Luận tạng Nam truyền
Yết ma yếu chỉ.
Hòa thượng Thích Trí Thủ.
26/07/2554 23:51 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng
Yết ma yếu chỉ.
Mục lục

CHƯƠNG HAI

CƯƠNG GIỚI

TIẾT 1. Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CƯƠNG GIỚI

1. Ý NGHĨA CỦA CƯƠNG GIỚI

Tiếng Phạn nói là sīma [1], có nghĩa là biên giới, biên thùy hay đường ranh phân chia hai khu vực khác nhau, như đường ranh phân chia giới hạn lãnh thổ của hai nước ở sát nhau chẳng hạn. Trong Hán văn, nó thường được nói gọn là giới. Ở đây chúng ta dùng từ cương giới, trong ý nghĩa thường dùng là giới hạn của lãnh thổ, hay biên cương, để chỉ khu vực hay môi trường sống chung hòa hiệp và các sinh hoạt tập thể của Tăng-già, được qui định bởi các đường ranh bao quanh theo sự chấp thuận tuyệt đối của Tăng đoàn qua những thủ tục yết-ma.

Những tỳ-kheo được sống trong khu vực giới hạn bởi các đường ranh này tạo thành một cộng đồng Tăng lữ riêng biệt; họ phải chấp hành các nghĩa vụ và thọ hưởng các quyền lợi liên hệ đến cộng đồng mà mình đang sống. Tỳ-kheo nào không tuân theo các qui tắc sống chung hòa hiệp và sinh hoạt tập thể trong cương giới ấy được gọi là người biệt chúng, phải được xử lý theo những điều khoản mà luật đã ấn định. Các tỳ-kheo sống ngoài cương giới này, không thuộc thẩm quyền xử lý của những tỳ-kheo sống trong cương giới; họ cũng không có thẩm quyền can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của cộng đồng sống trong cương giới này.

Trong thời kỳ đầu tiên của Tăng đoàn, đức Thích Tôn không qui định cương giới của cộng đồng Tăng lữ. Tất cả các tỳ-kheo đệ tử đức Thích Tôn dù sống rải rác hay sống từng nhóm nhỏ trên nhiều lãnh địa khác nhau cũng đều thuộc về một cộng đồng duy nhất mà đức Thích Tôn là trung tâm, do đó mọi vấn đề xảy ra liên hệ đến một cá nhân tỳ-kheo hay một tập thể tỳ-kheo đều được chính Ngài trực tiếp giải quyết và xử trị. Về sau, do sự gia tăng số lượng tỳ-kheo, cộng đồng Tăng lữ trở thành rộng lớn, việc giải quyết trực tiếp như thế trở thành khó khăn do vấn đề di chuyển, nên đức Thích Tôn cho phép tỳ-kheo ở địa phương nào thì tùy theo hoàn cảnh thích hợp mà thuộc về cộng đồng của địa phương đó với một cương giới đươc đồng ý ấn định rõ ràng bởi các đường ranh [2]. Như thế, từ một cộng đồng Tăng lữ có tính cách tập trung rộng lớn được chia nhỏ thành nhiều cộng đồng địa phương khác nhau. Hệ thống tổ chức Tăng đoàn của đức Phật dựa trên nguyên tắc dân chủ không tập quyền, do đó các Tăng đoàn địa phương sống và sinh hoạt như những cộng đồng tự trị, không bị chi phối bởi một cộng đồng trung ương tối cao nào cả. Tuy nhiên, đời sống của một tỳ-kheo là đời sống không gia đình, đi hay ở đâu tùy sở thích, tùy nhu cầu hành đạo và hóa đạo riêng biệt của mình, chứ không bị buộc chặt vào bất cứ một cộng đồng nào, vì vậy một tỳ-kheo trong giờ trước đang ở tại cương giới này thì thuộc về cộng đồng Tăng lữ này nhưng trong giờ sau vị ấy bước qua cương giới khác thì đã là thành viên của cộng đồng Tăng lữ đó và phải chấp hành các nghĩa vụ cũng như hưởng thọ các quyền lợi ở cộng đồng đó. Do tính cách di động này mà mặc dù Tăng đoàn được chia nhỏ thành nhiều cộng đồng địa phương khác nhau với những sinh hoạt tự trị khác nhau không có trung ương chi phối, nhưng tất ca đều sinh hoạt nhịp nhàng theo những qui tắc chung, khiến một tỳ-kheo từ nơi này sang nơi kia không bị bối rối và sinh hoạt thường nhật của một người xuất gia không hề bị gián đoạn. Tất cả các cộng đồng địa phương như vậy trong vô hình tạo thành một cộng đồng thống nhất, đó là cộng đồng đệ tử xuất gia của Phật.

2. HIỆU LỰC CHI PHỐI CỦA CƯƠNG GIỚI

Theo sự ấn định cũa Phật, bất cứ trong trường hợp nào, bất cứ trong khoảng thời gian nào dù chỉ trong chốc lát, hễ nơi nào có bốn tỳ-kheo đang hội đủ tư cách tỳ-kheo tụ tập lại đều trở thành Tăng, tức một tập thể nhỏ nhất. Nếu có việc gì xảy ra chung cho cả bốn vị ấy, cần được giải quyết chung, thì ngay tại chỗ ấy các đường ranh cần phải được ấn định, nghĩa là phải tác pháp kiết giới. Sau khi các đường ranh đã đước ấn định, bên trong phạm vi của các đường ranh đó họ trở thành một cộng đồng tạm thời, có tính cách tự trị riêng biệt. Giả sử lúc bấy giờ có một tỳ-kheo thứ năm đứng gần đó, nhưng toàn thân của ông này hoàn toán ở ngoài các đường ranh đã được ấn định, thì vị này không được kể là một thành viên của cộng đồng ở bên trong cương giới và không có thẩm quyền can thiệp vào các công việc đang tiến hành của bốn tỳ-kheo kia.

Sự ấn định cương giới bởi các đường ranh như vậy là một hành vi tiên quyết, cần phải được tiến hành trước nhất trong tất cả mọi sinh hoạt tập thể của Tăng [3]. Nó là cơ sở hiện thực để phán đoán có hay không có sự chia rẽ xảy ra giữa Tăng. Khi một sinh hoạt tập thể của Tăng, như thuyết giới chẳng hạn, được tham dự đầy đủ với tất cả các tỳ-kheo đang sống chung trong một cương giới, thì sinh hoạt ấy được coi là hòa hiệp. Trái lại, nếu có một tỳ-kheo đang có đủ tư cách tham dự mà không tham dự cũng không gởi dục, sinh hoạt của Tăng bấy giờ phải được coi là đang bị chia rẽ, hay ít nhất đang có dấu hiệu chia rẽ mà công việc làm kia bất thành và nếu làm là có lỗi. Do vậy, sự ấn định cương giới có mục đích bảo đảm sự đoàn kết của Tăng trong từng cộng đồng địa phương; nó buộc ràng đời sống của một tỳ-kheo vào cộng đồng mà mình đang sống chung, dù chỉ trong khoảng thời gian ngắn.

Sự tồn tại của Tăng đoàn chỉ có ý nghĩa chừng nào các thành viên của nó đều sống và sinh hoạt trong một tinh thần hòa hiệp nhất trí, đúng theo luật pháp. Cho nên việc ấn định cương giới để bảo đảm sự hòa hiệp nhất trí ấy phải được coi là công việc quan trọng hàng đầu của Tăng. Không thể có bất cứ sinh hoạt tập thể nào của Tăng được phép tiến hành ở những nơi nào mà cương giới không được ấn định. Nói cách khác theo ngôn ngữ của luật tạng Hán văn, tất cả mọi pháp yết-ma của Tăng không được phép cử hành ở những nơi chưa được kết giới.

TIẾT 2. BẢN CHẤT CỦA CƯƠNG GIỚI

Như đã định nghĩa ở trên, cương giới là một khoảng đất lớn hay nhỏ tùy trường hợp, được bao quanh bởi các đường ranh mà tiếng Phạn gọi là sīma. Theo định nghĩa ấy thì bản chất của cương giới là vùng đất mà con người có thể sống sinh hoạt trên đó.

Cương giới được phân biệt thành hai loại khác nhau, là cương giới tự nhiên [4] và cương giới ấn định [5]. Tất cả mọi Tăng sự nghĩa là tất cả mọi thứ yết-ma, đều được cử hành trong phạm vi của hai cương giới đó. Nếu tại trú xứ, tức tại các chùa, các Tăng-già lam, thì Tăng sự phải được thực hiện trong phạm vi của cương giới ấn định tức tác pháp giới. Trong trường hợp xuất hành, nghĩa là một nhóm tỳ-kheo với số lượng tối thiểu từ 4 người trở lên đang đi chung với nhau, giữa đường có sự việc xảy ra cần phải được giải quyết tập thể, thì Tăng sự có thể được thực hiện trong phạm vi của cương giới tự nhiên.

