật của
sự vật". Đó cũng là ý nghĩa của câu yath-bhūta-jñna-darśaṇa, "biết
và thấy được sự vật nơi bản chất thật sự của chúng", là câu thường gặp
thấy trong nhiều kinh (sūtras).
Câu này có nghĩa là bản chất
kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật hệ tại chỗ Ngài thấy rõ thế giới và thân phận
con người trong bản chất của nó, và đồng thời ngầm hiểu rằng người không giác
ngộ thì không thể thấy được như thế.
Vậy, Phật đã thấy thế giới thế
nào? Truyền thống kể lại rằng Ngài thấy thế giới và mọi sự trên thế giới gồm ba
đặc tính hay nét đặc trưng, gọi là ba tướng (lakṣaṇas). Ba đặc
tướng này là vô thường (anitya), khổ não (duhkha) và vô ngã
(antman).
1) Vô thường (Anitya)
Đặc tướng hay đặc trưng thứ nhất
là anitya, vô thường, có nghĩa là mọi sự vật đều hữu hạn, không thường
hằng, và mau qua chóng hết. Phật thấy mọi sự vật trong vũ trụ đều có một khởi
đầu và vì vậy tất yếu phải có một kết thúc cho sự tồn tại của chúng. Đây là sự
giác ngộ Ngài đạt được qua loại thần thông (abhijñā) thứ nhất và thứ
hai, cho rằng mọi chúng sinh đều có sinh có tử, kiếp này tiếp nối kiếp khác.
Điều này được phản ánh trong vũ trụ luận của Phật giáo, theo đó có một vũ trụ
của một không gian và thời gian vô hạn, trong đó vô số các vũ trụ nối tiếp nhau
xuất hiện rồi biến mất; điều này cũng được phản ánh trong thế giới vi mô gồm
những phân tử nhỏ nhất có thể hình dung ra và được quan niệm không phải như
những nguyên tử bất động (quan niệm này ngày nay cũng bị các nhà vật lý loại
bỏ), mà như là những mẫu năng lượng thay đổi không ngừng qua sự tương tác. Hơn
nữa, vũ trụ không bao gồm những miền đất được cư ngụ bởi những con người bị kết
án hay được giải cứu vĩnh viễn, mà bởi những tình trạng tâm linh được khách thể
hóa. Nói cách khác, các tình trạng tâm linh chủ quan được kinh nghiệm như là
những thế giới khả giác mà dù chúng có thể tồn tại qua nhiều thế đại, chúng
cũng sẽ có ngày bị tiêu tan do sự cạn kiệt những động lực tâm linh đã tạo ra
chúng. Cá nhân mỗi người cũng sinh ra rồi chết đi, và khắp nơi đời sống phù du
này thay đổi ngày này qua ngày khác, lúc này qua lúc khác. Không có gì thường
hằng.
2) Khổ não (Duhkha) và Tứ Diệu
Đế
Điều này đưa chúng ta tới đặc
tính thứ hai của sự tồn tại hữu hạn, đó là sự đau khổ (dukkha). Khổ
không chỉ là đặc tính thứ hai trong tam tướng, nó còn là đề tài của một trong
những giáo lý nổi tiếng nhất của Phật giáo, giáo lý về Tứ Diệu Đế hay Bốn chân
lý về sự Khổ (catvri ryasatyni) (19). Chân lý thứ nhất trong bốn
chân lý này là chân lý về sự khổ. Đây là sự chẩn đoán của Đức Phật về căn bệnh
của loài người.
Sau khi đã đề cập tới lakṣaṇa thứ
nhất, chúng ta có thể hiểu cơ sở của ý tưởng rằng hiện hữu giới tướng là một
nguồn gây đau khổ. Điểm mấu chốt ở đây không phải chỉ vì đời sống là khổ, cũng
không phải đau khổ thì có thực hơn là sung sướng, nhưng khổ và sướng trong cuộc
đời luôn đi đôi với nhau. Ở mức độ đơn giản nhất, điều này có nghĩa rằng một số
niềm sung sướng luôn luôn mang theo một kinh nghiệm hối tiếc hay ân hận. Ăn một
thanh kẹo sôcôla, uống một ly bia, hay hút một điếu thuốc lá có thể làm ta
khoan khoái lúc này, nhưng mỗi thứ đều mang theo một tiềm năng gây đau khổ - có
thể là béo phì, bệnh tim, hay chỉ choáng váng hay hơi thở có mùi. Nhưng nó cũng
có nghĩa là bất cứ kinh nghiệm sảng khoái nào, dù tốt lành đến đâu, cũng gây ra
một sự đau khổ nào đó khi kinh nghiệm sảng khóai đó chấm dứt ở đây. Cuối cùng
chúng ta có thể bắt đầu nhìn thấy mối tương quan giữa lakṣaṇa này và lakṣaṇa trước,
vì tâm lý mọi người luôn luôn mong muốn các kinh nghiệm vui sướng kéo dài mãi,
và chúng ta luôn cảm thấy thất vọng nếu một niềm vui sướng, dù nhỏ bé đến đâu,
bị lấy mất khỏi chúng ta. Vấn đề của loài người, theo Đức Phật, chính là những
lạc thú này luôn luôn bị lấy đi, vì theo đặc tính thứ nhất đã nói trên, mọi vật
đều là vô thường, mau qua chóng hết. Vì mọi điều này sẽ qua đi, chúng là đau
khổ (duhkha).
Điều này làm cho Phật giáo trở
thành một tôn giáo bi quan chăng? Dưới cái nhìn lịch sử, lời cáo buộc này mang
tính chất mỉa mai, thay vì nhìn vào Đức Phật, chúng ta phải tìm đến những hệ
thống của những người theo phái tất định gọi là Ājỵvakas, và thậm chí của giáo
lý chính thống Bà La Môn để gặp thấy quan điểm thực sự bi quan về thân phận con
người. Vì chính ở đó chúng ta gặp thấy sự chấp nhận hoàn toàn số phận của mỗi
người trong cuộc đời, một thứ thuyết định mệnh đạt tột đỉnh trong lời dạy của
kinh Bhagavad Gỵt, trong đó chúng ta được dạy rằng mỗi người phải thi
hành bổn phận của mình trong cuộc đời mà không cần nghĩ gì đến những hậu quả
của các hành động đó. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào bài giảng đầu tiên của Phật,
trong đó chứa đựng đầy đủ giáo huấn của Ngài về đề tài khổ (duhkha), chúng
ta có thể thấy Ngài trình bày cả Bốn Chân Lý chứ không chỉ có một. Trong khi
Ngài xác định vấn đề đau khổ trong chân lý thứ nhất, và nguyên nhân gây ra đau
khổ trong chân lý thứ hai (là sự ham muốn và giận ghét gây ra do ảo tưởng tâm
linh sâu xa của chúng ta), thì chân lý thứ ba lại khẳng định vững vàng rằng
chúng ta có thể vượt qua sự đau khổ vốn là đặc tính của sự hiện hữu giới hạn
của chúng ta. Hơn nữa, chân lý thứ tư bắt đầu mô tả những phương thế nhờ đó mỗi
người chúng ta có thể thực hiện được sự biến đổi. Phương thế này chính là Bát
Chánh Đạo (ryṣṭṅgikamrga), con
đường thực hành để dẫn chúng ta đi từ thế giới của đau khổ sang thế giới của
kinh nghiệm tự do và hạnh phúc.
3) Vô ngã (Antman) và Duyên sinh
(Pratỵya-Samutpda)
Để hiểu đặc tính thứ ba là Vô
ngã (Antman), chúng ta phải nhớ rằng tôn giáo Bà La Môn ở thế kỷ V trước
CN. tin rằng mỗi chúng sinh đều có một tman, bản ngã, thanh tịnh, tế
nhị, vĩnh cửu, và truyền từ kiếp này sang kiếp khác. Rõ ràng là, theo đặc tính
thứ nhất của ba đặc tính lakṣaṇas, lý
thuyết này bị đưa ra tranh cãi. Thực vậy, chỉ cần lý luận chặt chẽ là có thể
rút ra đặc tính thứ ba, vô ngã (antman), từ đặc tính thứ nhất, vô thường
(anitya). Thực vậy, cũng như mọi khía cạnh của thế giới bên ngoài đều được
coi là vô thường, thay đổi không ngừng, thì cá nhân mỗi người cũng không thể
được coi là có một linh hồn hay bản thể thường hằng bất biến nhập thể tạm thời
ở trên trái đất này, nhưng phải được coi là một dòng lưu chuyển liên tục của
những trạng thái và sự kiện tâm linh phát sinh từ những điều kiện và đến lượt
chúng lại làm phát sinh những trạng thái tâm linh khác.
Nhưng không được hiểu lakṣaṇas này một
cách máy móc theo nghĩa chữ. Theo một nghĩa khác, nó là một lời cảnh cáo chống
lại tri giác sai lạc về thế giới nảy sinh từ thói quen của trí khôn chúng ta
thích đặt tên cho sự vật, xếp loại các sự vật theo các phạm trù, khái niệm tuỳ
tiện mà không tương ứng thực sự với kinh nghiệm. Chúng ta có thể minh hoạ điều
này bằng ví dụ của một chiếc lá cây, vào mùa thu đổi màu xanh sang màu vàng. Tự
nhiên chúng ta cho rằng có một vật được gọi là lá cây, và chiếc lá cây này chịu
sự biến đổi về thuộc tính của nó là màu sắc. Nhưng người Phật giáo nói rằng
thực sự không phải vậy. Chiếc lá không phải một sự vật, nó không có bản thể hay
tman hiện hữu biệt lập với tập hợp các thuộc tính của nó. Chúng ta có
thể hình dung ra một chiếc lá không có màu sắc gì không? Chính sự tồn tại của
chiếc lá như là một thực thể đòi hỏi nó phải gắn liền với màu sắc và những
thuộc tính khác của nó. Điều mà truyền thống Phật giáo nói chính là chiếc lá,
trong thực tế, là toàn thể các yếu tố và các phần khác nhau của nó. Trong ví dụ
của chúng ta, chiếc lá vàng xuất hiện dựa trên chiếc lá xanh trước đó, không
hoàn toàn khác mà cũng không hoàn toàn là một với chiếc lá xanh ấy. Như vậy,
trong khi lakṣaṇas thứ nhất
nói rằng mọi sự thay đổi, thì lakṣaṇas thứ ba
cho thấy rõ rằng trong thực tế không có thế giới của những sự vật cố định nào
có thể thay đổi. Trừu tượng hóa thành những thực thể cố định từ dòng chảy liên
tục của những biến cố thay đổi xung quanh chúng ta, rồi nói rằng có sự thay đổi
xảy ra cho những thực thể cố định này, là do một ảo tưởng.
Ví dụ này cũng làm sáng tỏ ý
nghĩa của một giáo lý khác của Phật trong bài giảng đầu tiên, đó là Trung Đạo.
Trung Đạo có hai ý nghĩa, vì Phật đề cập tới một con đường ở giữa sự nuông
chiều nhục dục và sự khổ hạnh tự diệt (cả hai con đường đều đã được Ngài suy
nghĩ trong chính đời sống của Ngài trước khi Giác ngộ), và một con đường giữa
hai thái cực siêu hình là chủ nghĩa vĩnh cửu và chủ nghĩa hư vô. Ngài dạy rằng
sự vật không hiện hữu thường hằng, cũng không tuyệt đối không hiện hữu. Cũng
giống như chiếc lá, khi chiếc lá vàng xuất hiện từ chiếc lá xanh, không hoàn
toàn khác với nguyên nhân của nó, cũng không hoàn toàn là một, thì mọi sự vật
hữu hạn khác cũng xuất hiện từ những nhân tố khác, không hoàn toàn khác mà cũng
không hoàn toàn giống. Lãnh vực áp dụng quan trọng nhất cho nguyên tắc này là
lãnh vực đạo đức hay luân lý, vì chính trong lãnh vực này Phật chứng minh rằng
mọi hành vi cố ý, karman, nghiệp, đều mang theo những hậu quả (20). Nguyên
tắc lớn này Phật gọi là pratỵtya-samutpda, nguyên tắc duyên sinh. Để cắt
nghĩa tác động của nguyên tắc này trên bình diện đạo đức, trong thời kỳ giảng
dạy sau này, Đức Phật phân tích thân phận con người, cho thấy những giai đoạn
khác nhau mà những hành động quá khứ chi phối các trạng thái tâm linh trong
tương lai. Qua phân tích này, người ta có thể cắt đứt được những hành động tiêu
cực của tập quán, và biến đổi đời sống mình cho phù hợp với tâm linh đã được
giác ngộ của Phật.
(21) Chúng ta cũng có thể thấy rằng Tứ Diệu Đế chỉ là sự áp
dụng thực hành của nguyên tắc này, cho thấy rõ những điều kiện làm phát sinh và
chấm dứt khổ đau (duhkha).
Kết luận
Ba tướng trạng (lakṣaṇas) là những
đặc trưng của toàn thể hiện hữu có giới hạn, của vòng luân hồi. Theo một nghĩa
nào đó, có thể coi những đặc tính này như sự phủ nhận lời giảng dạy của kinh Upaniṣads rằng
Thực tại là sacchidnanda, "thường hằng, có ý thức và hạnh
phúc" (22). Đức
Phật nhận ra rằng điều mà Upaniṣads mô tả
như là sat, thường hằng, thì lại là anitya, vô thường; điều là cit,
tâm, thực ra lại là antman, vô ngã; điều được nghĩ là nanda,
hạnh phúc, thực ra lại là duhkha, đau khổ. Có thể nói bản chất kinh
nghiệm giác ngộ của Đức Phật, cốt tuỷ trí tuệ của Ngài, là sự hiểu biết mà Ngài
đã đưa vào tận cõi thâm sâu của hữu thể của Ngài, rằng mọi vật hữu hạn đều thay
đổi. Nếu chúng ta lại hỏi tại sao duhkha chứ không phải anitya là
đề tài bài thuyết giáo đầu tiên của Ngài, chúng ta chỉ có thể phỏng đoán rằng
mối quan tâm của Ngài là được nói với dân chúng và với kinh nghiệm của họ về
thế giới. Người ta rất thường hay ví Đức Phật như một vị thầy thuốc, và trong
vai trò này, Ngài muốn đề cập tới những vấn đề trực tiếp của thế giới.
B - Niết Bàn, Cái Vô Bờ (Nirvàịa)
Ở những trang trên đây chúng ta
đã bàn đến sự giác ngộ của Phật về bản chất của hiện hữu có giới hạn, về bản
chất của luân hồi (samsra). Có thể nói gì về Niết bàn (nirvṇa), là
trạng thái mà Phật đã đạt tới lúc Ngài được Giác ngộ không? Ở đây câu trả lời
cũng là "không", bởi lẽ trạng thái Niết bàn là trạng thái vô hạn, nó
hoàn toàn ở ngoài thế giới lệ thuộc, thế giới mà chúng ta cảm nghiệm trong
trạng thái không được giác ngộ của chúng ta. Nhưng chúng ta có thể nghĩ ra một
sự mô tả tạm thời bằng cách nhìn lại những tướng trạng (lakṣaṇas). Khi áp
dụng những đặc tính vào các sự vật hữu hạn, chúng ta có thể giả thiết rằng cái
vô hạn thì có những đặc tính đối nghịch với những tướng trạng (lakṣaṇas) của
những cái hữu hạn. Như thế, khi kinh Dhammapada nói "Mọi vật hữu
hạn đều là vô thường". Khi ai hiểu và thấy được điều này, người ấy sẽ
không còn quan tâm gì tới cái khổ nữa; đó là "Đạo Thanh tịnh", có lẽ
chúng ta có thể hiểu rằng cái vô hạn là cái gì thường hằng và vững bền; khi
kinh nói rằng "Mọi sự vật hữu hạn đều đau khổ". Khi ai hiểu và
thấy được điều này, người ấy sẽ không còn quan tâm gì tới cái khổ nữa. Đó là
Đạo Thanh tịnh, chúng ta có thể hiểu rằng cái vô hạn là cái thoả mãn, là cái
hạnh phúc; nhưng về tướng lakṣaṇas thứ ba
thì kinh nói rằng "Mọi sự vật (bất kỳ là gì) đều không có một bản ngã
bất biến". Khi ai hiểu và thấy được điều này, người ấy sẽ không còn
quan tâm gì tới cái khổ nữa. Đó là "Đạo Thanh tịnh" (23). Ở đây
chúng ta phải hiểu rằng ngay cả cái vô hạn cũng không thể được gọi là bản ngã
(tman). Nói theo những đặc tính của loài người, chúng ta thấy rõ các kinh
đều nói rằng Quả Phật là trạng thái trí tuệ sâu thẳm, cảm thông bao la, và năng
lực tràn trề.
Và phải chăng có thể theo cách này mà xét về những
gì là hư hoại, đau khổ, và dễ thay đổi:
"Cái này là của tôi. Tôi là cái này. Cái này là tôi chăng?".
"Bạch Thế Tôn, Điều đó không thể được" (24).
4
ĐƯỜNG GIÁC NGỘ
Phải chăng Đức Phật chỉ
cống hiến một kinh nghiệm giác ngộ về thân phận của chúng ta, hay Ngài còn dạy
các môn đệ một phương pháp để thực hiện sự biến đổi? Câu trả lời tất nhiên là
Ngài đã dạy ta con đường dẫn tới giải thoát, và các kinh sách đã ghi lại nhiều
bài tường thuật về những việc thực hành giúp người ta đạt tới Giác ngộ. Nổi
tiếng nhất trong số này là Bát Chánh Đạo, ryṣṭṅgikamrga,
chủ đề của Chân lý thứ tư của Phật. Cốt tuỷ của Bát Chánh Đạo gồm tám
ngành (aṅgas), hay
"nhân tố" mà đạt được sự hoàn thiện của các nhân tố này sẽ dẫn tới
giải thoát, hay Giác ngộ; hai nhân tố đầu là Chánh Kiến và Chánh Tư Duy - khía
cạnh tri thức và hiểu biết của trí tuệ, tương ứng với việc làm cho mỗi cá nhân
hiểu biết sâu xa và đồng hóa vào bản thân mình kinh nghiệm giác ngộ của Đức
Phật, như đã mô tả ở chương trước. Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, là ba
nhân tố có tính luân lý, và có mục đích hướng dẫn người thực hành biết cư xử
đúng đắn nơi thân và khẩu như hai nhân tố đầu giúp cho việc cư xử theo trí tuệ.
Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định liên quan tới việc phát huy tâm bằng
thiền định. Như vậy chúng ta thấy Bát Chính Đạo gồm ba lãnh vực: śỵla (Giới,
luân lý), samdhi (Định, suy niệm), và prajñ (Huệ, trí tuệ), tức
là một con đường duy nhất nhưng bao gồm ba khía cạnh. Chúng ta đã đề cập tới
hai nhân tố Chánh Kiến và Chánh Tư Duy ở chương trước khi nói về trí tuệ. Ở đây
chúng ta sẽ đề cập tổng quát đến các nhân tố còn lại thuộc nhóm śỵla (giới),
và samdhi, (định).
Giới (Śīla)
Những nguyên tắc luân lý do Đức
Phật chủ trương không phải là những lệnh truyền của một vị thần phi lý, cũng
không phải những quy luật của một giáo phái, mà là những "nguyên tắc huấn
luyện" hay giới luật, śikṣāpada, gồm
những bản liệt kê dài ngắn khác nhau, có khi là 5, có khi là 8, có khi là 10
giới luật. Hình thức đầy đủ nhất của mười giới luật daśakuśalakarmapatha, con
đường của mười hành vi chân chính, là những hành vi sau đây: tránh sát sanh và
thực hành từ tâm; tránh trộm cắp và thực hành quảng đại; tránh dâm ô và thực
hành sự tự chế; tránh nói dối, lăng mạ và rủa sả, cũng như những lời nói vô ích
phù phiếm, và thực hành lời nói chân thật, tử tế và nhã nhặn, ích lợi và hòa
hợp; tránh tham làm và thực hành tâm hồn thanh thản; bỏ sự độc ác và thực hành
lòng cảm thông; và cuối cùng, bỏ những quan niệm sai lạc và thực hành trí huệ -
cả mười giới luật này hữu ích cho con người trọn vẹn vì nó bao gồm những hoạt
động của thân, khẩu và ý (25).
Năm giới luật thường được biết
đến là pañcaśīla, bao gồm bốn giới luật đầu tiên trên đây, và kết luận
bằng sự cố gắng để tránh cho tâm trí khỏi bị đầu độc bằng những tư tưởng xấu,
và luyện tập huệ để thay thế vào chỗ đó. Xét toàn thể, hai bộ giới luật này đều
mô tả hành vi tự nhiên, không gò bó của người Giác ngộ, và nhờ việc thực hành
những giới luật này, người Phật tử làm cho hành vi của mình phù hợp với hành vi
của Đức Phật.
Không nên lầm lẫn thập giới (daśakuśalakarmapatha)
này với thập giới của các Sa di và Tỳ khưu, gồm có ngũ giới pañcaśīla kèm
thêm những việc phải kiêng sau đây: ăn phi thời, nhảy múa, ca hát, âm nhạc, và
trình diễn; nước hoa, hương thơm, mỹ phẩm và đồ trang sức; giường ngủ xa hoa;
và nhận vàng và bạc (nghĩa là tiền). Ở Đông Nam Á, vào những ngày rằm và ngày
ba mươi những người thiện nam tín nữ tuân giữ bát giới (upsakas). Những
giới này cũng giống như thập giới của các Tỳ khưu và Sa di, ngoại trừ hai giới
7 và 8 gộp chung lại với nhau, và bỏ giới luật cuối là cấm nhận vàng và bạc.
Định (Samādhi)
Thiền định được coi là phương
pháp trực tiếp nhất để biến đổi cái tâm từ tình trạng không giác ngộ sang tình
trạng giác ngộ. Có nhiều phương pháp thiền đã được Đức Phật dạy cho các môn đệ
khác nhau của Ngài, và Ngài tuỳ theo tính khí khác nhau của mỗi người mà chọn
lựa phương pháp này hay phương pháp khác. Tuỳ dịp, mỗi phương pháp thiền được
chứng minh là dẫn đến sự Giác ngộ hoàn toàn. Nhưng phương pháp này gồm việc
thực hành sáu niệm (sati), hay chánh niệm (niệm Đức Phật, Giáo pháp,
Tăng Giới, giới Đại Bố Thí và tình trạng hạnh phúc của các thần linh); hay của
thân xác, gồm những giai đoạn thân xác bị phân huỷ; suy niệm về sự chết; phân
tách những yếu tố; suy niệm vào một vật có màu sắc hay một dụng cụ (kasina);
và cả việc quán tưởng về sự ghê tởm của thức ăn. Nhưng có hai phương pháp cao
nhất được Đức Phật khuyên luyện tập: luyện tập hơi thở, và chiêm niệm cái khôn
lường (apramṇa) -
phương pháp thứ hai này gồm việc phát triển lòng nhân ái (maitrỵ), cảm
thông (karuṇ), hân hoan (mudit), và
thanh thản (upekṣ). Những trạng thái mà các
phương pháp này dẫn đến được mô tả ít là theo hai cách: hoặc là bằng một chuỗi
những tình trạng siêu thức gọi là thiền (dhyna), với trạng thái tập
trung cao độ; hay là bằng sự đi vào trong Phạm trú (brahm vihras), nơi ở
của Phạm Thiên (Brahm) được đồng hóa với sự chiêm niệm khôn lường. Trong khi
giáo lý chính thống của Phật giáo nguyên thủy sau này chỉ gán cho những tình
trạng này một vai trò thứ yếu, thì các kinh lại ghi lại những trường hợp mà Phạm
trú brahm vihras được sử dụng để luyện tập nhằm đạt tới sự giác ngộ giải thoát (26). Những
phương pháp thiền dẫn tới những trạng thái thanh tịch này được gọi là śamath,
hay thiền nhập định, khác với vipaśyan, hay thiền minh sát, thường
gồm việc thực hành định tâm, đóng dấu sự biến đổi nhận thức nhờ đó người thực
hành có thể thấy được "sự vật đúng theo bản chất của nó" (27).
Các Nhân Tố Giác Ngộ (Bodhyaṅgas)
Khác với Bát Chánh Đạo, chúng ta
cũng cần nghiên cứu vắn tắt một hình thức của Đạo biểu hiện tính chất tích luỹ
của nó. Bodhyaṅgas, các
'nhân tố của bodhi (Giác ngộ)', là một chuỗi gồm bảy giai đoạn hay nhân
tố, mỗi nhân tố mới xuất hiện tuỳ thuộc vào sự thể hiện hoàn toàn của nhân tố
đi trước nó.
a) Nhân tố đầu tiên là niệm giác
chi (smqti), thường được hiểu là ý thức về thân xác, cảm giác, trí khôn,
và các ý tưởng của nó, và sau cùng là về các dharmas - được hiểu như là
những đối tượng của trí khôn, hay như là Dharma (Pháp) và Thực tại mà nó biểu
trưng.
b) Từ niệm giác chi chung chung,
người ta đi tới niệm giác chi riêng về những trạng thái tâm linh của mình, nhờ
trạch pháp giác chi (dharmavicaya) và sự xác định ra những trạng thái
tâm linh đó là những điều tích cực và giúp cho người ta đạt tới đời sống thiêng
liêng.
c) Nhân tố thứ ba là tinh tấn
giác chi (vỵrya), được hiểu theo nghĩa là sự cố gắng cần thiết để vun
trồng những tâm thức tích cực được xác định trong giai đoạn thứ nhất, và cũng
được hiểu như là năng lực được phóng thích bởi tâm thức sáng suốt ngày càng gia
tăng mà người thực hành đã đi vào.
d) Sự phóng thích và áp dụng
tinh tấn tạo nên hỷ giác chi (prỵti), một sự khóai cảm và hỷ lạc lan toả
khắp thân tâm sinh lý của con người.
e) Trong khi vẫn tồn tại những
yếu tố thô thiển của hỷ lạc giác chi (prỵti) người ta lại cảm nhận được praśrabdhi,
một trạng thái sung sướng thiêng liêng làm cho ý thức của người ta về ngoại
giới giảm xuống mức tối thiểu và người ta bị cuốn hút vào niềm hạnh phúc vô bờ.
f) Khuynh hướng đi vào trạng
thái hỷ giác chi ở giai đoạn trên thúc đẩy người ta một cách tự nhiên đi vào
những trạng thái siêu thức được mô tả bằng thuật ngữ samdhi, định. Những
thiền dhynas này diễn tả những trạng thái kết hợp toàn diện, hòa hợp
nhịp nhàng và không gò bó của tâm.
g) Đạo đạt tột đỉnh với trạng
thái gọi là upekṣ, xả giác
chi là trạng thái quân bình năng lực. Người ta trở nên thăng bằng, không bị
giằng co giữa những thái cực tâm lý hay thiêng liêng. Đây là trạng thái thanh
thản và tuệ giác, đồng nghĩa với Giác ngộ.
Mục Tiêu
Sự nhận thức thấu triệt tính vô
thường, đau khổ, và tính vô ngã của hiện hữu thế tục xảy ra từng bước một, và
bao gồm việc phá vỡ một số các chướng ngại (saỵyojana) gồm mười thứ sau:
(1) thân kiến (satkya-dqṣṭi); (2) hoài
nghi (vicikits); (3) giới cấm thủ (śīlavrata-parmarśa); (4)
tham ái (kma-rga); (5) sân hận (vypda); (6)
tham trong sắc giới (rūpa-rga); (7) tham trong vô sắc giới (arūpa-rga);
(8) tự phụ (mna); (9) bất an (auddhatya); và
(10) vô minh (avidy). Những giai đoạn phát triển dẫn tới tuệ
giác được đánh dấu bằng sự tận diệt hay làm suy yếu những nhóm chướng ngại khác
nhau nói trên. Những người đạt tới những bậc này được xác định tuỳ theo mức độ
giải thoát họ đạt được và được mô tả là đã bước vào "Đạo siêu thế", lokottaramrga,
đối chọi với "đạo thế tục" mà họ theo đuổi trước khi đạt tới tuệ
giác. Bậc thứ nhất được gọi là śrotpaññā, "nhập lưu", của
những người đã tận diệt được ba chướng ngại đầu tiên, và chỉ còn có bảy lần tái
sinh vào kiếp người hay giới siêu nhiên trước khi đạt sự giải thoát hoàn toàn.
Bậc Nhất lai (Tư đà hàm, agamin), đã làm suy yếu hai chướng ngại thứ tư
và thứ năm, sẽ chỉ tái sinh một lần và sẽ được Giác ngộ ở lần tái sinh này. Bậc
Bất lai (A na hàm, anagami), đã phá vỡ cả năm chướng ngại đầu tiên, được
tái sinh trong giới siêu nhiên và được Giác ngộ trong giới siêu nhiên. Sau
cùng, bậc A La Hán, arhat, bậc thánh thứ tư, đã phá vỡ được tất cả mười
chướng ngại, và nhờ đó đã đạt được Giác ngộ trong đời sống này. Bốn bậc tuệ
giác này nói lên mục đích của việc thực hành tâm linh cá nhân, và hợp chung lại
để xác định những thành phần của cộng đồng sau này sẽ mang tên là Tăng Già Cao
Quý, Ārya-Saṅgha. Tăng Già Cao Quý đã trở thành Tăng Già Ưu Tú
cho những trường phái Phật giáo đầu tiên.
5
TĂNG GIÀ ĐẦU TIÊN
Với những ai quy y Đấng Giác
Ngộ, Giáo pháp và Tăng Già; những ai thấu hiểu Tứ Diệu Đế, đây là đau khổ,
nguồn gốc đau khổ, vượt qua đau khổ, và Bát Chánh Đạo dẫn tới diệt khổ, thì đây
là sự quy y an toàn, là sự quy y tuyệt vời nhất. Tìm đến sự quy y này, người ta
được giải thoát khỏi đau khổ (28).
Những ai có ước vọng đều
trở thành môn đệ của Đức Phật khi tìm đến quy y với Ngài. Thường những người
này tự nguyện nói lên ước vọng của mình để đáp lại lời dạy của Đức Phật hay
chính bản thân của Ngài. Hành động quy y nói lên một quyết tâm trọn vẹn và một
sự tái định hướng triệt để của con người do lòng mộ mến đời sống gương mẫu của
Đức Phật, và của Giáo pháp mà Ngài giảng dạy. Bằng chứng cho thấy điều này lúc
đầu được thực hiện bởi một công thức gồm hai phần nói về Đức Phật và Giáo pháp
của Ngài (29), nhưng
không lâu sau nó đã được thay thế bằng một công thức quen thuộc gồm ba phần,
khi Tăng Già ngày càng lớn mạnh (30). Sáu mươi môn đệ đầu tiên của
Đức Phật đều đã có quan hệ trực tiếp và gần gũi với Ngài, nhưng sau khi họ phân
tán đi khắp nơi, họ đã đưa về nhiều người khác cũng muốn trở thành môn đệ của
Đức Phật, và con số này ngày càng gia tăng. Để tránh những bất tiện của con số
quá đông này, Đức Phật đã lập ra một tiêu chuẩn để các môn đệ tự mình có thể
theo đó mà tiếp nhận những người mới gia nhập Tăng Già. Đó là bằng việc họ chấp
nhận sự hướng dẫn từ ba điều mà ngay từ thời kỳ đầu đã được mệnh danh là Tam
Bảo: Phật, là mẫu mực thiêng liêng, Giáo pháp, là lời giảng của Ngài, và Tăng
Già, là cộng đồng thiêng liêng: theo tiếng Pali là, buddhaỵ saraṇaỵ
gacchmi, dhammaỵ saraṇaỵ gacchmi, sanghaỵ saraṇaỵ gacchmi
– 'Con tìm sự nương tựa nơi Phật, con tìm sự nương tựa nơi
Giáo pháp, con tìm sự nương tựa nơi Tăng Già'. Công thức đơn sơ này được lặp
lại ba lần, nhưng được cảm nhận sâu xa trong tâm, chính là tiêu chuẩn để những
người thọ đạo tỏ quyết tâm công khai của mình trong việc thực hành đạo của
Phật. Việc thể hiện quyết tâm này đã và còn đang được diễn tả qua việc tuân giữ
các giới luật.
Chúng ta đã thấy Phật sai 60 môn
đệ đầu tiên của Ngài đi rong ruổi khắp các làng mạc và thành phố như thế nào để
truyền giảng Giáo pháp: "Này, các Tỳ khưu hãy ra đi, hãy rong ruổi khắp
nơi vì lợi ích của chúng sinh, vì hạnh phúc của chúng sinh, vì sự cảm thương
đối với thế giới, vì điều thiện, lợi ích, và hạnh phúc của các chư thiên và
loài người (31)".
Từ chỗ này chúng ta hiểu được rằng Tăng Già, cộng đồng thiêng liêng môn đệ của
Phật, tự nguồn gốc là một tổ chức khoáng đạt những con người khất sĩ vô gia cư,
parivrjakas, những con người không có nơi ở cố định nhưng vào mùa nắng
thường ngủ ngoài trời và đi khất thực. Chính vì vậy họ được gọi là bhikkhus,
Tỳ khưu, vì họ muốn chia sẻ thức ăn với cộng đồng.
Vào mùa mưa họ thường tụ tập lại
một nơi, có thể là dưới những lùm cây của một cánh đồng do một chủ nhà mộ đạo
nào dâng hiến, hay có thể là ở một khu rừng thưa thời đó còn bao phủ khắp vùng
lưu vực sông Hằng. Một số kinh cho chúng ta một thóang nhìn về nếp sống nhịp
nhàng của chư vị, ăn xin, suy niệm, giúp đỡ lẫn nhau, và dạy dỗ những người mới
gia nhập nhóm khi có thời cơ thuận tiện (32).
Những người khất sĩ sơ khởi này
thường định kỳ tụ họp lại để nhắc lại những quyết tâm và lý tưởng của mình và
chia sẻ với nhau. Ban đầu, Tỳ khưu trưởng đọc lên những giới luật rồi từng cá
nhân sẽ xưng thú nếu có vi phạm. Về sau, có thể do sự phạm giới, người ta đọc
chung với nhau các giới luật, rồi các Tỳ khưu từng hai người một xưng thú riêng
những vi phạm của mình (33). Những điều họ đọc lên có thể nguyên thủy chỉ là
lời phát biểu những lý tưởng mà họ cùng chia sẻ với nhau. Việc thực hành này
gọi là prtimokṣa, hiểu
theo nghĩa là "thanh tẩy" (34) hay "ràng buộc" (35), và một
số người cho rằng nó phát xuất từ một vị Phật trước kia, tên là Vipassỵ:
Kiên nhẫn chịu đựng là hình thức
khổ hạnh cao nhất. "Niết bàn là đỉnh cao nhất," các bậc Giác Ngộ đã
dạy như thế. Sa Môn thì không lăng nhục người khác, cũng không làm hại người
khác.
Không làm điều ác, nhưng làm
điều thiện, thanh tẩy tâm hồn mình: đó là lời dạy của Chư
Phật.
Không nói xấu, không lăng mạ, tự
chế theo luật tự chủ về ăn uống, sống ẩn cư, theo đuổi những tâm thức cao hơn:
đó là hạnh của Chư Phật (36).
Vào thời Đức Phật, Tăng Già hợp
nhất nhờ sự gắn bó trực tiếp với Ngài. Sau khi Đức Phật qua đời, việc tụng giới
và xưng thú lỗi lầm là yếu tố liên kết cộng đồng, đặc biệt vì Đức Phật đã xác
định rõ ràng rằng sẽ không có cá nhân nào kế vị Ngài để đứng đầu cộng đồng (37). Sau
khi Ngài qua đời, các môn đệ của Ngài sẽ lấy pháp và luật làm kim chỉ nam cho
mình (38). Tuy về
mặt tổ chức bề ngoài, Tăng Già bị ràng buộc bởi những luật pháp của chế độ quân
chủ (ví dụ: các nô lệ và các tôi tớ của hoàng cung không được phép gia nhập
Tăng Già), nhưng về tổ chức nội bộ, giới luật của Tăng Già phản ánh những cơ
chế cộng hòa thời xưa của các bộ tộc mà từ đó chính Đức Phật đã xuất thân (39).
