Biểu đồ 2 cho thấy truyền bản Tây Tạng có cả thảy 670 bộ, trong khi bản Hán dịch chỉ có 75 bộ, trong đó có đến 59 bộ được dịch vào thời nhà Đường và nhà Tống. Vấn đề trên có thể chia làm bốn khoảnh nhằm giải minh những trọng điểm:
1.Hai bộ luận căn bản của Long-Thọ là “Thất Thập Không Tánh Luận” và “Trung Quán Luận”; Nhưng Trung Quốc thì mới dịch bộ Trung Quán Luận. Những chủ sớ của hai đại luận sư là Phật Hộ và Nguyệt Xứng về cái học của Long Thọ thì Trung Quốc chưa thấy có. (Năm 1962, Trung Hoa Dân Quốc có xuất bản bộ “Nhập Trung Luận Giảng Ký” do pháp sư Diễn Bồi dịch của Nguyệt Xứng).
Từ Thị Ngũ Luận là sở tông của Vô Trước, nhưng Trung Quốc còn thiếu hai bộ (hiện tại còn thiếu một bộ, xin xem chú thứ tư của tiết nầy).
3.Về phương diện Nhân Minh, Trần Na là người kế nghiệp Thế Thân, và luận nầy được truyền vào Tây Tạng cả thảy chín bộ, trong khi Trung Quốc mới dịch được có bốn, là “Nhân Minh Nhập Chánh Lý Luận”, “Nhân Minh Nhập Chánh Môn Luận”, “Quán Sở Duyên Duyên Luận Tụng” và một bộ chú thích ba bộ Luận trên. Hai bộ trước đề là Thương Yết La chủ tạo. Còn về đại gia là luận sư Pháp Xứng, người kế khởi cái học suy diễn của Nhân Minh, thì Hán dịch chưa thấy.
4.Còn về sớ giải Thành Tựu Quyết Nghi Quỹ Thuật Yếu v.v… có quan hệ đến Mật thừa thì bản Hán dịch hãy còn thiếu rất nhiều.
Từ những đối chiếu, so sánh về sự thiếu đủ giữa hai tạng kinh Hán văn và Tạng văn cho thấy Phật giáo Tây Tạng trực tiếp chịu ảnh hưởng những trước thuật của Phật giáo Ấn Độ vào thời Vãn kỳ là như thế nào. Chỉ riêng Nguyệt Xứng và Pháp Xứng cùng với Vô Thượng Du Già của Mật thừa, thì vào thời nhà Đường, ở Trung Quốc vẫn chưa thấy xuất hiện. Kinh điển Mật thừa nào vừa xuất hiện ở Ấn Độ, thì ngay sau đó được truyền vào Tây Tạng, diều đó tạo nên một nét đặc sắc cho Phật giáo Mật thừa Tây Tạng. Về luận điển của các tác giả Hiển thừa của Ấn Độ được truyền vào Tây Tạng ước có hai mươi bảy nhà (tư liệu dùng trong mục nầy được lấy từ “Tây Tạng Phật Giáo Nguyên Luận”, trang 51-55.
Phần chú giải:
*Chú 1: Bảy bộ luận Tỳ Đàm. Xem “Ấn Độ Phật Giáo Sử”, chương 6, tiết 2. Đơn cử như “Phát Trí”, “Lục Túc” v.v cả thảy bảy bộ.
*Chú 2: “Đại Thừa Nghi” nguyên nghĩa trong Tạng văn là “Xa Quỹ Khai Cải Giả” chỉ tư tưởng căn bản của các đại sư khai sáng tông phái Đại Thừa. Xưa nay chỉ có hai vị là Long Thọ và Từ Thị, Bố Đốn từng theo học phái của Nha-Quân và Trần Na. Kỳ thực Nha Quân chỉ chú trọng thuyết “Vô tánh vô tướng” và ông không xuất thân trong phạm vi thuyết Trung Quán của Long Thọ; Trần Na-người truyền bá cái học của Vô Trước và ông không lập lại thuyết “Ngoại Cảnh Hữu”. Nhưng ông chính là hậu duệ của Vô Trước. Vì vậy, trong trước tác của Tông Khách Ba “Hiện Quán Trang Nghiêm Luận Kim Man Sớ”, ông có vẻ phản đối lại thuyết Tứ Nghi của Bố Đốn.
*Chú 3: Sáu luận của Long Thọ là: Thất Thập Không Tánh Luận, Trung Luận, Lục Thập Như Lý Luận, Hồi Tránh Luận, Quảng Phá Luận, Giả Danh Thành Tựu Luận.(bộ Giả Danh Thành Tựu Luận chưa được truyền vào Tây Tạng, hoặc có thì đó là bộ Bảo Man Luận được thay vào).
*Chú 4: 1-Từ Thị Ngủ Luận là chỉ các bộ luận: Hiện Quán Trang Nghiêm Luận, Biện Trung Biên Luận, Đại Thừa Kinh Trang Nghiêm Luận, Biện Pháp Tánh Luận, Tục Thượng Sư Luận. Trong năm bộ luận trên, thì bộ thứ nhất và thứ năm chưa được dịch ra Hán văn, mới đây-năm 1942, Pháp sư Pháp- Tôn có dịch bộ Hiện Quán Trang Nghiêm Luận ra Hán văn .