1. CƯƠNG GIỚI TỰ NHIÊN

Cương giới tự nhiên hay tự nhiên giới, là những vùng đất có đường ranh tự nhiên không do sự ấn định qua thủ tục nghị quyết hay yết-ma. Có bốn loại cương giới tự nhiên:

i. Tụ lạc giới

Tụ lạc [6], chỉ tất cả những nơi có nhà của dân chúng ở, gồm xóm làng, thị trấn v.v.. Cương giới tụ lạc có hai hình thái khác nhau. Thứ nhất, cương giới có đường ranh rõ ràng, khiến có thể phân biệt được phạm vi bên trong và bên ngoài của tụ lạc. Thứ hai, tụ lạc không có đường ranh rõ ràng, tức những nơi mà nhà cửa của dân cư liên tiếp nhau, khiến không thể phân biệt được phạm vi của tụ lạc này chạy dài đến đâu và từ đâu trở đi thì thuộc về phạm vi của tụ lạc khác. Trường hợp này, phạm vi được qui định là rộng 21,5 khuỷu tay [7].

ii. A-lan-nhã giới

A-lan-nhã, tiếng Phạn là aranya, Hán dịch là vô sự xứ hay không nhàn [8], chỉ các khu rừng vắng hay những nơi không có dân cư. Cương giới a-lan-nhã cũng có hai, là nơi nguy hiểm vì có các loại thú dữ, và nơi không nguy hiểm tức không có thú dữ. Tại những nơi a-lan-nhã không nguy hiểm thì cương giới được qui định là rộng một câu-lô-xá [9], ước tính theo khoảng cách mà tiếng kêu có thể nghe được. Trong vòng cương giới tự nhiên được qui định đó phải là không có vị Tăng nào hay chùa nào (chùa có Tăng). Cương giới a-lan-nhã có sự nguy hiểm được qui định trong vòng 7 bàn-đà [10].

iii. Đạo hành giới

Đạo hành, tức là cương giới tự nhiên trong lúc đi đường. Trên con đường dọc ngang 600 bộ có thể làm các yết-ma [11].

iv. Thủy giới

Thủy giới [12], tức cương giới đường thủy, khi đang đi trên thuyền. Phạm vi được ước tính bằng cách cho một người có sức mạnh nhất lấy nước hay cát tung ra 4 phía, tới chỗ nào thì chỗ đó được coi là đường ranh.

Trong các cương giới tự nhiên kể trên, khi hành Tăng sự để giải quyết một vấn đề gì, các tỳ-kheo đồng hành ngồi đối diện nhau. Trong phạm vi cương giới đang hành sự, không được có tỳ-kheo nào khác ở ngoài nhóm không tham gia để khỏi bị coi là có hai nhóm Tăng trong cùng một phạm vi cương giới, thì hành sự của Tăng mới hợp pháp.

Các cương giới tự nhiên như trên được coi là như pháp cho các hành sự của Tăng mà không cần phải kết tiểu giới, nếu toàn thể tỳ-kheo trong nhóm không có sự chia rẽ, nếu có sự chia rẽ, phải kết tiểu giới để hành Tăng sự, phòng sự cản trở của các tỳ-kheo khác.

2. CƯƠNG GIỚI ẤN ĐỊNH

Cương giới ấn định [13], hay nói là tác pháp giới, là cương giới được ấn định bằng thủ tục họp Tăng và các công bố đường ranh với sự chấp thuận tuyệt đối của Tăng. Loại cương giới này thông dụng có hai, là đại giới, tức cương giới lớn như các tự viện, già lam, trú xứ của Tăng; và giới trường tức cương giới nằm trong phạm vi của đại giới, coi như là hội trường để Tăng tập họp biểu quyết những sự việc tập thể, như truyền giới, thuyết giới, tự tứ. Trong trường hợp bất thường nếu không thể tập họp trong trú xứ, vì có thể bị cản trở bởi các tỳ-kheo khác, Tăng có thể kết tiểu giới ở ngoài địa phận đại giới hay trong phạm vi các tự nhiên giới mà phạm vi nhỏ nhất có thể tập họp tối thiểu bốn tỳ-kheo để giải quyết những vấn đề không liên hệ số đông các tỳ-kheo khác. Sau khi sự việc xong, tiểu giới này phải được tuyên bố giải giới. Không được không giải giới mà đi.

i. Đại giới

Bất cứ nơi nào có sự hiện diện của Tăng, nghĩa là có sự sống chung của tối thiểu bốn tỳ-kheo, nơi đó phải ấn định cương giới được bao quanh bằng những đường ranh mà toàn thể Tăng đều tuyệt đối chấp thuận, để tất cả cùng sống chung hòa hiệp, cùng chấp hành các nghĩa vụ và cùng thọ hưởng các quyền lợi theo các nguyên tắc dân chủ và bình đẳng. Nói đơn giản, thì đây là cương giới để các tỳ-kheo cùng sống chung [14] và cùng thuyết giới chung [15].

Phạm vi của đại giới được qui định tối đa, theo Thập tụng luật, là 10 câu lô xá, tức khoảng 18.000m [16] theo cả hai chiều dọc và ngang. Trong phạm vi đó nó bao trùm luôn cả nhả cửa của dân cư. Đó là phạm vi cương giới của Tăng. Về ni, được qui định chỉ trong vòng một câu lô xá tức khoảng 1,8km [17].

Hiệu lực của sự ấn định cương giới không áp dụng chung cả Tăng lẫn ni. Nghĩa là nếu Tăng muốn thiết lập cương giới của mình thì phải tác pháp riêng để ấn định đường ranh. Ni cũng vậy, tác pháp riêng để tự ấn định đường ranh cho mình. Nhưng cương giới của Tăng và ni có thể ấn định chồng lên nhau mà cương giới của mỗi bên vẫn không mất [18].

Như đã nói, vấn đề định cương giới có mục đích tập họp tất cả các tỳ-kheo thành một cộng đồng địa phương, cùng sống chung hòa hiệp và cùng thuyết giới, do đó việc ấn định đường ranh là công việc chủ yếu rất quan trọng. Các đường ranh phải được cụ thể bằng những mốc gọi là tiêu tướng. Vì đại giới là trú xứ mà các tỳ-kheo có thể sống chung trong cùng một thời gian dài, do đó các vật được dùng làm tiêu tướng ấn định đường ranh phải có giá trị lâu bền. Những vật không tồn tại lâu như cây chuối, hay những thứ rỗng ruột như tre, không được phép dùng làm tiêu tướng, vì những thứ đó không thể qui định lằn mức đường ranh một cách bền chắc. Sông hay rạch cũng có thể dùng làm tiêu tướng, nhưng phải là sông hay rạch thường xuyên có nước. Nguyên tắc ấn định đường ranh là lằn mức phải cụ thể và chính xác để bất cứ ai và trong bất cứ thời gian nào cũng có thể nhận ra một cách dễ dàng, không tranh cãi được. Những gì thỏa mãn nguyên tắc này đều có thể dùng làm tiêu tướng. Đó là nguyên tắc để bảo đảm tính hòa hiệp nhất trí của Tăng, không thể bất cứ yếu tố dù nhỏ nhặt đến đâu có thể gây ta tranh luận và dẫn đến tranh chấp bất hòa giữa Tăng.

Đại giới được chia làm hai loại chính: đại giới không có giới trường và đại giới có giới trường. Đại giới không giới trường là trú xứ mà các tỳ-kheo sống nhưng không có những sinh hoạt tập thể định kỳ như thuyết giới, tự tứ. Tức trong trường hợp hai trú xứ Tăng ở gần nhau, mặc dù cương giới riêng biệt, nhưng cả hai bên đều muốn sinh hoạt chung, như thuyết giới chung chẳng hạn, thì chỉ cần một giới trường chung cho cả hai bên là đủ. Ngoài trường hợp ấy ra, bất cứ đại giới nào cũng phải có giới trường bên trong, đây gọi là đại giới có giới trường.

Theo nguyên tắc, hai cương giới không được phép có chung đường ranh cho nên trong trường hợp đại giới có giới trường, mặc dù là giới trường được đặt trong phạm vi của đại giới, nhưng đường ranh của cả hai phải cách nhau tối thiểu 2 khuỷu tay, tức khoảng 1 mét. Như vậy, đại giới không có giới trường chỉ có một lớp đường ranh duy nhất, tức các đường ranh bao quanh bên ngoài (đại giới ngoại tướng). Còn đại giới có giới trường thì có ba lớp đường ranh, một là đường ranh bao quanh bên ngoài vẫn đồng nhất với đại giới không giới trường nêu trên. Hai là đường ranh bên trong của đại giới (đại giới nội tướng), nó cách các ranh của giới trường bằng 2 khuỷu tay; đây là giới tướng bên trong của đại giới. Ba là đường ranh bao quanh giới trường có khi gọi là tiểu giới. Như vậy trong một đại giới có giới trường gồm có ba địa phận riêng biệt. Địa phận đại giới là trú xứ của Tăng. Địa phận trống ở giữa phân cách các đường ranh bên trong của đại giới với các đường ranh bao quanh giới trường, được coi là cương giới tự nhiên và trong cùng là địa phận của giới trường.