Có lẽ dường như có một sự mềm
dẻo nào đó trong bộ luật (Vinaya) thời kỳ đầu, là bộ luật có xác định
phần nào, nhưng chưa phải là một bộ luật đầy đủ ở thời điểm Đức Phật qua đời.
Có lẽ Ngài đã muốn thích nghi các luật hành xử với những hoàn cảnh và mức độ
đạt đạo của từng cá nhân. Có một số ghi nhận chứng tỏ Đức Phật chuộng một thứ
kỷ luật tinh thần hơn là kỷ luật thể chất (40) và có một trường hợp Ngài cắt
nghĩa cho một parivrjaka tên là Udyin rằng các môn đệ khác ngưỡng mộ
Phật không phải vì Ngài tuân giữ các luật prtimokṣa, mà vì
Ngài đã thực hành sỵla (giới), samdhi (định), và prajñ (huệ) (41).
Chắc hẳn ở thời kỳ đầu, Tăng Già
được thiết lập mạnh nhất ở các xứ mà chính Đức Phật đã đi qua và hoằng pháp, đó
là Magadha và Kośala, tuy cũng có khá đông môn đệ đến từ những vùng phía Đông
là Videhas, Koliyas, và Licchavis. Trong khi có vẻ như Tăng Già tạo được ít ảnh
hưởng hơn ở các vùng phía Bắc và Tây, các tài liệu lịch sử lâu đời nhất đều cho
thấy những bằng chứng về những tiếp xúc từ xa và lẻ tẻ tại các vùng này. Kinh Sutta
Nipta ghi lại mối quan tâm của một vị thầy đối với Đức Phật. Vị này sống ở
vùng Mūlaka, nay là Maharashtra, ông đã sai 16 đệ tử của mình tới thỉnh vấn Đức
Phật9 (42). Một
tài liệu khác ghi lại rằng một số những đệ tử này, trong số đó có một người tên
là Piṅgiya, đã được Đức Phật cảm hóa, trở về vùng Auraṅgabad và
lập ở đó một trong những cộng đồng Phật giáo đầu tiên. Kinh Theragth ghi
lại sự kiện ba theras, 'trưởng lão', từ vùng Maharashtra
tới: ông Puñña đến từ Sopara và sau khi được Đức Phật cảm hóa tại Śrāvastī, ông
đã trở về quê mình và thiết lập một cộng đồng tại đây. Ông đã giúp cải hóa một
người tên là Isidinna ở miền Nam Konkan, rồi còn có một người thứ ba tên là Vaḍḍha, cũng
được Đức Phật cảm hóa, và là người ở vùng Broach. Có vẻ như cả ba người này đều
là những thương gia, điều này chứng tỏ giới thương gia thời đó đã hỗ trợ công
việc hoằng pháp của Đức Phật rất nhiều. Hình ảnh này về những cuộc tiếp xúc lẻ
tẻ ở miền Đông Ấn Độ, bên ngoài "quê hương" của Phật giáo, chắc chắn
cũng là sự thật ở những vùng xa xôi khác.
Sinh thời, Đức Phật đã huấn
luyện được hàng loạt những môn đệ lỗi lạc và tính cách của họ được kể lại trong
các sách kinh. Đó là Kauṇḍinya, người đầu tiên trong năm
tỳ khưu khổ hạnh được Giác ngộ; Śriputra, chuyên gia về Giáo pháp, và bạn của
Ngài, Maudgalyāyāna, người có nhiều phép thần thông; Ānanda, em họ của
Đức Phật trong gần 30 năm, và là nhân chứng cho phần lớn lời giảng dạy của Đức
Phật trong thời gian đó; Upli, chuyên gia về những vấn đề liên quan tới
"quy luật" của Tăng Già, và Aṅguliml,
người thực hiện việc canh tân các kinh điển tantra (43). Cũng
có các Tỳ khưu nữ, bắt đầu là bà Mahprajpatỵ, người dì và mẹ nuôi của Đức Phật,
chính bà đã phải nài xin với Đức Phật và phải nhờ Ngài Ānanda nói hộ để được
phép gia nhập cộng đồng những người khất sĩ (44). Các thành viên trong gia đình
của Đức Phật cũng theo Ngài gia nhập cộng đồng Tăng Già, gồm con của Ngài,
Rāhula, và cha của Đức Phật tên là Śuddhodana đều đã trở thành những A La Hán.
Nhìn chung, theo các chứng cứ của các tài liệu cổ xưa, phần lớn Tăng Già đều
xuất thân từ giới Bà La Môn và chiến binh, tuy cũng hiển nhiên là mọi thành
phần đều có thể gia nhập giới này, và chính Đức Phật đã đặc biệt gạt bỏ mọi sự
phân biệt giai cấp trên bình diện tinh thần, và Ngài cho rằng sự cao cả đích
thực là do tuệ giác và hành vi đạo đức chứ không phải do gốc gác lý lịch (45).
Đức Phật cũng đã lôi kéo được
nhiều môn đệ sống tại gia, những người này mến mộ lời giảng và con người của
Đức Phật nhưng không thể hay không muốn chấp nhận nếp sống vô gia cư. Các kinh
thường mô tả cảnh Đức Phật giảng dạy cho những hạng người này (gồm cả cha của
Ngài ), vḍ. kinh Sigālovāda Sutta (46), và nhiều
người, như thương gia Anāthapiṇḍada, đã trở thành những người
bảo trợ quảng đại cho Tăng Già, họ dâng cúng đất đai và tu viện cho Tăng Già sử
dụng (47). Thường
những môn đệ tại gia được khuyến khích nâng đỡ vật chất cho giới xuất gia, nếu
chính bản thân họ không thể gia nhập giới này, và có những tài liệu cho thấy
rằng giới tại gia này không được nghe giảng đầy đủ toàn bộ Giáo pháp (48), nhưng
vẫn có những người tại gia, như Ugra, tuy không gia nhập cộng đồng xuất gia,
nhưng đã sống một đời sống tuyệt đối theo Tam Bảo - giữ giới luật, và giảng dạy
Giáo pháp (49).
Các sự tích như chuyện Đức Phật
đi thăm một môn đệ tên là Soṇa cho thấy Ngài thương yêu và
quan tâm đến các môn đệ nhiều thế nào, và cũng bộc lộ rằng, ngay từ sinh thời
của Ngài, đã có những cá nhân học thuộc lòng các đoạn giảng dạy ngắn của Ngài.
Khi được Đức Phật yêu cầu, môn đệ Soṇa đã đọc
thuộc lòng đoạn "Bát" nay là quyển bốn của kinh Sutta Nipta (50). Cả khi
thầy đã qua đời, các môn đệ vẫn đáp lại Ngài với lòng tin yêu sâu xa, như môn
đệ đáng kính Piṅgiya đã làm chứng.
Chính con thấy vị ấy
Với tâm ý thanh tịnh
Ngày đêm không phóng túng
Bà La Môn đáng kính
Con trải qua suốt đêm
Hạ mình lễ vị ấy
Do đó con nghĩ rằng
Con không xa vị ấy. (51)
6
CÁC ĐẠI HỘI
Trong khi cộng đồng Tăng
già Nguyên thủy đã sớm thiết lập ngay từ đầu những cuộc hội họp định kỳ hằng
tháng gọi là uposatha, nhằm mục đích duy trì sự đoàn kết và điều hành
đời sống của cộng đồng, thì trong suốt thời gian bốn tới năm trăm năm đầu của
họ, cũng còn có những cuộc hội họp lớn hơn gọi là những Đại hội, để thảo luận
và làm sáng tỏ những vấn đề có tầm mức quan trọng hơn. Các truyền thống đưa ra
những con số khác nhau về các lần Đại hội này, và nhiều tư tưởng ngày nay về
các Đại hội này đều dựa vào những mô tả của tông phái Theravdin bảo thủ.
Đại Hội Thứ Nhất
Người ta cho rằng Đại hội thứ
nhất đã diễn ra ngay sau khi Phật nhập Niết bàn, được thuật lại như sau: Sau
khi Phật qua đời, các môn đệ của Ngài dần dần bắt đầu quy tụ lại, trong số đó
có Kśyapa. Các môn đệ đã Giác ngộ thì hiểu rằng mọi sự là vô thường, trong khi
các môn đệ chưa giác ngộ thì than khóc về sự viên tịch của Bhagavan, Đức Thế
Tôn. Thế nhưng, một tỳ khưu tên là Subhadra lại tỏ ra thoải mái vì từ nay anh
và những người khác không còn phải gò bó vì những lời giảng dạy của Phật nữa.
Đáp lại thái độ này, Kśyapa đề nghị mọi người hội lại để đọc những lời giảng và
kỷ cương của Phật, cùng Giáo pháp (Dharma) và Luật (Vinaya) của Ngài. Kāśyapa
cũng được đề cử chọn những người tham dự Đại hội, và Ngài đã lên một danh sách
gồm 499 vị A La Hán. Có người đề nghị cho Ngài Ānanda tham dự, vì tuy Ngài
không phải một A La Hán, nhưng từng là bạn đồng hành lâu năm của Đức Phật, và
đề nghị này đã được chấp nhận. Đại hội được tổ chức vào mùa an cư kiết hạ, và
bắt đầu bằng việc Kāśyapa hỏi hai người tham dự là Upāli và Ānanda, một người
về những giới luật, còn người kia về các bài giảng. Upāli, trước đây là một thợ
cạo, nên biết rất rõ các quy luật về việc thụ giới và giới bổn prātimokṣa, vì ông
có nhiệm vụ cạo đầu cho những người sắp sửa thụ giới. Còn Ānanda, vì có diễm
phúc là bạn đồng hành của Phật trong 30 năm, nên tất nhiên có thẩm quyền trong
việc xác định lời giảng nào là do chính Đức Phật đã nói. Một chi tiết thú vị
được ghi lại, đó là Purāṇa, thầy dạy khoảng 500 môn đệ,
nhưng lại mãi đến cuối thời gian Đại hội mới đến. Khi ông được yêu cầu tham dự
và ký tên vào kết quả của Đại hội, ông đã từ chối, viện cớ ông có thể nhớ những
lời giảng của Phật khá đủ cho chính mình (52).
Đại hội thứ nhất này quan trọng
vì nó cho thấy Tăng Già thời kỳ đầu đang cố gắng tổ chức cộng đồng của mình,
tạo nên diện mạo riêng và tính liên tục của nó, với một tập hợp xác định các
lời giảng dạy và giới điều, Giáo pháp riêng (Dharma) và Luật riêng (Vinaya);
(xem chi tiết ở chương 9). Cách riêng, trường hợp của Subhadra trên
đây gợi ra nhu cầu thống nhất Tăng Già dựa trên một cơ sở khác hơn là uy tín cá
nhân của Đức Phật. Nó cũng gợi ý rằng Rājagqha là một trung tâm quan trọng của
Tăng Già, vì tại đây tập trung một số lớn các môn đệ của Đức Phật và có khá đủ
điều kiện về ăn ở cho một Đại hội đông người như thế. Tuy nhiên, vẫn còn một
nghi ngờ lớn, liệu một Đại hội quy mô lớn như thế đã có thể diễn ra trong thời
gian và không gian như được mô tả hay không; vì Rājagqha cách xa Kuśinagarī
khoảng 500 kilômét. Hơn nữa, ta thấy khá rõ rằng nhiều phần của sưu tập các bài
giảng và các quy luật tu viện (Sūtra và Vinaya Piṭaka) như
chúng ta có hiện nay thuộc về một thời đại muộn hơn thời kỳ đó rất nhiều. Điều
chắc chắn hơn là một số đông các môn đệ của Đức Phật đã quy tụ lại, và đã có
một số cố gắng để thu thập lại những lời giảng của Ngài, có lẽ đã được sắp xếp
theo văn phong và nội dung của họ, và họ đã đọc chung với nhau một hình thức
nào đó của giới bổn prātimokṣa, có thể
giống như được mô tả ở chương trước. Sau cùng, sự kiện liên quan tới thầy Purāṇa cho
thấy rõ cũng có người đã quyết định không tham gia vào những hoạt động thiết
lập quy chế này, và không chấp nhận chúng. Việc Purāṇa không
bị trách cứ là một bằng chứng cho thấy mọi người coi thái độ của ông là hợp
pháp.
Đại Hội Thứ Hai
Các truyền thống liên quan tới
Đại hội thứ hai thì hỗn tạp và mơ hồ. Thực tế có vẻ như đã có hai cuộc hội nghị
cách xa nhau một thời kỳ xấp xỉ bốn mươi năm, và tuy người ta nhất trí nhìn
nhận rằng kết quả chung đã dẫn đến cuộc li khai đầu tiên trong Tăng Già, giữa
phái Sthaviravāda và Mahāsaṅgha, nhưng người ta không hoàn
toàn hiểu rõ được nguyên nhân của cuộc li khai này là gì.
Theo truyền thống Phật giáo
Nguyên thủy, Đại hội thứ nhất trong hai Đại hội này đã diễn ra tại Vaiśālī,
khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn. Ngày nay người ta biết rằng con
số 100 là một con số tròn rất thích hợp để mô tả một thời kỳ dài, và có lẽ chắc
hơn Đại hội này đã diễn ra khoảng 60 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, tức là
năm 345 trước CN. Nó liên quan tới lời cáo buộc rằng một Tỳ khưu nào đó ở
Vaiśālī đã cho phép thực hành mười điều không được phép trong cộng đồng của họ,
dẫn tới những vi phạm một số các quy luật nhỏ của Vinaya, hay các luật về hành
vi, như việc sử dụng tiền bạc, ăn sau giờ Ngọ, và không tuân giữ một số luật
liên quan tới sự phân biệt giữa các bậc thụ giới nikāyas. Đại hội được
triệu tập, người ta yêu cầu trưởng lão Sarvagāmin (một môn đệ của Ānanda) tuyên
phán quyết có thẩm quyền về mười điểm vi phạm trên, Ngài đã lên án Chư vị phạm giới, sau đó Đại hội bế mạc.
Hội nghị thứ hai của thời kỳ
này, tuy không được ghi lại trong sử sách của Phật giáo Nguyên thủy như một Đại
hội, đã diễn ra tại Pāṭaliputra khoảng 37 năm sau đó,
và liên quan tới những lời giảng dạy của một Tỳ khưu tên là Mahādeva. Tỳ khưu
này chủ trương năm luận đề liên quan tới A La Hán, đó là A La Hán có thể bị cám
dỗ, có thể còn một số điều ngu dốt, có những nghi ngờ, cũng phải học hỏi nơi
người khác, và nhập được Đạo siêu sắc giới bằng một lời cảm thán như
"Khổ!" hay cũng có thể lìa xa Đạo (53). Những luận đề này bị một số
người đối lập cho là hạ giá bậc A La Hán. Vua của Magadha là Mahāpadma Nanda
được yêu cầu triệu tập một Đại hội để làm sáng tỏ lập trường, nhưng vì vua
không có uy tín hay thẩm quyền về giáo lý, ông đã quyết định phân xử bằng cách
tính theo số người của mỗi phía, phía nào đông thì được. Vua thấy số người ủng
hộ Mahādeva đông hơn. Phe này tự đặt tên cho mình là Mahāsaṅgha,
"Đại Tăng Giới", còn phe kia tự gọi mình là Sthaviras, "Trưởng
lão", cho mình là trung thành với lời dạy "nguyên thủy" của Đức
Phật, và họ tố cáo phe kia là xuyên tạc lời dạy nguyên thủy này (54).
Các Đại Hội Khác
Lịch sử còn ghi nhận thêm hai
Đại hội nữa trong hai thế kỷ tiếp theo, nhưng vì những Đại hội này rất ít quan
trọng đối với lịch sử toàn thể của Tăng Già, nên sẽ được bàn tới sau này khi
nói về các vua Aśoka và Kaniṣka, là những người bảo trợ cho
hai Đại hội đó.
7
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TĂNG GIÀ
(cho tới TK I trước CN)
Tổ Chức Của Tăng Già
Chương 5 đã mô tả Tăng Già
như một tập hợp những người khất sĩ (parivrājakas) đi lang thang khắp
các vùng đồi núi và thành phố ở Magadha, Kośala, và xa hơn nữa, những người này
hằng năm thường quy tụ lại với nhau để tụng kinh và suy niệm vào mùa mưa, là
thời gian không thể đi lại được nhiều. Dần dần, vào những thế kỷ tiếp theo,
hình ảnh này đã bắt đầu thay đổi. Do ảnh hưởng của những cuộc tĩnh tâm thường
kỳ này và của số đất đai và trú xứ mà những thí chủ giàu có dâng cúng, cộng đồng
ngày càng có khuynh hướng định cư hơn. Một giai đoạn trung gian đã đạt tới khi
hầu hết các Tỳ khưu đi lang thang vào mùa xuân và mùa hạ nhưng trở về lại cùng
một nơi ở vào mỗi mùa mưa. Cuối cùng, nhiều người không còn đi lang thang nữa,
nhưng đã định cư ở một nơi ở duy nhất. Hiển nhiên vẫn còn nhiều người tiếp tục
thực hành nếp sống khất sĩ, nhưng hình như vào cuối thế kỷ I sau Đức Phật, nếp
sống trung bình của các Tỳ khưu không phải là du hóa mà là định cư. Từ thời kỳ
này, có thể mô tả nếp sống của Tăng Già là nếp sống 'tu trì'. Cũng từ thời kỳ
này mà Bộ giới luật Vinaya, một tổng hợp các lề luật và quy chế, bắt đầu phát
triển. Một lý do nữa để tăng thêm sự nhấn mạnh vào cộng đồng tu mới này là nó
biểu trưng cho cơ chế chính để bảo tồn bằng việc đọc to tiếng các lời dạy của
Phật (sau này trở thành Tạng Piṭaka). Những tín đồ tại gia không
có cơ chế tập thể như thế để bảo tồn Giáo pháp. Trong khi trước đây các Tỳ khưu
khi đi lang thang vùng đồng quê đã đến với những tín đồ này và chia sẻ Giáo
pháp với họ, thì tình hình bây giờ đã thay đổi, và vì thế những tín đồ tại gia,
nếu muốn nghe giảng lời của Phật, thì phải đi đến một tu viện và ở đó một Tỳ
khưu sẽ có thể đọc lời của Phật cho họ.
Tình trạng ổn cư này làm phát
sinh những Tăng Già tách biệt theo vị trí địa dư. Nguyên tắc cốt tủy của sự
phát triển này là mọi hành động của Tăng Già theo lý tưởng là phải được thực
hiện trong sự hiệp nhất. Thế nhưng không tránh được những tranh cãi và bất
đồng, và vì số lượng Tỳ khưu tối thiểu cho một Tăng đoàn Tăng Già hợp pháp là 4
vị, nên hễ có từ 4 Tỳ khưu trở lên cùng đồng ý với nhau về một điểm gây tranh
cãi nào, họ có thể tách ra để lập thành một Tăng Già riêng và trở thành độc lập
về pháp hay luật. Kết quả là họ có thể tổ chức những cuộc hội họp upavasatha
riêng. Một khi xảy ra sự phân tách này, họ không còn cùng cộng tác cho
những mục đích thụ giới, với hậu quả là có sự phát sinh những dòng thụ giới
tách biệt. Những Tăng Già địa phương mới này, gọi là nikāyas, trở thành
một đặc tính vô cùng quan trọng của cộng đồng tu trì, và người ta chú ý rất
nhiều về những ranh giới (sỵm) để xác định từng nikāyas, và để
xác định ai sẽ có thể nhìn nhận hay không nhìn nhận việc thụ giới của một người
khác, và ai có thể hay không có thể sử dụng một nơi cư ngụ nhất định nào. Không
hẳn mọi sự tách biệt này đều là kết quả của các trường hợp bất đồng ý kiến, vì
sau một thời gian, sự xa cách về địa dư tất nhiên cũng đã làm cho các cuộc hội
họp không thể hoặc rất khó thực hiện, và đây có thể là yếu tố chính thúc đẩy
việc cổ võ phát triển những nikāyas mới.
Ngoài việc bộ luật Vinaya ngày
càng trở nên phức tạp hơn, vì nó phải bao gồm nhiều chi tiết mới của đời sống
tu trì, những thế kỷ đầu tiên này đã chứng kiến việc áp dụng một thủ tục thụ
giới mới, theo đó lối thực hành cũ bằng việc chấp nhận một người qua việc họ
tuyên bố thực hành Tam Bảo được thay thế bằng một nghi thức mới bao gồm ba lời
yêu cầu được chấp nhận vào Giáo hội, kèm theo những câu chất vấn chi tiết để
bảo đảm người xin gia nhập không vướng mắc một trở ngại nào, kể cả bệnh tật hay
nghĩa vụ quân sự
(55). Thời kỳ này cũng chứng kiến việc phát triển nghi lễ
bố-tát upavasatha là nghi lễ tụng đọc các giới bổn prātimokṣa (56), sau khi
đã đọc lời thú tội công khai, thay cho việc thực hành có tính cách cá nhân hơn
và thực tiễn hơn của thời Đức Phật (57). Người ta cũng bắt đầu nhấn
mạnh nghi lễ kaṭhina, hay nghi
lễ dâng y, vào cuối mùa an cư. Trong nghi lễ này, những tín đồ ngoài đời sẽ
dâng cúng cho các Tỳ khưu quà, đặc biệt là vải vóc để may áo mới. Việc thực
hành đạo của người thế tục ngày càng được hạn chế vào việc thực hành công đức,
chủ yếu bằng việc dâng cúng (dāna) cho các Tỳ khưu.
Trú Xứ Của Tăng Già
Thời kỳ này cũng chứng kiến sự
phát triển đáng kể về việc xây dựng trú xứ của các Tỳ khưu. Nhìn chung có sự
gia tăng về kích thước của các āvāsas (khu cư trú do chính các Tỳ khưu
tự làm lấy cho mình, và việc này được quy định ở luật Vinaya īi), và
những (aramas) khu cư trú do các tín đồ Phật tử xây dựng cho Tăng Già,
thường ở gần các thành phố và làng mạc để dễ cho việc khất thực. Bên trong
những āvāsas hay ārāmas có dựng một căn lều gọi là vihāra, tuy
sau này vihāra được dùng để chỉ toàn thể khu cư trú. Một trong số các aramas
đầu tiên được xây dựng ở gần Rājagqha, trong khu rừng xoài Jīvaka, khu vườn
đó được Kinh Pali ghi nhận là được dâng cúng vào thời Đức Phật. Các tra cứu
khảo cổ học đã phát hiện những di tích của các khu sinh hoạt, một hội trường
(để giảng dạy và tụng đọc prātimokṣa) và một
lối đi. Không có dấu hiệu nào cho thấy có những điện Phật vào thời kỳ đầu. Các
kiến trúc thời sau, từ khoảng thế kỷ II trước CN., bao gồm các liên thất để đặt
một caitya hay tháp (stūpa) bằng đá hay gạch, chung quanh có một
lối đi để đi đi lại lại. Hình như đây là kiến trúc tiêu chuẩn cho một điện thờ
hay Phật đường.
Một khu vực các tăng già phát triển
đáng kể vào thời điểm nay chính là Miền Tây Ấn độ, và nơi qui tụ các đầu mối
giao thông buôn bán nhộn nhịp. Và cũng tại nơi đây các thương gia đạo hữu đã
giúp truyền bá và hỗ trợ Phật giáo rất đắc lực. Vào năm 200 trước CN rất nhiều
tập thể Phật giáo đã được thiết lập tại Maharashtra, và giữa thế kỷ thứ hai
trước CN và thế kỷ thứ hai sau CN, một số khoảng bốn mươi lăm nơi ở được xây
cất tại các hang động đá (lena) đã được chuyển tới Miền Tây Ghats. Hang động
tiên khởi thuộc loại này đã được thiết lập tại Bhja, (58) trước
những năm 200 trước CN và một hang động lớn nhất đã được thiết lập tại Karle,
Vào những năm 300 trước CN, Đạo Phật đã lan rộng tới miền Trung Ấn Độ và vùng
Deccan, Nagpur là một vị trí có một cộng thể Phật giáo quan trọng đầu tiên vào thời
đó.
Những Phát Triển Về Việc Hành Đạo
Thời kỳ này cũng có sự phát
triển về việc thờ cúng Xá Lợi Phật, đặt trong các bảo tháp (stūpa), hay
những gò mộ, ở tất cả những địa danh chính liên quan tới các sự kiện trong đời
sống của Ngài - Khu vườn Lumbinī ở Kapilavastu, nơi Phật sinh ra; Cây Bồ đề ở
Gaya, nơi Ngài Giác ngộ; Công viên Nai ở Isipatana, gần Vārāṇasi, nơi
Ngài hoằng pháp lần đầu tiên; và khu rừng gần Kuśinagara, nơi Ngài qua đời. Tất
cả những nơi này đã trở thành những địa điểm hành hương. Tại những nơi này
thường mọc lên những tu viện, và Tỳ khưu sống trong những tu viện này thường lo
trông coi các tháp. Nhưng việc thờ cúng tại tháp này không chỉ giới hạn cho các
tín đồ ngoài đời - các luật (Vinaya) của mọi trường phái, ngoại trừ phái
Nguyên thủy Theravāda, có những luật quy định việc thờ cúng ở các tháp cho các
Tỳ khưu (59). Việc
thờ cúng này bao gồm việc trang hoàng và đi vòng quanh khu vực, và việc dâng
cúng tặng vật để bảo trì các khu vực thờ cúng này.
Cũng có bằng chứng cho thấy có
việc dâng hoa cho Phật, cũng như việc xây dựng các kuṭīs, hay lều
theo kiểu gandhakuṭī, lều ở
của Phật tại Śrāvastī (60), như là một nghi lễ cầu Phật và nhắc nhở sự hiện
diện của Ngài … Về sau từ gandhakuṭī được
dùng để chỉ Phật đường trong một vihāra trong đó có để ảnh tượng Phật.
Việc tụng đọc hay hát chung các thánh ca để ca tụng Phật cũng là một đặc trưng
quan trọng trong thời kỳ này, và có liên quan mật thiết với việc thực hành niệm
Phật (buddhānusmqti), rất có thể được phản ánh trong những bài thánh ca
của Mātqceṭa (thế kỷ II CN.).
Những Ảnh Hưởng Chính Trị – Sự Bảo Trợ Và Việc
Ngược Đãi Của Nhà Nước
Tuy Phật giáo nhận được sự bảo
trợ của các vị vua vào thời của Phật và cả thời sau đó, từ những nhân vật như
Bimbisāra và Mahāpadma Nanda, nhưng sự phát triển Giáo pháp chỉ đạt được những
bước tiến khiêm tốn trong thế kỷ đầu tiên sau khi Phật niết bàn, và sự phát
triển này chủ yếu vẫn còn ở phạm vi địa phương cho tới giữa thế kỷ IV trước CN.
Sự gia tăng dần dần về quyền lực và ảnh hưởng của các chế độ quân chủ ở lưu vực
sông Hằng đã đạt đến cao điểm ở sự bá chủ hầu như hoàn toàn của vương quốc Magadha trong
vùng. Sau đó, vương quốc này tạo thành một lãnh thổ trung tâm đặt dưới sự cai
trị của một triều đại đế quốc bắt đầu bằng quyền thống trị của Candragupta
Maurya, khoảng 322 trước CN. Vị hoàng đế thứ ba của dòng vua này là Aśoka
(269-232 trước CN.) lúc đầu tỏ ra là một ông vua hiếu chiến và bành trướng,
nhưng đã được cải hóa thành một Phật tử sau khi ông chứng kiến những cảnh kinh
hoàng do chiến dịch chinh phục Kaliṅga của
chính ông. Từ đó về sau, ông chỉ chuyên chăm vào chiến dịch "chinh phục
bằng Phật pháp", từ bỏ việc sử dụng mọi vũ lực, chọn chính sách bao dung
tôn giáo hoàn toàn, và bắt đầu tìm cách cải thiện đời sống của dân ông, lúc bấy
giờ trải khắp phần lớn bán lục địa Ấn Độ.
Câu chuyện độc đáo này được kể
lại từ những chỉ dụ của vua, được khắc trên những bia đá và những cột kỷ niệm
tại những nơi công cộng trên khắp lãnh thổ của ông, và chỉ được khám phá và
giải mã từ thế kỷ XIX. Địa vị quan trọng của ông vua này đối với truyền thống
Phật giáo được phản ánh trong rất nhiều câu chuyện về ông trong phần lớn các
kinh điển của Phật giáo, mà nổi tiếng nhất là Aśokāvadāna, và vaỵsa, hay
Biên niên sử của Sri Lanka. Aśoka có liên quan tới nhiều cuộc phát triển lịch
sử có tầm quan trọng lớn trong lịch sử Phật giáo. Ông đã gửi những đoàn truyền
đạo Phật giáo tới nhiều nước ngoài để chứng tỏ ông đã được Phật pháp chinh
phục. Nổi tiếng nhất là đoàn truyền đạo do Mahinda con ông cầm đầu tới Sri Lanka, nhưng còn có các đoàn khác được gửi
tới miền Bắc Kanara, Karṇaṭaka, Kashmir, vùng Hi Mã Lạp Sơn, và Miến Điện. Trước đó chỉ
có tính chất địa phương, nay Phật giáo trở thành một tôn giáo quốc tế, và mặc
dù một số những phái đoàn này có vẻ không đạt được điều gì, nhưng chúng đã tạo
nên một sự khởi phát cho việc bành trướng của Phật giáo dẫn đến những kết quả
lâu dài và sâu rộng. Một số đoàn truyền giáo được gửi tới các vuơng quốc Hi Lạp
Bactria (di sản của các cuộc chinh phục của Alexandre trong các năm 327-325
trước CN., nay là một phần của Afghanistan), và chính từ khung cảnh này đã phát
sinh tác phẩm nổi tiếng Milinda Pañha, (Các Câu Hỏi của Vua Milinda),
ghi lại những cuộc đối thoại giữa một vua Hi Lạp Menander là người cai trị vào
giữa thế kỷ II trước CN., với một vị thầy Phật giáo, Nāgasena (Tỳ khưu Na
Tiên). Việc soạn tác có thể là vào ngưỡng cửa của thiên niên kỷ.
Aśoka cũng được kể là có công
xây dựng 84 ngàn tháp và con số này tuy rõ ràng là cường điệu, nhưng thực tế
ông đã tạo đà thúc đẩy lớn trong việc xây dựng những đền đài tại những nơi liên
quan tới những sự kiện lịch sử hay truyền thuyết của đời sống Đức Phật và của
những vị Phật thời trước ông. Sau cùng, ông có vai trò lớn trong Đại hội Phật
giáo lần thứ ba, tổ chức tại Pāṭaliputra, khoảng năm 250 trước
CN. Động cơ trực tiếp của Đại hội này là nguy cơ làm suy yếu Tăng Già tại Pāṭaliputra
do việc cho gia nhập những người ngoại đạo vào Dòng thụ giới. Vì vậy Aśoka đã
lãnh trách nhiệm thanh tẩy Tăng Già này, và mời một trưởng lão tên là
Moggaliputta Tissa để triệu tập một Đại hội. Một ngàn nhà sư đã đến dự Đại hội,
cùng bác bỏ và trục xuất những thành phần vi phạm. Những lý luận bác bỏ các
quan điểm đã được ghi lại, và tạo thành nòng cốt của bộ kinh sau này gọi là Kathāvatthu,
(Các Điểm Tranh Cãi), ngày nay có ở trong Vi Diệu Pháp của truyền
thống Nguyên thủy. Tuy các người theo phái Theravāda sau này cho rằng đây là
một Đại hội toàn nước Ấn Độ tại đó phái Theravāda bác bỏ tất cả những quan điểm
Phật giáo đối lập, và họ cũng nhận được sự ủng hộ trực tiếp của vua Aśoka, nhưng
hiển nhiên không phải vậy. Từ những tài liệu do chính vua Aśoka để lại trong
các chỉ dụ của ông, các nhà sử học đã kết luận rằng Đại hội được triệu tập để
giải quyết một vấn đề địa phương, liên quan tới Tăng Già ở Pāṭaliputra,
và vua Aśoka không quan tâm tới việc bênh vực một trường phái chống lại những
trường phái khác, mà chỉ muốn giải quyết một tình hình đang làm cho Tăng Già
phải mang tai mang tiếng (61). Sách Aśokāvadāna cũng kể lại rằng vào cuối
đời, khi vua Aśoka lâm trọng bệnh, vua đã di chúc lại cho Tăng Già hầu hết của
cải của nước và của riêng ông. Lo sợ xảy ra thảm hoạ kinh tế, các quan cận thần
không cho vua vào kho bạc và truất quyền của vua.
Sau khi vua Aśoka mất, vương
quốc Maurya sụp đổ và Phật giáo rơi vào một thời kỳ bị ngược đãi dưới triều đại
Puṣyamitra Śuṅga. Tuy nhiên, nhìn chung toàn
thể thời kỳ này (188-175 trước CN.), người ta vẫn thấy có sự nở rộ các trường
phái nghệ thuật điêu khắc Phật giáo ở Sañchi, Amarāvati, Bodh Gaya, và các nơi
khác, liên quan tới các tháp thờ tại đây. Trong thế kỷ trước, người ta vẫn nghĩ
rằng vào thời kỳ đầu không ai vẽ hình ảnh thật của Phật, mà chỉ có những biểu
tượng về sự hiện diện của Ngài như một bánh xe Giáo pháp (dharma-cakra), một
cái ngai, một cái lọng, hay một dấu chân. Nhưng gần đây hơn, người ta lại gợi ý
rằng những hình ảnh đó nên được hiểu theo nghĩa trực tiếp của nó, và lối giải
thích biểu tượng trước kia (không có cơ sở giáo lý) (62) mâu
thuẫn với những bằng chứng hiển nhiên. Các đề tài điêu khắc được ưa thích đều
lấy từ những câu chuyện trong tiền thân kể về cuộc đời tại thế của Đức Phật (Jātakas).
Một vị vua thứ hai nổi tiếng bảo
trợ cho Phật giáo là Kaniṣka (thế kỷ I tới II CN.). Vua
Kaniṣka là vị vua thứ ba thuộc dòng những kị sĩ của Trung Á đã
xâm chiếm miền Tây Bắc Ấn Độ vào đầu thế kỷ I CN. Ông cai trị một vương quốc
nhỏ bé bao gồm một vùng rộng ở phía Bắc và Tây Bắc Ấn Độ, gồm Sindh, Rajasthan,
Malwa, bán lục địa Kathiawar, và Mathurā, và tự hào có một triều đình giàu có
và thuộc nhiều chủng tộc. Tuy tâm tính rất thích hợp với Phật giáo, nhưng ông
không bao giờ theo chính sách từ bỏ vũ lực, và đã kéo dài một chuỗi những cuộc
tàn sát đẫm máu, vì thế ông bị người ta căm ghét. Nhưng ông cũng đã xây dựng tu
viện lớn ở Peshawar, và cống hiến nhiều tiền của cho các công trình xây dựng
khác, và nổi tiếng trong các truyền thống Phật giáo của Bắc Ấn Độ như một vị
bảo trợ lớn cho Giáo pháp. Đại hội Phật giáo lần thứ tư diễn ra ở Kashmir dưới sự bảo trợ của ông. Tại Đại hội này, 499 vị
sư Sarvāsitvādin hội họp lại để soạn thảo một kinh điển mới, và hệ thống hóa
những học thuyết của trường phái thành một bộ Luận đồ sộ gọi là Mahāvibhāṣa (Đại
Tỳ-bà-sa). Người ta nói thi sĩ Aśvaghoṣa đã làm
việc tại triều đình của vua Kaniṣka. Ông
là tác giả của Buddhacarita (Phật Sở Hành Tán Ca), một tác
phẩm viết về tiểu sử Đức Phật bằng thơ, cuốn Saundarananda, một thi phẩm
mô tả cuộc trở lại của Nanda, người em cùng cha khác mẹ với Đức Phật, và cũng
là tác giả của ít là một vở kịch. Cũng làm việc tại cung điện của vua còn có
thầy Saṅgharakṣa, tác
giả của một tác phẩm tên là Yogācārabhūmi, phản ánh những việc thực hành
của các trường phái thiền phát triển vào thời kỳ này ở Kashmir và Trung Á.
