Trí Húc Ðại Sư tự
Ngẫu Ích, người đời Thanh, họ Chung, nhà ở Ngô Huyện. Thân phụ thọ trì chú Ðại
Bi và Bạch Y, mộng thấy đức Quan Âm Ðại Sĩ trao cho một đứa bé trai mà sanh ra
ngài.
Thuở niên thiếu ngài học Nho, từng viết sách bác Phật. Sau nhân xem bộ Trúc
Song Tùy Bút Lục của Liên Trì Ðại Sư, liền đốt quyển sách của mình viết. Năm
hai mươi tuổi, ngài đọc kinh Ðịa Tạng Bản Nguyện phát ý xuất trần, mỗi ngày
hằng niệm Phật.
Niên hiệu Thiên Khải
năm đầu, ngài hai mươi bốn tuổi, sau khi nghe một Pháp Sư giảng kinh, bỗng phát
nghi tình, dụng công tham cứu. Ít lâu sau, được tỏ ngộ, liền đóng cửa nhập thất
ở Ngô Giang. Thời ký ấy ngài đau nặng, mới quyết chí niệm Phật cầu sanh Tịnh
Ðộ. Bịnh vừa bớt, liền kết đàn trì chú Vãng Sanh một thất, đốt ba liều nơi cánh
tay, thề phát lòng Bồ Ðề cầu sanh Cực Lạc, để mau chứng đạo quả, sớm độ chúng
hữu tình.
Về sau, Ðại Sư trụ
trì trải qua các nơi: Ôn Lăng, Chương Châu, Thạch Thành, Thánh Khê, Trường Thủy
và Tân An, rộng truyền giáo pháp Thiên Thai và môn Niệm Phật. Thời bấy giờ,
những nhà tu Thiền ở các nơi, phần đông cho pháp môn Tịnh Ðộ là quyền giáo; khi
gặp người niệm Phật, tất bảo tham cứu chữ Thùy. Riêng Ðại Sư lại nhận định pháp
Trì Danh chính là tâm tông viên đốn. Có ông Trác Tả Xa, một nhà tu Thiền, đem
những huyền lý bên Thiền gạn hỏi Tịnh Ðộ, ngài liền trả lời một cách thỏa đáng.
Sau đó, Ðại Sư về dưỡng lão ở Linh Phong.
Bình thời, Ðại Sư
từng khai thị rằng:
“Pháp môn Tịnh Ðộ
không có chi lạ kỳ đặc biệt, yếu điểm chỉ là tin sâu, nguyện thiết và gắng sức
thật hành mà thôi. Phật dạy: "Nếu người nào chuyên niệm A Di Ðà, chính là
Vô thượng thâm diệu Thiền". Trí Giả đại sư bảo: "Niệm Phật tam muội
là vua trong các môn tam muội". Tổ Vân Thê cũng nói: "Một câu A Di Ðà
Phật bao trùm tám giáo, tròn nhiếp năm tông".
Ðáng tiếc người thời
nay xem niệm Phật là cạn cợt tầm thường, bảo đó là công hạnh của hạng ngu phu,
ngu phụ. Bởi thế nên lòng tin không chắc, chẳng gắng sức thật hành, trọn ngày
lơ là, công phu khó thành tựu. Có kẻ lại lập phương tiện khéo bảo: "Muốn
đi sâu vào Niệm Phật tam muội phải tham cứu chữ Thùy". Họ đâu biết rằng:
Một tâm niệm hiện tiền, vốn đã tự rời tứ cú, tuyệt bách phi, chẳng cần phải tác
ý rời và tuyệt. Một câu niệm Phật hiện tại cũng vốn vượt tình lìa kiến, cần chi
nói diệu, nói huyền? Chỉ quý tin cho chắc, giữ cho vững, rồi buông bỏ hết mà
niệm. Hoặc mỗi ngày đêm niệm một muôn, ba muôn, năm muôn, bảy muôn, mười muôn
câu lấy sự nhất định không thiếu làm tiêu chuẩn. Như thế quyết giữ đến suốt
đời, thề không biến đổi. Và nếu đúng như thế mà không được vãng sanh thì chư
Phật trong ba đời đều thành vọng ngữ. Một khi được về Cực Lạc, vĩnh viễn không
còn thối chuyển, tất cả pháp môn đều lần lượt hiện tiền.