2-Vô Trước Ngũ Địa, tức năm phần; như: Nhiếp Bổn Địa Phần của Du Già Sư Địa Luận mà bản Hán dịch nói là do Từ Thị truyền, còn Tây Tạng thì cho là do Vô Trước truyền, và gồm có: Căn Bản Chư Địa, Nhiếp Quyết Trạch, Nhiếp Sự, Nhiếp Dị Môn, Nhiếp Thích, còn gọi là Nhị Nhiếp, tức chỉ cho A Tỳ Đàm Đạt Ma Tập Luận và Nhiếp Đại Thừa Luận.
3-Bát Chi của Thế Trần là chỉ đạo cho Duy Thức Tam Thập Luận, Duy Thức Nhị Thập Luận, Ngũ Uẩn Luận, Thích Quỹ Luận, Thành Nghiệp Luận, Đại Thừa Trang Nghiêm Luận Thích, Biện Trung Biên Luận Thích, Duyên Khởi Luân Thích. Cả tám chi nầy Hán và Tạng đều dịch đầy đủ.
*Chú 5: 1-Thất Chi của Pháp Xứng là chỉ: Chính Lý Đệ Nhất Đích Luận, Lượng Quyết Định Luận, Tương Thích Luận, Nhân Luận Nhất Đích Luận, Quán Tường Thuộc Luận, Luận Nghị Chính Lý Phẩm Loại Luận, Thành Tha Tương Thuộc Luận, 2-Thất Quán là chỉ: Quán Sở Duyên Tụng của Trần Na , Quán Tam Thế Tụng cũng của Trần Na, Quán Văn của Thiện Hộ, Quán Vô Lượng Tụng của Pháp Thắng, Tiểu Bản Quán Lượng Luận ( vốn là một tiết trong Quán Lượng Luận). Quán Phá Tha Tụng đều là của Thiện Hộ, Quán Tương Thuộc Luận Tuỳ Thuận Luận của Thương Yết La Nan Đà.
3-Bát Thành là chỉ Thành Tựu Nhất Thiết Trí Tụng và Thành Tựu Ngoại Nghĩa Tụng của Thiện Hộ, Thành Tựu Phá Khiển Luận của Thương Yết La Nan Đà;Thành Tựu Bĩ Thế Gian Luận của Pháp Thắng, Thành Tựu Sát Na Diệt Luận cũng của Pháp Thắng, Thành Tựu Duy Thức Tánh Luận của Bảo Tác Tịch, Thành Tựu Tương Thuộc Luận của Thươnh Yết La Nan Đà, Thành Tựu Nhân Quả Tánh của Trí Cát Tường Hửu.
4-Thất Trùng Sớ là chỉ cho thích luận của Pháp Xứng đối với Thất Chi; trong đó ngoài Pháp Xứng viết thích luận còn có :Đế Thích Huệ, Thích Ca Huệ, Huệ Tác Hộ, Thắng Giả, Thương Yết La Nan Đà, Nhật Hộ, Dạ Ma Lê, Luận Thiên, Tịch Hộ, Pháp Thắng, Liên Hoa Giới, Thắng Hửu, A Đê Đà v.v..cùng tham gia viết thích luận, một số về Nhân Minh Luận Trung Quốc vẫn chưa dịch và truyền bá.
TIẾT II : Tự Viện Và Pháp Vật Của Phật Giáo Tây Tạng.
Tây Tạng Tự Viện.
Phật giáo vốn dĩ đã trở thành quốc giáo của Tây Tạng. Do đó, số lượng tự viện là rất nhiều. Riêng về những ngôi đại tự nổi tiếng có hơn 3.000. những tự viện bình thường thì không thể kể xiếc. “Chiêu Đề Lan Nhã” không đâu là không có. (xem Phật Tây Tạng và Mông Cổ của Lý Dực Chước-trang29). Lối nói trên có phần khoa đại. Theo “Quản Lý Tây Tạng Tông Giáo Sự Vụ”, do Đại Trọng dịch lời của Nhiên Ba khẩu thuật; thì toàn cảnh Tây Tạng có hơn một nghìn bảy trăm (1.700) ngôi tự viện. Nhân số Lạt ma ước khoảng năm mươi mốt vạn (510.000) người. (Tây Tạng Kỷ Yếu của Ngô Trung Tín–trang 51). Lúc Nhân Dân Giải Phóng Quân tiến vào Tây Tạng, bấy giờ Tây Tạng có 2469 toà tự viện và mười một vạn tăng, ni (Biên Cương Luận Văn Tập-trang 1346).