Sau cùng, cũng phải nhắc tới
triều đại Śātavāhana, nổi lên như một thế lực lớn ở vùng Deccan
sau khi đế quốc Mauryan sụp đổ. Đất bản gốc của triều đại này hình như nằm ở
Āndhra, giữa hai con sông Krishna và Godavarī ở Nam Ấn Độ, sau đó nó đã bành
trướng rất nhanh về hướng Tây và hướng Bắc, nhưng rồi bị thu nhỏ lại trong một
thời kỳ và cuối cùng đã suy tàn vào giữa thế kỷ III CN.. Triều đại này được ghi
nhớ là đã bảo trợ một cộng đồng Phật giáo rất phồn thịnh mà chúng ta có thể
thấy được cao điểm của nó nhờ những di tích ở Amarāvati và Nāgārjunakoṇḍa.
Hsuan-tsang người Trung Quốc khi đi hành hương tại đây đã đếm được 20 tu viện
tại đây, với ba ngàn Tỳ khưu. Vùng này cũng nổi tiếng vì là quê hương của
Nāgārjuna, người đã viết một lá thư còn được lưu trữ đến nay có tên là Suhqllekhā
để cố vấn cho một vị vua Śātavāhana đương thời. Người ta cũng biết rằng
địa danh Āndhra từng có liên hệ quan trọng với Miến Điện và từng là một nguồn
đưa Phật giáo vào Miến Điện.
8
CÁC TRƯỜNG PHÁI PHẬT GIÁO
Chương trước đã bàn về
nguồn gốc của cuộc li khai đầu tiên trong Tăng Già Phật giáo, giữa hai trường
phái Sthaviravādin và Mahāsaṅghika. Đây là
cuộc li khai đầu tiên trong một chuỗi các cuộc li khai khác, từ đó phát sinh
những trường phái khác nhau. Truyền thống Phật giáo ghi nhận có 18 trường phái
không thuộc Đại Thừa, tuy chúng ta biết có đến hơn 30 tên của các trường phái
khác nhau, hơn nữa hình ảnh thật thế nào chúng ta cũng không được biết rõ. Một
phần sự mơ hồ này là do chúng ta không hiểu rõ bản chất của những trường phái
khác nhau này. Trong thực tế có ba loại trường phái Phật giáo khác nhau rõ rệt,
được phân biệt dựa vào chức năng riêng của mỗi trường phái. Một là các nikāyas,
nghĩa là các cộng đồng Tăng Già địa phương, dựa trên những khác biệt về
giới luật (Vinaya) như giữa hai trường phái Sthaviravādin và Mahāsaṅghika; hai là
các vādas (học thuyết) khác nhau, dựa trên những khác biệt về giáo lý;
và ba là các "trường phái triết học", mặc dù không có truyền thống
nào dùng thuật ngữ này, và về cơ bản thì các trường phái triết học là những
biến thể của các trường phái về học thuyết (63).
Bối Cảnh Việc Hình Thành Các Trường Phái Phật Giáo
* Khác Biệt Về Luật
Để hiểu các trường phái đã hình
thành như thế nào, chúng ta phải xét đến một số các vấn đề liên hệ. Chúng ta
phải nhớ rằng nền văn hóa Ấn Độ nhấn mạnh vào điều được gọi là "thực hành
chính thống" hơn là "lý thuyết chính thống". Vì vậy bản chất và
tính liên tục của các tổ chức tôn giáo ở Ấn Độ có khuynh hướng được thiết lập
dựa trên sự liên tục của việc thực hành và hành vi cư xử hơn là dựa trên sự phù
hợp của các ý tưởng. Lập trường chung này cũng áp dụng cho Phật giáo, vì các
cuộc li khai, gọi là saṅghabheda,
luôn luôn phát sinh từ việc thực hành những luật cư xử và những giới
luật khác nhau, hơn là từ những cách cắt nghĩa khác nhau về giáo lý.
Tạo sự li khai bị coi là một
trong sáu trọng tội, trong đó có việc làm hại một vị Phật và giết cha hay mẹ,
và vì vậy điều này nói lên mối quan tâm rất lớn trong Tăng Già nhằm bảo vệ mình
khỏi sự chia rẽ đau đớn và có thể dẫn tới chỗ tan vỡ. Tất nhiên, không phải mọi
cuộc li khai đều là cố ý hay phát sinh từ sự thù nghịch, và có vẻ như sự xa
cách về địa dư do các hoạt động truyền đạo trong thời vua Aśoka đã đóng một vai
trò quan trọng trong việc phát sinh các khác biệt về việc thực hành giới Bổn (prātimokṣas) trong
nhiều cuộc hội họp khác nhau (64). Kết quả của tất cả những yếu
tố này có thể thấy qua bảy lần tu chỉnh giới luật (Vinaya) mà chúng ta
còn giữ được cho tới ngày nay. Xét về cơ bản, bộ luật này vẫn còn cho thấy sự
trung thành với năm hay mười giới luật, còn những khác biệt có trong những bộ
luật khác nhau mà đã làm phát sinh những cuộc li khai (saṅghabheda)
thì phần lớn đều xoay quanh những vấn đề không mấy quan trọng. Những
sự thay đổi nho nhỏ thuộc loại này đã là nguồn gốc phát sinh những khác biệt
giữa các trường phái, chẳng hạn về màu sắc y phục của các tỳ khưu thuộc các
phái Theravāda, Tây Tạng, và Thiền, hay về cách mặc những y phục này. Sự khác
biệt lớn nhất là trong lãnh vực các luật về oai nghi tế hạnh, cách ăn mặc, ăn
uống, và nói năng
(65). Một điều quan trọng cần nêu rõ là những khác biệt cục bộ
này chỉ xoay quanh các khác biệt về giới luật, nên chỉ liên quan tới các Tỳ
khưu Tăng và Ni, chứ không liên quan gì tới các tín đồ ở ngoài đời.
* Khác Biệt Về Giáo Lý
Khái niệm li khai cắt nghĩa trên
đây cần được phân biệt rõ với sự khác biệt về giáo lý. Có vẻ như những khác
biệt trong cách cắt nghĩa giáo lý chủ yếu là những khác biệt liên quan tới cá
nhân, vì rõ ràng các tỳ khưu thuộc các trường phái giáo lý khác nhau vẫn sống
khá chan hòa trong cùng một tu viện, tuân giữ cùng giới luật Vinaya, như đã
được kể lại do những người Trung Quốc hành hương tới Ấn Độ vào các thế kỷ V và
VII. Một ví dụ là những người thuộc phái Sautrāntika (Kinh Lượng Bộ),
những người này vì không có luật riêng của mình nên buộc phải sống chung với
các Tỳ khưu của các trường phái khác. Và quy luật họ tuân giữ sẽ tuỳ theo họ đã
được thụ giới trong Nikāya nào. Vì giáo lý của Sautrāntika phát
triển để phản ứng lại phái Vaibhāṣika
Sarvāsitvādin (xem ở dưới), nên có thể chắc là các tỳ khưu Sautrāntika
tuân theo luật của phái Sarvāsitvādin. Như thế họ khác với phái
Mūla-Sarvāsitvādins, những người này có cùng lập trường với phái
Sarvāsitvādins, nhưng có luật riêng và vì thế tạo thành một giới nikayra khác.
Điều này có nghĩa là họ không thể sống chung thành một cộng đoàn duy nhất với
những người Sarvasitvādins mặc dù họ chia sẻ cùng những quan điểm giáo lý với
phái này.
Chắc hẳn có nhiều yếu tố đã thúc
đẩy việc phát sinh những khác biệt giáo lý này. Chúng ta đã thấy Đức Phật từ
chối không muốn cử người kế vị Ngài để đứng đầu Tăng Già. Hơn nữa, bản thân
Tăng Già có cấu trúc không tập trung. Đức Phật còn rõ ràng khuyên các môn đệ
của Ngài sống cách biệt như những hòn đảo. "Vì vậy, này Ānanda, dù là bây
giờ hay sau khi ta viên tịch, dù các ngươi là ai, các ngươi phải sống như những
hòn đảo đối với chính mình, như những hàng rào với Giáo pháp làm hòn đảo của
ngươi, và Giáo pháp làm hàng rào của các ngươi, đừng quan tâm gì tới những hòn
đảo khác và những hàng rào khác (66)". Chúng ta đã thấy ví dụ
của Purāṇa ở Đại hội thứ nhất, và rất có thể Đại hội các môn
đệ đã theo giới lệnh này của Phật, tiếp tục cho phép phát triển các sự khác
biệt về giáo lý và kỷ luật. Cũng rất có thể là sau khi các tỳ khưu đã đến định
cư ở một khu nhất định nào đó, thì việc gia tăng khả năng phát triển các lối
cắt nghĩa khác nhau về lời dạy của Phật là điều đương nhiên.
Do sự mở rộng phạm vi địa dư của
việc truyền bá lời Phật dạy, những cuộc chú giải các bài giảng của Phật và Luật
Tông bắt đầu ghi lại những bài giảng của Phật bằng những thổ ngữ và ngôn ngữ
địa phương khác nhau. Phần nào tình hình này đã được chính Đức Phật khuyến
khích, vì Ngài đã từ chối không để cho lời dạy của Ngài bị chuẩn hóa trong một
thổ ngữ hay dạng thức nhất định nào (67). Không có một ngôn ngữ chung để
truyền đạt Giáo pháp, việc sử dụng các ngôn ngữ khác nhau có thể đã góp phần
tạo nên những lối hiểu sai, và chắc chắn đã tạo nên những lối cắt nghĩa khác
nhau về các vấn đề giáo lý.
Thiếu một hệ thống, cộng với
những trường hợp không rõ ràng, ngay cả trong lời dạy của chính Đức Phật được
truyền đạt cho các cá nhân khác nhau trong suốt 40 năm giảng dạy, tất yếu đã
khuyến khích các Phật tử thời sau phải tìm ra những lối diễn nghĩa. Ví dụ,
trong bất cứ bài giảng nào, người ta đều có thể đặt câu hỏi: phải hiểu lời Phật
theo nghĩa đen hay nghĩa thông tục, nghĩa truyền thống hay cần phải diễn nghĩa
lại?
Sau cùng, cũng có những Tỳ khưu
tập hợp quanh một vị thầy thành thạo chuyên môn về một khía cạnh nào đó của
Giáo pháp hay giới luật. Chúng ta được biết một trường phái có tên là
Dharmaguptaka, có thể là tên gọi để chỉ về những người đi theo một vị thầy tên là
Dharmagupta; cũng vậy, có trường phái Vātsīputrīya của những người đi theo thầy
Vatsīputra. Ngay cả những môn đệ của chính Đức Phật cũng có một số biệt tài
theo kiểu này. Śāriputra có thể được coi là một nhà phân tích triết học (và
được truyền thống cho là tác giả của Vi diệu pháp), Upāli, vị Tỳ khưu được
truyền thống ghi nhận là đã đọc thuộc lòng toàn bộ Luật tạng, rõ ràng là một
chuyên viên về Giới luật, còn Ānanda có thể được nhìn nhận là một uyên thâm (suttantika),
một bậc thầy về giảng thuyết. Thực vậy, trường phái Sautrāntika coi
Ānanda là tổ phụ của mình.
Từ những quan sát trên đây, rõ
ràng sự khác biệt tự nó không phải một điều xấu. Nó cho phép thích nghi giáo lý
với những nhu cầu của từng thính giả, và rất thích hợp để gán cho Đức Phật tước
hiệu của vị lương y, vì Ngài biết cho mỗi người bệnh một thứ thuốc thích hợp.
Ngoài ra, trước khi đi vào từng trường phái riêng, chúng ta cần lưu ý rằng
nhiều sự khác biệt giáo lý phần lớn chỉ nằm trên phạm vi lí thuyết, và người ta
dễ cường điệu những sự khác biệt giữa các trường phái Phật giáo.
* Các Trường Phái Triết Học
Truyền thống thời sau của cả
Phật giáo lẫn không Phật giáo thường liệt kê bốn trường phái tư tưởng hay triết
lý Phật giáo: Sarvāstivādin (Nhất Thiết Hữu Bộ), Sautrāntika
(Kinh Lượng Bộ), Mādhyamika (Trung Quán Tông), và Yogācārin (Duy Thức Tông).
Hai trường phái sau là những trường phái Đại Thừa và sẽ được bàn ở những chương
riêng, nhưng cả bốn trường phái này đều triển khai những hệ thống tư tưởng nhất
quán để trở thành tiêu chuẩn tranh luận cho những nhà tư tưởng thời sau. Theo
nghĩa rộng này, đây là những trường phái đã có sự đóng góp độc đáo của mình cho
tài sản tri thức chung về khung cảnh tôn giáo Ấn Độ. Ngược lại, các trường phái
giáo lý chỉ trao truyền những học thuyết không có ảnh hưởng gì ở ngoài trường
phái của họ. Vì vậy cá nhân mỗi Phật tử có thể theo triết lý của bất kỳ trường
phái nào trong bốn trường phái trên đây, bất kể họ thuộc dòng thụ giới nào, nikāya
nào, hay theo Tiểu thừa hoặc Đại Thừa. Đây là sự chọn lựa duy nhất cho những
thành phần của các nikāyas mà không có quan điểm giáo lý riêng nhất định
nào của mình.
Các Trường Phái Ngoài Đại Thừa
Trong một cuốn lịch sử Phật giáo
nhỏ như thế này, không thể nào nói chi tiết về tất cả các trường phái, cũng
không thể có một hình ảnh quân bình về những phát triển của chúng. Những người
Trung Quốc hành hương vào thời Trung Cổ thường nhắc tới các trường phái Mahāsaṇghika,
Sthaviravādin, Pudgalavādin, và Sarvāsitvādin là những trường phái ngoài Đại
Thừa, và ta có thể kể thêm trường phái triết học Sautrāntika. Bây giờ
chúng ta sẽ tập trung phân tích năm trường phái này, và xem chúng khác nhau thế
nào theo chức năng của mỗi trường phái.
* Trường Phái Mahāsaṅghika
Như ta đã thấy, trường phái Mahāsaṅghika tách
biệt với trường phái Sthaviravādin do một Đại hội được tổ chức khoảng một trăm
năm sau ngày Phật niết bàn. Cho đến nay, do ảnh hưởng của trường phái Theravāda
chính thống, các sử gia hiện đại luôn có khuynh hướng coi Mahāsaṅghika như một
nhóm người phóng khoáng và li khai không muốn chấp nhận lời dạy của Phật một
cách triệt để. Kết quả là khi cố gắng tìm hiểu tính chất của Tăng Già Phật giáo
thời kỳ nguyên thủy, người ta đã luôn tập trung chú ý vào những chứng cớ do
trường phái Theravādin cung cấp, coi họ như là phát ngôn viên của lời giảng dạy
nguyên thủy hay tinh truyền của Phật. Tuy nhiên, những chứng cớ mà Mahāsaṅghika cung
cấp lại cho một hình ảnh khác hẳn, gợi ý rằng Sthaviravāda mới là nhóm li khai
muốn thay đổi giới luật nguyên thủy, và có thể trong tương lai, các sử gia sẽ
quyết định rằng việc nghiên cứu trường phái Mahāsaṅghika sẽ cống
hiến một hình ảnh trung thực về Giáo pháp-Giới luật hơn là trường phái
Theravādin.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu như
thế sẽ có vấn đề, vì những thông tin chúng ta có về trường phái Mahāsaṅghika rất
hiếm và thiếu sót, vừa vì chính bản thân trường phái này vừa vì lượng kinh điển
lớn của họ đã bị phá hủy bởi cuộc xâm lăng của Hồi giáo vào thời Trung cổ.
Chúng ta biết chắc chắn trường phái này rất mạnh ở Magadha, đặc biệt ở Pāṭaliputra, và cũng có những chứng
cớ bằng chữ khắc về sự hiện diện của nó ở Mathurā, đề năm 120 trước CN. Trường
phái này đã phát triển kinh điển riêng của mình, và làm phát sinh một số trường
phái con. Thời sau, nó đã phát triển một trung tâm ở miền Nam Ấn Độ, tập trung
ở vùng Guntur, quanh khu vực Amarāvatī, Jaggayapeṭa, và Nāgārjunakoṇḍa, tuy
những thành viên của nó thuộc mọi thành phần ở rải rác trên khắp các trung tâm
của Phật giáo.
Bất luận nguyên nhân cuộc li
khai này là gì, một sự phát triển học thuyết quan trọng của Mahāsaṅghika chính
là học thuyết lokottaravāda, hay Phật "siêu phàm"- lokottara
hiểu theo nghĩa đen là "siêu việt thế giới" (68). Trước
khi đi vào chi tiết, chúng ta cần làm sáng tỏ một vài điểm về bản tính của
Phật. Cần nhấn mạnh rằng Đức Phật không bao giờ được coi như là một con người
thuần tuý. Ví dụ người ta thường tả Ngài như có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của (mahāpurusa)
"siêu nhân"; bản thân Ngài cũng phủ nhận mình là người hay là
thần (69); và
trong kinh Mahāparinibbāna Ngài tuyên bố Ngài có thể sống một thời gian
vô tận nếu người ta yêu cầu như thế (70). Ngoài tính cách con người và
vai trò của Ngài như tiêu điểm của một phong trào tôn giáo mới là Phật giáo,
người ta còn thường xuyên nhắc tới các năng lực siêu phàm của Ngài.
Học thuyết mới lokottaravāda,
hay học thuyết về tính siêu phàm của Phật, xuất hiện trong các tác phẩm của
trường phái Mahāsaṅghika, ví dụ Mahāvastu
và Lokānuvartana Sūtra, mặc dù những phát biểu liên quan tới học
thuyết này có thể thấy trong Kinh điển Pāli, ví dụ trong kinh Āriyapariyesana
Sutta, Đức Phật tự mô tả mình như là sabbesu dhammesu anūpalitto,
"ở giữa những vật vô tì tích" (71). Chúng ta cũng cần lưu ý tới
ảnh hưởng của việc quảng bá các câu chuyện Jātakas, một tác phẩm phổ
biến và bình dân kể lại cuộc đời trước khi niết bàn của Phật, và mô tả công đức
(puṇya), mà
Ngài đã thu tích được nhờ những hành vi đạo đức. Khi nghe những câu chuyện như
thế, tự nhiên người nghe dễ đi đến kết luận rằng nếu Phật đã thu tích được
nhiều công đức như thế, hẳn Ngài không thể nào chỉ là một con người bình
thường. Dù lấy từ nguồn nào, ý tưởng đại thể của lokottaravāda là kết
luận rằng Đức Phật không hề vướng mắc một tì vết ô trọc nào của trần thế này.
Vì vậy trường phái Mahāsaṅghika đã
mô tả Ngài như là siêu phàm (72). Ngài ở trong thế giới này,
nhưng không bị ô uế bởi nó. Ngài được sinh ra không do việc ăn ở vợ chồng,
nhưng được sinh ra một cách nhiệm mầu bởi mẹ Ngài. Dù vậy Ngài là một con người
thực sự, nhưng hình dáng và hoạt động bề ngoài của Ngài chỉ là ảo ảnh.
Điểm cuối cùng này quan trọng và
cần làm sáng tỏ. Trong những tài liệu cổ xưa, thuật ngữ lokottara được
dùng để nói về những thành phần của Tăng Già Cao Quý (Ārya Saṅgha) và về Niết bàn. Nghĩa đen
là "siêu việt thế giới", và dùng đối nghĩa với thuật ngữ laukika -
nghĩa là "phàm tục, không được giải thoát". Bản chất đích xác của
"tính siêu phàm" này được làm sáng tỏ bởi quan điểm của Mahāsaṅghika cho
rằng Đức Phật được sinh ra một cách lạ lùng - dịch sát chữ là upapāduka, nghĩa
là "tự sinh". Kinh Saṅgīti
Sutta
(73) cắt nghĩa tự sinh là một trong bốn loại sinh đẻ -
ba loại kia là sinh từ lòng mẹ, từ trứng, hay từ sự ẩm ướt. Theo vũ trụ luận
Phật giáo, tự sinh là đặc quyền của các Chư Thiên là loại sinh ra cao quý thanh
tịnh nhất. Nhưng kiểu sinh này không phản ánh một tiến trình thần thánh hóa theo
lối hiểu của các tôn giáo hữu thần, vì các thần trong vũ trụ luận Phật giáo
cũng mang bản tính phải chết và tái sinh giống như chúng ta. Các thần được sinh
ra trong vòng tròn sinh tử và tái sinh, nhưng sự sinh ra của họ thuộc loại
thanh tịnh hơn kiểu sinh ra của chúng ta. Vì vậy, sự đối chọi giữa lokottara và
laukika không phải sự đối chọi giữa cái ảo ảnh và cái hiện thực, nhưng là giữa
cái thô thiển và cái tinh tế. Thuyết lokottaravāda không phải một hình
thức của thuyết giả hình người, tuy nó được mô tả đúng như thế trong Kathāvatthu (74) của
Theravādin. Điều không thực là sự kiện Đức Phật tỏ ra mình là một con người
bình thường.
Việc nâng cao thân phận của Đức
Phật có thể được nhìn như tương ứng với việc hạ thấp địa vị của bậc A La Hán,
như có vẻ được diễn tả trong năm điểm của Mahādeva. Dù nhìn một cách khách
quan, lập trường của Mahādeva cũng khác rất ít với lập trường về A La Hán trong
Kinh điển Pali. Nếu thực sự thế, thì có thể các điểm của Mahādeva diễn tả một
phản ứng trước việc quá lí tưởng hóa bậc A La Hán, một sự lí tưởng hóa đã bắt
đầu làm cho bậc A La Hán trở thành một mục tiêu không thể nào đạt tới, và có
khuynh hướng phục vụ lợi ích của một thiểu số Tỳ khưu ưu tú tự nhận mình là A
La Hán. Nếu đúng là thế, thì chúng ta có thể hiểu Mahādeva đang cố gắng khẳng
định lại địa vị nguyên thủy của A La Hán nhằm dung hòa khuynh hướng này. Mặt
khác, cũng có thể bản thân Mahādeva là một đồ đệ của lí tưởng Đại Thừa mới về
Quả Phật, và vì vậy ông coi bậc A La Hán như là một sự thành đạt thấp hơn. Bất
luận thế nào, thuật ngữ lokottaravāda trong lịch sử có thể giúp chúng ta
hiểu sự phát triển của ý tưởng về Phật nguyên mẫu trong Đại Thừa.
Một giáo lý mới và có ảnh hưởng
nữa của trường phái Mahāsaṅghika là việc
mô tả sự nghiệp Đức Phật như là vị Bồ tát, trước kiếp sống sau cùng của Ngài
như là Thích Ca Cồ Đàm, theo kiểu một tiến trình qua mười giai đoạn hay bhūmis
- hơn nữa, như một con đường mở ra cho những người khác đi theo. Những bhūmis
này được khai triển dài dòng trong Mahāvastu (75), và được
lấy lại trong Đại Thừa. Sau cùng, một số trường phái con của Mahāsaṅghika chủ
trương giáo lý dharmaśūnyatā, một lập trường có tầm quan trọng lớn cả
cho Vi diệu pháp (Abhidharma) và cho Đại Thừa (76).
* Trường Phái Sthaviravādin
Trường phái Sthaviravādin đã
tạo một ảnh hưởng sâu đậm đối với quan niệm của chúng ta về Tăng Già nguyên
thủy. Đại diện duy nhất của trường phái này (hay của bất cứ trường phái ngoài
Đại Thừa nào) còn tồn tại ngày nay là trường phái Theravādin của Sri
Lanka và Đông Nam Á, đã tự xác định mình là phe duy nhất li khai với trường
phái Mahāsaṅghika ở Đại
hội lần thứ hai. Điều này được biểu hiện qua tên gọi, vì từ Pāli thera tương
đương với từ Phạn sthavira, và điều này đã khiến cho các sử gia phương
Tây xưa kia nghĩ rằng hai trường phái này chỉ là một. Nhưng thực tế không phải
vậy, vì vào thời vua Aśoka, trường phái Sthaviravādin đã tự tách ra
thành các trường phái con là Sammitīya, Sarvāstivādin, và Vibhajyavādin.
Về sau trường phái Vibhajyavādin cũng tách thành hai phe, trường phái Mahīśāsika,
được lập ở miền Đông Nam lục địa, và trường phái Theravādin, được lập ở
Sri Lanka khi vua Aśoka phái con của mình là Mahinda đến đây. Một lí do nữa làm
cho trường phái Theravādin trổi vượt là nó đã bảo tồn được kinh điển Phật giáo
đầy đủ duy nhất bằng ngôn ngữ gốc là Pāli, mặc dù chúng ta không rõ đây có phải
kinh điển nguyên thủy của Sthaviravādin hay không.
Dù sao, với một chút ít dè dặt,
ta vẫn có thể coi trường phái Theravādin như là đại diện của trường phái Sthaviravādin
nói chung. Hiển nhiên, do xuất xứ của nó, trường phái Theravādin bảo thủ trong
học thuyết và thực hành. Trường phái này coi Đức Phật như là một con người bình
thường (mặc dù có mâu thuẫn với một số điều được nói đến trong chính kinh điển
của nó). Nó chủ trương rằng chỉ có một Bồ tát hiện hành là Maitreya. Ngài hiện
đang ở trên trời Tuṣita, từ
đó Ngài sẽ tái sinh làm người khi Phật pháp đã chấm dứt. Các A La Hán hoàn hảo
trong mọi khía cạnh, không thể đảo ngược, và giống hệt Đức Phật trong những
thành đạt của họ. Trong khi có những trường hợp các môn đệ sống ngoài đời trở
thành những A La Hán trong Kinh điển Pāli, trường phái này cho rằng hiện tại
thì chuyện này hầu như không thể xảy ra, và theo quan điểm rằng không thể có ai
đạt tới bậc A La Hán trong thời đại suy đồi này.
Một nét đặc trưng hơn của trường
phái Theravādin như một nhánh của trường phái Vibhajyavādin, đó là sự
nhấn mạnh về phân tích lý thuyết, đặc biệt về dhammas, các Giáo pháp, vì
đó là một quan tâm chủ yếu của trường phái mẹ của nó, biểu hiện trong tên gọi
của trường phái mẹ này - vibhajya nghĩa là "phân chia, phân
tích". Trường phái Theravādin khai triển một hệ thống học thuyết khá
nghiêm ngặt, được cô đọng trong những tác phẩm của học giả Buddhaghosa của thế
kỷ V, đặc biệt trong tác phẩm Vishddhi-magga của ông, mà trên bình diện lý
thuyết có khuynh hướng loại trừ mọi lý thuyết và thực hành không phù hợp với
những mối quan tâm ưa thích của trường phái. Một điển hình của việc loại trừ
này có thể là những cách thức hành thiền được gọi làVô lượng tâm, trong Vi Diệu
Pháp (Abhidhamma ) và trong văn chương chú giải lại được chuyển thành một chức
vụ phụ thuộc mà thôi. Trong khi đó, chính kinh Phật đã ghi lại nhiều ví dụ điển
hình thực chất đã loại bỏ vai trò này. Các đoạn Kinh Phật thường chứa đựng
những phần biên tập thêm nhằm 'giảm' phần quan trọng của vô lượng tâm, nhưng
nơi những bản Kinh Phật tương ứng vẫn còn thấy tồn tại trong tạng Đại Chúng Bộ
(Mahsanghika), điều rất thú vị là không nhất thiết phải đề cao những hình thức
thực hành theo cách đó (77). Điều này tiêu biểu một khuynh hướng nơi
trường phái Phật Giáo Nguyên Thuỷ (theravda) chủ trương quan điểm cho rằng
chánh đạo ủng hộ việc tu luyện một loại thiền quán 'không pha tạp' chỉ đạt được
thông qua hành thiền phân tích mà thôi.
* Trường Phái Pudgalavdin
Pudgalavdin là một tên được dùng
để gọi một trường phái chủ trương một học thuyết liên quan đến pudgala, "con
người". Trường phái được thiết lập do sự chia rẽ về giáo lý trong nội bộ
trường phái Sthaviravādin ở thế kỷ III trước CN., và tồn tại cho tới thế
kỷ IX hay X CN. Khởi thủy trường phái này tên là Vātsīputrīya, theo tên gọi của
vị sư tổ là Vatsīputra, sau lại được gọi là Sammitīya, và từ đó phát
sinh nhiều trường phái con. Tuy giáo lý về pudgala của trường phái bị
các trường phái đối lập cho là hoàn toàn phi Phật giáo, nhưng trong thực tế nó
đã thu hút được rất đông đồ đệ, và các đoàn hành hương Trung Quốc sang Ấn Độ
vào thế kỷ VII ước lượng rằng đa số các Tỳ khưu ngoài Đại Thừa đều là người
thuộc phái Pudgalavādin. Bất hạnh thay, không dễ dàng tìm thấy được bức tranh
tòan diện cho học thuyết vì tất cả kinh văn bị thất lạc, ngoại trừ bốn tác phẩm
Abhidhamma còn lại trong bản dịch chữ Tàu. Điều này cho thấy rằng có tất cả
mười sáu phái trực thuộc trường phái Pudgalavādin mà chính bản thân nó đã khác
hẳn những trường phái khác (78).(78)
Học thuyết pudgala đã gây
phản ứng dữ dội nơi các đối thủ vì nó dạy rằng, tuy giáo lý anātman, vô
ngã, về Đức Phật hoàn toàn đúng theo nghĩa bình thường, nhưng vẫn có một pudgala,
nhân vị. "Nhân vị" này là một vật hiện thực, là cái bản thể cho
phép có sự liên tục giữa các lần tái sinh, trí nhớ, và sự chín muồi sau này của
các hành vi hữu ý (nghiệp, karman) làm trong hiện tại hay quá khứ. Nếu
không có nhân vị nào cả như học thuyết của các trường phái đối thủ tuyên bố,
thì Phật giáo sẽ bị tố cáo là một học thuyết hư vô và vô đạo đức, vì sẽ không
có con người nào để chịu trách nhiệm về các hành vi đạo đức. Nó nhấn mạnh rằng pudgala
thì bất định trong tương quan với các skandhas (các yếu tố cơ bản
cấu thành hiện hữu), không ở ngoài cũng không ở trong chúng; không đồng nhất
cũng không khác biệt với chúng. Thực ra chỉ có các vị Phật mới nhận thức được
nó. Để củng cố lập trường của mình, trường phái thường trích dẫn những lời của
Phật như "Này các Tỳ khưu, chỉ có một con người duy nhất sinh ra ở đời này
vì sự thịnh vượng của nhiều người, vì hạnh phúc của nhiều người, vì lòng bi mẫn
đối với thế giới, vì lợi ích sự thịnh vượng và hạnh phúc của các vị Chư Thiên
và loài người. Con người duy nhất đó là ai? Đó là Đức Như Lai (Tathāgata),
Đấng Giác Ngộ Viên Mãn và Tuyệt Hảo" (79). Đáp lại, những đối thủ của
phái Pudgalavāda tuyên bố rằng câu nói này của Phật phải được hiểu theo nghĩa
bình thường, không thể hiểu theo nghĩa đen.
Xét theo bối cảnh lịch sử, hình
như thuyết này một phần là phản ứng trước việc hạ thấp giá trị nhân vị của Vi
diệu pháp, nhưng ta cũng có thể nói rằng trường phái Pudgalavāda biểu trưng cho
một trào lưu dai dẳng và bị tranh cãi nóng bỏng trong tư tưởng Phật giáo khi
muốn mô tả tích cực về cái hiện thực. Chúng ta có thể thấy lập trường này về
sau được phản ánh trong các lý thuyết Tathāgatagarbha của Đại Thừa, các
trường phái Thiền và Thiên Thai của Trung Hoa, và các Dòng Phật giáo rNying-ma
và Jo-nang của Tây Tạng.
* Trường Phái Sarvāstivādin
Trường phái Sarvāstivādin
được thành lập từ một cuộc li khai khác, theo nghĩa là saṅghabheda, trong
nội bộ trường phái Sthaviravādin vào một thời kỳ nào đó của thế kỷ III
trước CN. (Phái còn lại của trường phái Sthaviravādin lấy tên là Vibhajyavādin).
Người ta vẫn chưa rõ về nguồn gốc chính xác của trường phái, và cũng không rõ
động cơ xuất hiện trường phái có phải là kết quả của Đại hội thứ ba hay không,
hay là kết quả của những phái đoàn truyền giáo do Aśoka phái tới vùng Gandhāra (80). Điều
người ta biết rõ là nó được thiết lập vững chắc ở vùng Tây Bắc Ấn Độ ngay từ
rất sớm. Trong Đại hội lần thứ tư, tổ chức dưới sự bảo trợ của vua Kaniṣka, năm trăm Tỳ khưu Sarvāstivādin
đã quy tụ lại, lập một kinh điển, và soạn thảo một số tác phẩm chú giải gọi là Vibhāṣas. Từ đó về
sau, trường phái này sẽ làm chủ cả vùng Bắc và Tây Bắc Ấn Độ trong ít nhất là
mười thế kỷ nữa, và vì nó cũng lan tới Kashmir
và Trung Á, nên các học thuyết Sarvāstivādin sẽ tìm đường vào đất Trung
Hoa. Tác phẩm nổi tiếng nhất và dễ tìm nhất trình bày các học thuyết của trường
phái này là Abhidharmakośa.
Trường phái Sarvāstivādin
đã triển khai một số học thuyết đặc trưng của mình. Giống như trường phái Mahāsaṅghika, nó
chất vấn thân phận tuyệt đối của A La Hán, thậm chí cho rằng thân phận này có
thể bị đảo ngược. Nhưng cái làm cho trường phái nổi bật chính là học thuyết của
nó mà người ta dùng để đặt tên cho nó. Sarvāstivāda có lẽ là do cụm từ sarvam
asti, "mọi sự hiện hữu", nhắc tới một giáo huấn liên quan tới cơ
chế của trí nhớ và karman, là lời dạy phổ quát của Phật rằng bản chất
đạo đức của các hành vi sẽ quyết định những kinh nghiệm tương lai của người làm
các hành vi ấy. Học thuyết này nêu lên mệnh đề sau đây: trong khi các dharmas (81), tức là
các yếu tố không thể giản lược của hiện hữu, có thể là tạm thời, nhưng chúng
cũng hiện hữu trong quá khứ và tương lai. Thực vậy, ba thời - quá khứ, hiện
tại, và tương lai phải được xem như là những "cách", và sự trôi qua
của thời gian phải được xem như là sự trôi qua của những dharmas cá nhân
giữa ba cách này, dưới sự kích thích của những điều kiện thích hợp. Học thuyết
này vừa phù hợp với học thuyết vô thường, vừa cắt nghĩa được làm sao một hành
vi quá khứ có thể có hậu quả trong tương lai: đó là vì những dharmas cấu
tạo nên hành vi quá khứ đó vẫn còn tồn tại, mặc dù theo "cách" quá
khứ, và do đó có thể tạo được ảnh hưởng ở một thời điểm sau đó. Học thuyết này
cũng cắt nghĩa về trí nhớ, vì trí nhớ không là gì khác hơn sự nhận thức về một
đối tượng, và vì theo một tiên đề của Phật giáo, người ta không thể có nhận
thức mà không có đối tượng, nên nói rằng các dharmas quá khứ vẫn còn tồn
tại sẽ cho phép trí nhớ có đối tượng cần thiết của nó.
Trường phái Sarvāstivādin
cũng nổi tiếng về học thuyết liên quan tới Bảo Ngọc của Phật. Lý thuyết này
nhìn thấy một vấn đề trong việc đi tìm Tam Bảo nơi Phật một khi con người lịch
sử của Ngài đã chết đi, và nó lập luận rằng thể xác vật lý của Ngài không thể
là đối tượng của việc đi tìm Tam Bảo. Nó không bằng lòng với lối cắt nghĩa rằng
phải đồng hóa Phật với dharmakāya, theo nghĩa là một hệ thống Giáo pháp,
vì như thế sẽ là đồng hóa Phật Bảo với Pháp Bảo. Học thuyết này dạy rằng Phật
Bảo bao gồm tất cả những dharmas làm nên Đức Phật như một Con người Giác
ngộ - các hiểu biết và các skandhas của Ngài. Với học thuyết này, trường
phái đã thiết lập một khuôn mẫu quan trọng cho những lý thuyết Đại Thừa sau này
về Đức Phật (82). Nó
cũng khai triển một lược đồ của đạo với sáu việc thực hành hoàn hảo - quảng
đại, đạo đức, kiên nhẫn, nghị lực, suy niệm, và trí tuệ - học thuyết này cũng
sẽ có ảnh hưởng sâu xa tới quan niệm Đại Thừa về Bồ tát (83). Sau
cùng, học thuyết này cũng là nguồn gốc phát sinh "Bánh Xe Đời Sống"
rất nổi tiếng, vẽ lại sáu lĩnh vực hiện hữu và mười hai mắt xích, nidānas của
pratītya-samutpāda (= tính điều kiện phổ quát của hiện hữu), mà trường
phái thường vẽ phía trong cổng tu viện. Việc thực hành này về sau không còn
trong trường phái này, nhưng đã được bảo lưu bởi những trường phái Tây Tạng cho
tới thế kỷ XX
(84).
