CHƯƠNG HAI
CƯƠNG GIỚI
TIẾT 1. Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CƯƠNG
GIỚI
1. Ý
NGHĨA CỦA CƯƠNG GIỚI
Tiếng Phạn
nói là sīma [1], có
nghĩa là biên giới, biên thùy hay đường
ranh phân chia hai khu vực khác nhau, như đường
ranh phân chia giới hạn lãnh thổ của hai nước ở sát nhau chẳng
hạn. Trong
Hán văn, nó thường
được nói gọn là giới. Ở
đây chúng ta dùng từ cương
giới, trong
ý nghĩa thường dùng là giới hạn của lãnh thổ, hay biên cương,
để chỉ khu vực hay môi trường
sống
chung hòa hiệp và các sinh hoạt tập thể của Tăng-già,
được qui
định bởi các đường ranh
bao
quanh theo sự chấp thuận tuyệt đối
của
Tăng đoàn
qua những thủ tục yết-ma.
Những
tỳ-kheo được sống trong khu
vực giới hạn bởi các đường
ranh này
tạo thành một cộng đồng Tăng
lữ riêng biệt; họ phải chấp hành các nghĩa vụ và thọ hưởng các
quyền lợi
liên hệ đến cộng
đồng mà mình
đang sống. Tỳ-kheo nào không
tuân theo
các qui tắc sống chung hòa hiệp và sinh hoạt tập thể trong cương
giới ấy
được gọi là người biệt chúng,
phải
được xử lý theo những
điều khoản mà luật
đã ấn định.
Các tỳ-kheo sống ngoài cương giới này, không thuộc thẩm quyền xử
lý của
những tỳ-kheo sống trong cương giới; họ cũng không có thẩm quyền
can thiệp
trực tiếp vào công việc nội bộ của cộng đồng
sống trong cương giới này.
Trong thời
kỳ đầu tiên của Tăng
đoàn, đức
Thích Tôn không qui định cương
giới
của cộng đồng Tăng
lữ. Tất cả các tỳ-kheo đệ tử
đức Thích Tôn dù sống rải rác
hay sống
từng nhóm nhỏ trên nhiều lãnh địa
khác
nhau cũng đều thuộc về một
cộng
đồng duy nhất mà
đức Thích Tôn là trung tâm, do
đó mọi vấn
đề xảy ra liên hệ
đến một cá nhân tỳ-kheo hay
một tập
thể tỳ-kheo đều
được chính Ngài trực tiếp giải
quyết
và xử trị. Về sau, do sự gia tăng
số
lượng tỳ-kheo, cộng đồng Tăng
lữ trở thành rộng lớn, việc giải quyết trực tiếp như thế trở thành
khó khăn
do vấn đề di chuyển, nên
đức Thích Tôn cho phép tỳ-kheo
ở
địa phương nào thì tùy theo
hoàn cảnh
thích hợp mà thuộc về cộng đồng
của
địa phương
đó với một cương giới
đươc đồng
ý ấn định rõ ràng bởi các
đường ranh [2]. Như thế, từ
một cộng
đồng Tăng
lữ có tính cách tập trung rộng lớn được
chia nhỏ thành nhiều cộng đồng
địa phương khác nhau. Hệ thống
tổ chức
Tăng đoàn
của đức Phật dựa trên nguyên
tắc dân
chủ không tập quyền, do đó các
Tăng
đoàn địa
phương sống và sinh hoạt như những cộng đồng
tự trị, không bị chi phối bởi một cộng đồng
trung ương tối cao nào cả. Tuy nhiên, đời
sống của một tỳ-kheo là đời
sống không
gia đình,
đi hay ở đâu tùy sở
thích, tùy
nhu cầu hành đạo và hóa
đạo riêng biệt của mình, chứ
không bị
buộc chặt vào bất cứ một cộng đồng
nào, vì vậy một tỳ-kheo trong giờ trước đang
ở tại cương giới này thì thuộc về cộng đồng
Tăng lữ này nhưng trong giờ
sau vị ấy
bước qua cương giới khác thì đã
là
thành viên của cộng đồng Tăng
lữ đó và phải chấp hành các
nghĩa vụ
cũng như hưởng thọ các quyền lợi ở cộng đồng
đó. Do tính cách di
động này mà mặc dù Tăng
đoàn được
chia nhỏ thành nhiều cộng đồng
địa phương khác nhau với những
sinh
hoạt tự trị khác nhau không có trung ương chi phối, nhưng tất ca
đều sinh hoạt nhịp nhàng theo
những
qui tắc chung, khiến một tỳ-kheo từ nơi này sang nơi kia không bị
bối rối
và sinh hoạt thường nhật của một người xuất gia không hề bị gián
đoạn. Tất cả các cộng
đồng địa
phương như vậy trong vô hình tạo thành một cộng
đồng thống nhất,
đó là cộng
đồng đệ
tử xuất gia của Phật.
2. HIỆU
LỰC CHI PHỐI CỦA CƯƠNG GIỚI
Theo sự ấn định cũa Phật, bất cứ
trong trường hợp nào, bất cứ trong khoảng thời gian nào dù chỉ
trong chốc
lát, hễ nơi nào có bốn tỳ-kheo đang
hội đủ tư cách tỳ-kheo tụ tập
lại
đều trở thành Tăng,
tức một tập thể nhỏ nhất. Nếu có việc gì xảy ra chung cho cả bốn
vị ấy,
cần được giải quyết chung, thì
ngay
tại chỗ ấy các đường ranh cần
phải
được ấn
định, nghĩa là phải tác pháp kiết giới. Sau khi các
đường ranh
đã đước
ấn định, bên trong phạm vi của
các
đường ranh
đó họ trở thành một cộng
đồng tạm thời, có tính cách tự
trị
riêng biệt. Giả sử lúc bấy giờ có một tỳ-kheo thứ năm
đứng gần
đó, nhưng toàn thân của ông này hoàn toán ở ngoài các
đường ranh
đã được
ấn định, thì vị này không
được kể là một thành viên của
cộng
đồng ở bên trong cương giới và
không
có thẩm quyền can thiệp vào các công việc đang
tiến hành của bốn tỳ-kheo kia.
Sự ấn định cương giới bởi các
đường ranh như vậy là một hành
vi tiên
quyết, cần phải được tiến hành
trước
nhất trong tất cả mọi sinh hoạt tập thể của Tăng
[3]. Nó là cơ sở hiện thực để
phán
đoán có hay không có sự chia
rẽ xảy ra
giữa Tăng. Khi một sinh hoạt
tập thể
của Tăng, như thuyết giới
chẳng hạn,
được tham dự
đầy đủ
với tất cả các tỳ-kheo đang
sống chung
trong một cương giới, thì sinh hoạt ấy được
coi là hòa hiệp. Trái lại, nếu có một tỳ-kheo
đang có đủ tư cách tham
dự mà
không tham dự cũng không gởi dục, sinh hoạt của Tăng
bấy giờ phải được coi là
đang bị chia rẽ, hay ít nhất
đang có dấu hiệu chia rẽ mà
công việc
làm kia bất thành và nếu làm là có lỗi. Do vậy, sự ấn
định cương giới có mục
đích bảo
đảm sự đoàn kết của Tăng
trong từng cộng đồng
địa phương; nó buộc ràng
đời sống của một tỳ-kheo vào
cộng
đồng mà mình
đang sống chung, dù chỉ trong
khoảng
thời gian ngắn.
Sự tồn tại
của Tăng
đoàn chỉ có ý nghĩa chừng nào
các
thành viên của nó đều sống và
sinh
hoạt trong một tinh thần hòa hiệp nhất trí,
đúng theo luật pháp. Cho nên việc ấn
định cương giới để bảo
đảm sự hòa hiệp nhất trí ấy
phải
được coi là công việc quan
trọng hàng
đầu của Tăng.
Không thể có bất cứ sinh hoạt tập thể nào của Tăng
được phép tiến hành ở những
nơi nào mà
cương giới không được ấn
định. Nói cách khác theo ngôn
ngữ của
luật tạng Hán văn, tất cả mọi
pháp
yết-ma của Tăng không
được phép cử hành ở những nơi
chưa
được kết giới.
TIẾT 2. BẢN CHẤT CỦA CƯƠNG GIỚI
Như đã
định nghĩa ở trên, cương giới là một khoảng
đất lớn hay nhỏ tùy trường
hợp,
được bao quanh bởi các
đường ranh mà tiếng Phạn gọi
là sīma.
Theo định nghĩa ấy thì bản
chất của
cương giới là vùng đất mà con
người có
thể sống sinh hoạt trên đó.
Cương giới được phân biệt thành hai
loại khác nhau, là cương giới tự nhiên [4] và cương giới ấn
định [5]. Tất cả mọi Tăng
sự nghĩa là tất cả mọi thứ yết-ma, đều
được cử hành trong phạm vi của
hai
cương giới đó. Nếu tại trú xứ,
tức tại
các chùa, các Tăng-già lam,
thì Tăng
sự phải được thực hiện trong
phạm vi
của cương giới ấn định tức tác
pháp
giới. Trong trường hợp xuất hành, nghĩa là một nhóm tỳ-kheo với số
lượng
tối thiểu từ 4 người trở lên đang
đi chung với nhau, giữa
đường có sự việc xảy ra cần
phải
được giải quyết tập thể, thì Tăng
sự có thể được thực hiện trong
phạm vi
của cương giới tự nhiên.
1. CƯƠNG
GIỚI TỰ NHIÊN
Cương giới
tự nhiên hay tự nhiên giới, là những vùng
đất có
đường ranh tự nhiên không do sự ấn định
qua thủ tục nghị quyết hay yết-ma. Có bốn loại cương giới tự
nhiên:
i. Tụ
lạc giới
Tụ lạc [6],
chỉ tất cả những nơi có nhà của dân chúng ở, gồm xóm làng,
thị trấn v.v.. Cương giới tụ lạc có hai hình thái khác nhau. Thứ
nhất,
cương giới có đường ranh rõ
ràng,
khiến có thể phân biệt được
phạm vi
bên trong và bên ngoài của tụ lạc. Thứ hai, tụ lạc không có
đường ranh rõ ràng, tức những
nơi mà
nhà cửa của dân cư liên tiếp nhau, khiến không thể phân biệt
được phạm vi của tụ lạc này
chạy dài
đến đâu
và từ đâu trở
đi thì thuộc về phạm vi của tụ
lạc
khác. Trường hợp này, phạm vi được
qui
định là rộng 21,5 khuỷu tay
[7].
ii.