Khi ấn định cương giới của đại giới có giới trường các đường ranh của giới trường được công bố trước; kế đó là công bố các đường ranh bên trong của đại giới, và sau hết là công bố các đường ranh ngoài bìa đại giới. Thủ tục tiến hành việc ấn định các đường ranh này sẽ được nói ở đoạn sau tiết 4. Nói tắt là khi kết thì kết giới trường trước rồi mới kết đại giới sau.

Sau khi ấn định đại giới và sống ở đó một thời gian, nếu Tăng thấy ở đây không thuận tiện, cần di chuyển toàn bộ đi nơi khác, thì đại giới và giới trường phải được tuyên bố, đại giới coi như tự động được giải tỏa. Các tịnh nhân, sa-di đều có thể sống chung trong đại giới với tỳ-kheo tuy nghĩa vụ và quyền lợi không đồng, và cũng không được kể là thành viên của cộng đồng sống chung trong trú xứ.

ii. Giới trường

Giới trường [19] là một khu đất nằm trong phạm vi của đại giới, được dùng làm hội trường của Tăng. Nó có thể là khu đất trống, hay bên trên khu đất này có cất nhà. Các đường ranh của giới trường cách quãng các đường ranh bên trong của đại giới độ một mét như đã nói.

Nguyên lai, đến ngày thuyết giới định kỳ, tất cả tỳ-kheo trong cùng trú xứ phải tập họp lại một chỗ để thuyết giới. Nhưng vì nơi thuyết giới không được ấn định cố định, sự tập họp trở thành khó khăn. Do đó Phật khiến các tỳ-kheo kết giới trường làm chỗ cố định để tất cả các tỳ-kheo đều biết chỗ mà tập họp [20]. Mặt khác, ngoài những trường hợp như thuyết giới và tự tứ thì toàn thể tỳ-kheo trong cùng trú xứ phải tập họp một chỗ, song còn có nhiều trường hợp mà sự việc chỉ quan hệ một số tỳ-kheo, như trường hợp truyền giới cụ túc, chỉ cần tập họp 10 tỳ-kheo, hay xuất tội Tăng tàn chỉ cần hóm 20 tỳ-kheo là đủ túc số. Những công việc không định kỳ như vậy lại là việc xảy ra thường xuyên, mà cứ mỗi lần xảy ra đều phải kết giới và giải giới thì rất là phiền phức. Giới trường khi đã được thiết lập dùng làm phòng họp thường xuyên thì Tăng có thể họp bất cứ lúc nào, là để tránh những phiền phức kết và giải nhiều lần như vậy.

Phạm vi giới của giới trường nhỏ nhất phải dung chứa đủ 21 người [21], mà khoảng cách sao cho khi người này duỗi cánh tay ra thì đầu ngón giữa chạm vào thân người kế [22]. Con số 21 là số tỳ-kheo khi làm yết-ma xuất tội Tăng tàn, trong đó gồm 20 tỳ-kheo mà giới thể còn thanh tịnh và một tỳ-kheo phạm giới được Tăng xuất tội.

Trong một đại giới chỉ được phép thiết lập một giới trường mà thôi. Nếu hai trú xứ Tăng với hai đại giới khác nhau nhưng muốn cùng thuyết giới chung thì có thể có chung một giới trường, đặt ở trú xứ nào cũng được.

Giới trường có thể thay đổi địa điểm trong phạm vi của đại giới. Nhưng nếu hủy bỏ giới trường cũ để sang giới trường mới Tăng phải làm pháp yết-ma để giải tỏa giới trường cũ và ấn định lại đường ranh của giới trường mới.

Nếu đại giới và giới trường được Tăng làm yết-ma ấn định các đường ranh chung một lần, thì các đường ranh của giới trường phải được ấn định trước, và khi ấn định Tăng phải ở ngay trong phạm vi của giới trường. Sau đó mới ấn định các đường ranh trong và ngoài bìa của đại giới, và khi làm yết-ma ấn định này thì Tăng phải ở trên đất của đại giới, tức ra ngoài giới trường và ngoài cả phần đất trung gian phân cách đại giới và giới trường.

iii. Tiểu giới

Tiểu giới là cương giới bất thường để Tăng làm các yết-ma bất thường trong trường hợp không thể họp tại giới trường. Khi có sự việc bất thường xảy ra cho một nhóm tỳ-kheo, không liên hệ đến toàn thể tỳ-kheo trong trú xứ, và nhóm tỳ-kheo này cũng không thể tập họp vào giới trường, vì có thể có sự cản trở của các tỳ-kheo khác khi họ đang làm yết-ma nên họ có thể dẫn nhau ra khỏi đại giới và kết tiểu giới để làm yết-ma. Tiểu giới như vậy là một hình thức giới trường di động và lâm thời. Sau khi xong việc, phải tuyên bố giải tỏa mới được đi. Phạm vi của tiểu giới nhỏ nhất là 4 người ngồi thành một đường thẳng, và nếu 5 người trở lên, thì ngồi thành vòng tròn mà phần lưng của họ được coi là đường ranh của cương giới. Sau khi làm yết-ma kết tiểu giới thì các tỳ-kheo này tạo thành một cộng đồng lâm thời riêng biệt mà những tỳ-kheo nào ở ngoài phạm vi ấy không được phép can thiệp vào công việc của họ.

Hoặc trong trường hợp xuất hành mà cósự việc xảy ra như gặp ngày bố-tát thuyết giới, tự tứ hay các trường hợp xử trị khác, vì để tránh sự cản trở của các tỳ-kheo khác ngoài nhóm, nên tỳ-kheo tối thiểu 4 người trở lên có thể làm yết-ma kết tiểu giới trong cương giới tự nhiên. Sau khi công việc xong, trước khi tiếp tục lộ trình, các tỳ-kheo này phải làm yết-ma giải tỏa tiểu giới.

iv. Các cương giới biệt xuất

Các cương giới biệt xuất là những cương giới có thể có chung đường ranh với đại giới, hay ở trong phạm vi của đại giới nhưng hiệu lực không đồng với các đường ranh này, do đó cần làm yết-ma riêng để ấn định.

Các cương giới biệt xuất này gồm pháp lợi nhị đồng, pháp đồng lợi biệt, pháp biệt lợi đồng, giới không lìa y, giới tịnh trù, giới tịnh khố và khố tàng.

a) giới pháp lợi nhị đồng: Trong trường hợp có hai trú xứ của Tăng ở gần nhau, với hai cương giới biệt lập, nhưng cả hai bên đều muốn thống nhất sinh hoạt với nhau tức cùng thuyết giới chung, và cùng thọ hưởng chung các quyền lợi vật chất; nếu bên nào nhận được những lợi dưỡng thì đem chia đều cho cả hai [23] .]

Để tránh sự giao thông khó khăn cho cả hai, để cho sự tập họp chung các tỳ-kheo của cả hai trú xứ vào mỗi khi thuyết giới không gặp trở ngại, khoảng cách giữa hai trú xứ không được quá xa, và không được cách nhau bởi những chướng ngại như sông ngòi. Nếu trên các sông ngòi này có cầu, hay có thuyền bè qua lại thuận tiện thì được. Phạm vi của cả hai trú xứ được kể là phạm vi của cương giới bố-tát. Cương giới này rộng tối đa là ba do tuần, tức khoảng 20km [24] là khoảng cách để một người đi từ đầu này đến đầu kia chỉ trong một ngày. Dụng ý của sự ấn định này là để cho một người ở cách giới trường thuyết giới quá xa có thể lên đường đi bộ về địa điểm thuyết giới trước một ngày cho kịp kỳ bố-tát [25].

Hai trú xứ với hai đại giới riêng biệt, nếu muốn thống nhất thành giới pháp lợi nhị đồng, thì trước hết phải tự làm yết-ma giải đại giới của hai bên; sau đó, toàn thể Tăng của cả hai bên tập họp về một chỗ để làm yết-ma kết đại giới lại để cho Tăng cả hai bên đều biết.

Vì cả hai trú xứ bây giờ có chung một thuyết giới, cho nên trong hai đại giới của hai trú xứ chỉ cần có một giới trường mà thôi, đặt ở bên nào cũng được, tùy theo sự thuận tiện. Bên nào được đặt giới trường thì được xướng giới trước. Xướng các tiêu tướng và làm yết-ma kết giới trường xong rồi, toàn thể Tăng ra khỏi giới trường, đến địa phận của đại giới có giới trường, xướng các tiêu tướng trong của đại giới bên này, kế đó xướng các tiêu tướng ấn định các đường ranh của đại giới bên kia. Trong khi xướng các tiêu tướng của cả hai đại giới, Tăng khỏi phải đi thị sát hiện trường, vì các đường ranh không thay đổi nên tất cả đều đã rõ rồi.