Những trường phái con nổi tiếng
nhất phát sinh từ trường phái Sarvāstivādin là hai trường phái Vaibhāṣika và Sautrāntika.
Trường phái Vaibhāṣika tự hào
vì bộ chú giải vibhāṣa rất đầy
đủ và đồ sộ được biên soạn trong trường phái Sarvāstivādin vào thế kỷ II
CN. Cơ sở của trường phái nằm ở Kashmir, nhưng nó có nhiều ảnh hưởng đối với
các Phật tử khác và trở thành tinh hoa của kinh viện Phật giáo nhờ nó nhấn mạnh
về Vi diệu pháp (Abhidharma).
*Trường Phái Sautrāntika
Trường phái Sautrāntika
xuất hiện như một phản ứng đối với trào lưu chú giải và đề cao Abhidharma
của trường phái Vaibhāṣika, phủ
nhận giá trị của những thủ bản và khảo luận rắc rối mà trường phái Vaibhāṣika biên
soạn. Tên Sautrāntika có nghĩa là "Sūtra là tối hậu",
vì thế trường phái chủ trương rằng kinh điển kết thúc với kinh Sūtra Piṭaka, sưu
tập kinh thứ hai trong kinh điển, còn những khảo luận khác không phải lời dạy
của Phật. Các quan điểm của trường phái này được trình bày rõ nhất trong Abhidharmakośabhāṣya, tác phẩm
này công khai bác bỏ Abhidharma, và sẽ được đề cập tới ở chương 10.
Có một số điểm khác mà trường
phái Sautrāntika tương phản với trường phái Sarvāstivādin. Đặc
biệt nó bác bỏ khái niệm dharmas của Sarvāstivādin về ba
"cách" của thời gian, nhưng cho rằng mọi dharmas đều chỉ hiện
hữu nhất thời, kṣaṇika (85). Lý
thuyết này dẫn đến lập trường là không thể có nhận thức trực tiếp một sự vật.
Cái mà người ta tri giác là những hình ảnh trong trí khôn được tạo ra bởi các
giác quan (tự chúng cũng chỉ hiện hữu nhất thời trong hoạt động của chúng) chi
chúng tiếp xúc với những sự vật nhất thời, nhưng những hình ảnh này tất yếu để
lại sau chúng sự hiện hữu nhất thời của sự vật và của chính các cảm giác. Đó là
vì hình ảnh trong tâm trí được tạo ra bởi sự tiếp xúc, và vì vậy phải theo sau
sự tiếp xúc này về thời gian. Nếu nó xảy ra hoàn toàn đồng thời với sự tiếp xúc
này, thì không thể nói nó lệ thuộc vào sự tiếp xúc này.
Để giải quyết các vấn đề về karman
mà trường phái Sarvāstivādin đã tìm cách giải quyết nhờ ý tưởng các
pháp tồn tại qua cả ba thời, trường phái Sautrāntika chủ trương rằng các
hành động của người ta "tỏa hương thơm" khắp môi trường tâm linh của
một người để tạo ra những kết quả nhất định. Lý thuyết này khiến họ gặp khó
khăn và họ đã phải khai triển ý tưởng về các bījas, hạt giống, được
"trồng" bởi một hành vi với một đặc tính đạo đức nhất định, để sau
này mới "đâm chồi" khi các điều kiện cho phép, và phát sinh
"quả" phù hợp với hành vi ban đầu (86).
9
TAM TẠNG KINH ĐIỂN
PHẬT GIÁO CHÍNH TRUYỀN
Kinh điển Phật giáo chính
truyền được tất cả các phái Đại Thừa và ngoài Đại Thừa chấp nhận, gồm ba phần
lớn. Mỗi phần được gọi là Piṭaka, thường
được hiểu là cái "giỏ đựng" và vì thế có nghĩa là "sưu
tập". Tuy nhiên, thuật ngữ này cũng có thể phát sinh từ pitq, nghĩa
là "cha", và nguyên thủy có nghĩa là "điều thuộc về Cha",
tức là những điều mà Cha, là Đức Phật, đã truyền lại. Từ này có thể tương ứng
với ẩn dụ mà các Tỳ khưu dùng để tự xưng là śākyaputra, "con của
Śākya", nghĩa là con của Phật, vì Đức Phật xuất thân từ bộ tộc Śākya. Bất
kể nguồn gốc của từ này là gì, toàn bộ kinh điển được gọi là Tam Tạng, nghĩa là
sưu tập lớn gồm ba phần. Ba phần lớn này được gọi tuần tự là: Vinaya Piṭaka, Luật
tạng là phần trong kinh điển liên quan tới các quy luật điều hành đời sống các
Tăng và Ni của Phật giáo; Sūtra Piṭaka, nghĩa
là các bài giảng của Đức Phật; và thứ ba là Abhidharma Piṭaka, liên
quan tới việc giải thích và sắp xếp có hệ thống những lời giảng dạy và phân
tích, nghĩa là những lời giảng dạy và phân tích chứa đựng trong Sūtra Piṭaka. Có lẽ
tên gọi Piṭaka mãi đến
thế kỷ II trước CN. mới bắt đầu được sử dụng (87).
Mặc dù truyền thống cho rằng
những kinh này đã được kết tập ở Đại hội lần thứ nhất qua những lời tụng đọc
của UPāli và Ānanda, mỗi người đều nhớ thuộc lòng toàn bộ các Giới luật và bài
giảng mà nay tạo thành hai Piṭaka đầu
tiên, nhưng có vẻ sự thực không đúng như câu chuyện kể. Tuy chắc chắn thời đó
người ta có trí nhớ hết sức kỳ diệu có thể đọc thuộc lòng một lượng lớn chất
liệu, nhưng có những yếu tố gợi ý rằng các kinh Piṭaka chúng
ta có ngày nay không phải được soạn vào thời kỳ đó. Thứ nhất, một số bản văn có
trong các kinh Piṭaka rõ ràng
đã được biên soạn sau khi Đức Phật viên tịch một khoảng thời gian. Trong một
vài trường hợp, chúng ta có thể khẳng định điều này bởi vì chúng kể lại những
sự kiện xảy ra sau đại hội đó, trong những trường hợp khác, vì chúng chứa đựng
những học thuyết hay những cách phát biểu học thuyết đặc biệt chỉ có thể có sau
thời của Đức Phật. Toàn bộ luận tạng là một ví dụ rõ ràng minh chứng điểm thứ
hai này, và được xác nhận như thế bởi sự kiện các trích dẫn thời kỳ đầu về toàn
bộ kinh điển chỉ nói đến một Pháp – Luật Dharma-Vinaya mà thôi. Vì Vi Diệu Pháp
Abhidharma liên quan tới một sự phát triển trong việc thực hành Phật giáo, nên
nó sẽ được bàn đến riêng biệt ở chương sau.
Hình như mỗi trường phái đều có
các kinh điển riêng của mình, có những sưu tập riêng các lời dạy của Phật (Buddhavacana).
Một số trường phái còn có nhiều hơn là tam tạng. Trường phái Mahāsaṅghika còn có Dhāraṇī Piṭaka và một Kṣudraka Piṭaka thêm
vào tam tạng kể trên
(88). Chúng ta đã thấy các sự khác biệt về luật đã xuất hiện
như thế nào, và những khác biệt này đã có ý nghĩa ra sao đối với cộng đồng Phật
giáo ban đầu. Các sưu tập lời giảng của Phật không có cùng tầm quan trọng toàn
thể như các luật, và tuy chúng phát xuất từ một kho truyền thống và ký ức chung
về Đức Phật, nhưng mỗi sưu tập có thể đã phản ánh những quan tâm và thực hành
riêng biệt của cộng đồng lưu giữ chúng. Chỉ còn tồn tại một bản bằng tiếng Pāli
gồm một tập hợp các Kinh, Luật và tạng Luận được trường phái Theravādin bảo tồn
được. Kết quả là bản này đã được nhìn nhận là bản tường thuật duy nhất có thẩm
quyền về Buddhavacana ở Sri Lanka, Miến Điện, Thái Lan, Lào, và Campuchia, quê
hương của trường phái Theravādin.
Đi kèm với Luật và là một tập
hợp các bản văn bình luận, cắt nghĩa những chi tiết của các kinh trong mỗi
phần. Ở đây cũng vậy, có thể có nhiều truyền thống chú giải khác nhau của mỗi
trường phái, nhưng chỉ có truyền thống chú giải gắn liền với Theravāda là còn
tồn tại bằng tiếng Ấn Độ. Người ta cho rằng khối lượng sách chú giải này lấy từ
những bản gốc tiếng Ấn Độ, được tóm tắt và dịch sang tiếng Pāli bởi Buddhaghosa
vào thế kỷ IV hay V. Một số bản chú giải bằng tiếng Pāli do Dhammapāla viết vào
thế kỷ V hay VI.
Vì hai bộ Luật và Kinh là hai
phần khác biệt nhau về nội dung và mục đích, chúng ta sẽ trình bày chúng riêng
rẽ.
Luật Tạng
Có nhiều lý do tại sao chúng ta
nên bắt đầu với Luật tạng. Theo truyền thống, việc kết tập kinh điển Phật giáo
bắt đầu bằng phần Luật, vì Upāli là người đầu tiên được yêu cầu trả lời tại đại
hội. Điều này có ý nghĩa, vì rất có thể mối quan tâm đầu tiên của các thành
viên đại hội là xác định Tăng Già của Phật giáo, xác định bản chất của cộng
đồng mình, sau khi đấng sáng lập của mình đã qua đời. Hơn nữa, các truyền thống
của các tu viện không thấy có sự phân rẽ nào giữa những lời dạy của Đức Phật và
những quy luật tu trì, mà một cách ngẫu nhiên những điều này lại luôn luôn do
các Tỳ khưu truyền đạt lại (89).
Có tất cả bảy bộ Luật khác nhau
còn được lưu truyền cho tới hôm nay. Bộ được biết đến nhiều nhất là của trường
phái Theravāda, bằng tiếng Pāli, nhưng mới đây những bộ Luật của trường phái Mahāsaṅghika,
Sarvāstivāda, và Mūla-Sarvāstivāda đã được tìm thấy bằng tiếng Phạn, và những
bộ của trường phái Mahīśāsika, Kāśyapīya, và Dharmaguptaka còn tồn tại
bằng bản dịch tiếng Trung Hoa. Các bộ luật rất quan trọng đối với lịch sử Phật
giáo, vì chúng không chỉ được các trường phái ngoài Đại Thừa sử dụng, mà cũng
được chấp nhận và sử dụng bởi các trường phái Đại Thừa và Mật tông sau này, cả
ở trong lẫn ngoài Ấn Độ.
Tính chất văn học của luật khá
nghiêm túc, vì những phần được các cộng đồng Tỳ khưu sử dụng nhiều nhất lại
không có trong kinh điển, tức là không có trong tạng Luật. Đó là những phần Prātimokṣa và Karmavācā.
Cả hai đều có tính chất thực tiễn. Phần Prātimokṣa là một
bản liệt kê những quy luật mà các Tỳ khưu cả nam lẫn nữ phải tuân giữ. Trên
nguyên tắc, kinh này phải được tụng thường xuyên vào mỗi ngày trăng tròn (upavasatha)
bởi những cộng đồng tu viện địa phương (nikāyas). Tuy được gọi là một Sūtra
(kinh), nghĩa là lời của Phật, nhưng rõ ràng đây là một soạn tác thời sau. Điều
này được phản ánh bởi sự kiện là các Prātimokṣa của các
trường phái khác nhau có những bản liệt kê số quy luật khác nhau. Nhưng những
khác biệt chỉ liên quan tới những quy luật nho nhỏ, như śaikṣya-dharmas, về phép
cư xử. Kinh Karmavācā liên quan đến nghi lễ hay phượng tự, được dùng
trong những lễ nghi khác nhau của Tăng Già, như trong những lễ nghi thụ giới.
Các bản văn giới luật nghĩa là
nằm trong tạng luật gồm hai, đôi khi ba phần: Sūtravibhaṅga, Skandhaka, và
Phụ lục. Các Phụ lục trong kinh điển Pāli gọi là Parivāra, là
một tóm lược về hai phần trên dưới dạng một bài giáo lý, và mang bản chất riêng
của từng trường phái khác nhau.
Các bản văn là sưu tập các kinh
của Phật, hay các lời dạy của Ngài. Bản đầy đủ duy nhất còn tồn tại là bằng
tiếng Pāli. Dựa vào những bản thảo còn tồn tại ở Trung Á, người ta biết được
rằng đã có những bản kinh bằng tiếng Phạn, Prakrit, Gandhari, và các ngôn ngữ
địa phương khác thuộc những trường phái khác nhau thời ban đầu. Một phần khá
lớn những (Sūtra Piṭaka) khác còn tồn tại bằng bản dịch Trung Hoa, tuy
chỉ có một phần nhỏ những bản này đã được dịch sang một ngôn ngữ châu Âu, và
người ta còn đang chờ đợi có một công trình đối chiếu đầy đủ giữa các bản này
với bản Kinh tạng bằng tiếng Pāli (92). Trong bản Pāli, có trên 17
ngàn kinh được tập hợp lại, trình bày hoạt động giảng dạy của Đức Phật trong
hơn 45 năm. Vì những kinh này được cho là do Ānanda đọc ở Đại hội thứ nhất và
vì thế nhiều người được nghe những gì ông đọc, nên mỗi kinh đều bắt đầu bằng câu,
"Tôi đã nghe thế này. Có một lần . . . " Tuy nhiên, như chúng ta đã
nhận xét, nhiều đoạn rõ ràng là do soạn tác thời sau, và một số đoạn mang tính
chất soạn tác hỗn hợp, với những điểm thêm thắt xoay quanh một hạt nhân chính.
Mỗi kinh đều có một lời nhập đề
mô tả bối cảnh Đức Phật hoằng pháp, và thường có kể tên những người khác hiện
diện. Điều này có phản ánh đúng thực tại hay không, chúng ta không thể nào biết
được. Không phải các lời giảng luôn luôn được ghi lại như lời của Đức Phật. Một
số bài cho thấy các môn đệ quan trọng nhất của Ngài, như Śāriputra hay
Dhammadinna. Nhiều bản văn xưa viết bằng những đoạn thơ đơn sơ, phần lớn không
có nhập đề, nhưng một số đoạn với nhập đề bằng văn xuôi là soạn tác thời sau.
Văn phong của kinh rất hay lặp đi lặp lại, vì vào bốn tới năm thế kỷ đầu, chúng
chỉ được lưu giữ bằng miệng. Bản Kinh tạng bằng tiếng Pāli chỉ được viết lần
đầu tiên vào cuối thế kỷ I trước CN. ở Sri Lanka, vào một thời kỳ mà người
ta lo ngại rằng toàn bộ Tam Tạng có thể bị mất bởi vì có quá ít Tỳ khưu có thể
nhớ thuộc lòng được nó.
Cấu Trúc Của Kinh Tạng (Sūtra Piṭaka)
Có bằng chứng cho thấy việc sắp
xếp những bài giảng của Đức Phật được dựa trên những nguyên tắc văn học, vì
hình như từ đầu, Tăng Già đã quyết định kết tập những bài giảng của Đức Phật và
phân chúng thành mười hai thể tài, gọi là aṅgas (93). Nhưng
đây có phải lối sắp xếp được chọn tại Đại hội lần thứ nhất hay không thì chúng
ta không thể biết chắc. Các thể loại bài giảng đó là: khế kinh văn xuôi (sūtra),
trùng tụng (geya), lối phân tích, giải thích (vycarana), loại
phúng tụng hay thi kệ (gth), cảm hứng ngữ hay vô vấn tự thuyết (udna),
Phật thuyết như vậy (ityukta), chuyện kiếp trước (jtaka), vị
tằng hữu hay hy hữu (adbhūtadharma), phương quảng tức các bài giảng đạo
mở rộng (vaipulya), quảng thuyết hay nhân duyên tức các bài giảng được
giới hạn trong phạm vi nguyên thủy (nidna), các kỳ tích hay diễn thuyết
giải ngộ (avadna) và luận nghị (upadeśa). Lối phân chia này được
tất cả các trường phái ngoài Đại Thừa ghi nhận trong các sưu tập kinh của họ,
và được tiếp tục bởi Đại Thừa.
Nhưng về sau, một hệ thống phân
chia khác đã thay thế hệ thống mười hai aṅgas nói trên trong các trường
phái ngoài Đại Thừa, bao gồm việc phân phối các bài giảng của Phật thành bốn
hoặc năm loại. Lối phân chia này được gọi là Āgamas trong tiếng Phạn,
nghĩa là "điều được truyền lại", hay "truyền thống". Ngược
lại, truyền thống Pāli sử dụng từ Nikāya (không được lẫn với nikāya nghĩa
là các cộng đồng Tăng Già địa phương và các dòng thụ giới). Lần này các nguyên
tắc phân phối nội dung là một sự phối hợp về độ dài ngắn cho hai sưu tập đầu,
và về nội dung cho hai sưu tập sau.
Phần thứ nhất là phần Dīrghāgama
(Trường Bộ Kinh, Pāli: Dīgh-Nikāya), ở đây các bài dài nhất
được xếp chung với nhau - dīrgha nghĩa là "dài". Bản Pāli gồm
34 bài, được chia thành 3 đoạn. Đoạn dài nhất là Mahāparinibbāna Sutta, tổng
cộng 95 trang, phần còn lại dài trung bình 30 trang mỗi đoạn. Dīrghāgama của
trường phái Dharmaguptaka gồm 30 Sūtras, còn tồn tại bằng tiếng Trung
Hoa.
Phần thứ hai gồm tất cả những
kinh còn lại với đủ độ dài ngắn khác nhau và vì vậy được gọi là Madhyamāgama
(Pāli: Majjhima-Nikāya) - nghĩa là "Trung Bộ Kinh tức
tuyển tập các bài kinh có độ dài trung bình". Bản Pāli gồm 152 Suttas.
Một bản Madhyamāgama của trường phái Sarvāstivādin gồm 222 Sūtras,
còn tồn tại bằng tiếng Trung Hoa (94).
Các kinh trong bản Ekottarāgama
(Tăng Nhất A-hàm, Pāli: Aṅguttara-Nikāya) tập hợp thành nhóm
theo con số (gồm từ một đến mười một) các đề mục giáo lý được trình bày trong
đó. Các nhóm đề mục này được xếp theo thứ tự lên dần - vì thế có tên gọi
ekottara, nghĩa là "thêm một". Lối phân chia này gồm trên 2,300 kinh
trong bản Pāli. Có một lần nhuận chính bản Ekottarāgama trong bản dịch
Trung Hoa mà người ta nghĩ là thuộc về kinh điển của Mahāsaṅghika (95).
Sau cùng, một số trường phái
cũng có một sưu tập gọi là Kṣudrakāgama (Tiểu Bộ Kinh, Pāli: Khuddaka-Nikāya),
là một sưu tập nhỏ hơn. Rõ ràng có thêm phần này để đưa vào các đề mục khó đưa
vào bốn phần khác, và vì thế phần này gồm những đề mục linh tinh. Bản Kinh tạng
bằng tiếng Pāli cũng có phần này, gồm 15 bản văn khác nhau. Chúng rất đa dạng,
một số được soạn vào một thời kỳ rất muộn, như Buddhavaỵsa và Cariyapiṭaka,
nhưng số khác rất sớm và rất hữu ích để cho ta một cái nhìn thoáng qua về tính
chất lời giảng và hoạt động lúc ban đầu của Phật vào giai đoạn trước khi được
soạn tác lại một cách quy mô. Trong số những bản văn này có thể kể bản nổi
tiếng Dhammapada, bản Sutta Nipāta, bản Itivuttaka, và bản
Udāna. Sưu tập Khuddaka-Nikāya cũng chứa phần Thera- và Therī-gāthā,
"Các vần thơ của các Tăng Ni" - thường là những câu thơ ứng khẩu của
các môn đệ của Phật. Một trong những đoạn phổ thông nhất của sưu tập Āgama này
là Jātaka, các câu chuyện về cuộc đời tại thế của Phật. Nhiều câu chuyện
trong đoạn này còn tồn tại bằng các bản dịch Trung Hoa và Tây Tạng, ví dụ có ba
bản của Dhammapada bằng tiếng Trung Hoa. Nếu một trường phái không có sưu tập Kṣudrakāgama,
thì không có nghĩa trường phái đó bác bỏ những bản văn này, nhưng họ đưa nó
vào một trong các sưu tập khác.
Nội dung của kinh tạng rất đa
dạng, và khá hấp dẫn nơi hình ảnh mà chúng vẽ ra về Đức Phật và các môn đệ của
Ngài. Một số bài giảng có tính triết học, nhưng một số có tính thuật chuyện;
một số mang tính chuyên môn, số khác là thi ca; một số trình bày các sự kiện
lịch sử, số khác ghi lại những truyền thuyết. Nhìn tổng thể, chúng diễn tả một
sự đơn sơ và vĩ đại đầy cảm kích, nhưng cũng không thiếu chỗ rất dí dỏm. Người
ta thấy rõ Đức Phật có một tính khôi hài rất mạnh, mà Ngài thường dùng để làm bẽ
mặt những hạng người trí thức ngạo mạn (97). Nhiều Phật tử coi kinh tạng là
một kho tàng vô giá, vì khi đọc hay nghe những câu chuyện trong đó, họ cảm thấy
như mình đang ở trước mặt Đức Phật, và đang nghe Buddhavacana.
Này các Tỳ khưu, như đại dương bao la có một vị, vị
của muối.
Giáo pháp này cũng có một vị, vị giải thoát (98).
10
VI DIỆU PHÁP
(Abhidharma)
Định Nghĩa
Abhidharma, Vi Diệu Pháp,
không phải một trường phái, mà là một tập hợp kinh điển. Không phải trường phái
ban đầu nào cũng có một tập hợp kinh điển như thế, nhưng nếu có tập hợp kinh
điển này, họ luôn luôn đưa nó vào trong kinh điển. Về bản chất đó là một sự sắp
xếp và giải thích những thuật ngữ nòng cốt và những loại phân tích có trong các
kinh. Tiền tố abhi - có nghĩa là "ở trên" hay "vì,
về", cho nên tên gọi này thường được hiểu theo nghĩa là "cái ở bên
trên Dharma" hay "lời dạy kỳ diệu hay đặc biệt". Nhưng cũng có
thể hiểu nó theo nghĩa là "vì Giáo pháp" hay "để phục vụ Giáo
pháp".
Vi Diệu Pháp được coi là đặc
biệt vì nó trình bày Giáo pháp trên bình diện lý thuyết tinh truyền thay vì
trình bày nó trong một bối cảnh lịch sử như các kinh - tuy không thể nói rằng
đây là một ưu điểm của nó. Nó được coi là Giáo pháp "cao siêu" vì
người ta nghĩ nó cung cấp một sự cắt nghĩa các thuật ngữ cao hơn lối cắt nghĩa
của chính các kinh.
Nguồn Gốc Và Bối Cảnh
Có vẻ như Abhidharma phát sinh,
hay được xây dựng xoay quanh mātqkā - nghĩa là những danh sách các khái
niệm chuyên môn, lúc ban đầu được dùng như một loại giúp trí nhớ để ghi nhớ các
lời dạy của Phật
(99). Ví dụ, danh sách 37 phẩm trợ đạo Bồ Đề (bodhipakṣika-dharmas),
"những giáo huấn cần thiết để đạt Giác ngộ" (100) có
thể là một ví dụ do chính Đức Phật đưa ra. Chúng ta còn có một ví dụ khác về
khuynh hướng này trong Saṅgīti Sutta (101), trong đó Sāriputta,
người được truyền thống gắn liền với nguồn gốc của Abhidharma, đã đọc ra các
danh sách những lời dạy được sắp xếp theo số thứ tự. Nhìn tổng thể, Abhidharma
biểu trưng cho những cố gắng nhằm rút ra từ các bài giảng của Phật một phát
biểu xuyên suốt và toàn diện về Giáo pháp.
Đa số các kinh sử dụng các hệ
thống phân tích khác nhau về thế giới khả giác, về những gì con người có thể
nhận thức được. Hệ thống phân tích phổ biến nhất là hệ thống phân chia con
người thành năm yếu tố cơ bản (skandhas) là: rūpa, sắc; vedanā,
thọ; saỵjñā, tưởng; saỵskāra, hành; và vijñāna, thức.
Các hệ thống phân tích phổ biến khác chia con người thành mười hai (āyatana)
và mười tám (dhātu): hệ thống mười hai āyatana nhìn kinh
nghiệm dưới góc cạnh của sáu giác quan và các đối tượng liên hệ của chúng; hệ
thống mười tám dhātu gồm mười hai thứ này cộng với sáu lãnh vực giác
quan tương ứng. Mọi yếu tố khác của con người có thể được sắp xếp theo các đề
mục phân tích chính này, và vì thế chúng đặc biệt ích lợi cho những người biên
soạn Abhidharma, họ có thể sử dụng chúng để tổ chức toàn thể tập hợp các chất
liệu.
Chính ở phần Abhidharma của Kinh
tạng chúng ta có thể thấy rõ những khác biệt lớn nhất giữa các trường phái, vì
các trường phái khác nhau có những sưu tập Abhidharma độc đáo riêng của mình.
Vì chúng là những tác phẩm trình bày và sắp xếp có hệ thống, nên các nhà sưu
tập thường sử dụng hay trình bày các lý thuyết đặc trưng mà trường phái của họ
chủ trương, và ở nhiều chỗ họ tìm cách bác bỏ những lí thuyết của các trường
phái đối thủ. Bản Kathāvatthu của trường phái Theravāda chẳng hạn, là
một thủ bản có mục đích bác bỏ "năm trăm quan điểm dị giáo" của 26
trường phái ngoài Theravāda.
Khía Cạnh Văn Học
Vị trí của luận tạng (Abhidharma
Piṭaka) trong kinh điển Phật giáo là một điều nghịch lí khi nó được coi như
lời của chính Đức Phật. Một số quyển của bộ sưu tập này rõ ràng được biên soạn
sau khi Phật nhập Niết bàn khoảng ít là một thế kỷ, thế nhưng những tài liệu
biên niên sử và bình luận sau kinh điển lại cho rằng việc kết tập luận tạng đã
được thực hiện dựa vào những lời đọc ở Đại hội lần thứ nhất. Các bản văn kinh
điển chỉ nhắc tới việc đọc một bản mātqkā. Chỉ có thể lí giải việc đưa
Abhidharma vào trong kinh điển theo kiểu này nếu hiểu theo nghĩa bản mātqkā nguyên
gốc là tác phẩm của chính Đức Phật, và có thể đã được đọc ở Đại hội lần thứ
nhất qua việc tóm lược lời dạy của Phật. Khối lượng lớn các tác phẩm của
Abhidharma còn tồn tại là sản phẩm của thời kì giữa Aśoka (thế kỷ III trước
CN.) và Kaniṣka (thế kỷ I trước CN.). Điều này rất quan trọng, vì nó có nghĩa
là chúng thuộc về một thời kì xấp xỉ cùng với thời kỳ của các kinh Đại Thừa sớm
nhất.
Hai bộ Luận tạng đầy đủ còn tồn
tại tới ngày nay; bộ của trường phái Theravāda ở Đông Nam Á, và bộ của trường
phái Sarvāstivādin ở Tây Bắc Ấn Độ. Mỗi bộ này đều bao gồm bảy khảo
luận, nhưng ngoài ra không có một sự tương đồng nào khác giữa hai bộ. Trên thực
tế, trường phái Sarvāstivādin, ngoại trừ trường phái con của nó là Vaibhāṣika
ở Kashmir, sẵn sàng nhìn nhận rằng các tác phẩm của Abhidharma là sản phẩm của
các tác giả khác nhau, trong đó có Śāriputra và Maudgalyāyāna, là những
môn đệ trực tiếp của Đức Phật. Quyển Jñānaprasthāna là tác phẩm của A La
Hán Kātyāyanīputra (khoảng 200 trước CN.), và những người biên soạn kế tiếp đã
sắp xếp sáu khảo luận Abhidharma còn lại xoay quanh quyển này.
Ngược lại, trường phái Theravāda
nhấn mạnh rằng Abhidharma của họ là tác phẩm của chính Đức Phật - được Ngài
soạn trong tuần lễ thứ tư khi Ngài đến ở Cây Bồ Đề sau khi Giác ngộ, và được
Ngài diễn giải thêm sau này, lần đầu cho mẹ của Ngài và sau đó cho môn đệ của
Ngài là Śāriputra - và chính môn đệ này đã đọc lại cho Đại hội lần thứ nhất.
Chỉ có một ngoại lệ là kinh Kathāvatthu, được cho là đã được
Moggaliputta Tissa khai triển ở Đại hội lần thứ ba, nhưng dù sao vẫn thực sự là
tác phẩm của chính Phật, vì Ngài đã dự kiến trước những sự bất đồng về giáo lý
sẽ xảy ra sau này, và đã phác họa một mātqkā bằng cách nêu ra một mục
lục cho nội dung của Kathāvatthu. Công việc của Moggaliputta Tissa chỉ
là mở rộng những tựa đề này để làm thành khảo luận được đưa vào trong
Abhidharma Piṭaka. Dù sao, trên thực tế, có thể quyển được soạn sớm nhất
trong sưu tập của Theravada là quyển Dhammasaṅganī, đã được soạn một thế
kỷ sau Phật.
Bộ sưu tập của Theravāda là bộ
sưu tập Abhidharma duy nhất còn tồn tại đầy đủ trong bản văn gốc Ấn Độ. Bộ
Abhidharma của Sarvāstivādin, nguyên bản bằng tiếng Phạn, chỉ còn lại
bản dịch tiếng Trung Hoa và Tây Tạng. Sau đây là phân tích tóm tắt những tác
phẩm của hai bộ sưu tập này.
Các Sách Thuộc Bộ Luận Tạng Của Theravāda
1) Dhammasaṅganī, "Bộ pháp
tụ" - liệt kê và định nghĩa những tâm thức thiện, ác, và trung lập, và một
phân tích về hình thể vật chất.
2) Vibhaṅga, "Bộ phân
tích"- phân tích hay phân loại chi tiết mười sáu chủ đề chính của Giáo pháp,
gồm các skandas, nidānas, các yếu tố, các khả năng, sự chú tâm, các yếu
tố giác ngộ (bojjhaṅgas), việc nhập định (jhānas), và tuệ giác.
3) Dhātukatha, "Bộ
chất ngữ" - dựa trên những phân tích về các skandas và ayatanas,
và tiến hành bằng cách hỏi đáp.
4) Puggalapaññati, "Bộ
nhân chế định" - phân tích những loại tính tình, bằng những nhân tố khác
nhau gồm từ một đến mười nhân tố.
5) Kathāvatthu, "Bộ
ngữ tông"- bác bỏ các quan điểm dị giáo của các trường phái Phật giáo
khác.
6) Yamaka, "Bộ
song đối" - liên quan đến việc định nghĩa rõ ràng các thuật ngữ.
7) Paṭṭhāna, "Bộ
vị trí" - tranh luận đầy đủ về pratītya-samutpāda (tính điều kiện
phổ quát).
Các Sách Thuộc Bộ Luận Tạng Của Sarvāstivādin
1) Jñānaprasthāna, "khởi
đầu của trí tuệ" của tác giả Kātyāyanīputra - liên quan tới
định nghĩa các từ ngữ.
2) Prakaraṇapāda, "cơ
sở trình bày" của Vasumitra - thảo luận về những yếu tố nằm trong lãnh vực
phân tích các skandas và một sự duyệt xét sự phân tích này dưới các tiêu đề sắc
(rūpa), tâm (citta), và sở hữu (caitasika dharmas); còn có
một danh sách mười sự kiện tâm linh tích cực.
3) Vijñānakāya, "sưu
tập về thức" của Devaśarman - liên quan tới việc xác nhận các học thuyết Sarvāstivādin
về hiện hữu quá khứ và tương lai của các dharmas, và anātman (vô
ngã).
4) Dharmaskandha, "các
yếu tố chất đống" của Śāriputra - trình bày các kleśas, āyatanas, và
skandhas, và các việc thực hành cần thiết để đạt bậc A La Hán.
5) Prajñaptiśāstra, "khảo
luận về các cách gọi tên" của Maudgalyāyāna - trình bày sự phát
sinh các sự kiện tâm thức, và vũ trụ luận.
6) Dhātukaya, "sưu
tập các yếu tố" của Pūrṇa - trình bày các sự kiện tâm thức tiêu cực và
thường hằng.
7) Saṅgītiparyāya, "cách
thức sắp đặt các sự vật để nhớ lại" của Mahākauṣṭhila (hay Śāriputra) –
bản chú giải về Saṅgīti Sūtra.
Các bản dịch riêng rẽ của các
trường phái Dharmaguptaka, Pudgalavāda, và Mahāsaṅghika còn tồn tại
trong các bản dịch bằng tiếng Trung Hoa.
* Các Phương Pháp Của Abhidharma
Khi Đức Phật phân tích về thế
giới khả giác trong các kinh, Ngài đưa ra một sự phân biệt cơ bản giữa các sự
vật như chúng ta nhìn thấy (sự vật xuất hiện thế nào đối với người không giác
ngộ) và các sự vật hiện thực (sự vật thực sự là thế nào - yathaàbhūta).
Sự phân biệt này được nêu lên trong Abhidharma như là sự phân biệt giữa hai
chân lý: saỵvqti-satya - chân lý thông thường - kiểu sự vật xuất hiện,
và paramārtha-satya - chân lý tối thượng, là đối tượng của yathā-bhūta-jñāna-darśana,
"biết và thấy sự vật đúng theo bản chất thực của chúng". Kế hoạch
của Abhidharma là một cố gắng hệ thống hóa và phân tích mọi cái hiện hữu, thế
giới của nhận thức thông thường, để đưa chúng về những khối các hiện thể tối
hậu gọi là dharmas, nhờ đó tỏ lộ cách thức mà các sự vật thực sự là thế
nào. Dụng cụ để phân tích là việc suy niệm và tư duy phân tích rõ ràng, sáng
sủa. Chỉ những sự vật nào vượt qua được sự phân tích bằng những dụng cụ này mới
có thể coi là những hiện thể tối hậu. Khi những "yếu tố" như thế được
xác định, chúng được gọi là những dharmas - kết quả là có sự trùng lặp
khá lẫn lộn về từ ngữ. Trong bối cảnh này, pháp là một cái gì hiện thực, và nó
được coi là hiện thực vì nó không thể giản lược được nữa. Nó không thể giản
lược là vì nó không được kết hợp bởi những thành phần, dù là thể chất hay phẩm
chất.
Chư pháp
không phải những sự vật cố định, thường hằng, nhưng là những lực tạm thời liên
tục phát sinh trong một dòng chảy. Chúng hiện hữu trong một thời gian rất ngắn,
và trong thời gian đó chúng có sự hiện hữu thực sự. Tâm pháp kéo dài bằng một
phần bảy thời gian của sắc pháp. Vì lý do này, chúng ta thường đồng hóa
"bản ngã" với thân xác, vì có vẻ nó thường hằng hơn những trạng thái
tâm linh thóang qua của chúng ta. Các pháp có thể được mô tả như là những lực
độc nhất, sơ đẳng tạo thành hay làm cơ cở cho dòng chảy của thế giới thông thường.
