Vô thượng thậm thâm Vi Diệu
Pháp.
Bá niên vạn kiếp nan tao ngộ.
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì.
Nguyện giải Như lai chơn thiệt nghĩa.
Vi Diệu Pháp, pháp thẳm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.
Nay ta nghe thấy chuyên lòng học,
Nguyện giải Như lai nghĩa nhiệm mầu.
MỤC LỤC
DẪN
NHẬP
[01] PHÁP
[02] PHÁP TỤC ÐẾ
[03] PHÁP CHƠN ÐẾ
[04] TÂM
[05] TÂM BẤT THIỆN
[06] TÂM VÔ NHÂN
[07] TÂM DỤC GIỚI TỊNH HẢO
[08] TÂM SẮC GIỚI
[09] TÂM VÔ SẮC GIỚI
[10] TÂM SIÊU THẾ
[11] TỔNG KẾT CÁC LOẠI TÂM
[12] SỞ HỮU TÂM
[13] SỞ HỮU TỢ THA
[14] SỞ HỮU BẤT THIỆN
[15] SỞ HỮU TỊNH HẢO
[16] TỔNG KẾT CÁC SỞ HỮU TÂM
[17] SỰ PHỐI HỢP GIỮA TÂM VÀ CÁC SỞ HỮU TÂM
[18] LỘ TRÌNH TÂM
[19] PHI LỘ
[20] SẮC PHÁP
DẪN NHẬP
Vi Diệu Pháp xuất phát từ đâu?
Theo lịch sữ Phật Giáo thì Vi Diệu Pháp được Ðức
Phật thuyết vào hạ thứ bảy tại cung trời Ðạo Lợi (Tam Thập Tam Thiên - Tāvatiṃsa)
với mục đích là độ thân mẫu của Ngài.
Theo một vài học giã thì Vi Diệu Pháp không phải do
chính Ðức Phật thuyết mà là do các vị Sư uyên bác soạn thảo ra sau nầy. Ðại Ðức
Nārada, một nhà học Phật lão thành đã viết: "Ðúng theo truyền thống thì
chính Ðức Phật đã dạy phần chính yếu của tạng nầy. Những đoạn ấy được gọi là
Ðầu đề (Mātikā) hay nồng cốt nguyên thủy của giáo lý như Pháp Thiện (Kusalā
Dhammā), hay Pháp Bất Thiện (Akusalā Dhammā), Pháp Vô-Ký (Abyākatā
Dhammā) ...".
Trong 6 tập của Tạng Diệu Pháp (trừ tập Ngữ Tổng
- Kathāvatthu - do Ngài Mục Kiền Liên (Moggallanaputta) viết; cũng có thuyết
cho rằng tập này do chính Ðức Phật thuyết nhưng Ngài Moggallana thêm vào 500
câu) đều do Ðức Phật thuyết và Ðại Ðức Xá lợi Phất (Sārīputta) được
danh dự giảng rộng và sâu vào chi tiết.
Dầu tác giả là ai, nhưng chắc chắn Tạng Diệu Pháp
là một công trình sáng tác của một bộ óc kỳ tài có thể so sánh với một vị Phật.
Chúng ta không cần phải biết là Vi Diệu Pháp có
phải do chính Ðức Phật thuyết hay không mà chỉ cần sáng suốt nhận định về những
điều mà Tạng Diệu Pháp đề cập đến. Bởi người nào thấu rõ được chân lý thì người
đó chính là người giác ngộ (hay Phật) và chỉ người nào hiểu được lẽ thật, người
đó mới nói lên được sự thật.
Vi Diệu
Pháp là gì?
Phạn ngữ Abhidhamma có nghĩa là những giáo lý cao
siêu, vi diệu. Tiếp đầu ngữ Abhi dùng để diễn đạt sự tinh tế, thù thắng,
sâu xa. Danh từ Dhamma dịch là Pháp, một Phạn ngữ có nhiều nghĩa, ở đây
nó có nghĩa là lời dạy của Ðức Phật, giáo điều hay giáo lý. Vậy Vi Diệu Pháp là
những giáo lý tinh hoa của Ðức Phật, giáo lý này có tính chất đặc thù hơn Kinh
tạng và Luật tạng.