Nói tóm lại, trong giới pháp lợi nhị đồng, Tăng của hai trú xứ vẫn sống trong hai phạm vi đại giới khác nhau, chỉ thống nhất trên mặt sinh hoạt, tức thuyết giới và lợi dưỡng mà thôi. Khi nào sự thống nhất sinh hoạt này không thể duy trì được nữa, thì hai bên hợp lại và tuyên bố giải tán, bên nào trở về vị trí sinh hoạt riêng biệt của bên đó để kiết giới.

b) Pháp đồng lợi biệt: Khác với giới pháp lợi nhị đồng, ở đây chỉ thống nhất hai trú xứ khác nhau về sự thuyết giới chung, còn phần lợi dưỡng thì bên nào thọ hưởng riêng bên đó. Thủ tục hành sự kết giới đại thể giống như thủ tục kết giới pháp lợi nhị đồng, chỉ đổi khác nội dung trong lời xướng và bạch yết-ma mà thôi.

c) Pháp biệt lợi đồng: Hai trú xứ Tăng ở gần nhau, có thể phân chia đồng đều các quyền lợi vật chất cho nhau, nhưng có thể vì lý do bảo trì trú xứ của mình mà không thể tập họp về một chỗ để thuyết giới, thì hai bên có thể họp lại để tuyên bố giới pháp biệt lợi đồng. Thủ tục tiến hành không giống như hai trường hợp trên. Nghĩa là, nếu trước đó hai trú xứ có đại giới riêng và giới trường riêng, thì nay tập họp toàn thể Tăng cả hai bên lại một chỗ, làm yết-ma giải giới; chỉ giải đại giới chứ không giải giới trường. Sau đó kết lại mà không phải xướng giới tướng vì các đường ranh của hai trú xứ vẫn giữ nguyên. Nếu trước đó cả hai trú xứ khác đại giới nhưng đồng thuyết giới và đồng lợi dưỡng, thì cũng hợp toàn thể Tăng của hai bên làm yết-ma giải đại giới, rồi kết lại và cũng không phải xướng tiêu tướng nữa. Sau đó, bên nào chưa có giới trường thì Tăng bên đó về họp lại và làm yết-ma kết giới trường để thuyết giới.

d) Giới không lìa y [26]: Theo tất cả các luật bộ, nếy tỳ-kheo lìa y một đêm, phạm xả đọa, y ấy phải được xả trước Tăng [27]. Tỳ-kheo đi đến đâu, ba y phải được mang theo như chim đủ cả hai cánh. Nhưng vì nhiều trường hợp không thể mang luôn theo bên mình, do đó cần phải ấn định cương giới của y. Nếu tỳ-kheo ở ngoài cương giới của y, qua một đêm, thì khi ánh sáng ban mai bắt đầu xuất hiện, y ấy được coi là mất, phải xả trước Tăng.

Phạm vi cương giới của y đồng nhất với phạm vi của đại giới, nhưng khác với đại giới là trừ xóm tức nhà của cư dân và khu quanh xóm [28]. Khu quanh xóm là vùng đất trống kể từ ranh của nhà dân ở ngoài bìa xóm trải rộng đến lằn mức của hòn đá mà một người trung bình đứng từ ranh của nhà này liệng ra. Mặc dù kể cả xóm và vùng quanh xóm đều có thể nằm trong phạm vi của đại giới, nhưng vì cương giới của y đã trừ chúng ra, cho nên khi tỳ-kheo ở lại một đêm trong nhà dân mà y được để lại nhà khác hay bất cứ chỗ nào khác trong vùng quanh xóm, lúc ánh sáng mai xuất hiện thì y ấy bị coi là mất. Trường hợp trái lại cũng vậy.

Sau khi cương giới của y đã được ấn định, nếu có nhà dân nào nằm trong phạm vi trú xứ được dỡ đi, thì chỗ đất trống mới này được coi là thuộc cương giới của y. Trái lại, trên khu đất trống trước thuộc cương giới của y nhưng sau đó được dân cất nhà, cất chòi, hay che rạp, thì chỗ ấy và khu đất quanh chỗ ấy không được kể là giới của y nữa.

Vì khi làm yết-ma kết giới của y đã ấn định rõ ràng trừ xóm và vùng quanh xóm ra rồi.

Phạm vi cương giới của y cũng có thể trùm cả hai trú xứ của Tăng tức hai đại giới khác nhau, nhưng trong đó vẫn phải trừ xóm và khu quanh xóm ra. Nếu giữa hai đại giới có xóm hay nhà dân thì cũng phải trừ ra vậy. Nếu hai đại giới cách nhau bằng sông hay suối có dòng nước chảy xiết thì không được kết thông làm cương giới của y, vì để tránh trường hợp khi lội qua bị nước cuốn mất y. Nếu ở sông hay suối này mà có cầu hay đò qua lại dễ dàng thì có thể kết thông hai đại giới lại làm cương giới của y.

Cương giới của y phải được kết sau đại giới, vì nó tùy thuộc vào phạm vi của đại giới. Khi muốn giải tỏa, thì phải giải cương giới của y trước rồi mới giải đại giới. Nhưng nếu đã giải đại giới trước thì khỏi phải giải tỏa cương giới của y, vì đại giới đã mất thì giới của y cũng tùy theo đó mà mất luôn.

e) Tịnh trù và tịnh khố: Theo qui chế của Phật, trong địa phận Tăng già-lam không được phép đun nấu. Song do trường hợp một tỳ-kheo bị bệnh tiêu chảy, nhờ người trong thành nấu cháo. Nhưng tối hôm đó có duyên sự cổng thành đóng sớm, không ai vào lấy cháo được nên đêm đó tỳ-kheo ấy mệnh chung. Nhân cớ này Phật cho kết tịnh địa trong địa phận Tăng-già lam để tạm thời được đun nấu. Có thể chọn bất cứ khu đất trống nào hay bất cứ phòng nào kết làm tịnh trù [29].

Mặt khác, khi các tỳ-kheo có đồ ăn hay đồ dùng dư, không có chỗ cất nên để ngoài trời, do đó thường bị người chăn dê hay trộm lấy mất. Phật cho phép chọn một căn phòng kết làm tịnh khố để cất chứa [30].

Lại nữa, trong nhiều trường hợp tín thí cúng dường y bát mà chưa phân chia cho Tăng kịp. Phật cũng cho phép chọn một căn phòng kết làm tịnh khố để chứa.

Mục đích của các sự kết giới này là để ấn định khu đất hay căn phòng nào dùng làm tịnh địa, tịnh trù hay tịnh khố được coi là nằm trong đại giới sống chung của Tăng mặc dù trên thực tế chúng vẫn ở trong đại giới. Nhưng nếu không ấn định như vậy, các tỳ-kheo mang tội đun nấu trong đại giới, chưa đựng đồ ăn cách đêm. Đây là những điều khoản thuộc ba-dật-đề và ni-tát-kỳ ba-dật-đề trong giới bổn của tỳ-kheo.

Có bốn trường hợp coi là tịnh địa [31]. Thứ nhất được coi là thuộc về đàn việt, tức Tăng-già-lam mà tín thí thiết lập để cúng cho Tăng nhưng Tăng chưa chính thức nhận thì nó vẫn được coi là còn thuộc về của tín thí chứ không phải là cương giới của Tăng, do đó dù có đun nấu trong đó vẫn không phạm. Thứ hai, hàng rào Tăng-già-lam không trọn, nghĩa là tường hay rào của già-lam hoặc quá thấp, hoặc chỗ thấp chỗ cao, hoặc hoàn toàn không có, khiến sự ra vào dễ dàng, thì cũng không cần phải kết tịnh địa. Thứ ba, nơi đã qui định trước. Tức là đàn-việt trong khi thiết lập Tăng-già-lam đã qui định một nơi nào đó làm nhà kho hay nhà bếp, thì những chỗ đó cũng không cần phải kiết giới. Thứ tư, tịnh địa do làm yết-ma. Tức trừ ba trường hợp trên, nơi nào Tăng muốn chọn làm tịnh trù, tịnh khố và tịnh địa thì phải yết-ma để kiết giới.

Theo qui chế của Phật thì nếu không phải là trường hợp có tỳ-kheo bệnh hay không phải là những năm đói khiến các tỳ-kheo khống thể khất thực đầy đủ mà phải tự mình đun nấu thì tuyệt đối không được kết tịnh địa để đun nấu trong một giới già-lam. Như vậy, tịnh địa chỉ là phần đất tạm thời được kể không thuộc về địa phận già-lam chứ không phải là thường trực. Nhưng do phong tục và tập quán của nước ta, Tăng gần như hoàn toàn phải tự liệu lý sự ăn uống của mình chứ không thường xuyên nhờ vào khất thực, do đó tịnh địa và tịnh trù gọi chung là nhà bếp, vừa để đun nấu vừa được cất chứa thức ăn, không thể không có. Như vậy, khi một Tăng-già-lam hay tu viện được thiết lập làm trú xứ cho Tăng, công việc đầu tiên của Tăng đương nhiên là phải kết địa giới để ấn định cương giới sống chung, nhưng đồng thời cũng cần phải kết cả tịnh địa, tịnh trù và tịnh khố nữa.