Vi Diệu Pháp Abhidharma khai triển một khái niệm có tên là svabhāva, theo
đó mỗi loại và mọi loại pháp đều khác với mỗi loại dharma khác do việc
nó sở hữu những đặc tính xác định độc đáo. Mỗi dharma đều có svabhāva,
"tự tính" hay "hữu thể" riêng của nó - là bản thể
nhờ đó nó khác với mọi dharmas khác. Sự khác biệt này có tính chức năng
- bản thể của mỗi dharma được xác định do cái nó làm. Như thế đặc
tính xác định của một sắc pháp (rūpa dharma) là hành động của nó kháng
cự lại nhận thức chủ quan của chúng ta, nghĩa là "tính vật thể" của
nó. "Tính vật thể" này có bốn hình thức sơ đẳng: cứng, lỏng, nóng, và
rung, được ghi nhận bằng những từ đất, nước, lửa, và khí. Trực giác của
Abhidharma là: những sự vật thông thường của thế giới hằng ngày, như các chiếc
bình và cục đá, không có svabhāva bởi vì chúng chỉ là những cấu trúc của
tâm thức được phóng chiếu một cách sai lạc lên những dharmas "thực"
là cái ẩn bên dưới hiện tượng phức tạp ở bề ngoài.
Trong khi gắn liền sự phân tích
này với lối hiểu thông thường của chúng ta về việc thực hành thiêng liêng, mục
đích của sự phân tích này là làm cho các tăng ni phát triển khả năng thường
xuyên phân tích kinh nghiệm thành những các pháp dharmas như thế. Những
mục tiêu chính mà sự phân tích quyết liệt này nhắm vào là khuynh hướng thâm căn
cố đế nhưng đầy ảo tưởng của một người muốn kinh nghiệm về bản thân mình như là
một thực thể cố định và không thay đổi cùng với lòng ham muốn và căm ghét mà
khuynh hướng này kèm theo. Khuynh hướng này được coi là nguyên nhân đệ nhất của
mọi đau khổ trên thế giới, và chức năng chính của việc thực hành thiêng liêng
Phật giáo là việc khử trừ sự đau khổ này. Vì vậy, khi các chuyên gia Abhidharma
phân tích thế giới mà họ tri giác (gồm cả con người của họ) thành những hiện
thể tối hậu gọi là dharmas, họ đứng trước sự kiện là không hề có một
thực thể thường hằng và cố định gọi là "một người". Prajñā hay
trí tuệ này, mục tiêu tiên quyết của phân tích của Abhidharma được gọi là pudgalanairātmya,
"sự vô ngã nơi con người". Rồi điều này sẽ giúp họ nhìn thấy sự vật
đúng theo bản chất của sự vật, trong khi họ xoá sạch được sự dốt nát và khử trừ
được lòng ham muốn và căm ghét.
* Các Trường Phái Bác Bỏ Vi Diệu
Pháp Abhidharma
Không phải mọi trường phái ngoài
Đại Thừa đều chấp nhận kế hoạch của Abhidharma. Hình như có hai lý do cho sự
bác bỏ này:
a) Trường phái Sautrāntika
bác bỏ lời tuyên bố rằng Abhidharma có thẩm quyền tối thượng. Tên của trường
phái này có nghĩa là "Sūtra là tối hậu", ngụ ý rằng theo họ,
không có gì được gọi là kinh điển sau Tạng kinh, tức Tạng thứ hai. Thực ra,
nguồn gốc của trường phái Sautrāntika nằm ở việc phủ nhận việc mở rộng
không ngừng các Vibhāṣa, tức các tác phẩm tóm lược kinh của trường phái Vaibhāṣika-Sarvāstivādin.
Sự đối kháng này ngày càng trở nên sâu đậm cho tới khi thầy Vasubandhu ở thế kỷ
IV viết tác phẩm nổi tiếng Abhidharmakośa, trong đó, ở những đoạn bằng
thơ, thầy nêu lên học thuyết Vaibhāṣika như thầy đã học được nơi sư phụ
của mình là Saṅghabhadra. Trong phần chú giải bằng văn xuôi các đoạn thơ nói
trên, thầy phê bình học thuyết này từ một quan điểm của trường phái Sautrāntika.
Có vẻ như thầy rất thành công với các phê bình của mình đến nỗi rốt cuộc trường
phái xVaibhāṣika đã biến mất, tuy những chủ điểm của nó vẫn còn được học
tại các trường tu viện vì giá trị nội tại của chúng. Từ đó về sau, tác phẩm của
Vasubandhu được coi là một sách giáo khoa chính thức về Abhidharma, trình bày
những triết lý của cả phái Sarvāstivādin và Sautrāntika, và là
điểm tập trung chú ý chính cho các trường phái Đại Thừa trong lãnh vực này, và
vẫn còn là như thế trong các trường Phật giáo Tây Tạng ngày nay. Cũng cần vạch
ra rằng, mặc dù một số trường phái chắc chắn bác bỏ những khảo luận của
Abdhidharma như là sách kinh điển và vì thế không có luận tạng, nhưng họ vẫn có
những khảo luận hay sách giáo khoa không kinh điển của riêng họ và những sách
này cũng có chức năng giống như thế.
b) Cũng có những trường phái,
tuy có thể tạm thời chấp nhận phân tích về pháp, nhưng phủ nhận ý tưởng
rằng những pháp này là hiện thực hay tối hậu. Trong số những trường phái
này, có thể kể trường phái Pīrvaśaila (một trường phái phát sinh từ phái
Mahāsaṅghika), là trường phái chủ trương cái gọi là một quan điểm dharmaśūnyatā
trong kinh Lokānuvartana Sūtra (102) của mình. Thuật ngữ dharmaśūnyatā,
"pháp không hay tính trống rỗng của mọi sự vật hiện tượng" được
dùng để chỉ rằng, cũng giống như các vật thể thông thường trong thế giới phải
được coi là những vật vô ngã, svabhāvaśūnya, thì những dharmas của
phân tích Abhidharma cũng phải được coi như thế. Vì vậy, các pháp không
thể được coi là những hiện thể tối hậu. Các học thuyết về Dharmaśūnyatā
cũng xuất hiện trong tác phẩm thuộc trường phái Mahāsaṅghika là Thành
Thành Luận (Satyasiddhi-śāstra) của Harivarman (thế kỷ III)
(103).
Sự kiện có những bất đồng ý kiến
về giá trị việc phân tích của Abhidharma, và sự kiện lý thuyết về các
"pháp hiện thực" bị một số nhà Phật học bác bỏ, là những sự kiện có ý
nghĩa lớn đối với lịch sử phôi thai của Đại Thừa.
11
NGUỒN GỐC CỦA ĐẠI THỪA
Trong
những thế kỷ trước và sau khởi đầu của công nguyên, đã bắt đầu xuất hiện những
học thuyết phê bình các khía cạnh của Phật giáo của các trường phái Nguyên
thủy, và đưa vào những quan tâm tôn giáo mới riêng của họ. Dưới góc nhìn thời
nay, không thể nào biết được chính xác bối cảnh của những sự tiến triển này,
ngoài sự kiện chúng được lồng vào những kinh mới không thuộc về Tam Tạng của
các trường phái thời kỳ đầu. Dần dần, phong trào mới này tự gọi mình là Mahāyāna,
có nghĩa là "Đại Đạo", bằng cách đối lập với những trường phái không
phải Mahāyāna mà họ gán cho cái tên gọi là Hīnayāna, nghĩa là "Tiểu
Đạo hay Hạ Đạo". (Từ yāna cũng thường được hiểu với nghĩa là
"cỗ xe". Nghĩa này cũng thích hợp, nhưng trong kinh Saddharma-puṇḍarīka
Sūtra của Mahāyāna thời kỳ đầu, rõ ràng yāna được hiểu theo nghĩa
rộng là "đường", hay "đạo". Có lẽ sự lẫn lộn này đã bắt
nguồn từ những bản dịch tiếng Trung Hoa của Saddharma-puṇḍarīka Sūtra
(104) - Kinh Diệu Pháp Liên Hoa) [*] Phái Đại Thừa cho rằng
những mục tiêu và ước vọng của các trường phái ngoài Đại Thừa - đạt sự giải
thoát cá nhân và bậc A La Hán - là ích kỷ và thiếu sót, và họ thay thế bằng sự
nhấn mạnh triệt để vào sự vị tha và Giác ngộ hoàn toàn, trở thành Bồ tát, và
trở thành một vị Phật toàn giác để có thể cứu độ chúng sinh.
[*] Ngoại trừ đoạn này của tác
giả, tất cả các chỗ khác trong bản dịch này vẫn dùng tên gọi "Đại
thừa" để dịch Mahàyàna, và "Tiểu thừa" để dịch Hìnayàna, theo
lối nói thông dụng tại Việt Nam (người dịch).
Tuy nhiên, việc tự đặt tên cho
phái của mình là "Đại Thừa" không phải đã xuất hiện ngay từ đầu.
Những đoạn văn cổ xưa nhất của kinh Saddharma-puṇḍarīka và Aṣṭasāhasrikā-Prajñāpāramitā
Sūtra không có một số thuật ngữ Đại Thừa trọng yếu (105), và
những kinh Vajracchedikā và Kāśyapa-parivata không nhắc đến lý
tưởng Bồ tát (106). Kinh Ajitasena Sūtra được xem là một kinh
tiền - Đại Thừa (107), mô tả một śrāvaka và một bà già giặt
quần áo cùng được tiên báo sẽ trở thành Phật toàn giác, và trong suốt kinh này
không hề có chỗ nào phê bình các lí tưởng thiêng liêng của các trường phái
ngoài Đại Thừa, cũng không hề nhắc tới từ Mahāyāna. Nhìn chung, các chứng cớ
trong văn bản cũng như trên các bia khắc đều không cho thấy tên gọi Mahāyāna
được thịnh hành trước thế kỷ IV. (108) Nhưng những bản văn cổ xưa
này cho thấy ba lãnh vực đặc trưng cho những mối quan tâm riêng của phái Đại
Thừa, đó là: lập trường giáo lý và những việc thực hành của các trường phái
Abdhidharma, sự thay đổi thân phận của Đức Phật, và mối tương quan giữa thân
phận của người xuất gia và người phàm trong việc đạt giác ngộ - từng điểm một
đều là những câu trả lời cho những xu hướng phát triển được thấy rõ trong những
trường phái ban đầu.
Trong số các kinh cổ xưa nhất
của Đại Thừa, các kinh Bát-nhã Ba-la-mật (Perfection of Wisdom) đả kích
quan điểm được gán cho những người theo Vi Diệu Pháp (và có lẽ là một ám chỉ
trực tiếp tới thuyết sarvam asti của phái Sarvāstivādin (109)),
vì quan điểm này cho rằng các dharmas của Vi Diệu Pháp có một loại hiện
hữu tối hậu, theo nghĩa là chúng biểu trưng cho những yếu tố thường hằng và
không thể giản lược, từ đó phát sinh các sự vật của thế giới kinh nghiệm. Trọng
tâm của cuộc tranh luận này là khái niệm svabhāva, "tự tánh hay bản
thể" mà Vi Diệu Pháp dùng để nói về đặc tính độc đáo xác định các dharmas.
Kinh Bát-nhã mở rộng ý nghĩa "đặc tính xác định" của thuật ngữ svabhāva
này để hiểu nó đồng nghĩa với "hiện hữu nội tại", nghĩa là hiện
hữu thường hằng, tối hậu. Hiểu như thế, svabhāva không chỉ trở thành một
khái niệm chuyên môn của Vi Diệu Pháp, mà còn là một tóm lược các quan điểm
thông thường về sự thường hằng và hữu ngã trong thế giới. Phê bình này lập luận
rằng, mặc dù Vi Diệu Pháp cho rằng nó đã đạt tới chân lí tối thượng bằng việc
phân tích mọi kinh nghiệm thành những yếu tố cấu thành nó là những dharmas, trong
thực tế Vi Diệu Pháp đã rơi vào cùng một sai lầm giống như con người không giác
ngộ, vì nó gán cho những dharmas này một sự hiện hữu thường hằng, tối
hậu. Nếu như Vi Diệu Pháp dạy về pudgalanairātmya, "nhân không hay
con người không có bản ngã" thế nào, thì Kinh Bát-nhã cũng dạy về dharmaśūnyatā,
"sự trống rỗng của dharma" như thế.
Ngoài ra, Vi Diệu Pháp có vẻ như
khai triển một khái niệm tương đối tiêu cực về Niết bàn. Điều này được biểu
hiện qua việc coi sự thực hành kinh nghiệm thiêng liêng một cách khá hẹp hòi và
không phù hợp với cảm xúc, loại bỏ khả năng tiến bộ thiêng liêng qua sự tương
tác cá nhân và sự mộ đạo (110) - mặc dù trong kinh điển Pāli có
nhiều gợi ý rằng những việc này nguyên thủy rất quan trọng. Hơn nữa, Vi Diệu
Pháp thời kỳ sau tạo ấn tượng rằng chỉ cần thấu triệt được con số các yếu tố
cũng được coi là đạt được trí tuệ thiêng liêng (111). Vì thế Đại
Thừa nhấn mạnh về sự "hoàn thiện" trí tuệ, sự thành đạt trí tuệ, là
điều hoàn toàn siêu vượt trí tuệ của Vi Diệu Pháp.
Người ta thấy rõ rằng bản tính
của Độc giác và của Phật Bảo là một vấn đề được quan tâm và tranh cãi trong các
trường phái ngoài Đại Thừa. Nhiều kinh Đại Thừa làm chứng về những ước vọng sâu
xa của nhiều Phật tử là được thấy các vị Phật, dù là Phật Thích Ca Mâu Ni hay
những vị Phật khác sau này. Sự phát triển này rõ ràng có liên quan tới những
trường phái thiền ở Kashmir và Trung Á, từ đó
có thể đã phát sinh những ý tưởng về các vị Phật "Thiền" và Bồ tát.
Các kinh Đại Thừa mới trình bày một số hình thức thực hành thiêng liêng xoay
quanh việc tôn sùng những vị Phật và Bồ tát lý tưởng mới này (112).
Bối cảnh lịch sử của thời kỳ phát sinh Đại Thừa này là một thời kỳ chính trị
đầy rối loạn và nhiễu nhương ở miền Bắc Ấn Độ. Các cuộc ngược đãi Phật giáo của
Puṣyamitra Śuṅga (183-147 trước CN.) được tiếp nối bằng những cuộc xâm lăng
liên tục từ phía Tây Bắc, bắt đầu là cuộc xâm lăng của những người Śakas
(khoảng 90 trước CN.). Vua Kaniṣka là một vị vua bảo trợ Phật giáo, đã giành
được quyền kiểm soát vương quốc ở phía Tây Bắc từng được thiết lập bởi làn sóng
xâm lăng thứ hai bắt đầu vào đầu thế kỷ I CN. Có thể chắc là tình trạng bất ổn
định và thiếu an toàn của thời kỳ này đã góp phần làm phát sinh những hình thức
tôn giáo mới được mô tả là phái Đại Thừa, và có thể là ở nhiều nơi, việc thực
hành buddhānusmqti, niệm Phật, được khuyến khích như là một liều thuốc
giải chống lại sự sợ hãi (113).
Các kinh Đại Thừa rõ ràng đánh
giá lại những vai trò tương quan giữa người hành đạo xuất gia và những người
thế tục, cho thấy rõ rằng phong trào mới này ít nhấn mạnh ở danh nghĩa là một
người xuất gia như điều kiện tiên quyết để trở thành Bồ Tát. Điều này được gợi
ý từ những dẫn chứng thường xuyên về những con người thế tục, đôi khi là phụ
nữ, đã đạt tới những mức độ cao, và đạt tột đỉnh nơi nhân vật Duy-ma-cật (Vimalakīrti),
một vị Bồ tát tại gia vượt lên trên tất cả những śrāvakas và cả những vị
Bồ tát mẫu mực nữa. Nguyên tắc ở đây có lẽ là việc đạt bậc thánh không bị giới
hạn hay xác định bởi địa vị hay vai trò chính thức mà người ta có trong Tăng
Già.
Tuy nhiên, điều này không nhằm
công nhận Đại Thừa là do các tục nhân khỏi xướng, như thường được khẳng định
như vậy, đặc biệt nơi các học giả Nhật Bản. Điều như vậy không thể xẩy ra được
vì những cải cách đổi mới xuất hiện nơi Phái Đại Thừa luôn luôn có liên đới với
các nhà sư. Nhân vật đề xuất vĩ đại các Kinh Bát nhã Ba-la-mật-đa (Perfection
of Wisdom) này chính là nhà sư tên là Long Thọ – ngrjuna , và ngay cả khi có
người đặt vấn đề về tính chính xác nơi những bản kinh mới, thì việc buộc tội
cũng không bao giờ nhắm vào những sáng tạo phàm tục. Có một bằng chứng khắc
trên đá không thấy ám chỉ bất kỳ một bảo trợ đáng kể nào thuộc phần người đời
có dụng ý tham gia vào phong trào Đại Thừa này, mãi cho đến thế kỷ thứ sáu sau
CN, tức là sáu trăm năm sau ngày Các Kinh Đại Thừa được biên soạn, vào thời điểm,
tính theo cách sắp xếp các nghiên cứu niên đại qui ước cho thấy, trường phái
Kim Cương Thừa (Vajrayana) đã thế chỗ Trường Phái Đại Thừa. Không có bằng chứng
nào cho thấy Trường Phái Đại Thừa đã toan tính phỉ báng hay loại bỏ cách sống
tu trì (như một số người thường cho rằng việc này có liên quan đến một cuộc
'chống đối' của nhân tố người đời ở đây. Nếu như điều này ghi lại được bất kỳ
điều gì thuộc quan điểm chánh đạo khổ hạnh hơn, thì đó cũng chỉ là những lời
phê phán được lặp đi lặp lại về những nhà sư nào quay trở lại với đời sống
ngoài đời. Như trong Tam Tạng Kinh thuộc các trường phái ngoài Đai Thừa, những
Kinh gồm cả những người đối thoại phàm tục lẫn các vị ẩn sĩ. Và những giáo lý
dành cho các cộng đoàn người cư sĩ lẫn người xuất gia (thí dụ: Kinh Ugradattapariprccha
và Upalipaiprccha) Các Kinh Phật thuộc phái Đại Thừa rõ ràng là sản phẩm
chỉ xuất hiện nơi bối cảnh tu trì mà thôi. Đặc biệt các kinh có liên quan đến
hành thiền như đã nhắc đến ở trên, vì những cuộc hành thiền tập trung cao độ
chắc chắn chỉ là đặc ân thấy nơi các vị chuyên viên đã thoát khỏi mọi ràng buộc
trách nhiệm gia đình. Tuy nhiên, rõ ràng những vị sư này đã có tầm nhìn phát
triển tâm linh, vượt lên hẳn những thói hình thức tu hành, và rất có thể điều
này có liên quan đến với trào lưu rõ ràng nơi một số các trường phái thời ban
đầu đã đặt vấn đề về thân phận một vị A-la-hán.
Cần nhớ lại rằng vào thời kì này
(thế kỷ I trước CN. tới thế kỷ I CN.), Phật giáo đã trở thành một hiện tượng ít
sôi động hơn là cộng đồng ban đầu vào thời Đức Phật. Phật giáo lúc này được
thừa hưởng nhiều của cải đất đai do dâng cúng, và được các vị vua bảo trợ, đặc
biệt các vị vua xâm lăng ngoại quốc muốn tìm sự ủng hộ của Phật giáo để chống
lại học thuyết Bà La Môn giáo của Ấn Độ, vì Bà La Môn giáo luôn coi người nước
ngoài như là thành phần ti tiện nhất trong xã hội và tôn giáo. Việc phát triển
đời sống tu viện, sự tăng dần tính phức tạp của nó (biểu hiện nơi sự phát triển
luật Vinaya) chắc hẳn đã làm phát sinh sự phân cách sâu xa hơn giữa đời sống tu
và đời sống thế tục.
Có thể những nhân vật thế tục
được trình bày một cách rất tích cực trong các kinh Đại Thừa, là một sự phê
bình mặc nhiên mà những người thuộc trường phái Mahāsaṅgha dùng để chống lại
những Tỳ khưu bảo thủ và tự phụ, những người tuyên bố rằng giác ngộ chỉ dành
cho các Tỳ khưu, và vì thế chỉ Tỳ khưu là có được đặc quyền của bậc A La Hán.
Trong khi vào thời Đức Phật, Giác ngộ được nhìn như là một sự thành đạt duy
nhất, không phân biệt, theo nghĩa sự Giác ngộ mà người môn đệ đạt được thì cũng
hoàn toàn giống sự Giác ngộ mà Đức Phật đã đạt được, thì người Đại Thừa lại
nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai sự thành đạt này để hạ thấp địa vị của những
người được coi là A La Hán trong các tu viện, và để khẳng định lại những giá
trị thiêng liêng nguyên thủy trong lời dạy của Đức Phật. Mặt khác, việc nhấn
mạnh vào các năng lực kỳ diệu của các môn đệ thế tục có thể cũng được dùng như
là những ẩn dụ để nói về năng lực của những lí tưởng thiêng liêng được đề cao
trong các kinh điển mới. Dù thế nào, vì mục tiêu trở thành Phật toàn giác sẽ
được coi là cao hơn bậc A La Hán, nên người thế tục với khả năng trở thành Bồ
tát cũng có một tầm quan trọng lớn. Về phương diện này, ảnh hưởng của các câu
chuyện trong tiền thân (Jātaka) có một ý nghĩa rất lớn, vì trong những câu
chuyện này, người sẽ trở thành Phật được mô tả như những con người bình thường,
thậm chí như những con vật, mà truyện Jātaka lại luôn luôn là một trong
những phương tiện phổ biến nhất để giáo hóa người ta.
Nhưng động lực nằm trong sự phát
triển này không phải là một sự li khai theo nghĩa chuyên môn. Trong khi lý
thuyết Đại Thừa tiến triển nhất phê phán những thái độ của Tiểu Thừa, điều này
phát xuất từ ý thức cá nhân, chứ không phải từ một cơ chế có tính chất kỳ thị.
Không hề có cái gọi là luật Vinaya Đại Thừa. Mọi tỳ khưu Đại Thừa đều được thụ
giới trong các Nikāyas của các trường phái ngoài Đại Thừa, và tuân giữ
bất cứ loại luật Vinaya nào thuộc về Nikāya đó. Các tỳ khưu Đại Thừa
sống trong cùng các tu viện với các huynh đệ "Tiểu Thừa" của mình,
như ghi nhận của các người hành hương Trung Hoa thời trung cổ, tuy rằng họ cũng
bổ sung luật Vinaya chung bằng những quan điểm đặc trưng của riêng họ về luân
lý. Xét riêng, học thuyết mới về upāya, "phương tiện [hiệu
quả]" đã tương đối hóa luật Vinaya bằng cách khẳng định lại tính thiết
thực thiêng liêng trong việc thực hiện từ bi vượt qua tính hình thức của luật.
Ngay cả ngày nay, các Phật tử Tây Tạng tất cả đều theo giáo lý Đại Thừa, nhưng
họ đều giữ luật Vinaya của trường phái Mūla-Sarvāstivādin.
Ngoài việc thờ những vị Phật và
Bồ tát mới, hình như Đại Thừa thời kỳ đầu cũng thờ các kinh Sūtra mới.
Nhiều kinh Sūtra xưa có những đoạn trong đó người nghe được khuyến khích
thờ kinh, dùng hương, cờ, và chuông, giống như đối với việc thờ tháp stūpa (115)..
Trên bình diện tổ chức, hình như từ đầu, Đại Thừa là một hình thức liên minh
không chính thức giữa những người tôn thờ những kinh mà họ yêu mến, trong những
cuộc hội họp họ đọc, học, và thờ các kinh riêng của họ.
Các kinh Đại Thừa vẽ lên một bức
tranh cho thấy họ đã được phổ biến rộng rãi, để nói rằng phong trào này đã
thành công lớn và mau chóng giành được sự ủng hộ của mọi người, trừ những người
có tinh thần cố chấp và thiển cận nhất. Nhưng sự thực có thể không hoàn toàn
như thế. Như đã nhắc tới ở trên, không có chứng cớ cho thấy nó được giới thế
tục ủng hộ trước thế kỷ VI, hay đã có người tự nhận mình là Đại Thừa trước thế
kỷ IV. Những người Trung Hoa hành hương tới Ấn Độ từ thế kỷ V tới giữa thế kỷ
VII đã nhận xét rằng đa số các Tỳ khưu tại đây đều thuộc trường phái Tiểu Thừa.
Nhà sử học Tây Tạng ở thế kỷ XIV, Tārānātha, ghi nhận rằng phần lớn Phật tử Ấn
Độ bác bỏ giá trị kinh điển của các kinh Đại Thừa, với lý do những kinh này
không có trong Tam Tạng, và vì thế không thể là lời dạy của Phật (116).
Có thể là dần dần chúng ta sẽ
phải thấy Đại Thừa ở chính Ấn Độ như một mối quan tâm chủ yếu trong giới Tỳ
khưu, giới hạn vào một thiểu số Tỳ khưu nào đó mà thôi. Nhưng Đại Thừa đã đạt
những thành công lớn nhất ở ngoài Ấn Độ, khi nó bành trướng qua ngả Trung Á đến
Tây Tạng, Trung Hoa, Triều Tiên, và Nhật Bản, là những nơi nó có khả năng hoàn
toàn thay thế vị trí của các trường phái ngoài Đại Thừa.
12
CÁC KINH ĐẠI THỪA – KINH ĐIỂN MỚI
Nét đặc trưng phổ biến
nhất về sự xuất hiện và phát triển về sau của phái Đại Thừa là việc biên soạn
rất nhiều kinh Sūtra để dạy những học thuyết Đại Thừa, và đề cao lý
tưởng tôn giáo mới của Đại Thừa, vị Bồ tát. Khác với các kinh trong Tam Tạng mà
phần lớn có tính chất lịch sử, các kinh Đại Thừa có khuynh hướng hoặc dài dòng
và trừu tượng, hoặc vẽ lại một thế giới thần thông của các nhân vật mẫu mực lí
tưởng tách rời với thời gian và không gian lịch sử, và khêu gợi mạnh trí tưởng
tượng thiêng liêng, mà các kinh này khai triển và biến đổi bằng những câu
chuyện thị kiến (117). Kinh điển mới không tạo thành một tập hợp học
thuyết thuần nhất và hệ thống; nhưng trình bày những học thuyết khác nhau và
thậm chí có vẻ mâu thuẫn nhau. Hơn nữa, nhiều kinh rõ ràng là những tác phẩm
kết hợp, được soạn tác qua nhiều thế kỷ, và bản văn cuối cùng được hình thành
bởi những tầng chất liệu của những thời đại khác nhau, và đôi khi có những quan
điểm khác nhau, khiến cho mỗi kinh không nhất thiết trình bày một học thuyết
nhất quán, thống nhất. Hậu quả của tình trạng này là sự phát sinh những truyền
thống diễn giải khác nhau để cắt nghĩa học thuyết của các bản văn mới, và những
truyền thống nào nhất quán hơn sẽ tạo thành những trường phái riêng biệt
(118).
Các kinh mới đã xuất hiện qua
nhiều thế kỷ, từ thế kỷ I trước CN. tới ít là giữa thiên niên kỷ thứ nhất của
công nguyên. Tất cả những kinh Đại Thừa cổ xưa nhất được soạn bằng ngôn ngữ
Ấn-Āryan Trung (Middle Indo-Aryan - MIA), về sau được Phạn hóa, có thể là dưới
ảnh hưởng của triều đại Gupta (khoảng 320-540 CN.), là triều đại chọn tiếng
Phạn làm ngôn ngữ chính thức. Những phần cổ xưa hơn bằng văn vần của các kinh
này còn tồn tại bằng ngôn ngữ kết hợp MIA/Phạn. Những bản văn muộn nhất được
viết hoàn toàn bằng tiếng Phạn bình thường. Không có kinh điển riêng của Đại
Thừa để đối chiếu với Tam Tạng của các trường phái ngoài Đại Thừa, vì bản chất
giáo huấn của Đại Thừa là đại đồng chứ không độc quyền. Vì vậy ngoài các kinh
của mình, Đại Thừa cũng chấp nhận và kính trọng tất cả các kinh của bộ Tam
Tạng. Trong một số kinh của Đại Thừa có nhắc đến mười hai thể loại Kinh (aṅgas),
mà có thể dựa theo đó Tam Tạng đã được tổ chức trong hình thức nguyên thủy
của nó.
Nhiều kinh của Đại Thừa được mô
tả là Kinh Phương Quảng (vaipulya), nghĩa là "mở
rộng", theo nghĩa là chúng thường dài hơn rất nhiều so với những kinh dài
nhất của Tam Tạng, và cũng theo nghĩa chúng hàm chứa một viễn tượng toàn diện
về Giáo pháp. Chúng ta không biết rõ những bản văn này nguyên thủy đã được
truyền miệng hay được soạn tác thành văn. Có thể là, do những bản văn này rất
dài, mỗi Tỳ khưu chỉ có thể nhớ được một hay hai trong số những sưu tập này,
khác với những sưu tập đầy đủ của Tam Tạng mà các bhāṇakas của các
trường phái ngoài Đại Thừa có thể đọc thuộc lòng. Giống như các Tam Tạng, các
kinh Đại Thừa đã tạo ra những tác phẩm bình luận được viết cả ở Ấn Độ lẫn những
nước khác (119).
Nguồn Gốc
Truyền thống Đại Thừa luôn luôn
nhất trí rằng, tuy có những khác biệt về sự nhấn mạnh giữa các kinh Đại Thừa và
Tiểu Thừa, nhưng tất cả đều được chính Đức Thích Ca Mâu Ni của lịch sử giảng
dạy. Trong khi các kinh của Tam Tạng được chấp nhận như là giảng theo lối hiểu
của những con người bình thường, thì các kinh Đại Thừa được cho là giảng trên
một bình diện hiện hữu tinh tế, cao quý hơn, cho một thành phần thính giả gồm
những thần thánh, những môn đệ tiến bộ nhất của Đức Phật, và những vị Bồ tát ở
các hành tinh khác như Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśri), Quán Thế Âm (Avalokiteśvara)
và Đại Thế Chí (Mahāsthāmaprāpta). Thậm chí cũng có một truyền thống về một Đại
hội "lần thứ nhất" khác trong đó người ta đọc tất cả các kinh Đại
Thừa, do Bồ tát Mañjuśri chủ trì, và Đại hội này đã diễn ra trên cùng bình diện
thực tại giống như chính các kinh lần đầu tiên được Thích Ca Mâu Ni mạc khải.
Tuy nhiên, những chứng cớ về ngôn ngữ, văn bản, xã hội, và đôi khi về học
thuyết do chính những kinh cung cấp cho thấy việc soạn tác ở một thời muộn hơn,
và điều có tính quyết định nhất, là những kinh này minh nhiên phê bình một số
giáo lý và thực hành của Tiểu Thừa mà rõ ràng chúng thấy là đã có trước chúng.
Có thể suy diễn ra nhiều yếu tố
để giải thích sự xuất hiện của những "kinh" mới này. Trước hết, có
khả năng các kinh Đại Thừa ghi lại thực sự những lời dạy của Đức Phật lịch sử
mà Tam Tạng không ghi lại, và chỉ bắt đầu thấy rõ nhiều thế kỷ sau khi Đức Phật
qua đời. Câu chuyện về Purāṇa ở Đại hội lần thứ nhất gợi ý cho thấy một cách mà
điều này có thể đã xảy ra. Khả năng còn lại là việc viết thành văn bản như một
phương tiện để bảo tồn lời dạy của Phật vào khoảng thời kỳ này (vḍ., Tam Tạng
Pāli được viết năm 17 trước CN.) đã đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo
tồn và phổ biến những bài giảng xa lạ đối với Tam Tạng, dù chúng có thực sự
phát xuất từ chính Đức Phật hay không. Thứ hai, nhiều kinh Đại Thừa liên quan
tới những kinh nghiệm thiền định sâu xa, và ít là có một kinh, kinh Pratyutpanna
Sūtra, dạy một kiểu thiền định samādhi có thể làm cho người ta thấy
một hay nhiều vị Phật, nghe họ giảng dạy, và sau đó người ta sẽ có thể truyền
đạt lời giảng dạy ấy cho người khác (120). Thứ ba, trong Đại Thừa,
nguyên tắc để một điều gì đó có thể được coi là một lời nói của Giáo pháp thì
rộng rãi hơn nhiều. Śāntideva trích dẫn kinh Adhyāśayasaỵcodana Sūtra
về bốn tính chất của một lời giảng dạy chứng minh nó là lời của Phật:
a) Nó phải liên quan tới chân lý;
b) Nó phải liên quan tới Giáo pháp;
c) Nó phải giúp người ta từ bỏ những thói hư tật xấu;
d) Nó phải phản ánh những tính chất của Niết bàn, chứ không phải của luân hồi
(121).
Thay vì coi kinh điển như đã kết
thúc không còn gì để thêm vào nữa, giống như Tam Tạng được coi như kết thúc ở
Đại hội lần thứ nhất, Đại Thừa rõ ràng chấp nhận một thái độ rộng mở, sẵn sàng
đón nhận mọi lời giảng dạy nào hiệu quả - tự nó là phản ánh học thuyết mới về upāya,
"phương tiện [hiệu quả]" (xem dưới đây).
Khoảng 600 kinh Đại Thừa còn tồn
tại tới ngày nay, bằng tiếng Phạn hay bằng những bản dịch Tây Tạng và Trung
Hoa. Sau đây là khái quát những nhóm kinh khác nhau được tập hợp thành nhóm dựa
theo bản chất những lời giảng dạy của các kinh, nhưng cũng cần nhớ rằng, những
lối phân nhóm này không phải tự nhiên, và nhiều kinh không thể xếp riêng vào
một nhóm nào, mà thích hợp hơn nên kể nó vào loại chung "Đại Thừa".
Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajñāpāramitā Sūtra)
Các kinh Prajñāpāramitā,
Bát nhã ba la mật, nghĩa là sự toàn thiện của trí tuệ, là một tập hợp các tác
phẩm bàn về đề tài prajñā, hay trí tuệ mới, do Đại Thừa giảng dạy. Được
dùng như là phương tiện giảng dạy trong chính Đại Thừa thời kỳ đầu, một số bản
văn thuộc loại này là những kinh Đại Thừa cổ xưa nhất, có lẽ đã có từ thế kỷ I
trước CN. . Có bốn giai đoạn được công nhận trong sự phát triển những bản kinh
chính (122).
a) 100-100 trước và sau công
nguyên: kinh Ratnagunasamcayagāthā và kinh Astasāhasrikā (8.000 dong)
b) 100-300 công nguyên: giai
đoạn phát thảo bản dịch, khoảng 18.000, 25.000 và 100.000 dòng (có khả năng là
kinh Vajracchedika).
c) 300-500 công nguyên: giai
đoạn hoàn thành kinh trái tim (mặc dù có một số điển hình chứng minh cho thấy
những bản kinh đặc biệt đó được viết bằng chữ Trung Quốc và sau đó dịch sang
tiếng Sanskrit (123)
d) 500-1000 công nguyên: giai
đoạn phát triển và ảnh hưởng kinh văn.
Các kinh tự nó không khai triển
một lý luận triết học nào, mà chỉ là khẳng định cách thức thực sự của sự vật,
đó là không có gì là hiện hữu tối hậu, cho dù là các dharmas mà phân
tích của Vi Diệu Pháp cho là thực hữu. Các kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, và lập
trường của chúng về dharmaśūnyatā (pháp không) không được mọi người
thuộc trường phái Đạo Bồ tát chấp nhận (124).
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (Saddharma-Pundarika
Sūtra)
Niên đại sớm nhất có thể chắc
chắn về kinh này là từ khoảng 100 trước CN. tới 100 CN. Đây là một tập hợp văn
bản, được chia thành hai phần lớn, phần thứ nhất bàn về học thuyết phương tiện upāya
và nhất thừa ekayāna, và phần thứ hai bàn về tuổi thọ của Đức Phật. Upāya,
nghĩa là "phương tiện hiệu quả", là học thuyết trung tâm của
kinh, và mô tả cách thức mà Đức Phật thích nghi lời giảng dạy của mình với tâm
trạng và trình độ của người nghe, nghĩa là giá trị của một lời giảng dạy tuỳ
thuộc vào hiệu quả của nó. Học thuyết này đã trở thành phương tiện hàng đầu để
giải thích sự đa dạng của lời giảng dạy của các kinh, vì những kinh được nghĩ
là không giảng dạy chân lý tuyệt đối, paramārtha-satya, đều được coi là
những upāya của Đức Phật. Lời dạy về ekayāna, một con đường, dạy
rằng cả ba yānas là śrāvaka-yāna (Thanh Văn thừa), pratyekabuddha-yāna
(Độc Giác thừa, tức con đường của những vị Phật đã tự mình đạt Giác ngộ, và
không giáo hóa chúng sinh), và bodhisattva-yāna (con đường của Bồ tát)
không phải là ba phương pháp biệt lập dẫn tới những mục tiêu khác nhau, mà chỉ
là một yāna, được đồng hóa với boddhisattva-yāna con đường của
việc thực hành Đại Thừa bao gồm Lục độ và dẫn tới bậc Phật hoàn hảo sung mãn.