Kiểu kiến trúc tự viện của Tây Tạng thông thường là từ cao xuống thấp, sao cho cảnh sắc thích nghi với sinh hoạt của tăng nhân. Tiền điện thường quay về hướng đông, tốt nhất là trước mỗi tự viện nên có đầm hay hồ nước. Những ngôi đại tự viện thường có toà tiểu thành, cách bài trí phòng thất thường cao từ hai đến ba tầng. Do Tây Tạng cây rừng rất ít, vì vậy việc xây cất phần lớn là sử dụng đá hoặc gạch nung; một số ngôi chùa được xây theo kiểu mái bằng không có nóc. Các tầng dưới cùng không có cửa sổ, thường được dùng làm kho chứa. Đường dẫn vào tự viện thường treo nhiều tràng phang thành từng dãy dài, nhiều tháp nhỏ và thạch bản có khắc bài minh.
Nay xin giới thiệu tám ngôi đại tự viện trứ danh của đất nước Tây Tạng.
1.-Tang Diên Tự, hoặc có nơi dịch ra Hán tự là Tác-Tang Da Tự. Ngôi đại tự nầy tọa lạc ở bắc ngạn sông Bố Giang, thuộc địa xứ Nhả-Lổ-Tạng cách Lạp-Tát (Lasha) ước khoảng ba mươi dặm Anh về hướng đông nam. Ngôi đại tự viện nầy được kiến tạo vào thời Tạng vương Cật Lật Song Đề Tán; công trình nầy do hai ngài Tịch Hộ và Liên Hoa Sanh chỉ đạo xây dựng. Trong khuôn viên chùa gồm có một tòa đại điện, bốn viện đại học, mỗi học viện có lối kiến trúc riêng. Chung quanh đều có tường cao và dài, giáp vòng khép kín ước có hơn dặm rưỡi Anh. Bên trên tường thành có khoảng một nghìn ba mươi toà tiểu tháp được xây bằng gạch nung, trung tâm chánh điện thờ một tượng Phật cực lớn, cao đến mười thước Anh. Những tượng Phật thờ trong chùa đa phần được đúc bằng vàng ròng, đồng thời lại dùng châu báu trang sức các tượng Phật. Những tự khí dùng để cúng Phật cũng toàn bằng kim ngân tạo thành. Tăng lữ thường trú ước có một nghìn vị. Chùa Tang-Diên nguyên là đạo tràng của Hồng giáo, từ năm Dân quốc hai mươi chín (1940) trở về sau, chùa mới do Hoàng giáo trú trì.
2- Chùa Bố Đạt Lạp: Còn có tên là Bố Đạt Lạp Cung, cung thất nầy vốn là do Tạng vương Tùng Tán Cang Bố (Khí Tông Lộng Tán) kiến lập, nhưng trải qua nhiều biến loạn nên diện mạo của chùa không còn như trước. Chùa Bố Đạt Lạp hiện nay do đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ năm đứng ra đại trùng tu, nhưng không thể hoàn thành trong đời của Ngài. Bởi nó được khởi công từ đời vua Trang Liệt Đế nhà Minh, năm Sùng Chính mười bốn (1641) kéo dài đến sáu, bảy mươi năm sau mới hoàn tất. Chùa được tạo dựng trên một địa cuộc bằng phẳng, tọa lạc trên một ngọn tiểu phong của dãy núi Bố Đạt Lạp ngay tại Lạp Tát. Nền chùa thóang rộng và chiếm hết nữa quả núi. Do chùa có vô số điện-vũ kết thành và dựa vào thế núi mà kiến trúc, nhờ vậy mà chùa có lầu cao đến mười ba tầng. Ở trung tâm là ba toà kim điện, trước điện có năm ngôi kim tháp. Đỉnh cao nhất của tầng thứ mười ba đo được 900 thước Anh<!--[if !supportFootnotes]-->[1]<!--[endif]-->. Nếu so với Kim Sắc Thập Tự Giá trên đỉnh đại giáo đường thánh Bảo La của La Mã, thì cao hơn bảy chục thước Anh. Điều đó cho thấy một nền kiến trúc bằng tài nguyên đá vô cùng vĩ đại. Vậy, ai dám nghĩ Tây Tạng là một địa khu có nền văn hóa lạc hậu!
3- Chùa Đại-Chiêu:
Tương truyền Tạng vương là Khí Tông Lộng Tán vì công chúa Ba-Lợi-Khố-Cơ của xứ Ni Bạc Nhĩ mà kiến lập chùa nầy nhằm để phụng thờ những kinh, và tượng Phật do công chúa mang đến Tây Tạng. Chùa Đại Chiêu tọa lạc tại kinh đô Lạp Tát(Lasha), lưng quay về hướng đông, tiền diện thuộc hướng tây, chùa có lầu cao bốn tầng, tầng trên cùng có năm toà kim điện, lan can, điện vũ của năm toà kim điện đều có cấu trúc bằng đồng có pha vàng nguyên chất. Toà kim điện trung tâm thờ tượng Phật Thích -Ca-Mâu-Ni, tượng do Văn Thành công chúa thỉnh về từ Trung Quốc. (những kinh và tượng Phật do hai vị công chúa mang về Tây Tạng, đời sau vẫn lưu giữ và phụng thờ). Người dân Tây Tạng còn họa chân dung vua Khí Tông Lộng Tán và hai vị công chúa để thờ.