Chúng ta có thể thắc mắc là tại sao Kinh tạng và
Luật tạng nói riêng, và toàn thể giáo lý của Ðức Phật nói chung, đều có hiệu
năng đưa đến giải thoát; tại sao lại có phần này gọi là Vi Diệu mà phần kia thì
không?.
Ở đây, tiếng Vi Diệu (cao sâu) không dùng với ý
niệm giải thoát mà dùng trên phương tiện diễn đạt. Trong khi tạng Kinh và Luật
trình bày Pháp lý theo ngôn từ phổ thông, theo Pháp Tục Ðế; thì tạng Abhidhamma
trình bày những pháp bản thể chơn tướng hay pháp Chơn Ðế (Paramattha).
Một điều cần ghi nhận là tạng Diệu Pháp dùng các
danh từ diễn đạt pháp lý theo một thuật ngữ chuyên môn, tức là các danh từ chơn
đế (danh chơn chế định).
Như ở Kinh tạng và Luật tạng, khi nói đến chúng
sanh, Phật dùng các danh từ mặc ước, khái niệm như Chư thiên, Ma vương, Vua,
Quan, ... Còn ở tạng Abhidhamma khi đề cập đến chúng sanh, Phật dùng các
từ như Uẩn, Xứ, Giới, Ðế, ...
Về phương diện diễn đạt, tạng Abhidhamma chú
trọng về 4 pháp gọi là Vô Ngại Giải (Paṭisambhidā) = sự thông suốt,
không có ngăn ngại trong việc giảng giải. Bốn pháp vô ngại giải ấy là:
1) Pháp vô ngại giải (Dhammapaṭisambhidā):
là sự diễn đạt thông suốt các pháp, vì ở tạng Vi Diệu Pháp các pháp được gom
lại thành một giềng mối và phân tích rõ ràng.
2) Nghĩa vô ngại giải (Atthapaṭisambhidā): là các
ý nghĩa được trình bày, giải thích một các rộng rải, không sai lầm. Trong tạng
Diệu Pháp, các ý nghĩa của danh từ, của các pháp được minh định một cách rõ
ràng chứ không có sự lôi thôi trong vấn đề định nghĩa.
3) Từ vô ngại giải (Niruttipaṭisambhidā): là sự
dùng từ để diễn đạt pháp rất thông suốt, không lẩn lộn. Trong tạng Diệu Pháp
các từ ngữ được dùng một cách rất chính xác, đâu ra đấy. Thí dụ như tiếng
" tư tưởng " mà ta thường dùng theo phổ thông được hiểu là ý nghĩ,
nhưng ở tạng Diệu Pháp " Tư " là sự cố ý, suy nghĩ và " Tưởng
" được dùng để chỉ sự nhớ lại, ôn lại ...
4) Biện vô ngại giải (Paṭibhānapaṭisambhidā): là sự
thông suốt, lưu loát trong sự biện bác. Trong tạng Diệu Pháp, pháp lý được
trình bày đầy đủ, nghĩa lý được giải thích rõ ràng, ngôn từ dùng đúng chỗ không
lẩn lộn. Nhờ các ưu điểm ấy, người học Abhidhamma sẽ không lúng túng khi
trình bày các pháp lý.
Với những lý do trên, nên tạng này được gọi là Vi
Diệu. Ngoài ra, chữ Abhidhamma còn được các dịch giả Trung Hoa dịch là :
Vô tỷ pháp : là pháp cao siêu, không có pháp
nào so sánh bằng.
Thắng pháp: là pháp thù thắng hơn Kinh tạng và Luật tạng.
Ðại pháp: là pháp cao sâu, rộng rãi hơn các pháp trong Kinh tạng và Luật
tạng.
Ðối pháp: là đối tượng của trí tuệ cao siêu, sáng suốt.
Hướng pháp: là pháp có khả năng hướng đến sự giải thoát, giác ngộ, liểu
tri các pháp.
Yếu lược
nội dung Vi Diệu Pháp.
Theo bà Rhys David, một học giả người Anh, khi nói
về nội dung Vi Diệu Pháp, đả viết: " Vi Diệu Pháp nói gì? - Vi Diệu Pháp
nói những gì trong ta, ngoài ta và chung quanh ta ".