Vì các khu vực này được đặt ra ngoài phạm vi đại giới, cho nên cũng được đặt ra ngoài cương giới của y. Nghĩa là, nếu có tỳ-kheo nào ngủ trong địa phận của đại giới nhưng y được để tại khu kể trên khi ánh sáng mai xuất hiện mà tỳ-kheo ấy còn cách xa y của mình bằng khoảng cách 8 cây [32], thì y này bị coi là mất, và tỳ-kheo phạm ni-tát-kỳ ba-dật-đề, phải xả y trước Tăng. Thêm nữa, khi kết giới cấm túc an cư, cương giới này bao trùm trọn cả địa phận đại giới nhưng vẫn trừ nhà bếp và nhà kho ra. Nếu tỳ-kheo nào không phải là Tăng sai hay cho phép mà tự ý bước vào các chỗ đó tỳ-kheo ấy được coi là tự ý xuất giới và sự kết hạ bị phá.

Khi làm yết-ma kết giới nhà bếp và nhà kho, Tăng không được ở trong các chỗ ấy, cũng không được đứng bất cứ chỗ nào trong địa phận của đại giới, mà phải ra ngoài đại giới rồi làm yết-ma vọng đến. Nếu không thể ra khỏi đại giới, thì trước phải làm yết-ma giải đại giới, rồi kết giới nhà bếp và nhà kho, sau đó kết lại đại giới.

3. THỦ TỤC TIẾN HÀNH YẾT MA KẾT GIỚI

Dẫn

Dưới đây chỉ nêu một số nghi thức yết-ma và giải giới thông dụng. Nội dung căn bản của các thủ tục tiến hành kết và giải giới đều giống nhau, gồm có việc xướng giới tướng tức ấn định đường ranh, và bạch nhị yết-ma. Do đó, những nghi thức nào không được nêu ra ở đây, khi hành sự có thể phỏng theo các nghi thức được nêu mà làm cũng được.

Nếu muốn cho nghi thức được long trọng với các chi tiết như lễ Tam bảo, tụng sám và hồi hướng, thì tùy theo mà châm chước. Vì đấy là những việc không phải chủ yếu, và cũng không cần thiết, do đóđây không nhắc đến.

Thủ tục tiến hành chung cho tất cả các loại kết giới trên đại thể giống nhau. Nó có thể được chia làm hai giai đoạn: chuẩn bị tác pháp và chính thức tác pháp.

i. Chuẩn bị tác pháp

Trước hết, chỉ định một tỳ-kheo cố cựu, người hiểu biết rành nhất về địa hình của trú xứ, làm người xướng giới tướng.Vị tỳ-kheo cố cựu này có bổn phận kiểm tra lại các tiêu tướng, sao cho sự ấn định tuyệt đối cụ thể và phân minh để không ai có thể mơ hồ về các lằn mức các đường ranh. Sự chọn lựa các vật làm tiêu tướng phải y theo luật định như đã giới thiệu trên.

Khi đến giờ hành sự, đánh kiền chùy tập họp tất cả tỳ-kheo trong trú xứ, không ai được phép vắng mặt bất cứ lý do gì, và không được gởi dục. Thầy tỳ-kheo cố cựu được chỉ định có bổn phận hướng dẫn toàn thể Tăng đi thị sát hiện trường các tiêu tướng và đường ranh. Vị này sau khi Tăng tập họp đông đủ, bước ra đảnh lễ Thượng tọa 1 lễ và bạch:

Hôm nay Tăng kết giới. Kính thỉnh đại Tăng thân hành đi thị sát hiện trường để biết rõ các tiêu tướng và các đường ranh bao quanh cương giới để tiện tác pháp.

Sau khi đi thị sát hiện trường, nghe tỳ-kheo cố cựu giới thiệu chi tiết các tiêu tướng và các đường ranh bao quanh cương giới xong, tất cả tập họp trở lại địa điểm làm yết-ma để chính thức tác pháp. Đây là nói trong trường hợp phạm vi đại giới quá rộng lớn. Nếu phạm vi cương giới nhỏ hơn, Tăng có thể ở tại một chỗ của địa điểm yết-ma mà vẫn có thể theo dõi rõ ràng sự giới thiệu các tiêu tướng của tỳ-kheo cố cựu, thì khỏi phải đi thị sát hiện trường và chính thức cử hành tác pháp.

ii. Chính thức tác pháp

Phần này được tiến hành thứ tự theo ba giai đoạn: tiền phương tiện, xướng giới tướng, và bạch nhị yết-ma.

a) Tiền phương tiện: Tất cả các yết-ma được chính thức tác pháp với tiền phương tiện giống nhau, ngoại trừ điểm gởi dục. Tất cả các yết-ma kết giới đều không được phép gởi dục, vì bản thân mỗi tỳ-kheo phải tụ chứng kiến các tiêu tướng để hiểu rõ và sau này khỏi tranh cãi.

Tiền phương tiện được tiến hành như sau:

Yết-ma sư hỏi: Tăng đã họp chưa?

Duy na đáp: Tăng đã họp.

Hỏi: Hòa hiệp không?

Đáp: Hòa hiệp.

Hỏi: Người chưa thọ cụ túc đã ra chưa?

Đáp: Đã ra (hoặc đáp: Trong đây không có người chưa thọ cụ túc)

Hỏi: Tăng nay hòa hiệp để làm gì?

Đáp: Yết-ma kết… (tên đối tượng tác pháp).

b) Xướng giới tướng: Trong phần chuẩn bị tác pháp trên đã có nói, nếu cương giới rộng lớn, Tăng phải thân hành thị sát. Nếu cương giới nhỏ hơn, thì không cần đi thị sát mà có thể tiến hành ngay tiền phương tiện của phần chính thức tác pháp. Sau đó nghe xướng giới tướng. Khác với trường hợp trước, vì đã đi thị sát hiện trường, nên khi xướng giới tướng, thì tỳ-kheo cố cựu đứng một chỗ trước Tăng mà xướng. Trái lại, trong trường hợp sau, Tăng khỏi phải đi thị sát, thì tỳ-kheo xướng giới tướng tự thân hành đi đến cạnh các tiêu tướng, đi đến đâu thì giới thiệu đến đó cho Tăng biết rõ.

Khi xướng tiêu tướng, phải bắt đầu từ góc đông nam của cương giới, nếu chính diện của già-lam từ trong nhìn ra. Theo thứ tự, đi từ góc đông nam sang tây nam, trên đường ranh này có những đặc điểm gì, như trồi ra hay sụt vào, đều phải nêu rõ, không được nói mập mờ hay đại khái. Lần lượt thứ tự như vậy cho đến khi trở lại góc đông nam cũ. Như vậy là xong một vòng xướng giới tướng.

c) Bạch nhị yết-ma: các tác pháp kết giới gồm có một lần tác bạch và một lần yết-ma. Phần này do chính Thượng tọa làm hay do một tỳ-kheo tinh thông luật làm yết-ma cũng được.

Trong các tác pháp yết-ma kết giới được nêu dưới đây, phần chuẩn bị tác pháp sẽ không cần phải nhắc lại, vì trên đại thể đều giống nhau; khi hành sự có thể tùy theo loại mà châm chước thêm bớt cho phù hợp. Chỉ khi nào cần thiết mới sẽ nhắc lại. Trong phần chính thức tác pháp cũng sẽ không nhắc lại tiền phương tiện nữa, vì sự vấn đáp hoàn toàn đồng nhất.

 

TIẾT 3. CÁC PHÁP YẾT MA KẾT VÀ GIẢI GIỚI

1. VĂN KẾT ĐẠI GIỚI KHÔNG GIỚI TRƯỜNG

a). Xướng tiêu tướng

Tỳ-kheo cố cựu của trú xứ được chỉ định làm người xướng tiêu tướng, trước phần tiền phương tiện, (ở mục chuẩn bị tác pháp) bước ra lễ Tăng một lễ, chấp tay bạch:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tôi tỳ-kheo (pháp hiệu) sống lâu trú xứ này, xin vì Tăng xướng các tiêu tướng bốn phương của đại giới.