4- Chùa Tiểu Chiêu
Tương truyền chùa được tạo lập là vì Tạng vương Khí Tông Lộng Tán thương cảm công chúa Văn Thành cứ luôn nhớ về cố hương –nhà Đường. Chùa tọa lạc về phía bắc chùa Đại Chiêu, lưng quay về hướng tây, tiền điện thuộc hướng đông. Chùa có lầu cao ba tầng, tầng trên cùng có một toà kim tháp, chánh điện của chùa thờ tượng phật A- Xúc-Kim-Cang, và tượng Đa La Tôn Nữ, hai tượng nầy do công chúa của Ni Bạc Nhĩ mang về Tây Tạng.
5- Chùa Cam-Đan
Đây là ngôi đại tự do đại sư Tông Khách Ba kiến tạo. Chùa tọa lạc trên núi Vượng Cổ Nhĩ, cách Lạp Tát khoảng hai mươi lăm dặm Anh về phía đông bắc. Về hình thế, chùa Cam-Đan giống như chùa Bố Đạt Lạp. Điện thờ Phật và tàng kinh các vô cùng trang nghiêm như chùa Đại Chiêu và chùa Tiểu Chiêu. Bên trong nội tự, chùa thờ rất nhiều Thánh tượng trứ danh. Như tượng Ái Nhiễm Minh Vương có hai thân hình, tượng Phật An Lạc, tượng Phật Di Lặc tọa thiền, bên cạnh tượng Phật Di Lặc là tượng Tông Khách Ba được người đời sau điêu khắc thêm vào. Nơi được chiêm ngưỡng nhiều nhất là tháp thờ Xá Lợi của đại sư Tông Khách Ba. Những vị hiến cúng tịnh tài để kiến tạo ngôi chánh điện chùa Cam-Đan là Đại Lý Thạch và Khổng Tước Thạch (tục danh là Tùng Duyên Thạch). Trên chóp đỉnh của chùa được phủ một lớp vàng ròng. Trong chùa cũng có bia bằng vàng ròng. Di thể của đại sư Tông Khách Ba hiện nay vẫn trong tư thế đoan tọa, trên thân phủ ngủ y có Đà La Ni kệ. Ngoài ra chùa còn có tượng Tử Chủ Diêm Ma (Yama Ràja), tức vị thần trông coi về tử vong. Để được kế thế trú trì chùa Cam-Đan, cũng giống như hai ngôi đại tự là Sắc Lạp và Triết Phong, do ba ngôi đại tự nầy có liên hệ mật thiết với nhau, do đó để trở thành vị trú trì chùa Cam-Đan, vị đó phải được đồ chúng của ba đại tự hợp lại suy tuyển một vị Lạt ma cao đức đứng ra đảm nhiệm, nhưng vị ấy phải là Hô Tất Lặt Hãn chuyển thế (tái sinh). Tăng thường trú của chùa đạt đến con số ba nghìn ba trăm vị.
6. Chùa Triết Phong
Chùa do đại sư Tông Khách Ba và vị đại đệ tử của ông là Liễm Khâm kiến tạo, chùa ở về phía Nam, cách Lạp Tát ba dặm Anh, lối kiến trúc của chùa là dựa vào thế núi, bốn bên đều có bài trí lầu các, còn kim tháp thì trùng trùng điệp điệp. Đây là ngôi đại tự viện mà thế lực của nó được liệt vào hàng bậc nhất ở Tây Tạng!
Ngày nay, Chùa Triết Phong vẫn là ngôi tăng viện lớn nhất thế giới. Toàn cảnh chùa được chia thành bảy ngôi, mỗi ngôi đều có học viện độc lập. Mỗi học viên được một vị đại Lạt ma Kham Bố (cao đức) đảm trách. Về tài chính của chùa không do chính phủ Tây Tạng tài trợ. Trụ chúng của chùa có đến bảy nghìn bảy trăm vị.
7. Chùa Sắc Lạp
Đây là ngôi đại danh tự tọa lạc dưới chân triền núi, ở về phía bắc Lạp Tát khoảng ba dặm Anh. Chùa được tạo dựng bởi một vị đại đệ tử của Tông Khách Ba là Liễm Dạng và các môn đệ của ông nầy. Những tầng lầu và phòng ốc đều xây dựng bằng đá nằm so le nhau cao chót vót, vì là tầng nầy xây chồng lên tầng kia và cứ như thế mà xây. Chùa có ba toà đại điện với đỉnh cao vút như ngọn bút cắm thẳng vào không trung và được phủ bằng vàng ròng cực kỳ tráng lệ. Toàn cảnh chùa được chia thành bốn học viện độc lập với nhau. Tăng thường trụ có đến năm nghìn năm trăm vị. Chùa còn lưu giữ một chày Kim Cang dài gần hai mét. Chày có hai đầu, một đầu giống như cây Giản có ba cạnh, đầu kia giống như đầu người. Tương truyền khi chùa đang xây lở dở bổng đâu chày từ bên Thiên Trúc bay đến. Người dân Tây Tạng vừa sợ vừa kính thờ, hằng năm cứ vào tháng chạp (vào khoảng ngày 27) có tục nghinh thỉnh chày về cung Bố Đạt Lạp, phần có đầu giống đầu người thì do một vị Lạt-ma đội, sau đó thỉnh chày về lại chùa Sắc Lạp và đặt trước sân chùa để bá tánh đến chiêm bái.