Cái gì trong ta? - Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hay
Ngũ Uẩn- những thành phần hợp lại thành một con người, một chúng sanh. Vi Diệu
Pháp trình bày con người về cả hai phương diện Tâm lý và Vật lý.
Cái gì ngoài ta và cái gì chung quanh ta? - Ngoài
việc trình bày cho thấy bản thể, chơn tướng của chúng ta, Vi Diệu Pháp còn chỉ
cho ta thấy những gì thuộc về ngoại thân, những hiện tượng sanh diệt của những
gì thuộc về thế giới bên ngoài của chúng ta và sự thoát ly thế gian (Niết Bàn).
Như vậy, bà David đã cho ta thấy rằng Vi Diệu Pháp
trình bày những chơn tướng, thực thể của cái gì thuộc về nội thân và những gì
thuộc về ngoại thân. Cũng nên nói thêm là khi trình bày những điều ấy, Vi Diệu
Pháp đã mô tả về trạng thái, nhân sinh, sở hành, ..., của từng pháp một cách
rất chi tiết.
Tóm lại, với câu giải trên, chúng ta đã thấy Vi
Diệu Pháp nói gì và đề cập đến những gì. Sang một khía cạnh khác, chúng ta có
thể hỏi: " khi trình bày, phân giải những điều ấy, Vi Diệu Pháp muốn cho
ta biết những gì?".
Ngài Ðại Ðức Santakicco (Tịnh Sự) - một học
giả chuyên môn về Abhidhamma - đã nói: "Vi Diệu Pháp trình bày về
sự vô thường, khổ não, vô ngã và cái gì vượt ngoài ba tướng trạng ấy".
Câu nói trên đã hàm tận những ý nghĩa hết sức sâu
xa và cô động một cách đầy đủ về nội dung của Vi Diệu Pháp.
Ở tạng Diệu Pháp, bốn vấn đề trọng yếu được trình
bày là Tâm (thành phần tri giác của chúng sanh); Sở hữu tâm
(Thành phần phụ thuộc của tâm); Sắc pháp (thành phần vật chất) và Niết
Bàn (sự vắng lặng các pháp hành).
Khi bàn về Tâm cũng như Sở hữu tâm, Vi Diệu Pháp đã
cho ta thấy những Duyên (Paccayo) hay yếu tố tạo thành sự hiện hữu của
Tâm và sự diễn tiến hoại diệt của từng tâm sát na trong Lộ trình tâm (Cittavithā).
Cũng vậy, khi nói về Sắc pháp, Vi Diệu Pháp đã
trình bày về thể trạng của Sắc pháp, những duyên trợ tạo và gìn giữ sắc pháp,
cũng như tiến trình sanh diệt của từng sát na sắc pháp trong Lộ sắc.
Cuối cùng, sau khi đã trình bày về các pháp hữu vi
(pháp do duyên trợ tạo), Vi Diệu Pháp còn trình bày về Niết Bàn (một trạng thái
vô vi), không bị chi phối bởi vô thường, khổ não, vô ngã.
Ðể kết luận, ta có thể nói, nội dung của Vi Diệu
Pháp là dạy cho chúng ta rõ về con người, thế gian và xuất thế gian (Niết Bàn).
Mục đích
của việc học Vi Diệu Pháp.
Khi đã hiểu biết Vi Diệu Pháp nói gì thì vấn đề cần
bàn đến là học Vi Diệu Pháp để làm chi? Hay mục đích của việc học Vi Diệu Pháp
là gì? Học Vi Diệu Pháp có lợi ích gì?
Phật giáo đã dạy về bản chất giả tạm, khổ não của
thế gian và con đường vượt khỏi những điều ấy là con đường siêu thế gian. Vì
vậy, khi đánh thức giấc mộng vô minh của chúng sanh, Phật đã dùng nhiều phương
tiện, trình bày về bản chất thật thể của thế gian là như thế nào để chúng sanh
có thể ý thức được bản chất thật của thế gian là vô thường, khổ não và vô ngã.
Trong tinh thần đó, Vi Diệu Pháp nói lên lẽ thật,
chơn tướng bản thể của các pháp để chúng ta có được ý niệm đứng đắn về thế gian
(dẹp bỏ những thành kiến sai lầm).