A-lan-nhã giới
A-lan-nhã,
tiếng Phạn là aranya, Hán dịch là vô sự xứ hay
không nhàn [8], chỉ các khu rừng vắng hay những nơi không có
dân cư.
Cương giới a-lan-nhã cũng có hai, là nơi nguy hiểm vì có các loại
thú dữ,
và nơi không nguy hiểm tức không có thú dữ. Tại những nơi
a-lan-nhã không
nguy hiểm thì cương giới được
qui
định là rộng một câu-lô-xá
[9], ước
tính theo khoảng cách mà tiếng kêu có thể nghe
được. Trong vòng cương giới tự
nhiên
được qui
định đó phải là không
có vị Tăng
nào hay chùa nào (chùa có Tăng).
Cương
giới a-lan-nhã có sự nguy hiểm được
qui định trong vòng 7 bàn-đà
[10].
iii. Đạo hành giới
Đạo hành, tức là cương giới tự nhiên trong lúc
đi đường.
Trên con đường dọc ngang 600
bộ có thể
làm các yết-ma [11].
iv.
Thủy giới
Thủy giới
[12], tức cương giới đường
thủy, khi đang
đi trên thuyền. Phạm vi
được ước tính bằng cách cho
một người
có sức mạnh nhất lấy nước hay cát tung ra 4 phía, tới chỗ nào thì
chỗ
đó được
coi là đường ranh.
Trong các
cương giới tự nhiên kể trên, khi hành Tăng
sự để giải quyết một vấn
đề gì, các tỳ-kheo
đồng hành ngồi
đối diện nhau. Trong phạm vi
cương
giới đang hành sự, không
được có tỳ-kheo nào khác ở
ngoài nhóm
không tham gia để khỏi bị coi
là có
hai nhóm Tăng trong cùng một
phạm vi
cương giới, thì hành sự của Tăng
mới
hợp pháp.
Các cương
giới tự nhiên như trên được
coi là như pháp cho các hành sự của Tăng
mà không cần phải kết tiểu giới, nếu toàn thể tỳ-kheo trong nhóm
không có
sự chia rẽ, nếu có sự chia rẽ, phải kết tiểu giới
để hành Tăng
sự, phòng sự cản trở của các tỳ-kheo khác.
2. CƯƠNG
GIỚI ẤN ĐỊNH
Cương giới
ấn định [13], hay nói là
tác pháp giới, là cương giới được
ấn
định bằng thủ tục họp Tăng
và các công bố đường ranh với
sự chấp
thuận tuyệt đối của Tăng.
Loại cương giới này thông dụng có hai, là đại
giới, tức cương giới lớn như các tự viện, già lam, trú xứ của Tăng;
và giới trường tức cương giới nằm trong phạm vi của
đại giới, coi như là hội
trường
để Tăng
tập họp biểu quyết những sự việc tập thể, như truyền giới, thuyết
giới, tự
tứ. Trong trường hợp bất thường nếu không thể tập họp trong trú
xứ, vì có
thể bị cản trở bởi các tỳ-kheo khác, Tăng
có thể kết tiểu giới ở ngoài địa
phận
đại giới hay trong phạm vi các
tự
nhiên giới mà phạm vi nhỏ nhất có thể tập họp tối thiểu bốn
tỳ-kheo
để giải quyết những vấn
đề không liên hệ số
đông các tỳ-kheo khác. Sau khi
sự việc
xong, tiểu giới này phải được
tuyên bố
giải giới. Không được không
giải giới
mà đi.
i. Đại giới
Bất cứ nơi
nào có sự hiện diện của Tăng,
nghĩa là có sự sống chung của tối thiểu bốn tỳ-kheo, nơi
đó phải ấn
định cương giới
được bao quanh bằng những
đường ranh mà toàn thể Tăng
đều tuyệt
đối chấp thuận, để tất
cả cùng
sống chung hòa hiệp, cùng chấp hành các nghĩa vụ và cùng thọ hưởng
các
quyền lợi theo các nguyên tắc dân chủ và bình
đẳng. Nói đơn giản, thì
đây là cương giới
để các tỳ-kheo cùng sống chung
[14] và
cùng thuyết giới chung [15].
Phạm vi của đại giới
được qui
định tối đa, theo Thập
tụng
luật, là 10 câu lô xá, tức khoảng 18.000m [16] theo cả hai
chiều dọc
và ngang. Trong phạm vi đó nó
bao trùm
luôn cả nhả cửa của dân cư. Đó
là phạm
vi cương giới của Tăng. Về ni,
được qui
định chỉ trong vòng một câu lô xá tức khoảng 1,8km [17].
Hiệu lực của
sự ấn định cương giới
không áp dụng chung cả Tăng
lẫn ni.
Nghĩa là nếu Tăng muốn thiết
lập cương
giới của mình thì phải tác pháp riêng để
ấn định
đường ranh. Ni cũng vậy, tác pháp riêng
để tự ấn
định đường ranh cho
mình. Nhưng
cương giới của Tăng và ni có
thể ấn
định chồng lên nhau mà cương
giới của
mỗi bên vẫn không mất [18].
Như đã nói, vấn
đề định
cương giới có mục đích tập họp
tất cả
các tỳ-kheo thành một cộng đồng
địa phương, cùng sống chung
hòa hiệp
và cùng thuyết giới, do đó
việc ấn
định đường
ranh là công việc chủ yếu rất quan trọng. Các
đường ranh phải được cụ
thể
bằng những mốc gọi là tiêu tướng. Vì đại
giới là trú xứ mà các tỳ-kheo có thể sống chung trong cùng một
thời gian
dài, do đó các vật
được dùng làm tiêu tướng ấn
định đường
ranh phải có giá trị lâu bền. Những vật không tồn tại lâu như cây
chuối,
hay những thứ rỗng ruột như tre, không được
phép dùng làm tiêu tướng, vì những thứ đó
không thể qui định lằn mức
đường ranh một cách bền chắc.
Sông hay
rạch cũng có thể dùng làm tiêu tướng, nhưng phải là sông hay rạch
thường
xuyên có nước. Nguyên tắc ấn định
đường ranh là lằn mức phải cụ
thể và
chính xác để bất cứ ai và
trong bất cứ
thời gian nào cũng có thể nhận ra một cách dễ dàng, không tranh
cãi
được. Những gì thỏa mãn nguyên
tắc này
đều có thể dùng làm tiêu
tướng.
Đó là nguyên tắc
để bảo đảm
tính hòa hiệp nhất trí của Tăng,
không
thể bất cứ yếu tố dù nhỏ nhặt đến
đâu có thể gây ta tranh luận
và dẫn
đến tranh chấp bất hòa giữa Tăng.
Đại giới được chia làm
hai
loại chính: đại giới không có
giới
trường và đại giới có giới
trường.
Đại giới không giới trường là
trú xứ
mà các tỳ-kheo sống nhưng không có những sinh hoạt tập thể
định kỳ như thuyết giới, tự
tứ. Tức
trong trường hợp hai trú xứ Tăng
ở gần
nhau, mặc dù cương giới riêng biệt, nhưng cả hai bên
đều muốn sinh hoạt chung, như
thuyết
giới chung chẳng hạn, thì chỉ cần một giới trường chung cho cả hai
bên là
đủ. Ngoài trường hợp ấy ra,
bất cứ
đại giới nào cũng phải có giới
trường
bên trong, đây gọi là
đại giới có giới trường.
Theo nguyên
tắc, hai cương giới không được
phép có chung đường ranh cho
nên trong
trường hợp đại giới có giới
trường,
mặc dù là giới trường được
đặt trong phạm vi của
đại giới, nhưng
đường ranh của cả hai phải
cách nhau
tối thiểu 2 khuỷu tay, tức khoảng 1 mét. Như vậy,
đại giới không có giới trường
chỉ có
một lớp đường ranh duy nhất,
tức các
đường ranh bao quanh bên ngoài
(đại
giới ngoại tướng). Còn đại
giới có
giới trường thì có ba lớp đường
ranh,
một là đường ranh bao quanh
bên ngoài
vẫn đồng nhất với
đại giới không giới trường nêu
trên.
Hai là đường ranh bên trong
của
đại giới (đại
giới nội tướng), nó cách các ranh của giới trường bằng 2 khuỷu
tay;
đây là giới tướng bên trong
của
đại giới. Ba là
đường ranh bao quanh giới
trường có
khi gọi là tiểu giới. Như vậy trong một đại
giới có giới trường gồm có ba địa
phận
riêng biệt. Địa phận
đại giới là trú xứ của Tăng.
Địa phận trống ở giữa phân
cách các
đường ranh bên trong của
đại giới với các
đường ranh bao quanh giới
trường,
được coi là cương giới tự
nhiên và
trong cùng là địa phận của
giới
trường.
Khi ấn định cương giới của
đại giới có giới trường các
đường ranh của giới trường
được công bố trước; kế
đó là công bố các
đường ranh bên trong của
đại giới, và sau hết là công
bố các
đường ranh ngoài bìa
đại giới. Thủ tục tiến hành
việc ấn
định các
đường ranh này sẽ được
nói ở
đoạn sau tiết 4. Nói tắt là
khi kết
thì kết giới trường trước rồi mới kết đại
giới sau.
Sau khi ấn định
đại giới và sống ở
đó một thời gian, nếu Tăng
thấy ở đây không thuận tiện,
cần di
chuyển toàn bộ đi nơi khác,
thì
đại giới và giới trường phải
được tuyên bố,
đại giới coi như tự
động được
giải tỏa. Các tịnh nhân, sa-di đều
có
thể sống chung trong đại giới
với
tỳ-kheo tuy nghĩa vụ và quyền lợi không đồng,
và cũng không được kể là thành
viên
của cộng đồng sống chung trong
trú xứ.
ii.