8. Chùa Trát Thập Luân Bố
Đây là ngôi đại tự được xây dựng ở Hậu Tạng, vị trí của chùa được nối liền từ đông sang tây thuộc thủ phủ Nhật Khách Tắc của Hậu Tạng, gồm nam ngạn sông Bố Giang của Nhã Lỗ Tạng, và giao nhau tại cửa khẩu của sông Sở Niên. Chùa do một vị Đạt Lai Lạt Ma kiến tạo, lưng dựa vào núi, mặt hướng ra sông, chánh điện cực lớn.Chùa được chia thành bốn học viện, trong đó ba học viện tu học theo giáo nghĩa Hiển thừa, một học viện tấn tu Mật thừa kinh chú. Mỗi học viện lại chia ra bốn cấp học tuần tự từ thấp lên cao. Từ sau vị Đạt Lai đời thứ năm, chùa trở thành hệ thống của Ban Thiền. Chúng thường trụ của chùa có đến ba nghìn tám trăm tăng lữ, vào thời cực thịnh có đến bảy nghìn vị.
Pháp Khí Phật Giáo Tây Tạng.
Pháp khí là chỉ cho pháp vật, khí cụ bao gồm cúng cụ và dụng cụ. Điều này khi Phật còn tại thế đã có chế định; Tỳ kheo có đủ ba y, bình bát, tọa cụ và đãy lọc nước.
Bồ Tát giới trong kinh Phạm Võng được lưu truyền tại Trung Quốc cũng có qui định những Tỳ kheo đầu đà cần có đủ mười tám thứ. Vì là Phật giáo thời nguyên thủy có tính giản dị phi thường, không như đời sau Mật thừa trọng thị Nghi Quiû phiền phức và đặc định ra nhiều pháp khí để dùng trong đàn tràng tu Mật. Nhân đấy mà Phật giáo Tây Tạng rất coi trọng pháp khí. Tuy nhiên đó cũng là nét đặc sắc của Phật giáo Mật thừa. Sở dĩ vậy, là vì Phật giáo Ấn Độ thời Vãn kỳ hấp thu những vật khả thủ từ Ấn Độ giáo, sau đó truyền vào Tây Tạng. Ngoài ra Phật giáo Mật thừa của Tây Tạng cũng lãnh thọ những khí dụng của Bổng giáo tại bản địa. Xưa nay Phật giáo ở nội địa Trung Quốc đối với việc sử dụng pháp khí cũng có rất nhiều dạng, là do chịu ảnh hưởng của Đạo-giáo và Mật giáo, đặc biệt là từ đời Nguyên trở lui, danh mục pháp khí của Phật giáo Trung Quốc càng lúc càng nhiều thêm.
Danh mục pháp khí của Phật giáo Tây Tạng rất nhiều, nay liệt kê các thứ thường dùng chính yếu như sau; có sáu loại:
I. Các thứ dùng trong lễ bái. (1) Ca Sa giống như Y của Trung Quốc. Về ý nghĩa thì “đồng”, nhưng về hình thức thì “khác”. (2) Quải châu (chuỗi đeo). Châu có nhiều thứ: Bồ đề tử, Kim cang tử, Liên tử, Thuỷ tinh, Trân châu, San hô, Hổ phách, Mã não, Pha lê, Thanh kim, Bạch kim, Mộc hoạn tử, Nhân đầu cốt v.v… tuỳ hành giả tu theo pháp môn nào thì sử dụng loại châu nấy, và thuờng là đeo nơi cổ. (3) Cáp Đạt là cái túi lụa trắng, dài và vuông được làm bằng thứ lụa đặc chế. Trong xã giao, người Tây Tạng cần có cái Cáp Đạt, nó được dùng trong các việc như: lễ tiễn, chào khách, yết kiến Lạt Ma, và trong việc thông tin với bằng hữu. Người ta biếu tặng nhau Cáp-Đạt để biểu lộ sự thành kính. Việc sử dụng Cáp Đạt cũng còn tuỳ theo thân phận mà có sự to nhỏ, dài ngắn, rộng hẹp chứ không thể hỗn tạp.
II. Đồ dùng trong tán tụng: (1) Chuông: chuông có nhiều loại lớn nhỏ khác nhau.(2) Mỏ: có hai loại là mỏ bằng kim loại và mỏ bằng gỗ. (3) Trống: có trống lớn, trống mang trên lưng, trống mang trên cổ, trống bằng đồng thau.(4) Linh – có nhiều loại lớn nhỏ khác nhau. (5) Nao-Việt: loại lớn gọi là Nao, loại nhỏ gọi là Việt. (6) Tất: giống như ống tiêu loại nhỏ.(7)Cốt Địch: được chế tác từ xương người chết. (8) Lục huyền cầm v.v…
III. Các đồ dùng cúng dường: (1) Lư hương: Có rất nhiều dạng thức. (2) Đăng đài:cũng có nhiều loại.(3) Thuỷ phồn. (4) Đồ cúng hiến: như bình, mâm, bồn, bát, uyển v.v…, có trường phang, đoản phang, đại và tiểu phang v.v… hình thức giống như buồm của ghe thuyền. (6) Tràng: có nhiều loại như Vũ mao tràng, Bảo hiệp tràng, Ty quyên tràng v.v… hình thức giống như cờ tiết. (7) Hoa Cái: cũng có nhiều loại khác nhau, (8)Anh-Lạc: thứ đội trên đầu gọi là Anh, thứ mang ở thân gọi là Lạc. Cả hai đều dùng châu báu xâu lại mà thành. (9) Hoa Man: có nhiều chủng loại như: dài, tròn, vòng, thêu v.v… dùng các loại như quyển, điều, hoa quí mà tạo thành.(10) Hoa Lung: là loại giỏ dùng đựng hoa, được chế tác từ vàng, bạc, tre, gỗ v.v….