Rất kiêng kỵ kẻ không
có chủ trương, nay vầy mai khác. Khi gặp nhà thuyết giáo thì muốn tầm chương
trích cú, học luật học kinh. Gặp người tu Thiền lại mong tham cứu thoại đầu,
theo cơ phong chuyển ngữ. Gặp bậc trì luật, ưa thích ôm bát khất thực, tu hạnh
đầu dà. Thế nên sự sự không rồi, điều điều chẳng trọn. Ðâu biết rằng khi câu
Phật hiệu niệm được thuần thục thì ba tạng, mười hai phần kinh gồm ở trong đó;
một ngàn bảy trăm công án, cơ quan hướng thượng đều ở trong đó; ba ngàn oai
nghi, tám muôn tế hạnh, tam tụ tịnh giới cũng ở trong đó.
Người chân thật niệm Phật, buông bỏ cà thân tâm thế giới là đại bố thí. Niệm
Phật không khởi tham sân si là đại trì giới. Niệm Phật không quản nhơn ngã thị
phi là đại nhẫn nhục. Niệm Phật không gián đoạn, không tạp vọng là đại tinh
tấn. Niệm Phật không còn mộng tưởng thô tế là đại thiền định. Niệm Phật không
bị các pháp khác mê hặc cuốn lôi là đại trí huệ. Thử kiểm điểm lấy mình, nếu
chưa quên thân tâm thế giới, chưa dứt niệm tham sân si, chưa tuyệt lòng thị phi
nhơn ngã, chưa hết gián đoạn tạp vọng, chưa trừ vọng tưởng bông lông, chưa khỏi
bị pháp khác cuốn lôi mê hoặc thì chưa phải là người chân thật niệm Phật.
Nếu muốn đến cảnh
giới Nhất Tâm Bất Loạn, cũng không có cách gì lạ. Khi mới tập niệm, dùng chuỗi
ký số rành rẽ và khắc định thời khóa đừng để cho thiếu sót. Như thế lâu ngày,
công phu tự thuần thục, không niệm mà vẫn tự niệm. Chừng đó, muốn ký số hay
không ký số cũng được. Nếu bước đầu, vội muốn lộ vẻ mình hay giỏi, muốn tỏ ra
không trước tướng, muốn học lối viên dung tự tại, rốt cuộc niệm lực khó thành.
Ðây tổng yếu bởi tin chưa sâu, thực hành chưa hết sức.
Người như thế, dù cho
giảng thông thuộc ba tạng mười hai phần kinh, thấu suốt một ngàn bảy trăm công
án, cũng đều là việc bên bờ sống chết luân hồi mà thôi. Kẻ ấy đến lúc lâm
chung, quyết định không dùng chi được!”...
Năm Thuận Trị thứ
hai, vào cuối Ðông, Ðại Sư cảm bịnh nhẹ, ngài di chúc mọi việc và dặn các đệ
tử, sau khi trà tỳ, phải tán nhuyễn xương trộn với bột hòa thành viên, chia thí
cho loài cá chim để kết duyên Tịnh Ðộ với chúng. Sang đầu năm, ngày 21 tháng
Giêng, Ðại Sư sáng dậy sớm, sắc diện tươi khoẻ như người không bịnh. Ðến đúng
Ngọ, ngài đoan tọa trên giường, xây mặt về Tây, chắp tay niệm Phật mà tịch, thọ
được 57 tuổi.
Ba năm sau, các môn nhơn
hội lại, định y pháp làm lễ trà tỳ. Lúc mở bảo tháp ra, thấy toàn thân Ðại Sư
vẫn còn nguyên vẹn, tóc ra dài phủ hai tai, sắc mặt tươi tỉnh như sống. Ðại
chúng không nỡ tuân lời di chúc, xây tháp thờ toàn thân ở chùa Linh
Phong.