Từ góc đông nam lấy (nói tên vật dùng làm tiêu tướng) làm nêu, đến góc tây nam, lấy (..) làm nêu, từ đây đến góc tây bắc, lấy (…) làm nêu; từ đây đến góc đông bắc, lấy (…) làm nêu; từ đây trở lại góc đông nam, lấy (…) làm nêu. Đến đây là trọn một vòng gồm các tiêu tướng ngoài của đại giới.

b). Yết-ma kết giới

Tiếp theo, Thượng tọa hay một tỳ-kheo thông luật được chỉ định làm yết-ma sư, bạch nhị yết-ma:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tỳ-kheo sống lâu trú xứ này đã xướng xong các tiêu tướng ở bốn phương trong ngoài của đại giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, nay Tăng ở trong phạm vi tiêu tướng bốn phương này mà kết đại giới, cùng sống chung, cùng thuyết giới. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe, tỳ-kheo sống lâu trú xứ này đã xướng xong các tiêu tướng bốn phương của đại giới. Nay Tăng ở trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương này mà kết làm đại giới, cùng sống chung, cùng thuyết giới. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng nay trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương này kết làm đại giới, cùng sống chung, cùng thuyết giới, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương này kết làm đại giới cùng sống chung, cùng thuyết giới, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

2. VĂN GIẢI ĐẠI GIỚI (trước khi giải gới trường)

Đánh hiệu kiền chùy tập họp Tăng, và vấn đáp tiền phương tiện như kết đại giới. Tỳ-kheo yết-ma bạch:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, mong Tăng chấp thuận cho. Nay giải giới trú xứ mà tỳ-kheo đã cùng sống, cùng thuyết giới. Đây là lờ tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nay Tăng giải giới trú xứ mà tỳ-kheo đã sống chung, cùng thuyết giới này. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng giải giới trú xứ cùng sống chung cùng thuyết giới này thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận giải giới trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới, vì đã im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

3. VĂN KẾT ĐẠI GIỚI CÓ GIỚI TRƯỜNG (gồm luôn cả nhà bếp và nhà kho)

Trong các nghi yết-ma, văn kết đại giới có giới trường được nói riêng; kết nhà bếp và nhà kho riêng. Theo thông lệ nước ta, thường mỗi già-lam hay tự viện đều phải có giới trường luôn cả nhà bếp và nhà kho. Do đó, ở đây kể luôn một mạch tác pháp theo thứ tự kết giới trường, rồi đến nhà bếp và nhà kho, sau đó đến đại giới. Nhưng nếu chùa nào không có nhà bếp và nhà kho thì bỏ hai mục này. Nhà bếp trong đây chỉ chung cho cả tịnh địa và tịnh trù. Nhà kho tức tịnh khố.

i. Kết giới trường (trước khi kết đại giới, tịnh địa, tịnh trù):

a) Xướng tướng: Toàn thể Tăng trong tự viện tập họp cả về bên trong địa phận của giới trường. Không được gởi dục. Tăng cố định ở một chỗ theo dõi tỳ-kheo xướng tướng. Tỳ-kheo xướng tướng bắt đầu đi đến góc đông nam của giới trường, hướng về bên trong, phía Tăng tập họp, chắp tay bạch:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tôi tỳ-kheo…. xin vì Tăng xướng các tiêu tướng bốn phương của tiểu giới (tức giới trường) từ góc đông nam của trú xứ này, lấy (nói tên vật dùng làm tiêu tướng) làm nêu từ đây về hướng tây (nói đến đây tỳ-kheo xướng tướng đi đến góc tây nam, đứng yên hướng về phía Tăng chắp tay bạch tiếp) đến góc tây nam. lấy … làm nêu; từ đây đi về hướng bắc (nói đến đây, tỳ-kheo xướng tướng đi lần lên phía bắc, đến góc tây bắc thì dừng lại, đứng yên, hướng về phía Tăng chắp tay bạch tiếp) đến góc tây bắc, lấy …. Làm nêu, từ đây đi về phía đông (nói đến đây, lại đi lần về phía đông, đến góc đông bắc thì dừng lại, đứng yên, hướng về phía Tăng chắp tay bạch tiếp) đến góc tây bắc, lấy… làm nêu, từ đây đi về hướng nam (đi lần về phía nam đến góc đông nam dừng lại, hướng về Tăng bạch) trở lại góc đông nam, lấy… làm nêu. Đây là xong một vòng gồm các tiêu tướng ngoài của tiểu giới.

b) Bạch yết-ma: Thượng tọa hay vị tỳ-kheo yết-ma bạch:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tỳ-kheo sống lâu trú xứ này đã xướng xong các tiêu tướng bốn phương của tiểu giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay chấp thuận trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương này mà kết làm giới trường. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tỳ-kheo sống lâu trú xứ này đã xướng các tiêu tướng bốn phương của tiểu giới. Tăng nay ở trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương này kết làm giới trường. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng nay ở trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương của tiểu giới này kết làm giới trướng thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận trong phạm vi các tiêu tướng bốn phương này kết làm giới trường, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

ii. Kết tịnh trú, tịnh địa (sau khi kết đại giới)

Theo luật Tứ phần, "Tịnh địa" chỉ khu đất được kết làm chỗ đun nấu. Nó có thể là khu đất trống hay một căn phòng. Còn "tịnh trù" là căn phòng để Tăng cất chứa đồ ăn. Như vậy, tịnh trù và tịnh địa khác nhau. Trong Yết-ma chỉ nam đồng nhất tịnh trù với tịnh địa, và dùng tịnh kho để chỉ chỗ cất chứa đồ ăn, là chỗ mà luật Tứ phần gọi là tịnh trù. Tuy nhiên, các Tổ ta xưa nay hành trì theo Yết-ma chỉ nam do đóđây vẫn y theo Yết-ma chỉ nam.

Phép kết tịnh trù phải ở cách xa mà kết. Không tập họp Tăng ở trong phạm vi của giới ấy, như kết các giới khác.

Tỳ-kheo xướng tướng bạch:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tôi tỳ-kheo…. Vì Tăng xướng địa điểm của tịnh trù. Trong phạm vi của Tăng-già lam này, lấy (nói địa điểm, phòng hoặc nhà, và đưa tay chỉ vọng theo) làm tịnh trù.

b) Bạch yết-ma: Thượng tọa hay tỳ-kheo yết-ma bạch:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay lấy (địa điểm) kết làm tịnh trù. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nay Tăng lấy (địa điểm) kết làm tịnh trù. các trưởng lão nào chấp thuận rằng Tăng lấy (địa điểm) kết làm tịnh trù thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận lấy (địa điểm) kết làm tịnh trù, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

iii. Kết tịnh khố

Về sự phân biệt tịnh địa, tịnh trù và tịnh khố, xem lời dẫn của kết tịnh trù trên. Trong văn yết-ma, tịnh khố sẽ được gọi là: "tịnh xứ cất chứa thức ăn". Tập họp Tăng giống như trên.

Bạch yết-ma:

Đạiđức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, mong Tăng chấp thuận rằng Tăng hãy lấy (phòng, nhà) làm tịnh xứ cất chứa thức ăn. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nay Tăng lấy (phòng, nhà) làm tịnh xứ cất chứa thức ăn. Các trưởng lão nào chấp thuận rằng Tăng nay lấy (phòng, nhà) làm tịnh xá cất chứa thức ăn thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói .

Tăng đã chấp thuận lấy (phòng, nhà) làm tịnh xứ cất chứa thức ăn, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

iv. Kết khố tàng

Khố tàng tức nhà kho để cất chứa các thứ y, bát dư của Tăng, chưa phân phối kịp. Tập họp Tăng như trên.

a) Xướng tướng

Đại đức Tăng xin lắng nghe. Tôi tỳ-kheo… vì Tăng xướng chỗ dùng làm khố tàng (hay nói: nhà kho) trong Tăng-già lam này, lấy (phòng…) làm nhà khố tàng (hay nhà kho).

b) Bạch yết-ma

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay lấy (…) kết làm khố tàng (hay nhà kho). Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tăng nay lấy (…) kết làm khố tàng (nhà kho). Các trưởng lão chấp thuận rằng Tăng lấy (…) khố tàng (hay nhà kho) thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận lấy (…) làm khố tàng (hay nhà kho) vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

v. Kết đại giới (sau khi đã kết giới trường)

Trong các nghi yết-ma, khi kết đại giới có giới trường, thì kết giới trường và kế đến kết đại giới. Vì giới trường nằm trong phạm vi đại giới. Nếu tự viện nào không cần có tịnh trù, tịnh khố và kh61 tàng các thứ, thì sau khi kết giới trường, tiếp đến kết đại giới tiến hành như sau:

Tập họp Tăng ở bên trong địa phận của đại giới. Không được tập họp trong địa phận của giới trường, hay trên khu đất bao quanh giới trường, phần trung gian các giới trường và đại giới.

a) Xướng tướng

Xướng một lần cả tướng trong và tướng ngoài của đại giới, theo thứ tự, các tiêu tướng bên trong được giới thiêu trước.

Tỳ-kheo cố cựu xướng:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tôi tỳ-kheo… sống lâu trú xứ này, xin vì Tăng xướnng bên trong và ngoài bìa của đại giới. trước xin xướng giới tướng bên trong. Từ góc đông nam cách đường ranh của giới trường (nói rõ khoảng cách, lấy vật gì làm nêu) làm nêu. Từ đây đi về hướng tây đến góc tây nam, lấy (…) làm nêu. Từ đây đi về hướng bắc đến góc tây bắc, lấy (…) làm nêu. Từ đây đi về hướng đông đến góc đông bắc, lấy (…) làm nêu. Từ đây đi về hướng nam trở lại góc đông nam. lấy (…) làm nêu. Tiếp theo, xin xướng giới tướng bên ngoài bìa của trú xứ này, góc đông nam lấy (…) làm nêu. Tứ đây đi về hướng tây, đến góc tây nam, lấy (…) làm nêu. Từ đây đi về hướng bắc, đến hướng đông bắc, lấy (…) làm nêu. Từ đây đi về hướng nam trở lại góc đông nam, lấy (…) làm nêu trên kia là giới tướng bên trong. Đây là giới tướng bên ngoài. Đây là trong một vòng các đường ranh bên trong và bên ngoài của đại giới.

b) Bạch yết-ma:

Bạch yết-ma như kết đại giới, xem đoạn trên, Chương hai, Tiết ba, số 2 nhỏ.

vi. Văn giải giới trường (sau khi đã giải đại giới)

Tập họp Tăng, vấn đáp như các loại yết-ma.