Giới trường
Giới trường
[19] là một khu đất nằm
trong phạm vi của đại giới,
được dùng làm hội trường của Tăng.
Nó có thể là khu đất trống,
hay bên
trên khu đất này có cất nhà.
Các
đường ranh của giới trường
cách quãng
các đường ranh bên trong của
đại giới
độ một mét như đã nói.
Nguyên lai, đến ngày thuyết giới
định kỳ, tất cả tỳ-kheo trong
cùng trú
xứ phải tập họp lại một chỗ để
thuyết
giới. Nhưng vì nơi thuyết giới không được
ấn định cố
định, sự tập họp trở thành khó
khăn.
Do đó Phật khiến các tỳ-kheo
kết giới
trường làm chỗ cố định
để tất cả các tỳ-kheo
đều biết chỗ mà tập họp [20].
Mặt
khác, ngoài những trường hợp như thuyết giới và tự tứ thì toàn thể
tỳ-kheo
trong cùng trú xứ phải tập họp một chỗ, song còn có nhiều trường
hợp mà sự
việc chỉ quan hệ một số tỳ-kheo, như trường hợp truyền giới cụ
túc, chỉ
cần tập họp 10 tỳ-kheo, hay xuất tội Tăng
tàn chỉ cần hóm 20 tỳ-kheo là đủ
túc
số. Những công việc không định
kỳ như
vậy lại là việc xảy ra thường xuyên, mà cứ mỗi lần xảy ra
đều phải kết giới và giải giới
thì rất
là phiền phức. Giới trường khi đã
được thiết lập dùng làm phòng
họp
thường xuyên thì Tăng có thể
họp bất
cứ lúc nào, là để tránh những
phiền
phức kết và giải nhiều lần như vậy.
Phạm vi giới
của giới trường nhỏ nhất phải dung chứa
đủ 21 người [21], mà khoảng
cách sao
cho khi người này duỗi cánh tay ra thì đầu
ngón giữa chạm vào thân người kế [22]. Con số 21 là số tỳ-kheo khi
làm
yết-ma xuất tội Tăng tàn,
trong
đó gồm 20 tỳ-kheo mà giới thể
còn
thanh tịnh và một tỳ-kheo phạm giới được
Tăng xuất tội.
Trong một đại giới chỉ
được phép thiết lập một giới
trường mà
thôi. Nếu hai trú xứ Tăng với
hai
đại giới khác nhau nhưng muốn
cùng
thuyết giới chung thì có thể có chung một giới trường,
đặt ở trú xứ nào cũng
được.
Giới trường
có thể thay đổi
địa điểm
trong phạm vi của đại giới.
Nhưng nếu
hủy bỏ giới trường cũ để sang
giới
trường mới Tăng phải làm pháp
yết-ma
để giải tỏa giới trường cũ và
ấn
định lại
đường ranh của giới trường mới.
Nếu đại giới và giới trường
được Tăng
làm yết-ma ấn định các
đường ranh chung một lần, thì
các
đường ranh của giới trường
phải
được ấn
định trước, và khi ấn định
Tăng
phải ở ngay trong phạm vi của giới trường. Sau
đó mới ấn
định các đường ranh
trong và
ngoài bìa của đại giới, và khi
làm
yết-ma ấn định này thì Tăng
phải ở trên đất của
đại giới, tức ra ngoài giới
trường và
ngoài cả phần đất trung gian
phân cách
đại giới và giới trường.
iii.
Tiểu giới
Tiểu giới là
cương giới bất thường để
Tăng làm các yết-ma bất thường
trong
trường hợp không thể họp tại giới trường. Khi có sự việc bất
thường xảy ra
cho một nhóm tỳ-kheo, không liên hệ đến
toàn thể tỳ-kheo trong trú xứ, và nhóm tỳ-kheo này cũng không thể
tập họp
vào giới trường, vì có thể có sự cản trở của các tỳ-kheo khác khi
họ
đang làm yết-ma nên họ có thể
dẫn nhau
ra khỏi đại giới và kết tiểu
giới
để làm yết-ma. Tiểu giới như
vậy là
một hình thức giới trường di động
và
lâm thời. Sau khi xong việc, phải tuyên bố giải tỏa mới
được đi.
Phạm vi của tiểu giới nhỏ nhất là 4 người ngồi thành một
đường thẳng, và nếu 5 người
trở lên,
thì ngồi thành vòng tròn mà phần lưng của họ
được coi là đường ranh
của
cương giới. Sau khi làm yết-ma kết tiểu giới thì các tỳ-kheo này
tạo thành
một cộng đồng lâm thời riêng
biệt mà
những tỳ-kheo nào ở ngoài phạm vi ấy không
được phép can thiệp vào công việc của họ.
Hoặc trong
trường hợp xuất hành mà cósự việc xảy ra như gặp ngày bố-tát
thuyết giới, tự tứ hay các trường hợp xử trị khác, vì
để tránh sự cản trở của các
tỳ-kheo
khác ngoài nhóm, nên tỳ-kheo tối thiểu 4 người trở lên có thể làm
yết-ma
kết tiểu giới trong cương giới tự nhiên. Sau khi công việc xong,
trước khi
tiếp tục lộ trình, các tỳ-kheo này phải làm yết-ma giải tỏa tiểu
giới.
iv.
Các cương giới biệt xuất
Các cương
giới biệt xuất là những cương giới có thể có chung
đường ranh với
đại giới, hay ở trong phạm vi
của
đại giới nhưng hiệu lực không
đồng với các
đường ranh này, do
đó cần làm yết-ma riêng
để ấn định.
Các cương
giới biệt xuất này gồm pháp lợi nhị
đồng, pháp
đồng lợi biệt, pháp biệt lợi
đồng, giới không lìa y, giới
tịnh trù,
giới tịnh khố và khố tàng.
a) giới
pháp lợi nhị đồng:
Trong trường hợp có hai trú xứ của Tăng
ở gần nhau, với hai cương giới biệt lập, nhưng cả hai bên
đều muốn thống nhất sinh hoạt
với nhau
tức cùng thuyết giới chung, và cùng thọ hưởng chung các quyền lợi
vật
chất; nếu bên nào nhận được
những lợi
dưỡng thì đem chia
đều cho cả hai [23] .]
Để tránh sự giao thông khó khăn
cho cả hai, để cho sự tập họp
chung
các tỳ-kheo của cả hai trú xứ vào mỗi khi thuyết giới không gặp
trở ngại,
khoảng cách giữa hai trú xứ không được
quá xa, và không được cách
nhau bởi
những chướng ngại như sông ngòi. Nếu trên các sông ngòi này có
cầu, hay có
thuyền bè qua lại thuận tiện thì được.
Phạm vi của cả hai trú xứ được
kể là
phạm vi của cương giới bố-tát. Cương giới này rộng tối
đa là ba do tuần, tức khoảng
20km [24]
là khoảng cách để một người
đi từ đầu
này đến
đầu kia chỉ trong một ngày. Dụng ý của sự ấn
định này là
để cho một người ở cách giới
trường
thuyết giới quá xa có thể lên đường
đi bộ về
địa điểm thuyết giới
trước một
ngày cho kịp kỳ bố-tát [25].
Hai trú xứ
với hai đại giới riêng
biệt, nếu muốn thống nhất thành giới pháp lợi nhị
đồng, thì trước hết phải tự
làm yết-ma
giải đại giới của hai bên; sau
đó, toàn thể Tăng
của cả hai bên tập họp về một chỗ để
làm yết-ma kết đại giới lại
để cho Tăng
cả hai bên đều biết.
Vì cả hai
trú xứ bây giờ có chung một thuyết giới, cho nên trong hai
đại giới của hai trú xứ chỉ
cần có một
giới trường mà thôi, đặt ở bên
nào
cũng được, tùy theo sự thuận
tiện. Bên
nào được
đặt giới trường thì được
xướng
giới trước. Xướng các tiêu tướng và làm yết-ma kết giới trường
xong rồi,
toàn thể Tăng ra khỏi giới
trường,
đến địa
phận của đại giới có giới
trường,
xướng các tiêu tướng trong của đại
giới bên này, kế đó xướng các
tiêu
tướng ấn định các
đường ranh của
đại giới bên kia. Trong khi
xướng các
tiêu tướng của cả hai đại
giới, Tăng
khỏi phải đi thị sát hiện
trường, vì
các đường ranh không thay
đổi nên tất cả
đều đã
rõ rồi.
Nói tóm lại,
trong giới pháp lợi nhị đồng,
Tăng của hai trú xứ vẫn sống
trong hai
phạm vi đại giới khác nhau,
chỉ thống
nhất trên mặt sinh hoạt, tức thuyết giới và lợi dưỡng mà thôi. Khi
nào sự
thống nhất sinh hoạt này không thể duy trì
được nữa, thì hai bên hợp lại và tuyên bố giải tán, bên nào
trở về
vị trí sinh hoạt riêng biệt của bên đó
để kiết giới.
b) Pháp đồng lợi biệt: Khác
với giới pháp lợi nhị đồng, ở
đây chỉ thống nhất hai trú xứ
khác
nhau về sự thuyết giới chung, còn phần lợi dưỡng thì bên nào thọ
hưởng
riêng bên đó. Thủ tục hành sự
kết giới
đại thể giống như thủ tục kết
giới
pháp lợi nhị đồng, chỉ
đổi khác nội dung trong lời
xướng và
bạch yết-ma mà thôi.
c) Pháp
biệt lợi đồng: Hai
trú xứ Tăng ở gần nhau, có thể
phân
chia đồng
đều các quyền lợi vật chất cho nhau, nhưng có thể vì lý do
bảo trì
trú xứ của mình mà không thể tập họp về một chỗ
để thuyết giới, thì hai bên có
thể họp
lại để tuyên bố giới pháp biệt
lợi
đồng. Thủ tục tiến hành không
giống
như hai trường hợp trên. Nghĩa là, nếu trước
đó hai trú xứ có đại
giới riêng
và giới trường riêng, thì nay tập họp toàn thể Tăng
cả hai bên lại một chỗ, làm yết-ma giải giới; chỉ giải
đại giới chứ không giải giới
trường.