Những yāna trước chỉ là những upāya, là những sự thích nghi mà
Phật đã sử dụng cho phù hợp với khả năng và mức độ phát triển thiêng liêng của
những cá nhân khác nhau. Trong số những lí do khiến cho kinh này trở thành phổ
biến, phải kể đến việc sử dụng rất dồi dào và mạnh mẽ các dụ ngôn để minh hoạ upāya
và ekayāna. Người ta cho rằng những người ca ngợi và phổ biến kinh này
nhận được nhiều lợi ích to lớn, và ở Trung Hoa và Nhật Bản, người ta cho rằng
kinh này có quyền lực thần thông.
Khi vị Phật Prabhūtaratna xưa
xuất hiện, ở chương 11, Ngài tỏ lộ rằng kinh này không phải mới, nhưng đã
thường xuyên được giảng dạy trong các thế đại trước. Sự xuất hiện của Ngài cũng
chứng tỏ rằng nhiều vị Phật có thể cùng hiện hữu trong một thời và tại một nơi,
ngược với quan điểm trước kia rằng chỉ có một vị Phật có thể xuất hiện tại một
nơi trong cùng một lúc. Nó cũng khẳng định rằng một vị Phật sau khi nhập Niết
bàn thì vẫn có thể gặp được, vì Phật Prabhūtaratna đã chết từ nhiều thế đại
trước. Điều này chứng minh rằng ngay cả sự viên tịch của Phật Thích Ca Mâu Ni
cũng là một upāya. Trong thực tế, tuổi thọ của Ngài dài không thể tưởng
tượng nổi, vì Ngài đã thu tích được vô vàn công đức qua vô số những kiếp sống
đã qua của Ngài.
Kinh Sukhāvatī-vyūha Sūtra
Tiểu Kinh Tịnh Độ (Sukhāvatī-vyūha
Sūtra) mô tả và cắt nghĩa về nguồn gốc của Tịnh Độ (Pure Land) của
Phật A Di Đà vô lượng quang, "sự Rực rỡ vô biên", Ngài cũng được nhắc
tới trong kinh Lotus và Pratyutpaññā Sūtras. Trong Đại Kinh
Tịnh Độ (Sukhāvatī Sūtra), vị Bồ tát Dharmākara tuyên bốn
mươi sáu lời thề, trong đó Ngài cam kết xây dựng một miền đất thanh tịnh để cho
chúng sinh có thể thực hành Phật pháp một cách hết sức dễ dàng. Đất này được
gọi là Sukhāvatī, "cực lạc", được mô tả hết sức chi tiết, có
vẻ như kinh này được soạn để dùng làm cẩm nang suy niệm thị kiến, và cũng gây
một ấn tượng về một thế giới thần thông với sự hoan lạc về âm thanh và hình
ảnh. Dharmākara, lúc này đã trở thành Phật A Di Đà, chủ trì đất này, trong đó
chúng sinh chỉ cần tôn sùng Ngài là có thể được sinh ra trên đời này. Điều này
có thể được, bởi vì bây giờ Ngài chuyển sang cho họ những công đức bao la mà
Ngài đã thu tích được qua việc thực hiện các lời thề của Ngài. Những ai muốn
tái sinh trên đất này phải sống một đời sống thanh tịnh, phải luôn tưởng nhớ
đến A Di Đà, ca ngợi Ngài, kể lại những nhân đức của Ngài, và lặp đi lặp lại
tên của Ngài. Họ phải tin vững vào hiệu quả lời thề của Ngài, và phải hình dung
ra Ngài trong Đất Thanh Tịnh của Ngài. Shukhāvatī cung cấp cho họ những điều
kiện tốt nhất cho việc thực hành siêu nhiên, nhờ đó bảo đảm được Giác ngộ.
Các kinh Tịnh Độ rất phổ biến ở Kashmir và Trung Á, có lẽ là nơi những kinh này đã phát
xuất. Các kinh này được truyền sang Trung Hoa từ rất sớm (kinh dài nhất được
dịch sang tiếng Trung Hoa năm 223 CN.), tại đây nó đã có một ảnh hưởng lớn, và
tạo thành cơ sở cho trường phái Thanh Tú. Phật A Di Đà được nhắc đến ở thế kỷ
II CN. (125) bởi Nāgārjuna, người được coi là ông tổ đầu tiên của
truyền thống Tịnh Độ tại Trung Hoa.
Kinh Vimalakīrti-nirdeśa
Kinh Vimalakīrti-nirdeśa
Sūtra, hay "Kinh Duy-ma-cật Sở Thuyết", kể lại việc hoằng
pháp của một người thế tục là Vimalakīrti cho một thành phần thính giả
gồm các vị Bồ tát và Tỳ khưu. Sách này là một khẳng định triệt để về giá trị
của việc hành đạo trong giới người thế tục ngoài giới tăng lữ, và mối nguy hiểm
của việc đánh giá người khác một cách hời hợt dựa vào dáng vẻ bề ngoài. Về giáo
lý, kinh này trình bày lời giảng về Trí tuệ rất giống với lời giảng trong các
kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa. Nó cũng tranh luận về việc thanh luyện buddha-kṣetra,
Phật độ, hay môi trường ảnh hưởng của một vị Phật, và vì thế có tương quan
phần nào với những lời dạy của Tịnh Độ. Có lẽ sách được soạn một thời gian ngắn
trước 150 CN., và đã rất phổ biến ở Trung Hoa và Nhật Bản, là những nước mà
người ta nghĩ nó phù hợp hơn với đạo đức gia đình và xã hội.
Các Kinh Samādhi
Một số kinh Đại Thừa dạy về những
trạng thái sâu xa của samādhi, thiền định, hay những thành đạt cao của
thiền. Những kinh này gồm Samādhirāja Sūtra, Pratyutpaññā Sūtra, và
Śūraṅgama-samādhi Sūtra, hai sách sau này nằm trong số những kinh có sớm
nhất của Đại Thừa. Điều này chứng tỏ kinh nghiệm thiền định đã đóng một vai trò
chính ngay trong thời kì đầu của phong trào Đại Thừa. Kinh đầu tiên trong số
này, Samādhirāja Sūtra, rất dài, và dựa trên một đối thoại giữa Đức Phật
và một thanh niên tên là Candraprabha, và bao gồm một số câu chuyện có giá trị
văn chương về những kiếp sống trước của Đức Phật. Kinh thứ hai trong nhóm này
mô tả một loại samādhi cho người ta có thể nhìn thấy các vị Phật, nghe
các Ngài hoằng pháp, và rồi đem truyền bá những lời giảng ấy. Śūraṅgama-samādhi
Sūtra trình bày lối thiền Śūraṅgama, "bước tiến anh hùng",
nhờ đó vị Bồ tát đạt được Toàn giác, nhưng cũng có thể làm nhiều hành vi minh
chứng Phật pháp ngay trong vòng luân hồi.
Các Kinh Sám Hối
Hai kinh nói về tầm quan trọng
của việc xưng sám hối trong Đại Thừa, có lẽ là một cách để phê bình lối thực
hành thú tội quá hình thức của các tỳ khưu khi thực hành nghi thức Upavasatha. Triskandha
Sūtra, có khi được coi là một chương của Upāliparipqcchā cổ xưa, là
một bản văn ngắn để đọc lời thú tội với 35 vị Phật "Thú tội", và sẽ
đóng một vai trò quan trọng về nghi tiết trong Phật giáo Đại Thừa được Śāntideva
khuyên đọc hằng ngày. (126) Trọng tâm nguyên thủy của Suvarṇaprabhāsa
Sūtra là chương ba đề cập tới việc thú tội với các vị Phật, tuy qua những
thế kỷ sau đã được thêm vào nhiều chương linh tinh khác, trong số đó có nhiều
chương nói về việc kinh này được các thần thánh giữ gìn.
Kinh BuddhAvatamsaka (hay Avatamsaka)
Kinh Avatamsaka Sūtra hay
Hoa Nghiêm là một tác phẩm dài kết hợp. Hình như các bản dịch Trung Hoa
đã đưa vào tác phẩm này một lượng lớn chất liệu vốn được lưu hành riêng biệt,
một số đã được dịch sang tiếng Trung Hoa bởi Lokakṣema vào nửa sau của thế kỷ
II CN. Người ta nghĩ nó đã được kết hợp vào khoảng giữa thế kỷ IV (127)
để trở thành hình thức mà chúng ta có ngày nay. Kinh này cũng bao gồm hai kinh
khác được lưu hành riêng biệt, và còn tồn tại bằng tiếng Phạn. Đó là Daśabhūmika
Sūtra, dạy về mười bhūmis, nghĩa là mười giai đoạn của đời sống vị
Bồ tát, và kinh Gaṇḍavyūha Sūtra, mô tả cuộc tìm kiếm bạn thiêng liêng
đích thực, thiện hữu tri thức - kalyāṇa-mitra của chàng thanh niên có
tên là Sudhana. Phật vào khoảng giữa thế kỷ Vairocana xuất hiện trong kinh Buddhāvatamsaka
Sūtra, rõ nhất trong chương "Gaṇḍavyūha", là nguồn gốc của
việc thờ vị Phật này về sau được đưa vào Mahāvairocanābhisaỵbodhi Tantra
của giai cấp caryā. Về tổng thể, kinh Avataỵsaka dạy giáo lý về
sự tương nhập (và về Tathāgatagarbha), và có ảnh hưởng lớn trong Phật
giáo Trung Hoa, tạo cơ sở cho Trường phái Hòa Yên, và từ đó cũng truyền sang
Nhật Bản và Triều Tiên.
Các Kinh Duy Thức
Các kinh duy tâm, một thuật ngữ
không có trong truyền thống, là một nhóm sách tuyệt đối quan trọng dạy về giáo
lý cittamātra, "duy tâm". Các kinh này được trình bày như là
lời giảng dạy về chân lý tối thượng bởi trường phái Yogācārin, và sẽ được quảng
diễn trong chương nói về trường phái này.
Các Kinh Tathagatagarbha
Gồm một số các kinh dạy về sự
hiện diện của Tathāgatagarbha, "Tathāgata phôi thai" trong hết
thảy chúng sinh. Sẽ được trình bày trong chương nói về học thuyết Tathāgatagarbha.
Các Tuyển Tập Kinh
Có hai bộ kinh lớn gồm những sưu
tập các kinh ngắn hơn. Mahāratnakūṭa Sūtra gồm 49 tác phẩm, tuy nòng cốt
nguyên thủy là tác phẩm số 43, tên là Kāśyapa-parivarta. Số lớn các kinh
phụ thuộc được soạn dưới dạng paripqcchās, những hỏi đáp của Đức Phật
bởi một người đối thoại, nhưng không có một chủ đề tổng thể cho các lời giảng
dạy trong các kinh. Gồm có các kinh về sự Bát Nhã Ba La Mật Đa, Tịnh Độ, luật
Vinaya, Tathāgatagarbha, và những học thuyết khác, kể cả những học thuyết xuất
hiện độc lập ở những kinh khác. Một số kinh đã có từ rất xưa, nhưng có lẽ bộ
sưu tập đã được tổ chức vào một thời kỳ nào đó sau thế kỷ V, và ở Trung Á.
(128) Mahāsaỵnipāta gồm 17 kinh ngắn hơn, một kinh trong số này đã
lưu hành từ trước 150 CN., trong khi toàn thể sưu tập chắc hẳn đã được tổ chức
vào thế kỷ V hay sau đó.
Các Kinh Về Luân Hồi
Bao gồm một số kinh mô tả những
hành vi dẫn tới các môi trường hiện hữu khác nhau, vḍ, Saddharma-smqtyupasthāna
Sūtra, và những kinh như Śālistamba Sūtra, phân tích mười hai nidānas,
tức là mười hai mắt xích của pratītya-samutpāda, "hiện hữu lệ
thuộc".
Các Kinh Về "Giới Luật"
Nhiều kinh Đại Thừa nêu lên một
cách hệ thống những nguyên tắc phải hướng dẫn hành vi cư xử của vị Bồ tát. Các
kinh này gồm Kāśyapa-parivarta Sūtra, Bodhisattva-prātimokṣa Sūtra, còn
gọi là Upāliparipqcchā Sūtra, và kinh Brahmajāla Sūtra.
Các Kinh Về Các Nhân Vật
Nhiều kinh diễn tả sự sùng mộ và
ca ngợi bản tính và nhân đức của các vị Phật và Bồ tát. Lòng từ bi của Avalokiteśvara
được ca tụng trong Kāraṇḍa-vyūha Sūtra, trong khi vị Phật Dược Sư,
Bhaiṣajyaguru, xuất hiện trong ít là bốn kinh có tên của Ngài trong tựa đề. Vị
Bồ tát Địa Tạng Kṣitigarbha, người đã đi xuống địa ngục để cứu chúng sinh tại
đó, là chủ đề của nhiều kinh có nguồn gốc từ Trung Á, cũng như vị Phật tương
lai Di Lặc Maitreya, và Tịnh Độ của vị Phật Akṣobhya được mô tả trong kinh Akṣobhya-vyūha
Sūtra.
13
LÝ TƯỞNG SIÊU NHIÊN MỚI: VỊ BỒ TÁT
Nếu cần tìm một yếu tố đặc
trưng để phân biệt Đại Thừa với các trường phái ngoài Đại Thừa, thì lý tưởng Bồ
tát có thể là yếu tố thích hợp nhất. Trong các trường phái ngoài Đại Thừa, vị
Bồ tát duy nhất được nhìn nhận như là được tái sinh làm Thích Ca Cồ Đàm và
những tiền kiếp của Ngài đã được kể lại trong các kinh Jātaka của kinh Khuddaka-Nikāya,
và Maitreya, vị Phật hiện tại. Mục tiêu tôn giáo duy nhất là mục tiêu trở
thành A La Hán, nghĩa là thành viên của Tăng Già Arya, tuy các tài liệu sau này
bắt đầu nói đến một hình ảnh gọi là pratyekabuddha, một người đã đạt
giác ngộ độc lập, giống như một vị Phật, nhưng không giảng dạy. Bồ tát, nghĩa
đen là "con người giác ngộ", là người theo đuổi mục tiêu trở thành
Phật toàn giác, hơn là trở thành A La Hán, và trong Đại Thừa, mục tiêu này được
trình bày như mục tiêu lý tưởng mà mọi người theo Phật đều phải hướng tới. Hơn
nữa, Bồ tát là người nhắm tới Phật toàn giác vì lợi ích của mọi chúng sinh, cho
nên thường được gọi là Bodhisattva Mahāsattva - Bodhisattva chỉ ước vọng bản
thân trở thành giác ngộ, còn Mahāsattva chỉ ước vọng cứu độ chúng sinh.
Chắc chắn lý tưởng Bồ tát biểu
trưng cho một sự nhấn mạnh trở lại về lòng từ bi, và gián tiếp cáo buộc những
đại diện của truyền thống ngoài Đại Thừa, những người śrāvakas và mục tiêu A La
Hán của họ, là thiếu đức tính này. Bất luận sự cáo buộc này đúng hay sai đối
với Tăng Già Tiểu Thừa thời ấy, luôn luôn phải vạch rõ rằng lòng từ bi vốn là
một yếu tố chính trong đời sống và lời giảng dạy của Đức Phật, như nhiều giai
thoại về cuộc đời của Ngài đã minh chứng. Vì vậy sự nhấn mạnh của Đại Thừa biểu
trưng phần nào cho việc khẳng định lại điều vốn vẫn có trong lời dạy của Phật,
tuy đã bị một số người hiểu một cách thiếu sót ngay từ thời kỳ đầu. Lý tưởng Bồ
tát đã và vẫn còn là sự quyết tâm đạt giác ngộ với sự nhìn nhận tầm quan trọng
ngang nhau của trí tuệ và lòng từ bi. Vị Bồ tát tìm sự cứu độ bản thân nhờ trí
tuệ, nhưng sự cứu độ đó đạt được là vì lợi ích của chúng sinh, do lòng từ bi
đối với chúng sinh. Vị Bồ tát khao khát trở thành Phật vì chỉ có Phật mới có
hiểu biết và phương tiện để cứu độ tối đa mọi chúng sinh.
Có ba yếu tố được nói là đặc
trưng cho Bồ tát: trí tuệ uyên thâm phi nhị nguyên, lòng từ bi bao la, và sự
hiện diện của tâm thức Giác ngộ, nghĩa là "ý thức hay ý muốn đạt Giác
ngộ". Tâm thức giác ngộ không chỉ là một ý tưởng thuần lý trí về giác ngộ,
mà là một sức mạnh hay sự thôi thúc biến đổi hoàn toàn đời sống của vị Bồ tát
tương lai, đến độ nó trở thành giống như người ta được tái sinh trong một gia
đình mới. (129) Nāgārjuna đã mô tả nó như một cái gì hoàn toàn ở bên
ngoài các skandhas, một cái gì không thuộc hiện hữu trần tục. (130)
Người ta đã triển khai nhiều phương pháp để vun trồng tâm thức giác ngộ. Một
phương pháp phổ biến nhất là anuttarapūjā, "tôn thờ tuyệt
đối". Phương pháp này được mô tả sớm nhất trong chương cuối của Gaṇḍavyūha
Sūtra, cũng được lưu hành dưới tựa đề Bhadracarīpraṇidhānagāthā, "Các
vần thơ về những lời nguyện cư xử của Bhadra". Phương pháp anuttarapūjā
hệ tại việc vun trồng bảy tâm trạng hay kinh nghiệm siêu nhiên: thờ các vị
Phật, vái chào Tam Bảo, Quy Y, xưng thú lỗi lầm, vui mừng vì công đức của người
khác, xin lời giảng dạy, và chuyển công đức của mình cho người khác. (131)
Một việc thực hành cổ xưa khác, được Vasubandhu (thế kỷ IV) khuyến khích, gồm
bốn việc suy niệm: tưởng nhớ các vị Phật, nhìn thấy các khuyết điểm của hiện
hữu có điều kiện (củng cố ước vọng được giải thoát khỏi hiện hữu này), quan sát
những đau khổ của chúng sinh (vun trồng lòng từ bi), và chiêm ngắm nhân đức của
các Đức Như Lai Tathāgatas. (132) Śāntideva (thế kỷ VIII) -
được cho là người sáng lập ra một phương pháp được trình bày trong tác phẩm Bodhicaryāvatāra
của ông, được hiểu như sự "trao đổi giữa bản thân và người khác"
và dựa trên đoạn cuối của phương pháp anuttarapūjā. Trong phương pháp
của Śāntideva, người thực hành gánh lấy những đau khổ của tất cả chúng
sinh khác, và ngược lại, dâng hiến thân, khẩu, ý và mọi công đức của mình cho
họ (133).
Con Đường Bồ Tát
Con đường của Bồ tát dài và gian
lao vô cùng, được quan niệm như trải qua nhiều kiếp sống, qua nhiều A Tăng Kỳ.
Vị Bồ tát theo đuổi con đường này bằng cách thực hành sáu pāramitā, ba
la mật hay sự hoàn thiện: dāna, bố thí; śīla, trì giới; vīrya,
tinh tấn; kṣānti, nhẫn nhục; samādhi, thiền định; và Prajñā, trí
tuệ. Nhờ việc thực hành những sự hoàn thiện này, vị Bồ tát trở thành Phật.
Những ba la mật này được dùng làm nền tảng để trình bày đời sống của vị Bồ tát,
như trong Bodhicaryāvatāra của Śāntideva và Pāramitāsamāsa
của Aryaśūra. Một số truyền thống còn thêm vào bốn ba la mật nữa, có lẽ muốn
liên kết chúng với các giai đoạn bhūmia'- Địa. Đó là upāya, phương
tiện hiệu quả; praṇidhāna, lời nguyền thành Phật; bala, sức mạnh;
và jñāna, trí tuệ. Tất cả cử chỉ của Bồ Tát đều thực hành đầu tiên năm
pháp độ, lấy trí tuệ độ làm tiêu chuẩn, tưởng tri trực tiếp sự rỗng không của
vạn pháp- dharmasùnyatà. Điều đó cho thấy rằng vị Bồ Tát cảm nhận được sự tạm
bợ của chúng sanh mà chúng ta còn phải bị nô lệ. Lòng từ bi đối với tất cả
chúng sanh, đó là tâm đại bi- mahàkàruna của chư Phật và chư Bồ tát – liên quan
đến nhiều kinh điển mô tả rất chi tiết một số luận thuyết của đại thừa. (134) Sáu pháp
độ tu tập để tạo nên bờ giác, nhờ huân tập phước đức và trí tuệ.
Nhiều mô tả về các giai đoạn của
Con Đường Bồ Tát được ghi lại trong các sách kinh và bình luận của Đại Thừa.
Phổ biến nhất là phần mô tả mười bhūmis mà Bồ tát trải qua trên đường
đạt tới Phật toàn giác. Cũng có nhiều bản mô tả khác, kể cả một bản của kinh Mahāvastu
tiền - Đại Thừa của trường phái Mahāsaṅghika, (135) nhưng
bản mô tả được chấp nhận rộng rãi nhất được tóm lược trong Daśabhūmika
Sūtra, "Kinh giảng về Mười Giai Đoạn của Bồ-tát". Các giai đoạn
này là:
- Hoan hỷ địa;
- Ly cấu địa;
- Phát quang địa;
- Diệm huệ địa;
- Nan thắng địa;
- Hiện tiền địa;
- Viễn hành địa;
- Bất động địa;
- Thiện huệ địa;
- Pháp vân địa.
Người ta chỉ vào được giai đoạn
thứ nhất sau khi đã có tâm thức Bồ tát, và mỗi giai đoạn tiếp theo đều cho một
cuộc tái sinh vào
những miền ngày càng cao cả hơn,
với hình dạng và nhân đức chói sáng hơn. Qua hết mười bhūmi là tình
trạng Phật toàn giác.
Cần nhấn mạnh rằng quyết tâm của
Bồ tát đi qua tất cả các giai đoạn gian lao này phát xuất từ một ước vọng phát
triển mọi khả năng thế tục và tâm linh để có thể cứu giúp chúng sinh một cách
hiệu quả hơn.
Các câu chuyện kể trong dân gian
thường nói tới việc Bồ tát từ chối thành Phật để có thể tiếp tục cứu độ chúng
sinh. Theo những điều chúng ta đã nói ở trên, lối cắt nghĩa này làm sai lệch sự
thật. Bồ tát được thúc đẩy bởi lòng từ bi và vì thế không thể từ bỏ Giác ngộ,
bởi vì Phật là tình trạng hiệu quả nhất để có thể cứu độ chúng sinh. Hơn nữa,
siêu hình học Đại Thừa phủ nhận quan niệm cho rằng niết bàn là một nơi tách
biệt với thế giới trần tục, và là nơi người giác ngộ "đi vào", vì
theo siêu hình học Đại Thừa, cả vòng luân hồi lẫn niết bàn đều là trống rỗng,
và vì thế không khác nhau.
14
CÁC TRƯỜNG PHÁI ĐẠI THỪA (I)
TRƯỜNG PHÁI MADHYAMAKA
Theo truyền thống, các
kinh Đại thừa không phát sinh từ hoạt động văn học của các trường phái Phật
giáo. Đúng hơn, những trường phái Đại Thừa khác nhau đã phát triển do nhu cầu
diễn giải ý nghĩa của những kinh hay nhóm kinh nhất định. Những sản phẩm văn
học của các trường phái được gọi là những śāstra, "khảo luận",
khác với Sūtra, "kinh", vì chúng là những tác phẩm bình luận.
Các trường phái Đại Thừa Ấn Độ phát sinh từ một cố gắng nhằm hệ thống hóa các
lời dạy thành hai nhóm kinh. Trường phái Madhyamaka làm sáng tỏ và rút ra những
ý tứ của các kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, trong khi trường phái Yogācārin hệ
thống hóa các lời dạy của một nhóm kinh có thể gọi là "duy tâm", một
thuật ngữ không có trong truyền thống. Hợp chung lại, hai phái Madhyamaka và
Yogācārin tạo thành một mạch phát triển thuần nhất về giáo lý đi trở ngược lên
tới Vi Diệu Pháp qua các kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa. Họ tạo thành hai đại biểu
Đại Thừa trong số bốn trường phái "triết học" của Phật giáo mà cả
người Phật giáo và ngoài Phật giáo thời sau đều nhắc đến. Cả hai trường này đều
có nhiều đại diện nổi tiếng trong Phật giáo Ấn Độ, Tây Tạng, và Viễn Đông, và
qua một tiến trình tương tác phức tạp, họ đã có khuynh hướng thống trị sự phát
triển sau này của phần lớn học thuyết Phật giáo Đại Thừa. Các trường phái thời
sau thường kể mình đứng về phía lập trường cổ điển của một trong hai phái này.
Cách riêng, Śāntarakṣita (khoảng 680-740 CN.) đã tổng hợp học thuyết của
hai trường phái Yogācāra và Madhyamaka trong tác phẩm Tattvasaỵgraha của
ông, và học trò của ông là Kamalaśīla (khoảng 700-750 CN.) cho rằng tổng hợp
này của thầy mình vượt hẳn trên học thuyết của từng trường phái riêng rẽ đó.
Theo truyền thống, người sáng
lập trường phái Madhyamaka là nhà sư lỗi lạc Nāgārjuna, sinh ở vùng Vidarbha
của Maharashtra trong thế kỷ II CN., nhưng sau thời kỳ đào luyện Tỳ khưu ở
Nālandā, Nāgārjuna đã đến sống ở Andhra. Ông có quan hệ với triều đại
Sātavahana của Deccan, bằng chứng là còn tồn
tại một lá thư ông viết cho một vị vua trong thời kỳ này. Người ta còn giữ được
một số khá lớn các tác phẩm được cho là của ông, trong đó tác phẩm chính là Mūlamadhyamaka-kārikā,
"Những Vần thơ Nền tảng về Trung Đạo". Một tên tuổi khác cũng được
cho là gắn liền với việc sáng lập trường phái này là Aryadeva, người Sri Lanka, mà
một số ít tác phẩm của ông còn tồn tại. Tác phẩm chính của ông là Catuṛśatakastava,
"Bốn trăm vần thơ". Có thể nói các tác phẩm của ông bổ túc cho
các tác phẩm của Nāgārjuna, vì ông nhấn mạnh nhiều về Con Đường Bồ Tát hơn là
trong những tác phẩm của Nāgārjuna. Vào những thế kỷ sau, giữa bối cảnh thách
đố và tri thức tinh vi hơn của những tu viện đại học ở Nālandā, Valabhī, v.v…,
trường phái Madhyamaka lại chia thành những trường phái con - mà hai trường
phái chính trong số này là Prasaṅghika và Svātantrika Madhyamaka. Học thuyết
của trường phái thứ nhất do Buddhapālita (470-540 CN.) khởi xướng, nay còn được
lưu truyền trong Dòng dGe-lugs ở Tây Tạng. Học thuyết của trường phái
Svāntantrika Madhyamaka do Bhāvaviveka (500-570 CN.) khởi xướng, phê bình học
thuyết của Buddhapālita - nhưng phê bình này đã bị Candrakīrti (600-650 CN.)
bác bỏ. Śāntideva, tác giả của Bodhicaryāvatāra, là người theo
trường phái Prasaṅgika Madhyamaka vào thế kỷ VIII.
Kinh cơ bản của trường phái
Madhyamaka là các kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa; các kinh này không phải là những
khảo luận. Trường phái này chỉ khẳng định các lời dạy của các kinh này - thường
bằng cách sử dụng những lối nói ẩn dụ nghịch lý và hình ảnh. Trường phái
Madhyamaka là một cố gắng nhằm hệ thống hóa lời dạy của những kinh này. Lời dạy
quan trọng nhất là về dharmaśūnyatā, sự trống rỗng của mọi dharmas. Tiên
đề nòng cốt của học thuyết Madhyamaka là mọi sự đều là svabhāva-śūnya,
trống rỗng hiện hữu nội tại. Nāgārjuna lý luận rằng không một vật gì có hiện
hữu nội tại svabhāva,, kể cả các dharmas của Vi Diệu Pháp - không
vật gì có thể hiện hữu độc lập với những điều kiện ngoại tại. Điều quan trọng
là Nāgārjuna không coi học thuyết này là theo chủ nghĩa hư vô. Ngược lại, ông
chứng minh rằng học thuyết này biểu trưng cho Trung Đạo, là con đường ở giữa
chủ nghĩa hằng cửu và chủ nghĩa hư vô, vì nó nhìn nhận sự hiện hữu thông thường
của các đối tượng xuất hiện trong dòng chảy liên tục của pratītya-samutpāda,
"sự phát sinh lệ thuộc các điều kiện". Ông chủ trương rằng, tuy
không một vật gì có svabhāva và vì thế không một vật gì có hiện hữu
tuyệt đối, nhưng thế giới mà chúng ta đang sống thì hiện hữu thực sự như là sản
phẩm của những điều kiện nhất thời. Ông phê bình ý tưởng về hiện hữu tự tại,
chứ không phê bình ý tưởng về hiện hữu thông thường. Thế giới thông thường là
thế giới hiện thực chứ không ảo tưởng, nhưng tự cơ bản có tính vô thường (nghĩa
là không có svabhāva), và chỉ có thể mô tả là hiện thực theo nghĩa thông
thường. Sự nhìn nhận hai chân lý, đó là paramārtha-sattya, chân lý tuyệt
đối về sự vắng mặt toàn diện của svabhāva, và saỵvqti-satya, chân
lý tương đối về thế giới thông thường, tạo thành Trung Đạo giữa thuyết hằng cửu
và thuyết hư vô. Lập trường này được diễn tả rõ ràng trong tựa đề tác phẩm lớn
của ông, Những Vần thơ Nền tảng về Trung Đạo, và cả trong tên gọi
Madhyamaka, có nghĩa đen là "trung đạo".
Những yêu sách đang cuốn hút
Trường Phái Đại Thừa gồm những gì giúp khẳng định Tự Tính (Svabhava) tồn
tại. Theo định nghĩa Tự Tính không thể phân tích được, có nghĩa là tự
tính tồn tại một cách độc lập, nhưng Long Thọ - ngrjuna lại chứng minh, một khi
ta điều tra nghiên cứu kỹ lưỡng, thì toàn bộ đối tượng thuộc hạ giới qui ước
đơn giản đều tan biến đi như thể chúng biến đổi thành những yếu tố cấu thành
(cho dù tạm thời chỉ một phần mà thôi) chúng mang đặc tính phụ thuộc lẫn nhau,
toàn bộ những yếu tố cấu thành đó đều không tồn tại đến cùng. Xét dưới ánh sáng
này, Long Thọ - ngrjuna chỉ đơn giản tái khẳng định lại học thuyết duyên
sinh (pratitya samutpada) nguyên thuỷ mà thôi "Chúng ta coi như"
sự trống rỗng (emptiness) chỉ là căn nguyên duyên khởi thông qua nguyên nhân có
điều kiện mà thôi (136). Điều này được khẳng định thông qua sự thật
là chẳng có điểm nào trong tập chú giải Mulamadhyamaka ngài thượng toạ
có thể rút ra được trong Kinh Phật Đại Thừa để làm tài liệu kinh phật đáng tin
cậy, nhưng thay vào đó ngài liên tục muốn ám chỉ các kinh này đều đồng nhất với
các Kinh A-hàm thuộc các trường phái ngoài không phải Đại Thừa (137).
Những phân tích của ngài chứng tỏ không thấy có sự hiện hữu vốn có được áp dụng
đối với chính duyên sinh nguyên thuỷ (Pratitya samutpada), và ngay cả đối với
Đức Phật lẫn Níp-bàn nữa. Mọi vật đều thiếu vắng Tự tính (svabhava) hay
sự hiện hữu vốn có của mình.
Nāgārjuna bị cáo buộc là phá
hoại Giáo pháp bằng lối lý luận như trên, nhưng ông đã bác bỏ lời cáo buộc này.
Trên bình diện paramārtha-satya, chân lý tuyệt đối, thì thế giới thông
thường không hiện hữu, nghĩa là nó không có svabhāva. Nhưng nó hiện hữu
trên bình diện thông thường, và chính trên bình diện hiện hữu thông thường này
mà những lời dạy của Phật giáo có ý nghĩa và hiệu quả. Thực vậy, nếu có thể có
Giác ngộ, thì thế giới thông thường phải không có svabhāva, bằng không
nó sẽ cố định và không thể thay đổi - vì cái gì có svabhāva thì theo
định nghĩa đều phải không thay đổi. Và Nāgārjuna vặn lại rằng nếu khẳng định
vật gì có svabhāva mới là phá hoại Giáo pháp, vì như thế không thể có
Giác ngộ được. Một khi cho rằng vật nào đó có một bản thể vĩnh cửu không thay
đổi, thì sự thay đổi triệt để không thể nào có được. Để tránh lẫn lộn, cần hiểu
rõ rằng đối với Nāgārjuna và trường phái Madhyamaka Ấn Độ, śūnyatā, "sự
trống rỗng", tự nó chỉ là một khái niệm trừu tượng. Nó là một cái gì tuyệt
đối về mặt nhận thức, nghĩa là nó là cái tuyệt đối đúng, và vì vậy là cái duy
nhất có thể biết được về sự vật. Nó không phải một "sự vật" tự tại,
càng không phải một sự vật được cho là có hiện hữu tuyệt đối, svabhāva. Nó
không có bản chất hữu thể luận. Vì vậy sự trống rỗng được mô tả là trống rỗng -
śūnyatā là śūnyatā.
Trường phái Madhyamaka không
khởi xướng một loại hệ thống triết học nào. Bản thân Nāgārjuna đã nhấn mạnh ông
không hề có một luận đề riêng của ông. Ông chỉ làm công việc phân tích phê bình
những tuyên bố của tất cả những người khác liên quan tới hiện hữu tuyệt đối -
cả những tuyên bố của những người Phật giáo khác. Ông không đưa ra mệnh đề
triết học nào, mà chỉ nói lên sự thiếu vắng hoàn toàn và toàn diện hiện hữu tự
tại - śūnyatā, sự trống rỗng.
Trường phái Prasaṅgika
Madhyamaka sử dụng lý luận để chứng minh rằng những tuyên bố của một đối thủ là
vô lý và không thể chấp nhận - đặc biệt bằng cách chứng minh rằng lập trường
của đối thủ, nếu đẩy đến cùng, sẽ dẫn đến những hậu quả xấu, prasaṅga, thậm
chí những mâu thuẫn vô lý. Phương pháp cơ bản của Prasaṅgika là tiêu diệt quan
điểm của đối thủ bằng việc sử dụng loại lý luận reductio ad absurdum, dồn
đối thủ tới chỗ vô lý. Đây cũng là điểm khác biệt cơ bản giữa trường phái
Prasaṅgika và trường phái Svātantrika, vì trường phái thứ hai này cho rằng cần
phải củng cố những lý luận của mình bằng cách đặt chúng vào văn mạch suy luận
lôgíc mà những truyền thống Phật giáo và ngoài Phật giáo khác có thể nhận ra
được. Trường phái này chủ trương rằng các lý luận phải dựa trên suy luận lôgic
độc lập và hợp lệ, svatāntra-anumāṇa - từ đó có tên gọi của trường phái
này.