Bạch yết-ma giải:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Đây là giới trường của tỳ-kheo sống chung ở đây. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay chấp thuận giải giới trưòng. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Đây là giới trường của tỳ-kheo sống chung ở đây. Tăng nay giải giới trường này. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng nay giải giới trường này, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận giải giới trưòng này, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

vi. Giải tịnh trù, tịnh khố, khố tàng (trước khi giải giới trường)

Văn giải giống nhau, chỉ đổi các từ cho phù hợp đối tượng được giải giới. Dưới đây chỉ đề cập văn giải tịnh trù. Tập họp Tăng, vấn đáp như thường lệ.

Bạch yết-ma:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay giải tịnh trù (địa điểm). Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tăng nay giải tịnh trù (địa điểm)Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng giải tịnh trù ở (địa điểm) thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận giải tịnh trù (địa điểm), vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

(Dứt phép giải tịnh trù)

4. GIỚI KHÔNG MẤT Y

i. Sau khi kết đại giới

Kết giới không mất y để tỳ-kheo khỏi phạm xả đọa trong trường hợp phải lìa y ngủ một đêm.

Có hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất: Phạm vi bao trùm trong một trú xứ cùng sống cùng thuyết giới.

Trường hợp thứ hai: Thông hai trú xứ. sẽ nói ở số VII sau.

Đây là trường hợp thứ nhất:

Tập họp Tăng và vấn đáp như thông lệ.

Bạch yết-ma:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Đây là trú xứ cùng sống cùng thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận,Tăng nay ở trong phạm vi trú xứ này, trừ xóm và phần quanh xóm, kết giới không mất y. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tăng nay trong phạm vi của trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới này, trừ xóm và phần quanh xóm, kết giới không mất y. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng nay trong phạm vi của trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới này, trừ xóm và phần quanh xóm, kết giới không mất y thì im lặng. Ai không chấp chuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận trong phạm vi của trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới này, trừ xóm và phần quanh xóm, kết giới không mất y, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

ii. Thông hai trú xứ (Đại giới)

Tập họp và vấn đáp theo thông lệ.

Bạch yết-ma:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nay từ (nói tên trú xứ đến trú xứ). Trừ tụ lạc và cương giới tụ lạc ra, kết làm giới ngủ đêm không lìa y. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, Tăng nay ở trong phạm vi ấy kết làm giới ngủ đêm không lìa y. đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nay từ (nói tên trú xứ đến trú xứ) trừ tụ lạc và cương giới tụ lạc, kết làm giới ngủ đêm không lìa y. Tăng nay ở trong phạm vi ấy kết làm giới ngủ đêm không lìa y. Các trưởng lão nào chấp thuận, Tăng nay từ (…) đến (…) trừ tụ lạc và cương giới tụ lạc, kết làm giới ngủ đêm không lìa y, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận từ (…) trừ tụ lạc và cương giới tụ lạc, kết làm giới ngủ đêm không lìa y, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

iii. Giải giới không mất y (trước khi giải đại giới)

Tập họp Tăng, vấn đáp như thông lệ của yết-ma.

Bạch yết-ma:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Đây là trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, nay giai giới không mất y. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe, đây là trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới, nay giải giới không mất y. Các trưởng lão nào chấp thuận, trong trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới này, nay giải giới không mất y, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận trong trú xứ cùng sống, cùng thuyết giới, nay giải giới không mất y, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

5. KẾT TIỂU GIỚI

i. Kết tiểu giới thuyết giới (trường hợp bất thường)

Họp Tăng vấn đáp theo thông lệ.

Bạch yết-ma (không có xướng giới tướng):

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, Tăng nay trong phạm vi có bấy nhiêu tỳ-kheo đang tập họp ở đây kết làm tiểu giới. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nay trong phạm vi có bấy nhiêu tỳ-kheo đang tập họp ở đây kết làm tiễu giới. Các trưởng lão nào chấp thuận rằng, nay trong phạm vi có bấy nhiêu tỳ-kheo đang tập họp kết làm tiểu giới, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận trong phạm vi có bấy nhiêu tỳ-kheo đang tập họp kết làm tiểu giới, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

ii. Giải tiểu giới thuyết giới.

Sau khi thuyết giới xong, phải giải giới trước khi đi. Vấn đáp như thông lệ.

Bạch yết-ma:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Đây là phạm vi có bấy nhiêu tỳ-kheo đang tập họp. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, nay giải tiểu giới.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Đây là phạm vi có bấy nhiêy tỳ-kheo đang tập họp. Nay giải tiểu giới nơi này. Các trưởng lão nào chấp thuận nay Tăng giải tiểu giới nơi này thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận giải tiểu giới nơi này, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

iii. Kết tiểu giới thọ giới (trường hợp bất thường)

Họp Tăng vấn đáp như thường lệ.

Bạch yết-ma:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận nay trong phạm vi các tỳ-kheo đang tập họp này kết làm tiểu giới. Đây là lời tác bạcg.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nay trong phạm vi các tỳ-kheo đang tập họp này kết làm tiểu giới. Các trưởng lão nào chấp thuận, Tăng nay trong phạm vi các tỳ-kheo đang tập họp này kết làm tiểu giới, thì im lăng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận ờ đây kết tiểu giới, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

iv. Giải tiểu giới thọ giới

Vấn đáp như thông thường.

Bạch yết-ma:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, Tăng nay trong phạm vi các tỳ-kheo đang tập họp này giải tiểu giới. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tăng nay trong phạm vi các tỳ-kheo đang tập họp này giải tiểu giới, các trưởng lão nào chấp thuận nay trong phạm vi các tỳ-kheo đang tập họp này giải tiểu giới, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận giải tiểu giới, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

v. Kết tiểu giới tự tứ (trường hợp bất thường)

Vấn đáp như thông lệ.

Bạch yết-ma:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, trong phạm vi vừa đủ các tỳ-kheo ngồi trong này, kết tiểu giới. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe, Tăng nay trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi vừa đủ này, kết tiểu giới. Các trưởng lão nào chấp thuận Tăng nay trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi đủ này, kết tiểu giới, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi vừa đủ này kết tiểu giới, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.

vi. Giải tiểu giới tự tứ

Vấn đáp như thông lệ.

Bạch yết-ma:

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi vừa đủ này giải tiểu giới. Đây là lời tác bạch.

Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi vừa đủ này giải tiểu giới. Các trưởng lão nào chấp thuận nay trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi vừa đủ nà, giải tiểu giới, thì im lặng. Ai không chấp thuận hãy nói.

Tăng đã chấp thuận trong phạm vi các tỳ-kheo ngồi vừa đủ này giải tiểu giới, vì im lặng. Tôi ghi nhận như vậy.


Chú thích:

[1] Tứ phần hành sự sao tư trì ký I. Đại 40, tr. 202b6: «Theo Minh liễu luận sớ giải, vốn âm là tứ-ma; đây (Trung quốc) nói là biệt trú. Nghĩa là, tác pháp ở trú xứ này cùng với các trú xứ khác không tương thông.» Hán: giới. Skt. sīman; Pl. sīmā, Cf. Mahāvagga II, Vn. i. tr. 105.

[2] Tứ phần luật 36, «Thuyết giới kiền độ» (Đại 22 tr. 819b2): Phật tại Vương xá.. Các tỳ-kheo từ các địa phương hay rằng đức phật cho phép thuyết giới, tất cả cùng tụ tập về Vương xá. Đường xa, tụ tập rất mệt nhọc. Do đó, Phật cho phép tỳ-kheo tại địa phương nào thì thuyết giới tại đó. Tứ phần luật hành sự sao tư trì kỷ I (Đại 40, tr, 203a13): 8 năm sau ngày thành đạo Phật chế yết-ma thọ cụ túc; 12 năm sau ngày thành đạo Phật khiến các tỳ-kheo thuyết giới, và do đây lần đầu tiên ấn định việc kết giới. Tham chiếu Pali, Mahāvagga, Vn. i. tr. 106: ...bhikkūnaṃ etad ahosi, «Bhagavatā paññattaṃ ettāvatā samaggī yāvatā ekāvāso’ti, kittāvatā nu kho ekāvāso hoti.» Bhagavato etamatthaṃ ārocetuṃ: «anujānāmi bhikkhave sīmaṃ sammannituṃ.»