Sau đó kết lại mà không phải
xướng
giới tướng vì các đường ranh
của hai
trú xứ vẫn giữ nguyên. Nếu trước đó
cả
hai trú xứ khác đại giới nhưng
đồng thuyết giới và
đồng lợi dưỡng, thì cũng hợp
toàn thể
Tăng của hai bên làm yết-ma
giải
đại giới, rồi kết lại và cũng
không
phải xướng tiêu tướng nữa. Sau đó,
bên
nào chưa có giới trường thì Tăng
bên
đó về họp lại và làm yết-ma
kết giới
trường để thuyết giới.
d) Giới
không lìa y [26]: Theo tất cả các luật bộ, nếy tỳ-kheo
lìa y một đêm, phạm xả
đọa, y ấy phải
được xả trước Tăng
[27]. Tỳ-kheo đi
đến đâu,
ba y phải được mang theo như
chim
đủ cả hai cánh. Nhưng vì nhiều
trường
hợp không thể mang luôn theo bên mình, do đó
cần phải ấn định cương giới
của y. Nếu
tỳ-kheo ở ngoài cương giới của y, qua một đêm,
thì khi ánh sáng ban mai bắt đầu
xuất
hiện, y ấy được coi là mất,
phải xả
trước Tăng.
Phạm vi
cương giới của y đồng nhất
với phạm vi của đại giới,
nhưng khác
với đại giới là trừ xóm tức
nhà của cư
dân và khu quanh xóm [28]. Khu quanh xóm là vùng
đất trống kể từ ranh của nhà
dân ở
ngoài bìa xóm trải rộng đến
lằn mức
của hòn đá mà một người trung
bình
đứng từ ranh của nhà này liệng
ra. Mặc
dù kể cả xóm và vùng quanh xóm đều
có
thể nằm trong phạm vi của đại
giới,
nhưng vì cương giới của y đã
trừ chúng
ra, cho nên khi tỳ-kheo ở lại một đêm
trong nhà dân mà y được
để lại nhà khác hay bất cứ chỗ
nào
khác trong vùng quanh xóm, lúc ánh sáng mai xuất hiện thì y ấy bị
coi là
mất. Trường hợp trái lại cũng vậy.
Sau khi
cương giới của y đã
được ấn
định, nếu có nhà dân nào nằm trong phạm vi trú xứ
được dỡ đi,
thì chỗ đất trống mới này
được coi là thuộc cương giới
của y.
Trái lại, trên khu đất trống
trước
thuộc cương giới của y nhưng sau đó
được dân cất nhà, cất chòi,
hay che
rạp, thì chỗ ấy và khu đất
quanh chỗ
ấy không được kể là giới của y
nữa.
Vì khi làm
yết-ma kết giới của y đã
ấn định rõ ràng trừ xóm và
vùng quanh
xóm ra rồi.
Phạm vi
cương giới của y cũng có thể trùm cả hai trú xứ của Tăng
tức hai đại giới khác nhau,
nhưng
trong đó vẫn phải trừ xóm và
khu quanh
xóm ra. Nếu giữa hai đại giới
có xóm
hay nhà dân thì cũng phải trừ ra vậy. Nếu hai
đại giới cách nhau bằng sông hay suối có dòng nước chảy
xiết thì
không được kết thông làm cương
giới
của y, vì để tránh trường hợp
khi lội
qua bị nước cuốn mất y. Nếu ở sông hay suối này mà có cầu hay
đò qua lại dễ dàng thì có thể
kết
thông hai đại giới lại làm
cương giới
của y.
Cương giới
của y phải được kết sau
đại giới, vì nó tùy thuộc vào
phạm vi
của đại giới. Khi muốn giải
tỏa, thì
phải giải cương giới của y trước rồi mới giải
đại giới. Nhưng nếu đã
giải
đại giới trước thì khỏi phải
giải tỏa
cương giới của y, vì đại giới
đã mất thì giới của y cũng tùy
theo
đó mà mất luôn.
e) Tịnh
trù và tịnh khố: Theo qui chế của Phật, trong
địa phận Tăng
già-lam không được phép
đun nấu. Song do trường hợp
một
tỳ-kheo bị bệnh tiêu chảy, nhờ người trong thành nấu cháo. Nhưng
tối hôm
đó có duyên sự cổng thành
đóng sớm, không ai vào lấy
cháo
được nên
đêm đó tỳ-kheo ấy mệnh
chung.
Nhân cớ này Phật cho kết tịnh địa
trong địa phận Tăng-già
lam để tạm thời
được đun
nấu. Có thể chọn bất cứ khu đất
trống
nào hay bất cứ phòng nào kết làm tịnh trù [29].
Mặt khác,
khi các tỳ-kheo có đồ
ăn hay đồ
dùng dư, không có chỗ cất nên để
ngoài
trời, do đó thường bị người chăn
dê hay trộm lấy mất. Phật cho phép chọn một căn
phòng kết làm tịnh khố để cất
chứa
[30].
Lại nữa,
trong nhiều trường hợp tín thí cúng dường y bát mà chưa phân
chia cho Tăng kịp. Phật cũng
cho phép
chọn một căn phòng kết làm
tịnh khố
để chứa.
Mục đích của các sự kết giới này là
để ấn định
khu đất hay căn
phòng nào dùng làm tịnh địa,
tịnh trù
hay tịnh khố được coi là nằm
trong
đại giới sống chung của Tăng
mặc dù trên thực tế chúng vẫn ở trong đại
giới. Nhưng nếu không ấn định
như vậy,
các tỳ-kheo mang tội đun nấu
trong
đại giới, chưa
đựng đồ
ăn cách đêm.
Đây là những
điều khoản thuộc ba-dật-đề
và ni-tát-kỳ ba-dật-đề trong
giới bổn
của tỳ-kheo.
Có bốn
trường hợp coi là tịnh địa
[31]. Thứ nhất được coi là
thuộc về
đàn việt, tức Tăng-già-lam
mà tín thí thiết lập để cúng
cho Tăng
nhưng Tăng chưa chính thức
nhận thì nó
vẫn được coi là còn thuộc về
của tín
thí chứ không phải là cương giới của Tăng,
do đó dù có
đun nấu trong
đó vẫn không phạm. Thứ hai,
hàng rào Tăng-già-lam
không trọn, nghĩa là tường hay rào của già-lam hoặc quá thấp, hoặc
chỗ
thấp chỗ cao, hoặc hoàn toàn không có, khiến sự ra vào dễ dàng,
thì cũng
không cần phải kết tịnh địa.
Thứ ba,
nơi đã qui
định trước. Tức là
đàn-việt trong khi thiết lập Tăng-già-lam
đã qui định
một nơi nào đó làm nhà kho hay
nhà
bếp, thì những chỗ đó cũng
không cần
phải kiết giới. Thứ tư, tịnh địa
do
làm yết-ma. Tức trừ ba trường hợp trên, nơi nào Tăng
muốn chọn làm tịnh trù, tịnh khố và tịnh địa
thì phải yết-ma để kiết giới.
Theo qui chế
của Phật thì nếu không phải là trường hợp có tỳ-kheo bệnh
hay không phải là những năm
đói khiến các tỳ-kheo khống
thể khất
thực đầy
đủ mà phải tự mình đun
nấu thì
tuyệt đối không
được kết tịnh
địa để
đun nấu trong một giới
già-lam. Như
vậy, tịnh địa chỉ là phần
đất tạm thời
được kể không thuộc về
địa phận già-lam chứ không
phải là
thường trực. Nhưng do phong tục và tập quán của nước ta, Tăng
gần như hoàn toàn phải tự liệu lý sự ăn
uống của mình chứ không thường xuyên nhờ vào khất thực, do
đó tịnh
địa và tịnh trù gọi chung là nhà bếp, vừa
để đun
nấu vừa được cất chứa thức
ăn, không thể không có. Như
vậy, khi
một Tăng-già-lam hay tu viện
được thiết lập làm trú xứ cho Tăng,
công việc đầu tiên của Tăng
đương nhiên là phải kết
địa giới
để ấn định cương giới
sống
chung, nhưng đồng thời cũng
cần phải
kết cả tịnh địa, tịnh trù và
tịnh khố
nữa.
Vì các khu
vực này được
đặt ra ngoài phạm vi
đại giới, cho nên cũng
được đặt
ra ngoài cương giới của y. Nghĩa là, nếu có tỳ-kheo nào ngủ trong
địa phận của
đại giới nhưng y
được để
tại khu kể trên khi ánh sáng mai xuất hiện mà tỳ-kheo ấy còn cách
xa y của
mình bằng khoảng cách 8 cây [32], thì y này bị coi là mất, và
tỳ-kheo phạm
ni-tát-kỳ ba-dật-đề, phải xả y
trước Tăng.
Thêm nữa, khi kết giới cấm túc an cư, cương giới này bao trùm trọn
cả
địa phận
đại giới nhưng vẫn trừ nhà bếp và nhà kho ra. Nếu tỳ-kheo
nào không
phải là Tăng sai hay cho phép
mà tự ý
bước vào các chỗ đó tỳ-kheo ấy
được coi là tự ý xuất giới và
sự kết
hạ bị phá.
Khi làm
yết-ma kết giới nhà bếp và nhà kho, Tăng
không được ở trong các chỗ ấy,
cũng
không được
đứng bất cứ chỗ nào trong
địa phận của
đại giới, mà phải ra ngoài
đại giới rồi làm yết-ma vọng
đến. Nếu không thể ra khỏi
đại giới, thì trước phải làm
yết-ma
giải đại giới, rồi kết giới
nhà bếp và
nhà kho, sau đó kết lại
đại giới.