IV. Các đồ dùng để trì nghiệm: (1) Mạn Đồ La: được dùng trong đàn tu Mật pháp. Có ba thứ là vuông, tròn, tam giác. (2). Niệm châu: không như Quải châu (chuỗi đeo) vì hạt có phần nhỏ hơn. Quải châu có 108 hạt, Niệm châu có loại 108 hạt, có loại 1080 hạt. (đây là loại châu mà phái Thấp Bà trong Ấn Độ giáo thường dùng. Phật giáo chỉ dùng loại 108 hạt). (3) KimCang Chữ, có ba loại: loại nhất cổ, loại nhị cổ và loại ngũ cổ. Chất liệu dùng để chế tác có thể là kim cang, hoặc hương mộc. (4) Chữ Linh: cũng có ba loại: nhất cổ, nhị cổ và ngũ cổ. (5) Luân: có nhiều dạng thức. (6) Cổ: có hai thứ là Đại cổ và Kê lâu cổ. (7) Dẫn khánh: khánh của Trung Quốc và Tây Tạng đều sử dụng giống nhau.(8)Mộc-ngư: cách dùng Mộc ngư giữa Trung Quốc và Tây Tạng tương đồng. (9) Quán đảnh hồ, là hồ nước bí mật được các vị Lạt ma sử dụng trong lúc làm phép Quán đảnh cho các đệ tử.
V. Đồ dùng hộ ma (Ma ở đây là danh từ riêng chứ ma không phải là ma quiû): (1) Mạn trà la: có nhiều thứ loại. (2) Lư : có lư vuông, lư tròn và lư hình tam giác, tuỳ theo đàn pháp mà dùng. (3) Hộ Thân Phật là tượng Phật đúc bằng đồng, tượng được đựng trong hộp bằng kim loại bạc, dùng để đội trên đầu, hoặc đeo trước ngực. (4)Bí Mật Phù Chú Ấn: có ba loại là vuông, tròn, tam giác, lại phân ra có loại dùng để hộ thân, có loại để hộ gia trạch, có loại để hộ quốc, có loại để đuổi tà, để trừ tai và để tăng phúc v.v…
VI. Đồ dùng để khuyến đạo:(1) Ma Ni Luân (Mani-hkhor), hình dáng giống cái thùng tròn, giữa có một trục để dùng tay cầm mà quay nó sẽ xoay tròn, bên trên có khắc Lục Tự Đại Minh Chú (còn gọi là Lục Tự Quan Âm Chú, Quan Âm Lục Tự Minh Chú, Lục Tự Minh Chú). (2) Kỳ Đảo Đồng, hình dáng cũng giống như Ma Ni Luân nhưng lớn hơn đôi chút, nhờ vào sức gió, sức nước hoặc cơ khí mà chuyển động xoay tròn. (4) Kỳ Đão Bích: được khắc vào bảng gỗ sáu chữ Lục Tự Đại Minh Chú, dùng treo trên vách tường. (5) Kỳ Đảo Trạch khắc “Lục Tự Đại Minh Chú” lên phiến đá đặt dưới chân núi, hoặc trí ở giữa đường. Tất cả những pháp khí vừa nêu được dân gian Tây Tạng – người người, nhà nhà đều sử dụng trong sinh hoạt thường nhật.
Phật Giáo Tây Tạng – Trai Tiết và Pháp Hội
Phật giáo Tây Tạng có rất nhiều Pháp hội, xin đơn cử những Pháp hội chính yếu:
1- Truyền Chiêu Đại Pháp Hội. Đây là Pháp hội được tổ chức vào ngày rằm tháng giêng hằng năm tại trung tâm của toàn khu Tiền Tạng, có tính cách một Đại Pháp Hội. Từ ngày mùng ba, mùng bốn, chậm lắm không quá ngày mùng năm tháng giêng, toàn thể tăng chúng của ba ngôi đại tự tại Lạp Tát đều vân tập về thị khu Lạp Tát; thứ đến theo định kỳ, giờ ngọ hôm sau toàn thể tăng lữ tại các tự viện thuộc Tiền Tạng đều vân tập về tại chùa Đại Chiêu để sáng hôm sau thực hành các thời khóa, mỗi ngày có bốn thời tụng kinh. Sau thời kinh sáng, tăng chúng được dùng cháo và uống trà, kế tiếp là lễ Bố tát tụng giới. Sau lễ Bố tát là phần mở hội biện luận để khảo thí lấy học vị Cách Tây. Mỗi ngày chỉ lấy một người, tiếp theo là khóa lễ cúng ngọ, sau lễ cúng ngọ tăng chúng chỉ được phép uống trà chứ không thọ thực, tiếp nữa là hội biện luận nhằm khảo thí những vị kế tiếp để tuyển chọn học vị Cách Tây, biện luận kéo dài đến nửa đêm. Đại Pháp Hội Truyền Chiêu mỗi kỳ tổ chức kéo dài liên tục đến ngày hai mươi tháng giêng mới kết thúc.