Trường phái Madhyamaka phân biệt
giữa những ý tưởng svabhāva bẩm sinh và những ý tưởng svabhāva nhận
được. Những ý tưởng nhận được về hiện hữu là những ý tưởng đã học được, như về
sự hiện hữu của một vị thần hay của linh hồn. Vì là những ý tưởng nhận được do
học hỏi, cũng có thể bị bác bỏ bằng tranh luận hay lý luận. Ngược lại, những ý
tưởng bẩm sinh về svabhāva là những ý tưởng quyết định cho hành vi ở mức
độ cơ bản - hành vi hằng ngày mà khi chúng ta tuyên bố chúng ta suy nghĩ bất kỳ
điều gì, chúng ta vẫn đều coi những sự vật của thế giới thông thường như là
những thực thể hiện hữu tuyệt đối. Khái niệm bẩm sinh về svabhāva này phản
ánh một tình trạng không giác ngộ của trí khôn chúng ta. Lý luận bằng lý trí
không thể sửa chữa được tình trạng này, mà chỉ có cách duy nhất là suy niệm về
tính trống rỗng của mọi vật có điều kiện. Dù sao, phương pháp của Madhyamaka
cũng dẫn tới một khuynh hướng chung, đặc biệt trong Dòng Phật giáo dGe-lugs của
Tây Tạng, đó là đi theo con đường tranh luận bằng lý trí và sử dụng trí khôn
suy diễn để khẳng định chân lý của śūnyatā.
15
CÁC TRƯỜNG PHÁI ĐẠI THỪA (II)
TRƯỜNG PHÁI YOGĀCĀRIN
Yogacara là trường phái
thứ tư chúng ta đề cập đến trong số các trường phái triết học lớn của Phật
giáo; ba trường phái kia là Sarvāstivādin, Sautrāntica, và Madhyamaka. Trường
phái Yogācārin được gắn liền với những học thuyết của một số kinh duy tâm,
trong đó bản kinh cổ xưa nhất là Saỵdhinirmocana Sūtra (thế kỷ II CN.).
Sách Laṅkāvatāra Sūtra muộn hơn (thế kỷ IV) cũng khai triển học thuyết
của trường phái Yogācārin. Một số kinh như Pratyupaññā (khoảng thế kỷ I
CN.) và Daśabhūmika (trước thế kỷ III CN.) cũng chứa những yếu tố duy
tâm. Người sáng lập trường phái Yogācārin là học giả lớn Asaṅga (khoảng
310-390). Theo truyền thuyết, Asaṅga đã nhận được một số bản văn cơ bản của
trường phái từ vị Phật tương lai là Maitreya, tại thánh địa Tuṣita (mà người ta
cho là nơi ở của Phật Maitreya). Những bản văn này gồm Madhyāntavibhāga,
Mahāyāna-sūtrālaỵkāra, và Abhisamayālaỵkāra. Người ta cũng nói ông
là tác giả của một số tác phẩm khác như Mahāyānasaỵgraha,
Abhidharmasamuccaya, và Yogācārabhumi. Tác phẩm Yogācārabhumi có
thể là khảo luận có sớm nhất của trường phái Yogācārin, phần nào đồng thời với Saỵdhinirmocana
Sūtra, và rất có thể là công trình kết hợp của nhiều tác giả.
Các nhà chú giải khác có liên
quan tới nguồn gốc trường phái Yogācārin là Vasubandhu (khoảng 320-400), tác
giả của một lượng tác phẩm nhiều hơn gồm Trisvabhāva-nirdeśa, Viỵśatikā, và
Triỵśikā. Theo truyền thống, ông cũng là tác giả của Abhidharmakośa, mặc
dù, nếu đúng như vậy, thì tác phẩm này được soạn vào một thời kỳ trước khi ông
quay sang quan điểm Đại Thừa (cũng có thể có hai người trùng tên Vasubandhu)
(138).
Cả hai bậc thiền sư này đều sống
vào những năm đầu của thời kỳ Gupta cực thịnh (320-540), là thời kỳ văn hóa
trung cổ của Ấn Độ đạt đỉnh cao về sự tinh tế và sáng tạo, trong một xã hội
thanh bình và thịnh vượng và bộc lộ một ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo. Thời
kỳ này cũng chứng kiến việc xây dựng tu viện đại học Phật giáo ở Nālandā. Đại
học này sẽ trở thành trung tâm đào luyện cho nhiều thế hệ các nhà tư tưởng Phật
giáo, tại đây những chương trình giáo dục đầy tham vọng được thực hiện cho hàng
ngàn sinh viên, và Giáo pháp đã được hình thành dưới dạng tri thức tinh tế nhất
của nó. Trường phái Yogācārin và trường phái Madhyamaka thời sau đã phản ánh sự
rực rỡ và tinh tế này.
Trường phái Yogācārin có một
viễn tượng chuyên biệt lịch sử về tầm quan trọng học thuyết của họ, vì họ coi
những học thuyết này như là một giải pháp chung cuộc đối với giáo lý của Phật.
Cách riêng, trường phái coi những học thuyết của mình như là liều thuốc giải
độc cho những quan điểm cực đoan mà nó cho rằng các trường phái Phật giáo thời
ban đầu đã rơi vào. Giáo lý đầu tiên của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật giảng cho năm
vi ẩn cư khổ hạnh tại công viên Con Nai (Dēr Park) ở vùng Varanasi, theo truyền
thống được mô tả như là bước ngoặt Pháp Luân (whēl of the Dharma) đầu tiên.
Theo như cả trường phái Yogacarin và trường phái Trung Đạo Thuyết (Madhyamaka)
cho hay thì người ta hay hiểu lầm điều này đến mức độ để cho phát triển thành
một cách thấu hiểu về những điều "hiện hữu" hay còn gọi là Pháp (giáo
lý) thuộc các trường phái Abhidharma. Việc thấu hiểu về Pháp như vậy đã gây
phản tác dụng đối với các học thuyết về (sunyata) và bát nhã (prajna)
hay Huệ trong các Kinh Bát nhã Ba-la-mật-đa (Perfection of Wisdom) (139)
và đã được Trưởng Lão Nagarajuna và các đệ tử của ngài hệ thống hoá nơi truyền
thống Madhyamaka. Tuy nhiên, nhưng nơi con mắt (cách nhìn) của những người
Yogacarina, cả cách làm này cũng đã khuyến khích tạo ra một quan điểm cực đoan.
Vì đã quá nhấn mạnh đến khía cạnh phi hiện hữu nơi các pháp và vì vậy mà đã ngả
sang một vị thế chối bỏ sự hiện hữu thực tại nơi vạn vật. Chính vì thế trường
phái Yogacarin đã coi các bản kinh của họ trở thành bước ngoặc Pháp Luân thứ ba
nhằm giới thiệu giáo lý đích thực, chung cuộc và cuối cùng của Đức Phật hay còn
gọi là Chân đế (paramartha) (140).
Nhằm chứng minh lời xác nhận này
họ đã chấp nhận cách chú giải Kinh Bản đã được định sẵn trước trong cách phân
biệt các bản Kinh Phật đó là các bản kinh neyartha cũng chính là các bản
Kinh Nitartha. Điều này đã mô tả các giáo lý thuộc Tam Tạng Kinh và các kinh
Bát-nhã Ba-la-mật-đa (Prajna-paramita) chính là các phương tiện (upayas)
mà thôi, hoặc chỉ là cách thức khôn khéo. Và như vậy các kinh này có tên là
Neyartha, có nghĩa là họ cần phải 'triển khai' thêm. Điều này được hiểu là họ
cần đến lời giải thích để có thể hiểu được một cách thích đáng. Ở đây họ không
đề cập đến chân để hiểu theo nghĩa đen. Chính vì thế mà những ai hiểu các kinh
này theo nghĩa đen thường hay thiên về ngả theo những thái cực vĩnh cửu thuyết
hay hư vô thuyết. Tuy nhiên chính những Kinh Phật mang đặc tính duy tâm này đã
được phân loại thành nitartha, "mà ý nghĩa các kinh này cũng cần
được triển khai thêm", có nghĩa là, họ giảng giải chân để hiểu theo nghĩa
đen. Và chính vì thế lại không cần đến bất kỳ giải thích nào để có thể hiểu
được một cách thích hợp. Mục tiêu của bước ngoặc Pháp Luân chính là để tái
khẳng định Trung Đạo – Trung đạo giữa hiện hữu và phi hiện hữu, giữa trường cửu
thuyết và hư vô thuyết.
Học thuyết chính của trường phái
Yogācārin là học thuyết cittamātra, có nghĩa là "duy tâm". Như
tên gọi của trường phái gợi ý, Yogācārin có nghĩa là "thực hành
yoga", nên có thể nguồn gốc của trường phái Yogācārin có liên quan tới
kinh nghiệm yoga, hay thiền định. Điều này lại được đề xuất hơn nữa do chính
nguồn gốc các công trình do nhiều A-tăng-kỳ tiếp thu từ tay bồ tát Dị-lạc. Các
cõi trời lại được coi như là bản đối chiếu khách quan thuộc những hiện trạng
tâm linh cao hơn được cảm nghiệm thấy nơi dhyana, hay là nhập thiền miệt
mài. Và vì Bồ Tát Dị-lạc được coi như là người cai quản cõi Trời Đâu Xuất
(Tusita) điều này ngụ ý muốn ám chỉ A-tăng-kỳ đã 'gặp được' Bồ Tát Di-lạc đang
khi hành thiền. Liên quan đến điều này chúng ta nên nhớ rằng quê hương của
A-tăng-kỳ, là Gandhara, và đặc biệt là vùng Kashmir, cũng là quê quán của nhiều
trường phái hành thiền. Đã nhận Bồ Tát Di-lạc làm người bảo trợ và là đối tượng
tôn thờ chính. Hơn thế nữa, Bồ tát Di- lạc, do không hài lòng với việc tu luyện
của chính mình với trường phái không thuộc Đại thừa Mahisasika, lại đã luyện
thiền trong một thời gian khoảng mười hai năm trước khi ngài có được kiến diện
với Bồ tát Dị-lạc. Trong Kinh Samdhinirmocana, Đức Phật đã khẳng định
rằng cả hai hình ảnh kiến diện đang khi hành thiền và các đối tượng được kiến
diện bên ngoài chính là duy thức (vijnaptimatra) hoàn toàn là tưởng
tượng mà thôi. (141) Tưởng tượng là 'sản phẩm của tư tưởng' hay
là hoạt động của tâm linh', chính vì thế Đức Phật có nói rằng tư tưởng hay đối
tượng tâm linh hiện kiến được đang khi hành thiền về cõi thế trần tục này, đều
chỉ là sản phẩm của sinh hoạt tâm linh mà thôi.
Nếu học thuyết "duy
tâm" là sản phẩm của tư duy về kinh nghiệm thiền, thì kinh nghiệm này có
thể giúp chúng ta hiểu rằng điều mà trường phái tư tưởng này muốn nói không
phải là mọi sự đều được làm thành bởi cái tâm (như thể cái tâm là một thứ vật
chất phổ quát nào đó), nhưng muốn nói rằng toàn thể kinh nghiệm của chúng ta
đều lệ thuộc tâm của chúng ta. Mệnh đề của trường phái nêu lên là chúng ta chỉ
có thể biết hay kinh nghiệm sự vật nhờ cái tâm của chúng ta. Ngay cả kinh
nghiệm giác quan cũng được nhận thức bằng tâm, vì thế những sự vật mà chúng ta
biết, mọi yếu tố của nhận thức của chúng ta, cơ bản đều là một thành phần của
một quy trình tâm linh. Không có gì có thể nhận thức được mà cơ bản lại khác
với cái tâm ấy. Nếu chúng khác nhau về cơ bản, chúng không thể nhận ra nhau
được.
Như thế trường phái Yogācārin
không có cùng lập trường với trường phái Madhyamaka. Cách riêng, Yogācārin cho
rằng Madhyamaka theo chủ nghĩa hư vô, và vì trường phái ấy chủ trương không có
hiện hữu tuyệt đối, cho nên nó đã rời xa Trung Đạo giữa chủ nghĩa hằng cửu và
chủ nghĩa hư vô. Ngược lại, trường phái Yogācārin làm nổi bật sự mô tả thực tại
một cách tích cực và cụ thể hơn, và tuy được gợi hứng từ kinh nghiệm thiền
định, nó phần nào phản ứng lại dáng vẻ chủ nghĩa hư vô của những học thuyết
Madhyamaka về śūnyatā. (Nhưng Madhyamaka cho rằng trường phái Yogācārin
hoàn toàn hiểu sai học thuyết śūnyatā của Madhyamaka!) Trường phái
Yogācārin chủ trương rằng có cái gì đó thực sự hiện hữu, thực sự có svabhāva,
và cái hiện hữu đó là cái tâm. Tâm thì trống rỗng, śūnyatā, theo
nghĩa nó không có tính nhị nguyên, không có phân biệt giữa khái niệm chủ thể và
khách thể. Như thế chúng ta thấy trường phái Yogācārin đã duyệt xét lại khái
niệm về trống rỗng.
Học Thuyết Ba Bản Tính
Trong ánh sáng học thuyết về sự
hiện hữu thực của cái tâm, trường phái Yogācārin cũng khai triển khái niệm về svabhāva
để diễn tả thành học thuyết trisvabhāra, "ba bản thể" hay
"tam tự tính". Mọi vật có thể nhận thức được theo cách hiện hữu thực
sự của chúng đều có thể được phân loại theo ba bản tính này. Theo học thuyết ba
bản tính, khía cạnh đầu tiên của "cách thức sự vật hiện hữu thực sự"
là paratantra-svabhāva. Đây là bản tính "lệ thuộc" (paratantra),
và là cái thực sự hiện hữu. Vì thế nó có svabhāva theo nghĩa bị phê bình
bởi Madhyamaka. Nó được gọi là bản tính "lệ thuộc" là do quá trình
điều kiện hóa hỗ tương, vì các yếu tố tạo thành nó bị lệ thuộc lẫn nhau để có
hiện hữu. Tâm không giác ngộ thì không thể biết được nó, vì tâm này tạo ra tính
nhị nguyên của bản tính giả tạo, "tưởng tượng".
Bản tính thứ hai là parikalpita-svabhāva,
bản tính "tưởng tượng", là loại hiện hữu mà người không giác ngộ
nhận thức trong thế giới thông thường hằng ngày. Nó không hiện thực, và chỉ có
hiện hữu thông thường, được rọi phóng do hoạt động của tâm không giác ngộ. Đó
là nhận thức về chủ thể và khách thể, do kinh nghiệm chúng ta có về mình như
những chủ thể tách biệt với những khách thể của thế giới bên ngoài. Nó là sản phẩm
của hoạt động sai lạc của ngôn ngữ tạo nên sự nhị nguyên trong dòng chảy của
các dharmas lệ thuộc lẫn nhau. Những hiện tượng nhị nguyên này thực ra
chỉ là tưởng tượng, parikalpita.
Bản tính thứ ba được gọi là pariniṣpaññā-svabhāva,
bản tính "hoàn hảo" hay "tuyệt đối". Đây là chân lý cao
nhất, chân lý tối thượng của khoa nhận thức luận Yogācārin, vì nó là "cách
thức sự vật thực sự hiện hữu" được hiểu bởi tâm giác ngộ. Chân lý này nói
rằng mọi sự vật đều hoàn toàn không có tính nhị nguyên, mặc dù người có tâm
không giác ngộ nhìn nhận nó như là nhị nguyên. Trong Trisvabbhānirdeśa, Vasubandhu
đưa ra một phân tích nhằm cố gắng làm sáng tỏ sự phân biệt giữa ba bản tính.
(142) Theo ông, nó giống như nhà ảo thuật cầm một thanh gỗ, và bằng những
lời phù chú, ông ta biến thanh gỗ thành một con voi trước mặt khán giả. Bản
chất "lệ thuộc" thì giống như thanh gỗ - nó thực sự là một thanh gỗ.
Bản tính "tưởng tượng" thì giống như con voi - là một nhận thức sai
về thực tại. Bản tính hoàn hảo là sự kiện hay nhận thức đúng rằng không hề có
"con voi" trong thanh gỗ.
Tại Đông Nam A, học
thuyết Ba Bản Thể (trisvabhava) lại nhận được một cách giải thích
hoàn toàn khác biệt. (143) Ở đó mối liên quan giữa ba bản thể được
quan sát thấy như là một qui trình tiến bộ. Thông qua đó người luyện tập tiến
tới một khi họ chiếm được hiểu biết sâu rộng hơn bản chất thật mọi sự vật là
gì, bản chất do 'tưởng tượng' mà ra chính là cõi trần tục nơi kinh nghiệm ta có
được hàng ngày. Trong đó với tư cách là những hữu thể thực sự, chúng ta hiểu
được đối tượng thực sự là gì. Như thể hiện được thông qua tu luyện siêu nhiên.
Bản chất các hiện tượng này trên đó chúng ta đã rọi chiếu một cách sai lầm
những ảo tưởng nhị nguyên chính là 'phụ thuộc' vì nó nổi lên trên cơ sở những
nhân duyên và duyên khởi - đó chính là dòng chảy điều kiện hoá hỗ tương các
Pháp thuộc Duyên Sinh (pratitya-samutpada) mà ra. Nhận thức về tự tánh -
svabhava này, chính vì thế lại gần gũi hơn với hiểu biết về cách thức sự
vật thực sự hiện hữu như thế nào. trong đó tính vô thường được hiểu biết cặn kẽ
và bản chất lệ thuộc nơi thực tại 'tưởng tượng' nơi nhận thức thường ngày cũng
như vậy. Tuy nhiên, ngay cả điều này chỉ thể hiện được một cách hết sức giới
hạn về bản chất 'tuyệt hảo' được hiểu như là điều gì đó trong trắng bất biến,
là thực tại tuyệt đối nhằm tăng cường cho bản chất 'lệ thuộc' vô thường đó.
Chính vì thế những người theo trường phái Yogacarin tại Đông Nam Á hiểu được parinispanna-svabhava
như là một điều tuyệt đối thuộc bản thể học. Không còn nghi ngờ gì nữa.
Trong khi thực hiện như vậy, họ phản ảnh được một số ảnh hưởng từ phía học
thuyết tathgagarbha.
Khác với Madhyamaka, trường phái
Yogācārin khai triển một hệ thống siêu hình học và tâm lý học, một phần là nhằm
tạo một khung thống nhất cho các kinh nghiệm thiền định được bao gồm trong các
kinh "duy tâm". Cách riêng, việc trường phái này gán cho các bản tính
lệ thuộc một bản chất hữu thể tích cực một đàng là do nhu cầu đối kháng lại
trào lưu cực đoan nguy hiểm về tinh thần là thuyết hư vô, một đàng là do nhu
cầu suy luận lôgic đòi hỏi phải có một nền tảng bản thể hiện hữu thực sự để cắt
nghĩa những hiện tượng sai lạc của bản tính tưởng tượng.
Việc Thực Hành Của Yogācārin
Khảo luận cơ bản của trường phái
là tác phẩm Yogācārabhūmi của Asaṅga, phản ánh sự đào luyện của tác giả
trong các trường phái ngoài Đại Thừa trước khi ông chuyển qua quan điểm Đại
Thừa. Nó dựa theo những thủ bản suy niệm và thực hành có trước mang cùng tên
gọi, lưu hành trong trường phái Sarvāstivādin ở Kashmir
(144). Các thủ bản thực hành của Yogācārin hướng dẫn người hành thiền đi
vào sự suy niệm của tâm về thân xác, cảm giác, tư tưởng, và dharmas, cả
nơi bản thân lẫn nơi người khác. Qua việc suy niệm này, người hành thiền sẽ đạt
được sự giác ngộvề tính phi nhị nguyên giữa bản thân mình và người khác. Những
suy niệm cao hơn sẽ giúp dẹp bỏ dần những hoạt động của tâm linh gây ra sự nhận
thức nhị nguyên, và nhờ những suy niệm śamathā, người hành thiền trải
qua những Con Đường còn lại và những giai đoạn tu chứng (bhūmis) của Bồ
tát.
Tiến trình có tính quyết định
được mô tả bằng những thuật ngữ tâm lý-siêu nhiên như một āśraya-parāvqtti, một
"sự xoay hướng nền tảng". "Nền tảng" ở đây là mức độ sâu
nhất của ý thức, ālaya-vijñāna, a-lại-da thức hay tạng thức, tức thức
được hiểu như một "kho chứa". Trong tình trạng thanh tịnh, nó là dòng
chảy không phân biệt của ý thức gọi là paratantra-svabhāva. Trong tình
trạng uế tục, nó là tập hợp tiềm thức của các bīja, 'mầm mống' được gieo
trong quá khứ vào ý thức, và nó "toả hương" trong các thời điểm tương
lai với các nhận thức về nhị nguyên, và vì thế tạo thành phương tiện hoạt động
cho karman, nghiệp (có thể thấy ở đây ảnh hưởng của trường phái
Sautrāntika đối với tư tưởng Đại Thừa). Hoạt động này của ý thức "kho
chứa" cũng được ám chỉ trong tên gọi của nó, có nghĩa là "ý thức bám
chặt". Thanh luyện ālaya-vijñāna của các mầm mống sẽ thanh luyện
các mức độ ý thức khác của vijñapti, "ý thức hóa", (được liệt
kê thành 7 mức độ).
Trường phái Yogācārin cũng mô tả
tiến trình mà bản tính lệ thuộc được coi như là bản tính tưởng tượng, nghĩa là
tiến trình để ālaya-vijñāna, mức độ ý thức cơ bản, được biến đổi thành
sáu ý thức giác quan, gọi là tiến trình "biến đổi ba phương diện ý
thức". Như thế trường phái này đã tự ý chấp nhận phân tích của Vi Diệu
Pháp về thế giới nhận thức, được thích nghi từ các trường phái ngoài Đại Thừa.
* Học Thuyết Tam Thân (Trikaya)
Trường phái Yogācārin cũng còn
phải chịu trách trách nhiệm về việc phát triển giáo lý đã được soạn thảo công
phu về bản chất Phật Bảo (Buddha Jewel) và đề ra rằng Đức Phật có tới 'ba thân
xác' (trikaya). Pháp thân (dharmakaya), tức thân xác phật pháp. hay là tự
tính thân (svabhavikakaya), thân xác của chính hữu thể nào đó' thân xác này
thanh tịnh, có nguồn tâm thức phi lưỡng tính, chính con người Đấng Giác Ngộ mới
cảm nghiệm được, vì là bản chất thật của thân xác này, hay bản chất lệ thuộc. Paratantra-svabhava,
có nghĩa là thân xác này hoàn toàn có thực. Thân xác này chính là tuệ giác,
hoàn toàn và tuyệt đối tinh khiết thuộc bất kỳ khái niệm nhị nguyên tính nào.
Xuất phát từ quan điểm trần tục thân xác này là tập hợp các đức tính tâm linh
tốt cấu thành hay định rõ đặc điểm tuệ giác của Đức Phật. Ứng thân thân
(sambhogakaya) là thân xác hưởng thích thú hoàn toàn hoặc hỗ tương chính
là Đức Phật đã xuất hiện nơi cõi Tịnh độ, để giúp đỡ chúng sanh đạt đến được
giải thoát, và chính vì thế thân xác đó cũng chính là Đức Phật đã giảng giải
Kinh Phật giáo Đại Thừa. hiểu theo nghĩa này thân xác này thực sự là thân xác
quan trọng nhất của Đức Phật nơi các thuật ngữ tôn giáo, và cũng chính vì thế thân
xác này chính là Đức Phật được mọi người tôn kính. – Một Đức Phật nguyên mẫu
thuộc kinh nghiệm thị giác. Phật Bảo Thân cũng là một hình thái trong đó
các vị bồ tát đang tiến bước trên con đường Lục độ cuối cùng đạt đến được Phật
tính. Và các vị Bồ tát nguyên mẫu này được hiểu là các hình thái Phật Bảo Thân
vậy. Thân xác này, hay kaya , lại chỉ có thực hay chỉ hiện thực một cách
tương đối thôi. Vì thân xác này còn có tự tướng biến kể sở chấp tính (parikalpita
svabhava) hay là bản chất chi được tưởng tượng ra' mà thôi, có nghĩa là
thân xác này can dự vào thế giới nhị nguyên thuyết. Ngay cả như thế đi chăng
nữa, thân xác này vẫn là một thân xác tinh tế xuất sắc và hoàn hảo, bao gồm tới
112 điểm đại sĩ phu truyền thống (Mahpurusa) hay là thuộc hạng
"siêu nhân." Thân xác hoá thân (nirmanakaya) tức là "thân
xác được biến đổi hay được tân tạo". Chính là cái thân xác Đức Phật
lịch sử, chẳng có gì khác hơn so với một cách tạo dụng thần bí nơi một thân xác
nguyên thể Phật Bảo Thân. Điều này chính là trường hợp, thân xác này
cũng là bản chất tự tướng biến kể sở chấp tính. Nhiệm vụ của hình thái
hão huyền này chính là điều giảng giải cho những ai không theo Phật giáo Đại
Thừa.
Có nhiều phương thức đề cập về
Phật thân được các vị thiền sư và nhiều trường phái phát triển thêm sau này.
Nhưng toàn bộ những phương thức này đều đặt cơ sở trên học thuyết tam thân
Yogacarin này cả, nhưng lại thường xuyên tăng thêm một số Phật thân khác nữa.
Tăng đoàn dGe-lugs, thuộc trường phái Trung Đạo Thuyết ở Tây Tạng lại đề xuất
một phương thức gồm bốn Phật Thân cũng có số người khác lại đưa ra đến năm Phật
Thân (145). Ta cũng cần nói ở đây là có một bằng chứng chữ khắc nổi
vẫn còn tồn tại xuất phát từ giai đoạn này, và bằng chứng này cho thấy những tư
tưởng thời trung cổ về bản chất Đức Phật không được diễn tả một cách riêng biệt
những học thuyết rắc rối thuộc loại này như thể học thuyết tam thân này có điều
đã trở thành rất rõ ràng là song song với việc phát triển học thuyết Tam Thân
này vẫn còn thấy nổi lên một quan điểm khá phổ biến về Đức Phật như là một sự
hiện diện cá nhân sống động và hiện diện lâu dài nơi nhiều tăng đoàn Phật Giáo.
Được phản ánh bằng việc cung cấp cho họ tiện nghi ăn ở hết sức đặc biệt và tinh
tế, dưới dạng những Gandhakutis hay phòng có mùi thơm, hay trong một lena
khoét trong đá hay là những căn hầm bằng đá. Phần thêm vào nơi một ngôi chùa có
bức tường phía sau có một hình Đức Phật. Đang khi những điều được triển khai
như vậy có thể dùng làm bằng chứng tốt nhất nơi nhiều vị trí tu trì những điều
này cũng còn liên quan đến những phát triển về nguyên lý Tam thân Phật, có
nghĩa là Nalanda và Valabhi. Bản chất đích thực của mối tương quan giữa hai
hiện tượng này không được phổ biến mấy (146).
Kết Luận Về Các Trường Phái Đại Thừa
Đại học Nālandā và các đại học
sau này do các vua Pāla thiết lập đã trở thành những trung tâm giáo dục quốc
gia và quốc tế cống hiến một chương trình sâu rộng cho các Tỳ khưu và tín đồ
Phật giáo, cũng như cho những người ngoài đạo Phật. Vào thời cao điểm của nó,
Nālandā đào tạo mười ngàn sinh viên, mà mỗi ngày các sinh viên này có thể chọn
học đến mức tối đa một trăm giảng trình khác nhau (tuy phần lớn được giảng dưới
dạng phụ đạo và trong các cuộc tranh luận). Ở đại học này không chỉ giảng dạy
triết học Phật giáo, mà cả những ý tưởng của các tôn giáo khác của Ấn Độ, nhờ
đó tạo được một sự tương tác sâu xa giữa các tư tưởng (147), cũng
như đón nhận được tinh hoa của các tư tưởng khác nhau. Song song với sự phát
triển của trường phái Yogācārin, các tu viện đại học cũng chứng kiến sự phát
triển của một truyền thống các nhà lôgic học Phật giáo. Sự phát triển này khởi
đầu với Dignāga (thế kỷ V-VI), một học trò của Vasubandhu, với tác phẩm chính
là Pramāṇavarttika. Vì Phật giáo được xây dựng trên nền tảng là sự tìm
kiếm hiểu biết sự vật trong bản tính đích thực của chúng, nên người ta coi mục
tiêu cốt yếu của nó là đạt được khả năng thiết lập được những nguồn gốc hợp lệ
của nhận thức. Quan tâm chính của các nhà lôgic học Phật giáo là thiết lập
những phương tiện hợp lệ này của nhận thức, gọi là pramāṇas, và để đạt
mục tiêu này, họ sẵn sàng đi vào các cuộc tranh luận triết học chi tiết với các
đối thủ ngoài Phật giáo. Tuy những nhà lôgic học này thường được gắn liền với
các trường phái Yogācārin hay Sautrāntika vì có những tham chiếu về các học
thuyết của các trường phái này trong các tác phẩm của họ, nhưng sự liên hệ của
các vị thầy này với các trường phái đó không dễ nhận ra, bởi vì tiêu điểm tập
trung tư tưởng của họ rất hẹp. Tuy nhiên, công trình của các nhà lôgic học này
đã tạo một ảnh hưởng rất to lớn, khiến cho các chương trình đại học sau này (và
hiện nay vẫn còn được duy trì trong Phật giáo Tây Tạng), việc truy tìm những
nguồn hợp lệ của nhận thức trở thành nền tảng của việc đào luyện, cốt yếu cho
việc nghiên cứu và thực hành, thậm chí nó còn đi trước cả việc phân tích Vi
Diệu Pháp.
Ít là ở thời kỳ đầu, các trường
phái Đại Thừa không hề xa rời nhiệm vụ chính là đi trên con đường Giác ngộ.
Trong mọi trường hợp, sự quan tâm của họ là lý giải và hệ thống hóa những lời
dạy của một nhóm kinh điển được coi là lời của Đức Phật. Trong mọi trường hợp,
các trường phái Đại Thừa đều cố gắng thiết lập bản chất chính xác của
"Chánh kiến", là giai đoạn đầu tiên của Bát Chánh Đạo. Giác ngộ
thường được mô tả như là đạt tới trạng thái "thấy được sự vật theo đúng
bản chất của chúng", và phần lớn các tranh luận giáo thuyết được khai
triển trong Đại Thừa đều là một cố gắng nhằm thiết lập "cách thức mà sự
vật xuất hiện thực sự" như thế nào. Thế nhưng các thế hệ sau hình như bị
sa lầy trong những cuộc tranh luận kinh viện và những cố gắng rắc rối khó hiểu
nhằm hệ thống hóa những lời dạy của mọi kinh điển và trường phái khác nhau.
16
HỌC THUYẾT TATHĀGATAGARBHA
Trong viễn tượng giáo lý
Đại Thừa, học thuyết Tathāgatagarbha có vẻ là nghịch lý. Trong khi
Nāgārjuna đồng hóa niết bàn và luân hồi dựa trên tính chất chung của chúng là
thiếu hiện hữu nội tại svabhāva, thì Tathāgatagarbha đồng hóa chúng dựa
trên cơ sở ngược hẳn lại. Đối với Đại Thừa, mọi sự vật đều là svabhāva-śūnya,
trống rỗng svabhāva, còn học thuyết Tathāgatagarbha lại nhấn mạnh
một hạt nhân thường hằng và không thể phá vỡ trong mọi sự vật, và hạt nhân này
là cái hiện hữu thực sự, là nền tảng cho mọi thực tại trần tục và siêu việt.
Nền tảng này được gọi là Tathāgatagarbha, nghĩa là "Như Lai Tạng" hay
"phôi" của Tathāgata, "mầm mống" của quả Phật hiện diện
trong mọi chúng sinh và được khám phá ra nhờ việc thực hành siêu nhiên để chói
sáng lúc Giác ngộ. Trong khi các bản văn ban đầu của Tathāgatagarbha
hiểu điều này theo nghĩa đơn thuần là một tiềm thể có trong mọi chúng sinh, thì
truyền thống sau này đã hiểu nó theo nghĩa bản thể hơn, như là "vật"
mà sự hiện hữu của nó giúp cho người không giác ngộ được trở thành giác ngộ.
Chính sự hiện diện của Tathāgatagarbha này đã khuyến khích Đức Phật cố
gắng rao truyền Đạo cho mọi chúng sinh, vì Ngài có thể thấy rằng mọi chúng sinh
đều nhờ nó mà có khả năng trở thành một vị Phật. Theo viễn tượng của Tathāgatagarbha,
đây chính là ý nghĩa đích thực của câu chuyện kể về việc Brahmā Sahaỵpati xin
Đức Phật giảng đạo (148). Lối giải thích bản thể luận này chắc hẳn
dẫn tới những vấn đề tôn giáo thực tiễn (khác biệt với các vấn đề lý thuyết),
vì tư tưởng cho rằng mỗi người chúng ta đều "chứa" quả Phật đôi khi
bị hiểu theo một nghĩa có thể phá vỡ giá trị của việc thực hành thiêng liêng
xét như một phương tiện biến đổi bản thân. Nếu những người thực hành thiêng
liêng nghĩ mình đã được Giác ngộ rồi, thì còn cần cố gắng để làm gì?
Tathāgatagarbha không phải một
trường phái theo cùng một nghĩa như khi nói về trường phái Madhyamaka và Yogācārin,
cũng không có cùng tầm ảnh hưởng như hai trường phái này trong và ngoài Phật
giáo (có thể vì nó giống với các học thuyết Ấn giáo), và cũng không tạo nên
những nhóm đồ đệ biệt lập. (149) Thực tế người ta đã từng tranh cãi
rất nhiều về việc nó có thực sự phân biệt với trường phái Yogācārin hay không,
cả hai cùng xuất hiện cùng một thời kỳ và cùng chia sẻ chung một số bản văn cơ
bản của Asaṅga. (150)Có vẻ như học thuyết Tathāgatagarbha đã tạo
được rất ít ảnh hưởng đối với tư tưởng Phật giáo Ấn Độ trước thế kỷ XI.
Các kinh cổ xưa nhất của
Tathāgatagarbha là Tathāgatagarbha Sūtra (Như Lai Tạng Kinh) và
Śrīmālādevi-siỵhanāda Sūtra (Thắng-man Sư Tử Hống Kinh), cả hai có thể đã có từ
thế kỷ III CN. Tathāgatagarbha Sūtra rất ngắn, chỉ gồm hơn chín câu ví được
dùng để giải thích cách thức mà Tathāgatagarbha được giấu ẩn trong thực tại
trần tục. Ở đây Phật nói "Như thế, tuy bị che phủ trong sự ô trọc, luân
hồi từ kiếp này sang kiếp khác, nhưng chúng [chúng sinh] có Tathāgatagarbha,
chất chứa nhân đức, luôn luôn thanh tịnh, và vì thế chúng không khác với
ta." (151) Kinh Śrīmālā-siỵhanāda, "Bài giảng về tiếng gầm
sư tử của hoàng hậu Śrīmālā" thì dài hơn, với người hùng là nữ hoàng Phật
giáo Śrīmālā, và một số người cho rằng kinh này có nguồn gốc Mahāsaṅghika.
(152) Khi nhận lời Đức Phật tiên tri mình sẽ thành Phật, bà đã đọc mười
lời thề lớn, và giảng một học thuyết về ekayāna, một đường duy nhất, và học
thuyết về Tathāgatagarbha. Trong khi đối với Madhyamaka, śūnyatā chỉ về sự
trống rỗng hiện hữu nội tại, và đối với Yogācārin nó chỉ về sự trống rỗng nhị
nguyên, nghĩa là không có chủ thể và khách thể, thì Śrīmālā-devī Sūtra giải
thích rằng sự trống rỗng ở đây là chỉ về sự vắng bóng mọi uế nhơ trong
Tathāgatagarbha. Khi được giải thoát khỏi sự uế nhơ này, sự vắng bóng uế nhơ
trở nên rõ ràng, và cái được giải thoát khỏi sự uế nhơ được gọi là dharmakāya,
pháp thân vì yếu tố hoàn toàn không nhiễm uế này chính là bản thể của các vị
Phật. (153)
Một kinh thứ ba quan trọng để
trình bày tư tưởng Tathāgatagarbha là bản kinh tiếng Phạn Kinh
Đại-bát Niết-bàn Mahāparinirvāṇa Sūtra. Tuy có cùng tên gọi, nhưng đây
không phải là một bản khác của kinh Mahāparinibbāna Sutta trong Kinh
điển Pāli, tuy nó tuyên bố kể lại những biến cố cuối đời của Đức Phật. Kinh này
rất dài, chắc hẳn là một tác phẩm tập hợp của nhiều tác giả, được soạn vào
khoảng giữa năm 200 đến 400 CN. Điểm độc đáo của Mahāparinirvāṇa Sūtra là
nó dạy rằng có một bản ngã thực sự! Theo đúng kiểu thực hành chú giải của các
trường Đại Thừa khác, Mahāparinirvāṇa Sūtra nói rằng học thuyết anātman,
vô ngã, là một upāya, "phương tiện hiệu quả", tuỳ nghi do
chính Đức Phật sử dụng để giúp triệt căn bản ngã hiểu theo nghĩa chật hẹp và
không giác ngộ. Cho nên các kinh trình bày học thuyết này cần phải được cắt
nghĩa để hiểu cho đúng. Về phần mình, Mahāparinirvāṇa Sūtra tuyên bố
rằng nó trình bày một lời dạy bí mật của Đức Phật chưa từng được nghe trước
đây. Lời giảng này là có một "Đại Ngã", là yếu tố cơ bản ẩn bên dưới
thực tại trần tục. Trong khi trường phái Madhyamaka nhấn mạnh những khía cạnh
tiêu cực của Quả Phật, thì Mahāparinirvāṇa Sūtra cho rằng như thế là làm
cho người ta hiểu về Giác ngộ và thực tại một cách phiến diện, và vì thế nó tìm
cách sửa chữa sự phiến diện này bằng cách nhấn mạnh đặc biệt trên những đặc
tính tích cực của Giác ngộ.