3. THỦ
TỤC TIẾN HÀNH YẾT MA KẾT GIỚI
Dẫn
Dưới đây
chỉ nêu một số nghi thức
yết-ma và giải giới thông dụng. Nội dung căn
bản của các thủ tục tiến hành kết và giải giới
đều giống nhau, gồm có việc
xướng giới
tướng tức ấn định
đường ranh, và bạch nhị
yết-ma. Do
đó, những nghi thức nào không
được nêu ra ở
đây, khi hành sự có thể phỏng
theo các
nghi thức được nêu mà làm cũng
được.
Nếu muốn cho
nghi thức được long
trọng với các chi tiết như lễ Tam bảo, tụng sám và hồi hướng, thì
tùy theo
mà châm chước. Vì đấy là những
việc
không phải chủ yếu, và cũng không cần thiết, do
đó ở đây
không nhắc đến.
Thủ tục tiến
hành chung cho tất cả các loại kết giới trên
đại thể giống nhau. Nó có thể
được chia làm hai giai
đoạn: chuẩn bị tác pháp và
chính thức
tác pháp.
i.
Chuẩn bị tác pháp
Trước hết,
chỉ định một tỳ-kheo cố
cựu, người hiểu biết rành nhất về địa
hình của trú xứ, làm người xướng giới tướng.Vị tỳ-kheo cố cựu này
có bổn
phận kiểm tra lại các tiêu tướng, sao cho sự ấn
định tuyệt
đối cụ thể và phân minh
để không ai có thể mơ hồ về
các lằn
mức các đường ranh. Sự chọn
lựa các
vật làm tiêu tướng phải y theo luật định
như đã giới thiệu trên.
Khi đến giờ hành sự,
đánh kiền chùy tập họp tất cả
tỳ-kheo
trong trú xứ, không ai được
phép vắng
mặt bất cứ lý do gì, và không được
gởi
dục. Thầy tỳ-kheo cố cựu được
chỉ
định có bổn phận hướng dẫn
toàn thể Tăng
đi thị sát hiện trường các
tiêu tướng
và đường ranh. Vị này sau khi Tăng
tập họp đông
đủ, bước ra
đảnh lễ Thượng tọa 1 lễ và
bạch:
Hôm nay Tăng kết giới. Kính
thỉnh
đại Tăng
thân hành đi thị sát hiện
trường
để biết rõ các tiêu tướng và
các
đường ranh bao quanh cương
giới
để tiện tác pháp.
Sau khi đi thị sát hiện trường,
nghe tỳ-kheo cố cựu giới thiệu chi tiết các tiêu tướng và các
đường ranh bao quanh cương
giới xong,
tất cả tập họp trở lại địa
điểm làm yết-ma
để chính thức tác pháp.
Đây là nói trong trường hợp
phạm vi
đại giới quá rộng lớn. Nếu
phạm vi
cương giới nhỏ hơn, Tăng có
thể ở tại
một chỗ của địa
điểm yết-ma mà vẫn có thể theo
dõi rõ
ràng sự giới thiệu các tiêu tướng của tỳ-kheo cố cựu, thì khỏi
phải
đi thị sát hiện trường và
chính thức
cử hành tác pháp.
ii.
Chính thức tác pháp
Phần này được tiến hành thứ tự theo
ba giai đoạn: tiền phương
tiện, xướng
giới tướng, và bạch nhị yết-ma.
a) Tiền
phương tiện: Tất cả các yết-ma
được chính thức tác pháp với
tiền
phương tiện giống nhau, ngoại trừ điểm
gởi dục. Tất cả các yết-ma kết giới đều
không được phép gởi dục, vì
bản thân
mỗi tỳ-kheo phải tụ chứng kiến các tiêu tướng
để hiểu rõ và sau này khỏi tranh cãi.
Tiền phương
tiện được tiến hành như
sau:
Yết-ma sư
hỏi: Tăng
đã họp chưa?
Duy na đáp: Tăng
đã họp.
Hỏi: Hòa
hiệp không?
Đáp: Hòa hiệp.
Hỏi: Người
chưa thọ cụ túc đã ra
chưa?
Đáp: Đã ra
(hoặc
đáp: Trong
đây không có người chưa thọ cụ
túc)
Hỏi: Tăng nay hòa hiệp
để làm gì?
Đáp: Yết-ma kết… (tên đối
tượng tác pháp).
b) Xướng
giới tướng: Trong phần chuẩn bị tác pháp trên
đã có nói, nếu cương giới rộng
lớn, Tăng
phải thân hành thị sát. Nếu cương giới nhỏ hơn, thì không cần
đi thị sát mà có thể tiến hành
ngay
tiền phương tiện của phần chính thức tác pháp. Sau
đó nghe xướng giới tướng. Khác
với
trường hợp trước, vì đã
đi thị sát hiện trường, nên
khi xướng
giới tướng, thì tỳ-kheo cố cựu đứng
một chỗ trước Tăng mà xướng.
Trái lại,
trong trường hợp sau, Tăng
khỏi phải
đi thị sát, thì tỳ-kheo xướng
giới
tướng tự thân hành đi
đến cạnh các tiêu tướng,
đi đến
đâu thì giới thiệu
đến đó
cho Tăng biết rõ.
Khi xướng
tiêu tướng, phải bắt đầu
từ góc đông nam của cương
giới, nếu
chính diện của già-lam từ trong nhìn ra. Theo thứ tự,
đi từ góc
đông nam sang tây nam, trên đường
ranh này có những đặc
điểm gì, như trồi ra hay sụt
vào,
đều phải nêu rõ, không
được nói mập mờ hay
đại khái. Lần lượt thứ tự như
vậy cho
đến khi trở lại góc
đông nam cũ. Như vậy là xong
một vòng
xướng giới tướng.
c) Bạch
nhị yết-ma: các tác pháp kết giới gồm có một lần tác
bạch và một lần yết-ma. Phần này do chính Thượng tọa làm hay do
một
tỳ-kheo tinh thông luật làm yết-ma cũng được.
Trong các
tác pháp yết-ma kết giới được
nêu dưới đây, phần chuẩn bị
tác pháp
sẽ không cần phải nhắc lại, vì trên đại
thể đều giống nhau; khi hành
sự có thể
tùy theo loại mà châm chước thêm bớt cho phù hợp. Chỉ khi nào cần
thiết
mới sẽ nhắc lại. Trong phần chính thức tác pháp cũng sẽ không nhắc
lại
tiền phương tiện nữa, vì sự vấn đáp
hoàn toàn đồng nhất.
TIẾT 3. CÁC PHÁP YẾT MA KẾT VÀ GIẢI GIỚI
1. VĂN KẾT
ĐẠI GIỚI KHÔNG GIỚI TRƯỜNG
a). Xướng
tiêu tướng
Tỳ-kheo cố cựu của trú xứ được chỉ
định làm người xướng tiêu
tướng, trước
phần tiền phương tiện, (ở mục chuẩn bị tác pháp) bước ra lễ Tăng
một lễ, chấp tay bạch:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Tôi tỳ-kheo (pháp hiệu) sống lâu trú xứ này,
xin vì
Tăng xướng các tiêu tướng bốn
phương
của đại giới.
Từ
góc đông nam lấy (nói tên
vật dùng làm tiêu tướng) làm nêu, đến
góc tây nam, lấy (..) làm nêu, từ đây
đến góc tây bắc, lấy (…) làm
nêu; từ
đây đến
góc đông bắc, lấy (…) làm nêu;
từ
đây trở lại góc
đông nam, lấy (…) làm nêu.
Đến đây
là trọn một vòng gồm các tiêu tướng ngoài của
đại giới.
b). Yết-ma kết giới
Tiếp theo,
Thượng tọa hay một tỳ-kheo thông luật
được chỉ
định làm yết-ma sư, bạch nhị yết-ma:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Tỳ-kheo sống lâu trú xứ này đã
xướng xong các tiêu tướng ở bốn phương trong ngoài của
đại giới. Nếu thời gian thích
hợp
đối với Tăng,
Tăng chấp thuận, nay Tăng
ở trong phạm vi tiêu tướng bốn phương này mà kết
đại giới, cùng sống chung,
cùng thuyết
giới. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe, tỳ-kheo sống lâu trú xứ này đã
xướng xong các tiêu tướng bốn phương của đại
giới. Nay Tăng ở trong phạm vi
các
tiêu tướng bốn phương này mà kết làm đại
giới, cùng sống chung, cùng thuyết giới. Các trưởng lão nào chấp
thuận Tăng
nay trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương này kết làm
đại giới, cùng sống chung,
cùng thuyết
giới, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương này kết làm
đại giới cùng sống chung, cùng
thuyết
giới, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
2. VĂN GIẢI
ĐẠI GIỚI (trước khi giải
gới
trường)
Đánh hiệu kiền chùy tập họp Tăng,
và vấn đáp tiền phương tiện
như kết
đại giới. Tỳ-kheo yết-ma bạch:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, mong Tăng
chấp thuận cho. Nay giải giới trú xứ mà tỳ-kheo
đã cùng sống, cùng thuyết
giới.
Đây là lờ tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nay Tăng giải
giới trú
xứ mà tỳ-kheo đã sống chung,
cùng
thuyết giới này. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng
giải giới trú xứ cùng sống chung cùng thuyết giới này thì im lặng.
Ai
không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận giải giới trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới, vì
đã im lặng. Tôi ghi nhận như
vậy.
3. VĂN KẾT
ĐẠI GIỚI CÓ GIỚI TRƯỜNG (gồm
luôn
cả nhà bếp và nhà kho)
Trong các
nghi yết-ma, văn kết
đại giới có giới trường
được nói riêng; kết nhà bếp và
nhà kho
riêng. Theo thông lệ nước ta, thường mỗi già-lam hay tự viện
đều phải có giới trường luôn
cả nhà
bếp và nhà kho. Do đó, ở
đây kể luôn một mạch tác pháp
theo thứ
tự kết giới trường, rồi đến
nhà bếp và
nhà kho, sau đó
đến đại
giới. Nhưng nếu chùa nào không có nhà bếp và nhà kho thì bỏ hai
mục này.