2. Tiểu Chiêu Tự Tập Hội:
Pháp hội được cử hành vào tháng hai (âm lịch) hằng năm. Về nghi thức, nhân số, trình tự cũng giống như Pháp hội của chùa Đại Chiêu. Chỉ có điều ở pháp hội nầy các vị Lạt-ma cao đức, tôn quí không tự tham gia mà phải lễ thỉnh. Cũng có khảo thí chọn lấy học vị Cách Tây, nhưng so với học vị Cách Tây của chùa Đại Chiêu thì học vị Cách Tây của chùa Tiểu Chiêu thuộc hàng đệ nhị cấp.
3. Lễ hội tắm Phật
Hằng năm vào ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, người Tây Tạng cử hành lễ tắm Phật cực kỳ long trọng.
4. Bảo Bối Phật Niết Bàn Đại Pháp Hội:
Bảo Bối Phật là cách tôn xưng của người Tây Tạng đối với đại sư Tông Khách Ba. Đại sư viên tịch ngày 25 tháng 10, tuy nhiên không tập hợp tăng chúng của các ngôi đại tự về một trú xứ nhất định để tụng kinh, thay vào đó mỗi tự viện đều cử hành đại pháp hội nầy, với tình huống long trọng hơn cả lễ hội tắm Phật. Trong lễ hội nầy, các chùa thuộc phái Hoàng giáo không chùa nào là không tổ chức một cách cực kỳ trang nghiêm và trọng thể. Chùa nào cũng trần thiết đèn dầu hết sức tinh xảo, sáng lạng, được tạo nên bởi các nghệ nhân vô cùng thiện nghệ đến độ không một ngọn đèn nào lại không phóng ra cả nghìn màu sắc! Ngay cả “mọi nhà khắp nơi” trong dân gian Tây Tạng, nhà nào cũng đều treo một ngọn đèn dầu ở vào vị trí cao nhất. Vì thế dân gian Tây Tạng gọi pháp hội nầy là Đăng Tiết.
5. Trai Nguyệt (tháng chay):
Hằng năm, dân gian Tây Tạng lấy tháng giêng và tháng hai làm “Đại trai nguyệt” (tháng tất cả đều ăn chay), lấy ngày tết nguyên đán làm ngày “Khiêu vũ tế”, mùng hai tết là ngày “Phi thằng tế”, mùng ba tết là ngày “Phiên chủ tế”, tất cả đều cử hành tại cung Bố Đạt Lạp. Từ ngày mùng 6 đến ngày 21 tháng giêng là lễ “Đại thí tế”. Trong lễ nầy, tăng chúng các chùa tại Lạp Tát đều vân tập về chánh điện của bản tự mình để tụng kinh, đồng thời cũng để tiếp nhận phẩm vật cúng dường. Ngày rằm tháng giêng là lễ cúng đèn, ngày 18 tháng giêng là lễ đuổi tà, ngày 20 tháng giêng là lễ duyệt binh, ngày 25 tháng giêng là lễ đua ngựa, ngày 30 tháng giêng là lễ trừ quiû. Tháng hai, ngày 17 là lễ Dậm chân (vũ đạo). Tây Tạng đã là một “Phật quốc”. Do đó, không có bất kỳ lễ chay nào người ta không mời thỉnh tăng lữ và không làm các Phật sự nhiêu ích. Bất luận là nam phụ lão ấu vào tháng chay tịnh không ai là không chí thành niệm tụng Lục Tự Đại Minh Chú. Trên thân thể, không ai là không đeo các Pháp khí như: Phật hộ, Xá lợi, Kinh quyển, Niệm châu, Hộ phù v.v…, tay người nào cũng cầm Ma Ni Luân xoay tròn không ngớt.
*Lục Tự Đại Minh Chú.
Tương truyền khi đức Thế Tôn còn tại thế Ngài có di chúc cho Bồ Tát Quán Thế Âm là hãy cứu độ chúng sinh nơi Núi Tuyết ( tức Tây Tạng). Huyền kỳ nầy được trích từ “ Văn Thù Sư Lợi Chơn Thực Danh Nghĩa Kinh”. Do đó, người Tây Tạng cho rằng đất nước họ là “hóa thổ” của Bồ Tát Quán Thế Âm. Về mặt lịch sử, thì từ khi Phật giáo được truyền vào Tây Tạng đồng thời cũng truyền luôn Lục Tự Đại Minh Chú của đức Bồ Tát Quán Thế Âm vào xứ nầy. Đó là sáu chữ phạn được khắc trên “Bảo Ngọc”.