Một bản văn quan trọng khác nữa
về học thuyết Tathāgatagarbha là Ratnagotravibhāga của
Maitreyānatha, với phần bình luận được truyền thống Trung Hoa cho là của
Sāramati - cả hai phần đều có từ thế kỷ III hay IV CN. Sāramati được coi là
người đầu tiên hệ thống hóa học thuyết Tathāgatagarbha, ông cắt nghĩa rằng thực
tại, ở đây gọi là tathatā, nghĩa là "như thị hay tính thế ấy",
có hai kiểu hay trạng thái. Tính Phật là tathatā thanh tịnh, vô tì tích,
trong khi thế giới trần tục là biểu hiện của tathatā ở trong tình trạng
ô uế. Đối với người không giác ngộ, cái tathatā thanh tịnh ẩn bên dưới
thực tại trần tục chính là Tathāgatagarbha.
Không bản văn nào trên đây nhắc
đến ālaya-vijñāna, "ý thức kho chứa". Giai đoạn phát triển thứ
hai của tư tưởng và văn học Tathāgatagarbha cũng có một số tác phẩm nhắc
đến ālaya-vijñāna, nhưng không gợi ý nó có liên quan gì tới Tathāgatagarbha.
Trong số những kinh loại này có Mahāyānasuùtralaỵkāra. Ở giai đoạn cuối
cùng, Tathāgatagarbha được hoàn toàn đồng hóa với ālaya-vijñāna, được
trình bày trong các kinh tiêu biểu là Laṅkāvatāra Sūtra và Đại Thừa
Khí Tín Luận, thường được dịch là "Đánh Thức Niềm Tin trong Đại
Thừa", được cho là của tác giả Aśvaghoṣa, một tác giả Ấn Độ ở thế kỷ
II CN., và có thể đã được soạn ở Trung Á hay Trung Hoa. Khảo luận này đã ảnh
hưởng rất mạnh trong Phật giáo châu Á và trường phái Hòa Yên của Trung Hoa, tại
đây Tathāgatagarbha được coi như là khúc quặt thứ tư của Bánh Xe Giáo
pháp.
Tuy xét một cách hời hợt bề
ngoài, học thuyết Tathāgatagarbha có vẻ như phủ nhận nhiều chủ đề trọng
tâm của Phật giáo cơ bản (và vì thế bị các Phật tử không theo học thuyết này
chỉ trích), nhưng khác với trường phái Madhyamaka, nó có thể được coi là một
khía cạnh của khuynh hướng dai dẳng trong Phật giáo muốn mô tả Quả Phật bằng
những kiểu nói tích cực, và sẽ đóng một vai trò quan trọng trong những tổng hợp
giáo lý Phật giáo của các dòng Phật giáo Tây Tạng.
Chỉ so sánh một cách sơ sài như
trên đây giữa Madhyamaka và Tathāgatagarbha sẽ là không công bằng đối
với sự đóng góp phức tạp và phong phú của Tathāgatagarbha cho sự phát
triển rộng rãi hơn của Phật giáo Đại Thừa. Chúng ta không được quên rằng có một
sự liên tục rất lớn giữa Madhyamaka và Yogācārin trong quan tâm chung của họ về
śūnyatā, sự trống rỗng, và có lẽ học thuyết Tathāgatagarbha, với
tính chất bản thể của nó, nên được đối chiếu với cả hai trường phái trên gộp
lại. Lúc đó chúng ta sẽ thấy cả ba truyền thống giáo lý này bổ sung nhau. Trong
khi Madhyamaka thiết lập nội dung nhận thức của Giác ngộ, và trong khi
Yogācārin nhấn mạnh việc thực hành thiêng liêng như là phương tiện để chúng ta
đi từ tình trạng không giác ngộ hiện tại đến Giác ngộ, thì học thuyết Tathāgatagarbha
tìm cách cắt nghĩa làm sao sự chuyển biến này có thể thực hiện được.
17
PHÁI TANTRA VÀ PHẬT GIÁO MẬT TÔNG
Tantra và Mật Tông (vajrayāna)
là những truyền thống bí truyền, và khác với các truyền thống trước đây, học
thuyết của những phái Phật giáo này chỉ dành cho những người Phật giáo đã nhận
được sự khai tâm thích hợp. Hơn nữa, những kinh điển phát sinh từ phong trào
này chất chứa đầy biểu tượng khiến hầu như không thể hiểu nổi nếu không có sự
cắt nghĩa của một thầy dạy, và chỉ có thể đạt được bởi những ai đã tiếp nhận abhiṣeka,
sự khai tâm trong truyền thống Tantra. Bài này sẽ trình bày về hai phái này
một cách tổng quát.
Tantra là một hiện tượng tràn
lan khắp Ấn Độ. Đây là một phong trào sử dụng các thủ thuật của nghi lễ ma
thuật và thiền, trong một tinh thần chống lại các quy tắc đạo đức, nhằm đạt
những mục tiêu thế tục và tôn giáo. Phái Phật giáo Tantra hình như đã phát
triển chủ yếu trong môi trường Đại Thừa, và mặc dù sau này nó sẽ làm phát sinh
phái Mật Tông, là thời kỳ lớn thứ ba của lịch sử Phật giáo Ấn Độ, nhưng nó vẫn
cố ý giữ lại mãi mãi tư cách Đại Thừa của nó. Vì vậy người Phật giáo Mật Tông
đi theo lý tưởng Bồ tát của Đại Thừa, tìm cách trở thành Phật để cứu độ tất cả
chúng sinh. Sự nhấn mạnh lớn nhất trong Mật Tông là về nghi lễ ma thuật, và sự
phát triển về lãnh vực này là nét đặc trưng chủ yếu phân biệt nó với các phái
Phật giáo khác trước nó. Ý nghĩa triết học về thực tại được hiểu theo học
thuyết Đại Thừa chính truyền mà không có mấy sự thay đổi. Phản ánh học thuyết Tathāgatagarbha
và sự đồng hóa niết bàn với luân hồi của Đại Thừa, người mới nhập đạo thấy mình
đã được Giác ngộ. Học thuyết "duy tâm" của Yogācārin cũng có tính
quyết định, vì nó dành vai trò trọng tâm cho việc hành thiền trong nghi lễ
Tantra, khiến cho mọi sự vật, kể cả các đồ vật trần tục, cũng được nhìn như
biểu tượng của thực tại được nhận thức bởi tâm của người Giác ngộ. Người hành
thiền vun trồng một thái độ coi mọi khía cạnh của thế giới trần tục ảo ảnh như
là sự biểu hiện của cái tâm giác ngộ.
Phái này đặt nặng tầm quan trọng
của việc đạt kết quả tức thì, với ý hướng là người mới nhập đạo cố gắng đạt
giác ngộ ngay bây giờ, trong chính kiếp sống này, chứ không phải sau nhiều kiếp
thực hành Chánh Đạo. Người ta vẫn giữ lại nguyên tắc quy y, nhưng giải thích
lại nguyên tắc này như là sự kinh nghiệm trực tiếp của người thực hành Tantra.
Vì thế mỗi người sẽ coi sư phụ của mình như là Phật Bảo, vì là người khai tâm
cho mình và dẫn dắt mình; coi Pháp Bảo như là iṣṭadevatā, "thần
tuyển chọn" của mình, nghĩa là vị Phật hay Bồ tát mà mình thị kiến hay cảm
nghiệm trực tiếp được; và Tăng Bảo là ḍākiṇī, "nữ chúa", là
cộng đồng thiêng liêng gợi hứng cho đời sống thiêng liêng ở mức độ tột đỉnh.
Phát Tantra bắt đầu bằng những tình cảm cơ bản là ghét và tham, không coi chúng
là những cản trở cho đời sống thiêng liêng, mà như là những phương tiện mạnh mẽ
để đạt lý tưởng Bồ tát. Bản năng sinh sản thâm sâu nơi con người được vun trồng
để sinh ra Quả Phật; phản xạ tự nhiên huỷ diệt những gì đe doạ bản ngã trần tục
được đổi hướng để nhằm tiêu diệt những sự uế tục làm vẩn đục Quả Phật bẩm sinh
nơi con người.
Về phương pháp thực hành tôn
giáo, và phương tiện để người ta đạt giác ngộ tức thì, Tantra sử dụng nghi thức
pháp thuật để đạt những mục tiêu thiêng liêng của Phật giáo Đại Thừa. Nền tảng
của ma thuật này là sự đồng hóa bằng biểu tượng giữa thân xác và hành động của
người hành đạo với những khía cạnh của vũ trụ vật chất và siêu nhiên. Dựa trên
cơ sở đồng hóa này, bằng những thao tác mềm dẻo của thân xác, người hành đạo có
thể điều khiển thế giới bên ngoài. Nhưng quan trọng hơn nữa, trong cái nhìn cứu
độ, việc điều khiển thế giới bên ngoài của người hành đạo cũng có thể biến đổi
thế giới bên trong thân xác mềm dẻo của họ, vì đối với người hành đạo Tantra,
không có sự phân biệt giữa thế giới bên trong và thế giới bên ngoài. Bằng những
cách thức đó, họ có thể đạt siddhi, "thành công", dù là trong
thế giới phàm tục hay thế giới thiêng liêng cao siêu nhất.
Những bậc hành đạo Tantra cao
nhất (gọi là anuttarayoga, xem dưới đây) gồm việc kích thích và vận dụng
những năng lực của toàn cơ thể tâm sinh lý, và người ta đã xác định cả một hệ
thống phức tạp những đường thực hành năng lực trong cơ thể để thể hiện việc
này. Đây là một hình thức yoga tình dục, bao gồm việc giao hợp nghi tiết với
một nữ śakti, (nghĩa đen là "lực"), có mục đích kích thích
việc phát sinh yếu tố giác ngộ, được biểu tượng bằng tinh trùng của người hành
lễ. Hiển nhiên những việc thực hành này, nếu theo nghĩa đen sẽ là phá vỡ giới
bổn Prātimokṣa buộc Tỳ khưu phải tiết dục hoàn toàn, do đó một số truyền
thống Tây Tạng sau này đã theo Atīśa cắt nghĩa một cách nhấn mạnh rằng ngôn ngữ
này hoàn toàn chỉ có nghĩa biểu tượng - người nữ giao phối là biểu tượng trí
tuệ siêu việt, người nam giao phối biểu tượng upāya, "phương tiện
hiệu quả". Tuy nhiên, lối giải thích biểu tượng này không phổ biến, và có
một truyền thống Mật Tông cổ xưa mô tả người Mật Tông lý tưởng là người có việc
thực hành Tiểu Thừa bề ngoài (nghĩa là công khai), việc thực hành Đại Thừa tư
riêng, và việc thực hành Mật Tông bí mật. Các chứng cớ khảo cổ học cho thấy
những mức độ cao nhất của việc thực hành Tantra công khai chỉ có từ khoảng thế
kỷ X-XI trở đi, nghĩa là rất muộn, và cả vào thời kỳ này, nó vẫn gây ngộ nhận
và xúc phạm. Nhà hành hương người Tây Tạng Dharmasvāmin, sau khi đến thăm Bodh
Gaya vào thế kỷ XIII, mô tả những "Śrāvakas Tích Lan" công
khai tố cáo những người thuộc phái Mật Tông, đốt những bản kinh Tantra và phá
huỷ một bức ảnh của một vị Phật nam thịnh nộ gọi là heruka tại một thánh
điện ở đó. (155) (156)
Lịch sử của phái Tantra rất tối
tăm, giống như nhiều điều khác trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ, nhưng các sử gia
đã có thể xác định được một số giai đoạn phát triển của nó. Bằng chứng đầu tiên
về sự xuất hiện những đặc tính được coi là thuộc Tantra có rất sớm, từ thế kỷ
II CN., và gồm những chương lấy từ các kinh khác nhau của Đại Thừa về những Dhāraṇī,
những chuỗi vần dài khó hiểu được cho là có những năng lực khác nhau. Rõ
ràng những vần này có liên quan tới những câu niệm chú của Đại Thừa và những
bản văn gọi là paritta, như Mettā Sutta được những người Phật
giáo ngoài Đại Thừa tụng lên để xin sự che chở. Những kinh Tantra cổ xưa nhất
được dịch sang tiếng Trung Hoa từ thế kỷ III. Tuy nhiên, giai đoạn đầu này, đôi
khi được gọi là Mantrayāna, trong một thời gian dài không có ảnh hưởng lớn đối
với cộng đồng Phật giáo nói chung.
Từ thế kỷ VIII, tình hình này đã
thay đổi, và Tantra đã được biết đến khá nhiều và đã bắt đầu kích thích những
hoạt động chú giải trong các đại học lớn. Sự biến chuyển này chắc hẳn có liên
quan tới sự xuất hiện của triều đại Pāla ở Bihar và Bengal
(760-1142 CN.), triều đại đã thiết lập những đại học mới ở Vikramaśīla
và Odangtapurā. Những đại học này đã trở thành trung tâm của phong trào mới, và
chủ yếu từ đây mà Phật giáo được truyền sang Tây Tạng. Nó cũng có thể được coi
như một sự phục hưng để phản ứng lại sự suy đồi của Phật giáo đã được mô tả lại
bởi Yuan-tsang khi ông đến thăm Ấn Độ vào thế kỷ VII. Cần nhấn mạnh rằng trong
mọi giai đoạn đều có những người hành đạo Tantra sống trong các tu viện như
những Tỳ khưu được thụ giới đầy đủ, tuân giữ những giới luật Vinaya giống như
các Tỳ khưu khác. Có thể nói giai đoạn thứ hai này đánh dấu nguồn gốc thực sự
của phái Mật Tông, vì trong giai đoạn này các biểu tượng, thuật ngữ, và phần
lớn nghi lễ đã được thiết lập.
Trong phái Mật Tông, người ta đã
xác định được thêm hai giai đoạn nữa. Giai đoạn thứ nhất được một số học giả
gọi là Sahajayāna, liên quan tới các hoạt động của một nhóm gọi là mahā-siddhas,
những người "tinh thông xuất chúng", truyền thống kể ra con số 84
người, từ thế kỷ IX tới XII. Đây là những Thiền sư hoàn hảo đi rảo khắp các
vùng đồng quê theo kiểu các nhà phù thủy tốt lành, bề ngoài không lệ thuộc một
tu viện nào, thường có một người đồng hành thuộc giai cấp thấp đi theo để giúp
ông thực hiện các nghi lễ Tantra và hành thiền. Hệ tư tưởng của họ là của Mật
Tông, và họ dùng những bài ca huyền bí để ca ngợi mahāsukha, "đại
lạc" (= niết bàn) tức là sahaja, "cái cùng xuất hiện" với
niềm hạnh phúc phát sinh từ cuộc phối hợp giữa người hành thiền và người đồng
hành, nhờ các phương pháp thiền để dẫn đến sự kết hợp giữa upāya và Prajñā
(trí tuệ). (157)
Qua nếp sống của mình, một số
"bậc tinh thông" siddhas thách thức và chế nhạo sự tự mãn và
nghi thức bề ngoài của các cơ chế tôn giáo trong các đại học tu viện. Phương
pháp tìm kiếm tôn giáo trong tinh thần chống các quy luật đạo đức của họ cũng
như lối biểu tượng tình dục và việc thực hành của phái Mật Tông thời sau chứng
tỏ họ có ý muốn gây điều chướng tai gai mắt. Trong thực tế, việc phá bỏ những
cấm kị là một nét đặc trưng quan trọng của việc thực hành trong phái Mật Tông -
theo đó người ta nhấn mạnh việc giao hợp với phụ nữ thuộc giai cấp ti tiện, ăn
thịt (đặc biệt thịt chó và xác người) và các chất ô uế khác, và tiếp xúc thường
xuyên với các vùng đất hoả thiêu, tất cả những điều này đều vô cùng ghê tởm đối
với Bà La Môn giáo. Người ta không rõ chính Phật giáo có tiếp thu những giá trị
đó trong thời kì này hay không.
Sự phát triển của giai đoạn cuối
cùng và muộn thời này được gắn liền với một bản văn gọi là Kālacakra Tantra,
hình như đã được soạn trước giữa thế kỷ XI, và là bản kinh Tantra cuối cùng
xuất hiện tại chính Ấn Độ. Kālacakra Tantra được viết bằng tiếng Phạn cổ
điển, không giống những tác phẩm Tantra của thời kì trước đều viết bằng thứ
ngôn ngữ pha trộn giữa Prakrit và saỵdhyābhāṣā, "ngôn ngữ ám
chỉ", cả hai loại ngôn ngữ này đều khó đọc và khó hiểu. Việc sử dụng tiếng
Phạn cổ điển cho thấy đây là sản phẩm của một cộng đồng tu viện trí thức hơn là
soạn tác của một cá nhân siddha nào. Nó đưa vào những yếu tố chính trị
và chiêm tinh không thấy có trong những tác phẩm trước, ví dụ, sự tổng hợp việc
thờ phượng các vị thần Phật giáo và Ấn giáo được quan niệm như là ngăn chặn các
cuộc xâm lăng Hồi giáo.
Các tác phẩm của Mật Tông thì
nhiều vô kể. Mỗi bản văn riêng biệt đều được gọi là một tantra, tương
đương với Sūtra, có nghĩa là "sợi chỉ, xâu chuỗi các lời dạy",
và những kinh cổ xưa nhất được gán cho Phật Thích Ca Mâu Ni. Vì thế các kinh
này được coi là lời của Phật, và được đưa vào chung với các kinh Sūtra
trong các sưu tập lời dạy của Phật của Tây Tạng và Trung Hoa. Kinh điển Tây
Tạng chứa những bản dịch của gần năm trăm tantra và hơn hai ngàn bình luận về
các tantra này. Phần lớn có liên quan đến những lời hướng dẫn việc thực hiện
các nghi lễ và thiền định tinh vi. Về sau các tantra của Tây Tạng đã được hệ
thống hóa thành bốn loại tantra: tantra kriyā, "các kinh về hành
động"; tantra caryā, "các kinh về giới luật"; tantra yoga,
"các kinh về việc phối hợp"; và tantra anuttarayora, "các
kinh tối hậu"
Các xâu chuỗi lời dạy kriya này
tạo thành một phạm loại bản văn Kinh Phật rộng xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ
thứ hai và thứ sáu sau CN. Các bản văn này gồm cả một số xâu chuỗi (tantras)
rất cổ và là những bản văn đầu tiên được dịch sang tiếng Trung Hoa (từ thế kỷ
thứ III trở về trước. thí dụ như Đại Vân Thỉnh Vũ Kinh (Mahamegha Sutra) (có từ
trước năm 439 sau CN.) Các xâu chuỗi lời dạy kriya – cụ thể như Đại vân
thỉnh vũ Kinh (Mahamegha Sutra), chỉ liên quan đến việc cầu mưa gió mà thôi -
không giống như các loại xâu chuỗi lời dạy còn lại, chủ yếu thuộc dạng công cụ,
chỉ được dành riêng dùng cho những mục tiêu trần tục mà thôi. Do bản chất phi
thần học, các xâu chuỗi kriya không thể được thay thế bằng một số các
xâu chuỗi sau này. Chúng được phân bổ nơi bốn kulas một, hay là bốn 'gia đình'
là kula như lai, kula hoa sen, kula kim cương và kula thời gian, và mỗi kula đó
tập trung lại để thờ tự một số đông các Phật nhân và bồ tát hay các vị thần
thánh. Rất nhiều kula như vậy đều dựa trên các Mật chú (dharanis) trong
số này phải kể đến các Kinh Aryamanjusrimulakalpa, Kinh Subahupariprccha,
và Kinh Aparimitayurjnadrdayadharani, song song với nhiều kinh khác
nữa.
Các xâu chuỗi lời dạy cariya tạo
thành một loại nhỏ các bản văn Kinh Phật rất có thể đã xuất hiện từ thế kỷ thứ
VI trở về trước. gồm có Tantra Mahavairocanabhisambodhi (c.600)
và một số bản văn Kinh Phật phụ khác nữa. Vì là một loại bản văn, chính vì thế
tantra này hầu như hoàn toàn tập trung vào việc thờ tự Phật Tỳ-Lư-Xá-Na
(Vairocana). Cho dù cũng có liên quan đến việc đạt được các thành tựu (siddhis),
hay các quyền lực trần thế, không giống như các kriya tantras, tuy vậy
các thành tựu này được đạt đến thông qua một qui trình mường tượng đến chính
mình như là một Phật Tỳ-Lư-Xá-Na (Vairocana).
Các xâu chuỗi lời dạy yoga tập
trung nơi Tỳ-Lư-Xá-Na (Vairocana) cũng giống như vậy, và kể cả tantra
Sarvatathagatatavasamgraha (c.700). Tantra Sarvadurgatiparisodhana và
Tantra Manjusrinamasamgiti cũng phản ánh một việc thờ tự đối với vị Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi. Cùng với các tantra Cariya cả hai tập hợp lại thành nền
tảng các trường phái Mật Tông Shingon và Mật Tông Nhật Bản.
Các phân loại thứ tư do những
người Tây Tạng thực hiện, trong đó loại cuối cùng là tantra Vô thượng, hình như
đã được áp đặt vào một thực tiễn phức tạp hơn đã tồn tại ở Ấn Độ (159).
Tantra này hoà nhập vào ít nhất hai loại tantra, mà theo nguồn gốc xuất phát rõ
ràng ta thấy cả hai như đã choán chỗ và thay thế một cách liên tục các tantras
trước đó. Loại đầu tiên có các tantras yogottara, hay còn gọi là các
tantras hợp nhất cao cấp hơn' cũng được mô tả như là 'các tantra thân phụ' hay
tiếng Pàli gọi là upaya tantras, các tantra này chỉ liên quan đến chủ
yếu đến việc thờ tự Phật Aksobhya và hôn thê của ngài là bồ tát Mamaki, sử dụng
đến tưởng tượng và nghi thức giao cấu. Việc thực hành các xâu chuỗi lời dạy yogattara,
và nhiều tantras tiếp theo đó, được mô tả thuộc loại phi nhị nguyên, hiểu
theo nghĩa các tantra này bắt buộc phải có tính ưu việt có cân nhắc cẩn thận
đối với các thông lệ xã hội và tôn giáo liên quan đến những đặc tính nước đôi
được phép hay cấm cản thực hiện đó. Gồm có cả các tantra Guhyasamaja có
từ thế kỷ thứ VIII.
Có một loạt các tantras khác thế
chỗ cho Tantras Yogottara, xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ VIII, tự cho là
đối nghịch lại với các 'tantra mẹ' hay là tantra prajna. Những
tantras này vẫn qui tụ vào việc thờ cúng Bồ Tát Aksobhya, nhưng Bồ tát này lại
được sùng bái đặc biệt dưới dạng tức giận (gọi là herukas) đối với vác
phu thê, và được đi kèm theo với hàng loạt đoàn tuỳ tùng gọi là Đồ-cát-ni (dakinis).
Vị Bồ Tát này thường được thấy xuất hiện nơi giàn hoả thiêu. Nhìn chung các
nhân vật nữ giới thường cũng quan trọng như các nhân vật nam giới trong các
tantra này, nếu ta không muốn nói là có phần hơn nữa là đàng khác, và điều này
được phản ánh trong việc sử dụng các tên gọi thuộc loại này đó là: yogini tantra.
Các tantra này cũng được gọi với tên là yoganuttara- hay là các
tantra yoganiruttara, có nghĩa là 'các tantra hoà hợp tuyệt đối'. Tantra
đầu tiên thuộc loại này có tên là tantra Samvara, được dịch sang tiếng
Tây Tạng vào thế kỷ thứ VIII. Một số khác thuộc loại này, như Tantra
Hevajra. Tantra Samvarodaya, và Tantra Candamatharosana. Hình như mới thấy
xuất hiện vào thế kỷ thứ X. Tantra Candamatharosana (xuất hiện ở thế kỷ
thứ XI) đôi khi được xếp vào loại tantra advaya hay tantra'phi kép' đã
thế chỗ cho toàn bộ những loại tantra trước đó.
Những nét tương đồng giữa các
nhân vật trong tantra yogini và các nhân vật trong tantra Saivite đã
được nhận ra từ rất lâu, nhưng điều này chỉ được xác minh gần đây thôi đó là
chắc chắn một số tantra yogini đã được sao chép lại một số tantra
Saivite và một nhà biên soạn Phật tử (160) đã sửa chữa lại đôi chút
cho hợp với những mục tiêu Phật giáo. Chứng cớ bản văn này được củng cố bằng
những nét tương đồng rất quen thuộc nơi các nghi thức và cách mô tả bằng tranh
ảnh. Không muốn đề cập chi tiết đến một tantra cao cấp hơn lại mang đặc tính
phi Phật giáo. Vì ta luôn thấy một phần truyền thống Phật giáo có liên quan
chặt chẽ với các vị thần linh xuất phát nơi truyền thống các tôn giáo khác. Và
các vị thần linh này đã được biến đổi đôi chút để bổ sung thêm hay nhằm phục vụ
những mục đích thần học trong Phật giáo.
Do việc hệ thống hóa sau này,
bốn loại tantra trên đây đã được coi là tạo thành một bậc thang để người hành
đạo tiến lên từng bước. Việc gia nhập và thực hành tantra luôn luôn phải có một
sự khai tâm bởi một vị thầy chuyên môn. Các sadhanas, bài hướng dẫn để
hình dung ra một nhân vật, thường bao gồm các yếu tố của cả Phật giáo ban đầu
và việc thực hành Đại Thừa, trong đó có thể kể đến brahma viharas, "trú
xứ của Phạm Thiên", Quy y Tam Bảo, xưng thú tội lỗi, lời thề của Bồ tát,
vun trồng quả giác ngộ, và việc chuyển nhượng các công đức. (161)
Phật giáo Tantra được truyền vào
Tây Tạng, đặc biệt sau sự sụp đổ của Phật giáo miền Bắc Ấn Độ trong cuộc xâm
lăng Hồi giáo, và tại đó nó đã được người Tây Tạng chấp nhận. Tuy được truyền
vào Trung Hoa từ đầu thế kỷ VIII, nhưng nó không phát triển được tại đây, vì
người Trung Hoa không thể chấp nhận nội dung nhục dục trong các tantra. Ngược
lại, việc thực hành Tantra có một chỗ đứng vững vàng ở Nhật, tại đây nó phát
triển dưới danh nghĩa Trường phái Mật ngữ.
18
SỰ SUY TÀN CỦA PHẬT GIÁO TẠI ẤN ĐỘ
Sự suy tàn của Phật giáo
tại Ấn Độ chắc chắn đã được đẩy nhanh do những cuộc xâm lăng của Hồi giáo ở thế
kỷ XII và XIII, nhưng ở một số mặt, nó đã bị suy yếu trước đó rồi, và vì thế dễ
bị tổn thương trước ảnh hưởng của Hồi giáo.
Trước hết, đã có một sự pha trộn
giữa các tư tưởng của Ấn giáo và Phật giáo, mà người bình thường khó có thể
phân biệt một cách rõ ràng. Một mặt, từ nhiều thế kỷ đã có cuộc đối thoại phê
bình lẫn nhau giữa hai tôn giáo này để làm cho các triết lý của mỗi tôn giáo
trở nên tinh tế hơn - nhưng sự tinh lọc này đã dẫn tới khuynh hướng làm cho
chúng ngày càng khô khan trừu tượng và khó phân biệt đối với người thường. Mặt
khác, sự phát triển của phong trào Tantra, làm phát sinh vô số các vị Phật, Bồ
tát, và các nhân vật dharmapāla, hẳn đã làm cho Phật giáo trở thành
không khác gì Ấn giáo chính thống, với cả một chuỗi các vị thần của họ. Thậm
chí cũng có một sự tiếp thu giáo lý Phật giáo vào trong Ấn giáo, như được phản
ánh trong học thuyết của phái Viṣṇu coi Đức Phật như một hóa thân của
thần Viṣṇu, đã xuất hiện lần đầu tiên một thời gian ngắn trước cuộc xâm
lăng của Hồi giáo. Ngay cả những người Pāla, vốn tự coi mình là người Phật
giáo, cũng tự hào vì tuân giữ hoàn hảo Giáo pháp của mình về giai cấp - là
những khoản luật quy định mọi khía cạnh của các mối tương tác xã hội.
Đi song song với điều này là sự
kiện Phật giáo có vẻ như đã trở thành một tôn giáo dành riêng cho các chuyên
viên, đặc biệt các chuyên viên trí thức đại học quan tâm tới việc phát triển
các đại học đã được xây dựng trước đây dưới sự bảo trợ của các vua của triều
đại Guptka và Pāla. Ở đỉnh cao của nó, đại học Nālandā được tài trợ bằng tiền
thuế thập phân của một trăm ngôi làng, và cung cấp việc đào tạo miễn phí cho cả
mười ngàn sinh viên, Phật giáo và không Phật giáo. Trong khi Phật giáo ngày
càng gắn liền với hoạt động tri thức tập trung, tu trì, thì Ấn giáo vẫn duy trì
được tính bình dân, dựa trên đời sống của các làng mạc, và các Tỳ khưu Ấn giáo
đi tới từng nhà để phục vụ những nhu cầu tôn giáo của người đồng đạo. Ngược
lại, người Phật giáo không phải lo lắng về những nhu cầu kinh tế trực tiếp của
mình vì có những tài sản dồi dào đã tích luỹ do của dâng cúng từ những tín đồ
hảo tâm và những vị vua bảo trợ trước đây. Có lẽ họ đã mất tiếp xúc phần nào
với văn hóa bình dân, ngưng thu nạp tín đồ mới, và khép kín trong những cuộc
tranh luận triết học tinh vi và những nghi lễ theo giáo phái Tantra. Ngay cả những
Tỳ khưu khổ hạnh của Ấn giáo cũng chỉ là những con người khất sĩ đơn giản,
giống như những người Phật giáo ban đầu, và vì thế họ không phải lệ thuộc các
tổ chức tu viện và sự bảo trợ cần thiết của các vị vua giống như thân phận của
những người Phật giáo. Hình như Ấn giáo đã trải qua một cuộc hồi sinh nữa trước
thời kì bị Hồi giáo xâm lăng, và họ đã bành trướng giáo phái Viṣṇu ở
miền Nam, Siva ở Kashmir, và các triết gia - giáo sư thù nghịch với Phật giáo
như Śaṇkara và Kumārila đi giảng dạy khắp các vùng đồng quê và thu hút được
nhiều tín đồ. Tuy có những dấu hiệu cho thấy sự phân biệt giai cấp đặc trưng
của Ấn giáo đã thâm nhập vào chính Tăng Già Phật giáo (như ở Sri Lanka), nhưng
chúng ta không nên quên rằng Phật giáo đã mặc nhiên phủ nhận giá trị của những
phân biệt giai cấp này bằng cách chấp nhận mọi người thụ giới bất kể thuộc
thành phần giai cấp nào. Sự chống đối này đã được diễn tả trực tiếp trong tác
phẩm Vajrasuci của Aśvaghoṣa, trong tác phẩm này ông xoá bỏ cơ sở của sự
phân biệt giai cấp bằng cách nêu lên những giai thoại bất bình thường trong
kinh thánh Ấn giáo.
Sau cùng, ngay cả sự bảo trợ của
nhà vua chưa hẳn là điều có lợi. Đại học Nālandā từng được vua Harṣa (606-647)
bảo trợ rất mạnh, nhưng sau đã bị triều đại Pāla làm ngơ, ngược lại triều đại
này quay sang bảo trợ các trường đại học do chính triều đại này thiết lập -
Vikramaśīla và Odantapurā. Ngay cả các việc làm của các vua cũng không nhất
thiết đáng tin, vì không những họ dễ dàng bỏ đạo mà còn có thể bị mất chức
quyền và thay thế bởi những vị vua khác thù nghịch với Phật pháp.
Khởi đầu bước suy tàn của Phật
giáo Ấn Độ là vào thế kỷ VIII, với những cuộc tấn công đầu tiên của Hồi giáo
vào Ấn Độ, như cuộc phá huỷ thành phố và đại học Phật giáo ở Valabhī. Những
cuộc tấn công này đã bị các lãnh chúa địa phương Ấn Độ chặn đứng, khiến quân
xâm lăng Thổ Nhĩ Kỳ chỉ có thể tiến quân dần dần vào Ấn Độ trong bốn thế kỷ
sau, khi các vương quốc lần lượt rơi vào tay họ. Vì các vương công địa phương
tại Ấn Độ không đạt được liên minh hiệu quả nào chống lại mối đe dọa của Hồi
giáo, và trong một số trường hợp đã đánh giá quá thấp mối nguy của quân thù ở
biên giới nên cuối cùng họ đã bị xâm chiếm hoàn toàn ở thế kỷ XII, khi người
Hồi giáo mở rộng sự hiện diện huỷ diệt của họ trên khắp miền Bắc của bán lục
địa. Năm 1197 Nālandā bị chiếm. Vikramaśīla cũng chịu cùng số phận năm 1203.
Tại những đồng bằng miền Bắc Ấn Độ, các sử gia Hồi giáo ghi lại rằng các đại
học ở đây lúc đầu bị tưởng lầm là những pháo đài, và bị tàn phá không thương
tiếc, các thư viện bị đốt sạch, và những người cư ngụ trong đó bị tàn sát mà
không kịp giải thích mình là ai và làm gì (162). Chẳng bao lâu sau,
cả vùng lưu vực sông Hằng, đất thánh truyền thống của Phật giáo, hoàn toàn nằm
dưới quyền kiểm soát của các nhà cai trị Hồi giáo.
Chính các đại học đã bị phá huỷ
hầu như ngay tức khắc, vì các nguyên tắc bất bạo động cơ bản có lẽ đã ngăn cản
sự bảo vệ quân sự từ phía các cộng đồng Phật giáo. Nhưng các tập thể Phật giáo
vẫn còn sống sót thêm mấy thế kỷ nữa trong những dúm nhỏ ở miền Bắc Ấn Độ. Một
người hành hương từ Tây Tạng, Dharmasvāmin, khi đi tìm kiếm những bản kinh giữa
những phế tích của Nālandā đã gặp một nhà sư tên là Rāhulaśrībhadra đang dạy
văn phạm chữ Phạn cho một nhóm học trò vào năm 1295. (163) Đa số
người tị nạn trốn sang vùng Đông Nam Á qua ngả Miến Điện hay sang Tây Tạng, hay
xuống miền Nam Ấn Độ. Phần lớn các cơ sở và tổ chức Phật giáo ở miền Nam Ấn Độ
không bị ảnh hưởng do cuộc xâm lăng miền Bắc của người Hồi giáo, và đã tồn tại
thêm mấy thế kỷ nữa cho tới khi dần dần bị tan rã trước cuộc hồi sinh của phái
Siva từ thế kỷ VIII hay IX trở đi. Có bằng chứng cho thấy Phật giáo Theravāda
còn tồn tại ở Karnataka cho tới ít là thế kỷ XVI (164) và ở Tamil
Nadu cho tới tận thế kỷ XVII. (165)