Nhà bếp trong đây chỉ chung
cho cả
tịnh địa và tịnh trù. Nhà kho
tức tịnh
khố.
i. Kết
giới trường (trước khi kết
đại giới, tịnh
địa, tịnh trù):
a) Xướng
tướng: Toàn thể Tăng
trong tự viện tập họp cả về bên trong địa
phận của giới trường. Không được
gởi
dục. Tăng cố
định ở một chỗ theo dõi
tỳ-kheo xướng
tướng. Tỳ-kheo xướng tướng bắt đầu
đi đến
góc đông nam của giới trường,
hướng về
bên trong, phía Tăng tập họp,
chắp tay
bạch:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Tôi tỳ-kheo…. xin vì Tăng
xướng các tiêu tướng bốn phương của tiểu giới (tức giới
trường) từ
góc đông nam của trú xứ này,
lấy
(nói tên vật dùng làm tiêu tướng) làm nêu từ
đây về hướng tây (nói
đến đây
tỳ-kheo xướng tướng đi
đến góc tây nam,
đứng yên hướng về phía Tăng
chắp tay bạch tiếp) đến góc
tây
nam. lấy … làm nêu; từ đây
đi về hướng bắc (nói
đến đây,
tỳ-kheo xướng tướng đi lần lên
phía
bắc, đến góc tây bắc thì dừng
lại,
đứng yên, hướng về phía Tăng
chắp tay bạch tiếp) đến góc
tây
bắc, lấy …. Làm nêu, từ đây
đi về phía
đông (nói
đến đây,
lại đi lần về phía
đông, đến
góc đông bắc thì dừng lại,
đứng yên, hướng về phía Tăng
chắp tay bạch tiếp) đến góc
tây
bắc, lấy… làm nêu, từ đây
đi về hướng nam (đi
lần về phía nam đến góc
đông nam dừng lại, hướng về Tăng
bạch) trở lại góc đông nam,
lấy…
làm nêu. Đây là xong một vòng
gồm các
tiêu tướng ngoài của tiểu giới.
b) Bạch yết-ma: Thượng tọa
hay vị tỳ-kheo yết-ma bạch:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Tỳ-kheo sống lâu trú xứ này đã
xướng xong các tiêu tướng bốn phương của tiểu giới. Nếu thời gian
thích
hợp đối với Tăng,
Tăng nay chấp thuận trong phạm
vi các
tiêu tướng bốn phương này mà kết làm giới trường.
Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Tỳ-kheo sống lâu trú xứ này đã
xướng các tiêu tướng bốn phương của tiểu giới. Tăng
nay ở trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương này kết làm giới
trường. Các
trưởng lão nào chấp thuận Tăng
nay ở
trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương của tiểu giới này kết làm
giới
trướng thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương này kết làm
giới
trường, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
ii. Kết tịnh trú, tịnh địa
(sau khi kết đại giới)
Theo luật Tứ
phần, "Tịnh địa"
chỉ khu đất
được kết làm chỗ
đun nấu. Nó có thể là khu
đất trống hay một căn
phòng. Còn "tịnh trù" là căn
phòng
để Tăng
cất chứa đồ
ăn. Như vậy, tịnh trù và tịnh
địa khác nhau. Trong Yết-ma
chỉ nam
đồng nhất tịnh trù với tịnh
địa, và dùng tịnh kho
để chỉ chỗ cất chứa
đồ ăn,
là chỗ mà luật Tứ phần gọi là tịnh trù. Tuy nhiên, các Tổ ta xưa
nay hành
trì theo Yết-ma chỉ nam do đó
ở
đây vẫn y theo Yết-ma chỉ
nam.
Phép kết
tịnh trù phải ở cách xa mà kết. Không tập họp Tăng
ở trong phạm vi của giới ấy, như kết các giới khác.
Tỳ-kheo
xướng tướng bạch:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Tôi tỳ-kheo…. Vì Tăng
xướng địa
điểm của tịnh trù. Trong phạm vi của Tăng-già
lam này, lấy (nói địa
điểm, phòng hoặc nhà, và
đưa tay chỉ vọng theo) làm
tịnh
trù.
b) Bạch yết-ma: Thượng tọa
hay tỳ-kheo yết-ma bạch:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, Tăng
nay lấy (địa
điểm) kết làm tịnh trù.
Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nay Tăng lấy (địa
điểm) kết làm tịnh trù. các
trưởng
lão nào chấp thuận rằng Tăng
lấy (địa
điểm) kết làm tịnh trù thì
im lặng.
Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận lấy (địa
điểm) kết làm tịnh trù, vì im
lặng.
Tôi ghi nhận như vậy.
iii. Kết tịnh khố
Về sự phân
biệt tịnh địa, tịnh trù
và tịnh khố, xem lời dẫn của kết tịnh trù trên. Trong văn
yết-ma, tịnh khố sẽ được gọi
là: "tịnh
xứ cất chứa thức ăn". Tập họp Tăng
giống như trên.
Bạch yết-ma:
Đạiđức Tăng,
xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, mong Tăng
chấp thuận rằng Tăng hãy lấy
(phòng, nhà) làm tịnh xứ cất chứa thức ăn.
Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nay Tăng lấy
(phòng, nhà) làm tịnh xứ cất chứa thức ăn.
Các trưởng lão nào chấp thuận rằng Tăng
nay lấy (phòng, nhà) làm tịnh xá cất chứa thức
ăn thì im lặng. Ai không chấp
thuận
hãy nói .
Tăng đã
chấp thuận lấy (phòng, nhà) làm tịnh xứ cất chứa thức
ăn, vì im lặng. Tôi ghi nhận
như vậy.
iv. Kết khố tàng
Khố tàng tức
nhà kho để cất chứa
các thứ y, bát dư của Tăng,
chưa phân
phối kịp. Tập họp Tăng như
trên.
a) Xướng tướng
Đại đức Tăng
xin lắng nghe. Tôi tỳ-kheo… vì Tăng
xướng chỗ dùng làm khố tàng (hay nói: nhà kho) trong Tăng-già
lam này, lấy (phòng…) làm nhà khố tàng (hay nhà kho).
b)
Bạch yết-ma
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, Tăng
nay lấy (…) kết làm khố tàng (hay nhà kho).
Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Tăng nay lấy
(…) kết
làm khố tàng (nhà kho). Các trưởng lão chấp thuận rằng Tăng
lấy (…) khố tàng (hay nhà kho) thì im lặng. Ai không chấp
thuận hãy
nói.
Tăng đã
chấp thuận lấy (…) làm khố tàng (hay nhà kho) vì im lặng.
Tôi ghi
nhận như vậy.
v. Kết đại giới (sau
khi đã kết giới trường)
Trong các
nghi yết-ma, khi kết đại
giới có giới trường, thì kết giới trường và kế
đến kết
đại giới. Vì giới trường nằm trong phạm vi
đại giới. Nếu tự viện nào
không cần có
tịnh trù, tịnh khố và kh61 tàng các thứ, thì sau khi kết giới
trường, tiếp
đến kết
đại giới tiến hành như sau:
Tập họp Tăng ở bên trong
địa phận của
đại giới. Không
được tập họp trong
địa phận của giới trường, hay
trên khu
đất bao quanh giới trường,
phần trung
gian các giới trường và đại
giới.
a) Xướng tướng
Xướng một lần cả tướng trong và
tướng ngoài của
đại giới, theo thứ tự, các
tiêu tướng
bên trong được giới thiêu
trước.
Tỳ-kheo cố
cựu xướng:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Tôi tỳ-kheo… sống lâu trú xứ này, xin vì Tăng
xướnng bên trong và ngoài bìa của đại
giới. trước xin xướng giới tướng bên trong. Từ góc
đông nam cách
đường ranh của giới trường
(nói rõ
khoảng cách, lấy vật gì làm nêu) làm nêu. Từ
đây đi
về hướng tây đến góc tây nam,
lấy
(…) làm nêu. Từ đây
đi về hướng bắc
đến góc tây bắc, lấy (…) làm
nêu. Từ đây
đi về hướng
đông đến
góc đông bắc, lấy (…) làm
nêu.
Từ đây đi
về hướng nam trở lại góc đông
nam. lấy
(…) làm nêu. Tiếp theo, xin xướng giới tướng bên ngoài bìa
của trú
xứ này, góc đông nam lấy (…)
làm nêu. Tứ đây
đi về hướng tây,
đến góc tây nam, lấy (…) làm
nêu. Từ đây
đi về hướng bắc,
đến hướng
đông bắc, lấy (…) làm nêu. Từ
đây đi về hướng nam trở
lại góc
đông nam, lấy (…) làm
nêu trên
kia là giới tướng bên trong. Đây
là
giới tướng bên ngoài. Đây là
trong một
vòng các đường ranh bên trong
và bên
ngoài của đại giới.
b)
Bạch yết-ma:
Bạch yết-ma như kết đại giới, xem
đoạn trên, Chương hai, Tiết
ba, số 2
nhỏ.
vi. Văn giải giới trường (sau khi
đã giải
đại giới)
Tập họp Tăng, vấn
đáp như các loại yết-ma.
Bạch yết-ma
giải:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Đây là giới
trường của
tỳ-kheo sống chung ở đây. Nếu
thời
gian thích hợp đối với Tăng,
Tăng nay chấp thuận giải giới
trưòng.
Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Đây là giới
trường của
tỳ-kheo sống chung ở đây. Tăng
nay giải giới trường này. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng
nay giải giới trường này, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy
nói.
Tăng đã
chấp thuận giải giới trưòng này, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
vi. Giải tịnh trù, tịnh khố,
khố tàng (trước khi giải
giới trường)
Văn giải giống nhau, chỉ
đổi các từ cho phù hợp
đối tượng
được giải giới. Dưới đây
chỉ
đề cập văn
giải tịnh trù. Tập họp Tăng,
vấn
đáp như thường lệ.
Bạch yết-ma:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, Tăng
nay giải tịnh trù (địa
điểm).
Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Tăng nay giải
tịnh trù
(địa
điểm)Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng
giải tịnh trù ở (địa
điểm) thì im lặng. Ai không
chấp
thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận giải tịnh trù (địa
điểm), vì im lặng. Tôi ghi
nhận như
vậy.
(Dứt phép giải tịnh trù)
4. GIỚI
KHÔNG MẤT Y
i. Sau
khi kết đại giới
Kết giới
không mất y để tỳ-kheo
khỏi phạm xả đọa trong trường
hợp phải
lìa y ngủ một đêm.
Có hai
trường hợp:
Trường hợp thứ nhất:
Phạm vi bao trùm trong một trú xứ cùng sống
cùng thuyết giới.
Trường hợp thứ hai:
Thông hai trú xứ. sẽ nói ở số VII sau.
Đây là trường hợp thứ nhất:
Tập họp Tăng và vấn
đáp như thông lệ.
Bạch yết-ma:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Đây là trú xứ
cùng sống
cùng thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, Tăng
chấp thuận,Tăng nay ở trong
phạm vi
trú xứ này, trừ xóm và phần quanh xóm, kết giới không mất y.
Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Tăng nay trong
phạm vi
của trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới này, trừ xóm và phần quanh
xóm, kết
giới không mất y. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng
nay trong phạm vi của trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới này, trừ
xóm và
phần quanh xóm, kết giới không mất y thì im lặng. Ai không chấp
chuận hãy
nói.
Tăng đã
chấp thuận trong phạm vi của trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới
này, trừ
xóm và phần quanh xóm, kết giới không mất y, vì im lặng. Tôi ghi
nhận như
vậy.
ii.
Thông hai trú xứ (Đại
giới)
Tập họp và
vấn đáp theo thông lệ.
Bạch yết-ma:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nay từ (nói tên trú xứ đến
trú xứ). Trừ tụ lạc và cương giới tụ lạc ra, kết làm giới ngủ
đêm không lìa y. Nếu thời gian
thích
hợp đối với Tăng,
Tăng chấp thuận, Tăng
nay ở trong phạm vi ấy kết làm giới ngủ đêm
không lìa y. đây là lời tác
bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nay từ (nói tên trú xứ đến
trú xứ) trừ tụ lạc và cương giới tụ lạc, kết làm giới ngủ
đêm không lìa y. Tăng
nay ở trong phạm vi ấy kết làm giới ngủ đêm
không lìa y. Các trưởng lão nào chấp thuận, Tăng
nay từ (…) đến (…)
trừ
tụ lạc và cương giới tụ lạc, kết làm giới ngủ
đêm không lìa y, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận từ (…) trừ tụ lạc và cương giới tụ lạc, kết làm
giới ngủ
đêm không lìa y, vì im lặng.
Tôi ghi
nhận như vậy.
iii. Giải giới không mất
y (trước khi giải
đại giới)
Tập họp Tăng, vấn
đáp như thông lệ của yết-ma.
Bạch yết-ma:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Đây là trú xứ
cùng
sống, cùng thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp
đối với Tăng,
Tăng chấp thuận, nay giai giới
không
mất y. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe, đây là trú xứ
cùng
sống, cùng thuyết giới, nay giải giới không mất y. Các trưởng lão
nào chấp
thuận, trong trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới này, nay giải giới
không
mất y, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận trong trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới, nay giải giới
không
mất y, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
5. KẾT
TIỂU GIỚI
i. Kết
tiểu giới thuyết giới (trường hợp bất thường)
Họp Tăng vấn
đáp theo thông lệ.
Bạch yết-ma
(không có xướng giới tướng):
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, Tăng
chấp thuận, Tăng nay trong
phạm vi có
bấy nhiêu tỳ-kheo đang tập họp
ở
đây kết làm tiểu giới.
Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nay trong phạm vi có bấy nhiêu tỳ-kheo
đang tập họp ở
đây kết làm tiễu giới. Các
trưởng lão
nào chấp thuận rằng, nay trong phạm vi có bấy nhiêu tỳ-kheo
đang tập họp kết làm tiểu
giới, thì im
lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận trong phạm vi có bấy nhiêu tỳ-kheo
đang tập họp kết làm tiểu giới, vì im lặng. Tôi ghi nhận
như vậy.
ii.
Giải tiểu giới thuyết giới.
Sau khi
thuyết giới xong, phải giải giới trước khi
đi. Vấn
đáp như thông lệ.
Bạch yết-ma:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Đây là phạm vi
có bấy
nhiêu tỳ-kheo đang tập họp.
Nếu thời
gian thích hợp đối với Tăng,
Tăng chấp thuận, nay giải tiểu
giới.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Đây là phạm vi
có bấy
nhiêy tỳ-kheo đang tập họp.
Nay giải
tiểu giới nơi này. Các trưởng lão nào chấp thuận nay Tăng
giải tiểu giới nơi này thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận giải tiểu giới nơi này, vì im lặng. Tôi ghi nhận như
vậy.
iii.
Kết tiểu giới thọ giới (trường hợp bất thường)
Họp Tăng vấn
đáp như thường lệ.
Bạch yết-ma:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, Tăng
chấp thuận nay trong phạm vi các tỳ-kheo đang
tập họp này kết làm tiểu giới. Đây
là
lời tác bạcg.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nay trong phạm vi các tỳ-kheo
đang tập họp này kết làm tiểu giới. Các trưởng lão nào chấp
thuận,
Tăng nay trong phạm vi các
tỳ-kheo
đang tập họp này kết làm tiểu
giới,
thì im lăng. Ai không chấp
thuận hãy
nói.
Tăng đã
chấp thuận ờ đây kết tiểu
giới, vì im
lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
iv.
Giải tiểu giới thọ giới
Vấn đáp như thông thường.
Bạch yết-ma:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, Tăng
chấp thuận, Tăng nay trong
phạm vi các
tỳ-kheo đang tập họp này giải
tiểu
giới. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Tăng nay trong
phạm vi
các tỳ-kheo đang tập họp này
giải tiểu
giới, các trưởng lão nào chấp thuận nay trong phạm vi các tỳ-kheo
đang tập họp này giải tiểu
giới, thì
im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận giải tiểu giới, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
v. Kết
tiểu giới tự tứ (trường hợp bất thường)
Vấn đáp như thông lệ.
Bạch yết-ma:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, Tăng
chấp thuận, trong phạm vi vừa đủ
các
tỳ-kheo ngồi trong này, kết tiểu giới. Đây
là lời tác bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe, Tăng nay trong
phạm vi
các tỳ-kheo ngồi vừa đủ này,
kết tiểu
giới. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng
nay trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi đủ
này, kết tiểu giới, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi vừa
đủ này kết tiểu giới, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
vi.
Giải tiểu giới tự tứ
Vấn đáp như thông lệ.
Bạch yết-ma:
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, Tăng
nay trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi vừa đủ
này giải tiểu giới. Đây là lời
tác
bạch.
Đại đức Tăng,
xin lắng nghe. Trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi vừa
đủ này giải tiểu giới. Các
trưởng lão
nào chấp thuận nay trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi vừa
đủ nà, giải tiểu giới, thì im
lặng. Ai
không chấp thuận hãy nói.
Tăng đã
chấp thuận trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi vừa
đủ này giải tiểu giới, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.
Chú thích:
[1] Tứ phần hành sự sao tư trì
ký I. Đại 40, tr. 202b6: «Theo
Minh liễu luận sớ giải, vốn âm là tứ-ma; đây (Trung quốc)
nói là
biệt trú. Nghĩa là, tác pháp ở trú xứ này cùng với các trú xứ khác
không
tương thông.» Hán: giới. Skt. sīman; Pl. sīmā, Cf.
Mahāvagga II,
Vn. i. tr. 105.
[2] Tứ
phần luật 36, «Thuyết giới kiền độ» (Đại 22 tr. 819b2):
Phật tại Vương xá.. Các tỳ-kheo từ các địa phương hay rằng đức
phật cho
phép thuyết giới, tất cả cùng tụ tập về Vương xá. Đường xa, tụ tập
rất mệt
nhọc. Do đó, Phật cho phép tỳ-kheo tại địa phương nào thì thuyết
giới tại
đó. Tứ phần luật hành sự sao tư trì kỷ I (Đại 40, tr,
203a13): 8
năm sau ngày thành đạo Phật chế yết-ma thọ cụ túc; 12 năm sau ngày
thành
đạo Phật khiến các tỳ-kheo thuyết giới, và do đây lần đầu tiên ấn
định
việc kết giới. Tham chiếu Pali, Mahāvagga, Vn. i. tr. 106:
...bhikkūnaṃ
etad ahosi, «Bhagavatā paññattaṃ ettāvatā samaggī yāvatā
ekāvāso’ti,
kittāvatā nu kho ekāvāso hoti.» Bhagavato etamatthaṃ ārocetuṃ:
«anujānāmi
bhikkhave sīmaṃ sammannituṃ.»
[3] Yết-ma
chỉ nam 1 dẫn Ma ha Tăng kỳ luật: nếu không
phải là địa điểm để được yết-ma, không được phép nhận gởi dục,
hành các
Tăng sự.
[4] Hán: tự
nhiên giới . Cf. Tứ phần hành sự sao I, Đại 40, tr.
14b2. Pali: asammata-sīmā.
[5] Hán: tác
pháp giới . Cf. Tứ phần hành sự sao I, Đại 40, tr.
14b6. Pali: sammata-sīmā.
[6] Pali,
gāmasīma; Cf. Mahāvagga II, vn. i. tr. 110: asammatāya
bhkkhave sīmāya aṭṭhapitāya, yaṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā upanissāya
viharati,
yā tassa vā gāmassa gāmasīmā nigamassa vā nigamasīmā, yaṃ tattha
samānasaṃvāsā ekuposathā, «Khi một cương giới chưa đươc thỏa
thuận, chưa
được ân định, thì bất cứ một tụ lạc, một thị trấn mà tỳ-kheo nương
vào đó;
tụ lac ấy là cương giới tụ lạc, thị trấn ấy là cương giới thị
trấn. Trong
phạm vi đó là đồng nhất trú xứ, đồng nhất thuyết giới.»