Nay xin đem sáu chữ bằng Phạn ngữ, Hán ngữ và Tạng ngữ đối chiếu với biểu đồ sau:
Dạng chữ Phạn và chữ Tạng trong biểu đồ là sự mô phỏng của Lý Dực Chước trong sách “ Phật giáo Tây Tạng và Mông Cổ” –trang 11. Trong kinh tạng Hán văn cũng có một số tự dạng “Lục Tự Minh Vương Kinh”, nhưng không giống tự dạng của Phạn tự và Tạng tự. Vì vậy có thể nói đây là nét đặc sắc của Phật giáo Tây Tạng. Bản Hán văn dịch âm đọc là “Úm ma ni bát di hồng”, đúng ra phải đọc là “Um Ma Ni Bát Đặc Di Hồng”. Ngữ ý của sáu chữ nầy là tỏ sự mong cầu được về Liên Hoa Tạng thế giới của đức Phật. Có học giả người Nhật Bản ví sáu chữ nầy giống như người phương Tây khi cầu nguyện thường đọc “Cha ở trên trời” vậy. Ở Tây Tạng người ta xem sáu chữ nầy là nguyên lí của vạn pháp. Theo họ các pháp thế gian và xuất thế gian, không pháp nào là không lưu xuất từ sáu chữ nầy. Chữ “Úm” là Phật bộ tâm, chữ “Ma-Ni” là Bảo bộ tâm, chữ “Bát-Đặc-Di” là Liên Hoa bộ tâm và chữ “Hồng” là Kim Cang bộ tâm. Vì rằng “ Lục Tự Đại Minh Chú” bao nhiếp toàn bộ hoặc lý sự, hoặc bi trí. Người tu hành muốn “Cụ túc vạn đức, thành tựu vạn hạnh” chỉ cần chuyên niệm Lục Tự Đại Minh Chú sao cho niệm niệm bất tuyệt, lâu dần tâm thể sẽ hiển hiện, khi ấy sẽ chứng nhập vô lượng pháp môn, thành tựu nhất thiết đại công đức tụ. Đây là thần chú lấy ba chữ “Bát Đặc Di” làm tâm chú, Bát Đặc Di hàm ý là Liên Hoa, mà Liên Hoa là “bản nguyên tâm hải” của chúng sinh. Điều đó cho thấy uy đức của Minh Chú là bất khả tư nghì, hàm chứa một triết lý cực thâm. Do đó cho nên tại Tây Tạng đi đến đâu cũng nghe thấy người Tạng luôn miệng đọc tụng Lục Tự Đại Minh Thần Chú. Người dân Tây Tạng không ai là không đọc tụng chú nầy và thường niệm chú nầy. Giống như ở Hán thổ, người người đều niệm danh hiệu Phật A Di Đà .
Mật thừa Tây Tạng coi trọng Chú pháp, vì vậy bình thường người ta vận dụng cách niệm chú vào việc hô hấp như hít vào, ngưng lại rồi thở ra. Cứ mỗi lần như vậy người ta niệm ba chữ Ọm, àh, hùm; ba chữ nầy âm Hán đọc là “Úm ách hồng”, thực thì nên đọc là “Ông A Hồng”. Bởi ba tự âm này có tính cực kỳ thần thánh. Như có người cứ theo sự hô hấp mà niệm tụng không ngưng nghĩ, niệm đến khi không cần vận tâm để niệm mà vẫn cứ tự nhiên niệm, đến lúc giữa niệm và không niệm không còn có sự sai biệt, cả ngày lẫn đêm tuyệt nhiên không gián đoạn, niệm được như vậy gọi là “kim cang niệm tụng”. Kim cang niệm tụng là trong thời gian một ngày đêm có thể niệm đến con số 21.600 lần. Niệm được như vậy sẽ hiệp nhất với “Bản tôn”, khế nhập được với “ Pháp tánh lý thể”. Vì ba chữ nầy là đại biểu cho Bản tôn, mà Bản tôn thì luôn thường tại trong sự hô hấp của chúng ta thông qua hơi thở ra vào, qua lại, tức chúng ta trụ vào pháp thân của Bản tôn và rồi từ đó nhập vào chân lý đệ nhất nghĩa đế.
Trên đây là đơn cử hai Chân Ngôn Chú mà người Tây Tạng lấy đó làm pháp môn phổ biến. Trong khi Phật giáo thuộc hệ Hán văn, tuy không thường dùng hai mật chú trên, những lại đưa vào Diệm Khẩu. Vì thế hai Mật chú nầy cũng chẳng thông dụng ở Trung Quốc, nhưng đồng thời do Trung Quốc cũng hiểu rõ năng lực của hai Mật chú trên nên chỉ ứng dụng vào các đàn tràng Diệm Khẩu. Đó cũng do chịu ảnh hưởng không ít từ Phật giáo Tây Tạng, tuy nhiên điều đó cũng mới ứng dụng chứ không xưa lắm.
Phật giáo Tây Tạng có rất nhiều nét đặc sắc, tôi xin giới thiệu ở chương sau.
---o0o---