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của
các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con người và thế
gian.
Trên con đường tu tập, người phật tử cần làm hai
việc: học pháp và hành pháp. Học pháp là tìm hiểu, thu lượm cho
mình một kiến thức đúng, lợi ích cho việc tu tập. Hành pháp là đem những điều
học được áp dụng cho đời sống hàng ngày. Vi Diệu Pháp sẽ thích ứng, và hết sức
bổ ích cho cả hai việc làm đó.
Vi Diệu Pháp giúp cho ta một kiến thức cơ bản,
không bị lầm lẩn khi nghiên cứu Phật pháp, bằng những cách diễn đạt Pháp vô
ngại giải, Từ vô ngại giải và Biện vô ngại giải. Nhờ đó ta có thể lảnh hội dể
dàng những ý nghĩa trong những lời dạy của Ðức Phật.
Thí dụ: Trong tạng Kinh, Ðức Phật dạy về Pháp Vô
Ngã (không có cái ta, không phải là của ta), rồi trong tạng Luật, Phật lại dạy:
"Lấy vật có chủ là trộm cắp", hai điều trên sẽ gây hoang mang cho
chúng ta nếu chúng ta không biết về pháp tục đế (Sammuttisacca) và pháp
chơn đế (Paramatthasacca) được giảng trong Vi Diệu Pháp. Ðó là lợi ích
đối với việc học pháp. Về mặt hành pháp, nhất là đối với những người hành thiền
quán, Vi Diệu Pháp lại là một môn học thiết yếu nhất, nó cho chúng ta một sự
hiểu biết rõ ràng về Danh Sắc, phân tích, giải thích rõ ràng các pháp hữu vi,
nhờ đó, khi thực hành thiền quán, minh sát, chúng ta sẽ nhận định rõ ràng và
chính xác về các đề mục (Thân, Thọ, Tâm, Pháp).
Một người đã học Abhidhamma, khi hành Tứ Niệm Xứ sẽ
nhận định rõ ràng và chính xác các đề mục. Trái lại, một người hành Tứ Niệm Xứ
mà không biết gì về Vi Diệu Pháp thì có thể lẩn lộn, sai lầm trong việc quán
sát các đề mục.
So sánh.
- Nếu nói trên phương diện đặc biệt riêng
của tạng Diệu pháp trong Tam Tạng thì:
Tạng Kinh: sâu xa
về nghĩa lý (Suttana Attha Gambhiro).
Tạng Luật: sâu xa
về việc làm (Vinaya Kicca Gambhiro).
Tạng Diệu pháp: (tạng
Luận), sâu xa về bản thể của các pháp (Abhidhamma Sabhāva Gambhiro).
- Nếu nói về tính chất quan trọng của tạng
Diệu pháp trong Tam Tạng qua thí dụ của "cây" thì :
Tạng Kinh: là phần
bông hoa, cành lá của cây, bởi tạng Kinh tiêu biểu cho vẽ đẹp của giáo lý Phật
giáo.
Tạng Luật: là gốc
rể của cây, bởi tạng Luật là nền tảng, là sự sống còn của giáo lý. Tạng Luật
còn, Phật giáo còn. Tạng Luật mất, Phật giáo mất.
Tạng Diệu pháp: là lõi
cây, vì nó là phần tinh túy, tinh hoa của giáo lý.
- Nếu nói trên bước tiến tu tập của người
Phật tử thì giá trị của tạng Diệu pháp trong Tam Tạng là:
Tạng Kinh gọi người đến: vì tạng
Kinh rất hấp dẫn, thu hút.
Tạng Luật trói người lại : vì tạng
Luật ghép đời sống vào khuôn khổ, qui củ.
Tạng Diệu Pháp giết người chết: vì bài
trừ tất cả mọi kiến thức sai lầm, nhất là ngã chấp.
Do
đó, ta có thể nói, nếu nghiên cứu và tìm hiểu Phật pháp mà không biết về tạng
Diệu Pháp là một thiếu sót lớn; hơn thế nửa, việc học hỏi Phật pháp cũng không
bảo đảm chắc chắn được.