[7] Ma ha Tăng kỳ luật 8
(Đại 22, tr. 298b13): «Ưu Ba Ly hỏi
Phật, ở những nơi mà giới hạn của thành ấp, tụ lạc không thể phân
biệt,
thì trong khoảng phạm vi nào có thể tác yết-ma, khiến các nhóm
Tăng khác
trông thấy nhau nhưng yết-ma vẫn thành tựu mà không phạm lỗi biệt
chúng?
Phật nói: 5 khuỷu là 1 cung, 7 cung là khoảng cách để trồng 1 cây
xoài,
trong phạm vi 7 cây xoài có thể tác yết-ma.» Hành sự sao I
(Đại 40,
tr. 7a19), trong phạm vi 7 cây tức có 6 khoảng = 21 khuỷu (= 63
bộ). Cf.
Pali, Mahāvagga II, Vn.i. tr.111: agāmake ce...araññe
samantā
sattabbhantarā ayaṃ tattha samānasaṃvāsā ekuposathā, «Nếu tỳ-kheo
sống ở
nơi không phải lá tụ lạc, rừng vắng, thì trong phạm vi bảy
abbhantara là
gới hạn đồng nhất trú xứ, đồng nhất thuyết giới.» Giải thich của
Mahāvagga-ṭṭhakathā (Vn.5.v. tr. 1050): tattha ekaṃ
abbhantaraṃ
aṭṭhavīsatihatthappamāsaṃ hoti, ở đây, 1 abbhantara bằng 28
hattha
(tay). 1 hattha Pāli tức 1 hasta Skt. = 24 aṅgula.
[8] Skt.
aranya (Pal. arañña); Hán: a-lan-nhã. nhàn tĩnh xứ
, vô sự xứ , không nhàn . Cf. Ma-đắc-lặc-già 3
(Đại 23, tr. 580b3): «Giới a-lan-nhã, trong phạm vi 1 câu-lô-xá.» Hành
sự sao I (Đại 40, tr. 7a23: «Về giới a-lan-nhã, các bộ không
nhất
định. Phần lớn tính là 1 câu-lô-xá.» Xem cht. 8 dưới. Thiện
kiến luật
17 (Đại 24, tr.794b9) : «Giới a-bàn-đà-la (Pl.
abbhantara) tức
là giới a-lan-nhã.» Theo đó (tr. 793b4), giới a-lan-nhã, cực nhỏ,
vuông
vức bảy a-bàn-đà-la (Pali: abbhantara). 1 a-bàn-đà-la = 28 khủyu.;
xem
cht. 6 trên.
[9] Hán:
câu-lô-xá; Skt. krośa. Có hai cách tính một câu lô xá: bắng
4000 khuỷu tức khoảng 1800m, hoặc bằng 8000 khuỷu tức khoảng
3600m. Đây
nói theo cách tính thứ nhất.
[10] Bàn-đà;
Skt. abhyantara (Pali: abbhantara): nội bộ, trung gian..
Xem cht. 6 trên.
[11] Hành
sự sao I (Đại 40, tr. 7a19), dẫn Tát-bà-đa: «Tỳ kheo
khi du hanh, tùy chõ trú xư, trong phạm vi một câu-lô-xá là giới
(đạo
hành).» Dẫn thêm Thập tụng: «600 bộ làm một câu-lô-xá.»
[12] Pali:
udakukkepa-sīmā; Thiện kiến luật 17 (Đại 24,
tr.794b10), trịch thủy giới Cf. Pali, Mahāvagga II, Vn.i. 111:
nadiyā vā
bhikkhave samudde vā jātassare vā yaṃ majjhimassa purisassa
samantā
udakukkhepā, ayaṃ tattha samānasaṃvāsā ekuposathā ti, «Nơi nào có
sông,
biển hay ao hồ, trong phạm vi mà mọtt người trung bình hất nước
đến; đó là
cương giới đồng nhất trú trú xư, đồng nhất thuyết giới.»
[13] Hán:
tác pháp giới ; Pali: sammantā sīmā.
[14] Hán:
đồng nhất trú xứ ; Pali: samānasaṃvāsa.
[15] Hán:
đồng nhất thuyết giới ; Pali: ekuposathā.
[16] 18000m
hoặc 36000m tùy theo cách tính. Xem chú thích 9. Cf.
Thập tụng luât 22, Đại 23, tr. 158b7. Cf. Tăng-kỳ luật 8
(Đại
22, tr. 295c13), Ngù phần luât 18 (Đại 22, tr. 124a3) , Thiện
kiến luật 17 (Đại 24, tr. 793a28), rộng nhât, không quá 3 do
tuần.
Pali, Mahāvagga II, CVn.i.tr.106: tiyojanaparamaṃ sīmaṃ
sammannitun ti,
kết giới lớn nhất là ba yojana. Skt.= Pl.: yojana, Hán: do-tuần ,
do-diên
, dũ-thiện-na . Co nhiều cach tính; hoặc bằng 4 câu-lô-xá, hoặc
bàng 8.
Huyền Trang, Tây vực ky 2¨Du-thiện-na, đoạn đường 1 ngày hành quân
của
Thánh vươngh xưa, khoản 40 dặm. Theo tục Ân đọ, 30 dặm. 1
câu-lô-xá, gần
băng 1 dặm Anh.
[17] Tát-bà-đa
Tì-ni Tì-bà-sa 4 (Đại 23, tr. 529b2): «Ni kết đại
giới, rộng nhât là 1 câu-lô-xá.»
[18] Thiện
kiến luật 17 (Đại 24, tr. 793b3): «Nơi nào tỳ-kheo đã
kết giới, nơi ấy đố với tỳ-kheo-ni là phi giới. Tỳ-kheo có thể kết
giới
chồng lên giới của tỳ-kheo-ni mà giới của tỳ-kheo-ni không mất.»
[19] Ngũ
phần luật 18 (Đại 22, tr. 23c2); bố-tát đường; Tứ phần
luât 35 (Đại 22, tr. 818c2): thuyết giới đường . Mahāvagga II, Vn.
i. tr.
106, uposathāgāra.
[20] Tứ
phần luật 35 (đại 22, tr. 818b23): Các tỳ-kheo hay rằng
Phật dạy phải cùng thuyết giới tại một địa điểm, nhưng vì chưa có
địa điểm
cố định, mỗi người đợi mỗi nơi, khiến việc tập Tăng rất mệt nhọc.
Do đó
Phật dạy ấn định giới trường.
[21] Thiện
kiến luật 17 (Đại 24, tr. 793a17)
[22] Thân
thủ tương cập: Đây là cách nhóm hợp các tỳ-kheo tại
tiểu giới hay giới trường khi Tăng tác yết-ma, trái với cách này,
phạm lỗi
biệt chúng.
[23] Tứ
phần luật 35 (Đại 22, tr. 820a26). Cf. Ngũ phần luật
(Đại 22, tr. 124a8): cộng bố-tát cộng đắc thí. Thiện kiến luật
24
(Đại 24, tr.794b4): la-bà-giới. Pali, Mahāvagga-Aṭṭhakathā, v.
1136:
lābhasīmā.
[24] Có ba
cách tính về một do tuần: hoặc bằng khoảng 4 dặm Anh tức
khoảng 6500m, hoặc khoảng 5 dặm Anh tức khoảng 8000m, hoặc khoảng 9
dặm
Anh tức khoảng 14500m. Đây tính theo cách thứ nhất.
[25] Tứ
phần hành sự sao I, Đại 40, tr. 14b12.
[26] Ngũ
phần luật 18, Đại 22, tr. 124a27; Tứ phần luật
35, Đại 22, tr. 819c25.: bất thất y giới; Pali: avippavāsasīmā,
Mahāvagga
, n.i. tr.106.
[27] Ngũ
phần luât 4, Địa 22,tr.23c10, xả đọa, điều 2. Tứ
phần luật 6, Đại 22, tr. 603a1: ni-tát-kỳ điều 2. Thập tụng
luật
5, Đại 23, tr. 31b10: ni-tát-kỳ điều 2. Pali, Pārājika,
Vn.iii.tr.197
ticīvarena vippavaseyya ... nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
[28] Tứ
phần luật 35, Đại 22, tr. 820a6. Tì-ni tì-bà-sa
4, Đại 23, tr. 529b28.
[29] Tứ
phần luật 43, «Dược kiền độ» Đại 22, tr. 874.c. Thiện
kiến luật 27, Đại 24, tr. 975b5: tịnh ốc. Cf. Mahāvagga III,
Vn. i.
tr. 138: kappiyakuṭi.
[30] Ngũ
phần luật 22, Đại 22, tr. 150a6. Tứ phần luật
43, Đại 22, tr. 876a10: tịnh địa. Cf. Mahāvagga vi. Vn. i. tr.
237:
kappiyabhūmi.
[31] Tứ
phần luật 43, Đại 22, tr. 874c15. Mahāvagga VI, Vn.1.
240: catasso kappiyabhūmiyo - ussavānantikaṃ gonisādikaṃ gahapatiṃ
samumtiṃ. Bản dịch Anh Book of the Dícipline iv. tr.328),
chỉ có 3,
trừ sammutiṃ mà Hán dịch la Tăng yết-ma.
[32] Tứ
phần luật 6, Đại 22, tr. 604a21: bát thọ trung gian, và
giải thích, một trung gian, tức khoảng cách gữa 2 cây, là 7 cung.
Theo
cung pháp của nước Già-ma-lê, 1 cung = 7 khủyu. 1 khủyu (nhất
chẩu). Skt.
1 hasta = 24 aṅgula = 18 inches, tức khoảng 44cm10. Như vậy,
khoảng cách
được coi là lìa y để mất y là 21, 61 m. Ngũ phần luật 4,
Đại 22,
tr. 24b11, nếu ngồi kết già một chỗ, khoảng cách để mất y là cách
mặt
ngoài 7 thước; nếu đang đi đương, cách thân minh ngoài 7 cung.
-ooOoo-