[3] Yết-ma chỉ nam 1 dẫn Ma ha Tăng kỳ luật: nếu không phải là địa điểm để được yết-ma, không được phép nhận gởi dục, hành các Tăng sự.

[4] Hán: tự nhiên giới . Cf. Tứ phần hành sự sao I, Đại 40, tr. 14b2. Pali: asammata-sīmā.

[5] Hán: tác pháp giới . Cf. Tứ phần hành sự sao I, Đại 40, tr. 14b6. Pali: sammata-sīmā.

[6] Pali, gāmasīma; Cf. Mahāvagga II, vn. i. tr. 110: asammatāya bhkkhave sīmāya aṭṭhapitāya, yaṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā upanissāya viharati, yā tassa vā gāmassa gāmasīmā nigamassa vā nigamasīmā, yaṃ tattha samānasaṃvāsā ekuposathā, «Khi một cương giới chưa đươc thỏa thuận, chưa được ân định, thì bất cứ một tụ lạc, một thị trấn mà tỳ-kheo nương vào đó; tụ lac ấy là cương giới tụ lạc, thị trấn ấy là cương giới thị trấn. Trong phạm vi đó là đồng nhất trú xứ, đồng nhất thuyết giới.»

[7] Ma ha Tăng kỳ luật 8 (Đại 22, tr. 298b13): «Ưu Ba Ly hỏi Phật, ở những nơi mà giới hạn của thành ấp, tụ lạc không thể phân biệt, thì trong khoảng phạm vi nào có thể tác yết-ma, khiến các nhóm Tăng khác trông thấy nhau nhưng yết-ma vẫn thành tựu mà không phạm lỗi biệt chúng? Phật nói: 5 khuỷu là 1 cung, 7 cung là khoảng cách để trồng 1 cây xoài, trong phạm vi 7 cây xoài có thể tác yết-ma.» Hành sự sao I (Đại 40, tr. 7a19), trong phạm vi 7 cây tức có 6 khoảng = 21 khuỷu (= 63 bộ). Cf. Pali, Mahāvagga II, Vn.i. tr.111: agāmake ce...araññe samantā sattabbhantarā ayaṃ tattha samānasaṃvāsā ekuposathā, «Nếu tỳ-kheo sống ở nơi không phải lá tụ lạc, rừng vắng, thì trong phạm vi bảy abbhantara là gới hạn đồng nhất trú xứ, đồng nhất thuyết giới.» Giải thich của Mahāvagga-ṭṭhakathā (Vn.5.v. tr. 1050): tattha ekaṃ abbhantaraṃ aṭṭhavīsatihatthappamāsaṃ hoti, ở đây, 1 abbhantara bằng 28 hattha (tay). 1 hattha Pāli tức 1 hasta Skt. = 24 aṅgula.

[8] Skt. aranya (Pal. arañña); Hán: a-lan-nhã. nhàn tĩnh xứ , vô sự xứ , không nhàn . Cf. Ma-đắc-lặc-già 3 (Đại 23, tr. 580b3): «Giới a-lan-nhã, trong phạm vi 1 câu-lô-xá.» Hành sự sao I (Đại 40, tr. 7a23: «Về giới a-lan-nhã, các bộ không nhất định. Phần lớn tính là 1 câu-lô-xá.» Xem cht. 8 dưới. Thiện kiến luật 17 (Đại 24, tr.794b9) : «Giới a-bàn-đà-la (Pl. abbhantara) tức là giới a-lan-nhã.» Theo đó (tr. 793b4), giới a-lan-nhã, cực nhỏ, vuông vức bảy a-bàn-đà-la (Pali: abbhantara). 1 a-bàn-đà-la = 28 khủyu.; xem cht. 6 trên.

[9] Hán: câu-lô-xá; Skt. krośa. Có hai cách tính một câu lô xá: bắng 4000 khuỷu tức khoảng 1800m, hoặc bằng 8000 khuỷu tức khoảng 3600m. Đây nói theo cách tính thứ nhất.

[10] Bàn-đà; Skt. abhyantara (Pali: abbhantara): nội bộ, trung gian.. Xem cht. 6 trên.

[11] Hành sự sao I (Đại 40, tr. 7a19), dẫn Tát-bà-đa: «Tỳ kheo khi du hanh, tùy chõ trú xư, trong phạm vi một câu-lô-xá là giới (đạo hành).» Dẫn thêm Thập tụng: «600 bộ làm một câu-lô-xá.»

[12] Pali: udakukkepa-sīmā; Thiện kiến luật 17 (Đại 24, tr.794b10), trịch thủy giới Cf. Pali, Mahāvagga II, Vn.i. 111: nadiyā vā bhikkhave samudde vā jātassare vā yaṃ majjhimassa purisassa samantā udakukkhepā, ayaṃ tattha samānasaṃvāsā ekuposathā ti, «Nơi nào có sông, biển hay ao hồ, trong phạm vi mà mọtt người trung bình hất nước đến; đó là cương giới đồng nhất trú trú xư, đồng nhất thuyết giới.»

[13] Hán: tác pháp giới ; Pali: sammantā sīmā.

[14] Hán: đồng nhất trú xứ ; Pali: samānasaṃvāsa.

[15] Hán: đồng nhất thuyết giới ; Pali: ekuposathā.

[16] 18000m hoặc 36000m tùy theo cách tính. Xem chú thích 9. Cf. Thập tụng luât 22, Đại 23, tr. 158b7. Cf. Tăng-kỳ luật 8 (Đại 22, tr. 295c13), Ngù phần luât 18 (Đại 22, tr. 124a3) , Thiện kiến luật 17 (Đại 24, tr. 793a28), rộng nhât, không quá 3 do tuần. Pali, Mahāvagga II, CVn.i.tr.106: tiyojanaparamaṃ sīmaṃ sammannitun ti, kết giới lớn nhất là ba yojana. Skt.= Pl.: yojana, Hán: do-tuần , do-diên , dũ-thiện-na . Co nhiều cach tính; hoặc bằng 4 câu-lô-xá, hoặc bàng 8. Huyền Trang, Tây vực ky 2¨Du-thiện-na, đoạn đường 1 ngày hành quân của Thánh vươngh xưa, khoản 40 dặm. Theo tục Ân đọ, 30 dặm. 1 câu-lô-xá, gần băng 1 dặm Anh.

[17] Tát-bà-đa Tì-ni Tì-bà-sa 4 (Đại 23, tr. 529b2): «Ni kết đại giới, rộng nhât là 1 câu-lô-xá.»

[18] Thiện kiến luật 17 (Đại 24, tr. 793b3): «Nơi nào tỳ-kheo đã kết giới, nơi ấy đố với tỳ-kheo-ni là phi giới. Tỳ-kheo có thể kết giới chồng lên giới của tỳ-kheo-ni mà giới của tỳ-kheo-ni không mất.»

[19] Ngũ phần luật 18 (Đại 22, tr. 23c2); bố-tát đường; Tứ phần luât 35 (Đại 22, tr. 818c2): thuyết giới đường . Mahāvagga II, Vn. i. tr. 106, uposathāgāra.

[20] Tứ phần luật 35 (đại 22, tr. 818b23): Các tỳ-kheo hay rằng Phật dạy phải cùng thuyết giới tại một địa điểm, nhưng vì chưa có địa điểm cố định, mỗi người đợi mỗi nơi, khiến việc tập Tăng rất mệt nhọc. Do đó Phật dạy ấn định giới trường.

[21] Thiện kiến luật 17 (Đại 24, tr. 793a17)

[22] Thân thủ tương cập: Đây là cách nhóm hợp các tỳ-kheo tại tiểu giới hay giới trường khi Tăng tác yết-ma, trái với cách này, phạm lỗi biệt chúng.

[23] Tứ phần luật 35 (Đại 22, tr. 820a26). Cf. Ngũ phần luật (Đại 22, tr. 124a8): cộng bố-tát cộng đắc thí. Thiện kiến luật 24 (Đại 24, tr.794b4): la-bà-giới. Pali, Mahāvagga-Aṭṭhakathā, v. 1136: lābhasīmā.

[24] Có ba cách tính về một do tuần: hoặc bằng khoảng 4 dặm Anh tức khoảng 6500m, hoặc khoảng 5 dặm Anh tức khoảng 8000m, hoặc khoảng 9 dặm Anh tức khoảng 14500m. Đây tính theo cách thứ nhất.

[25] Tứ phần hành sự sao I, Đại 40, tr. 14b12.

[26] Ngũ phần luật 18, Đại 22, tr. 124a27; Tứ phần luật 35, Đại 22, tr. 819c25.: bất thất y giới; Pali: avippavāsasīmā, Mahāvagga , n.i. tr.106.

[27] Ngũ phần luât 4, Địa 22,tr.23c10, xả đọa, điều 2. Tứ phần luật 6, Đại 22, tr. 603a1: ni-tát-kỳ điều 2. Thập tụng luật 5, Đại 23, tr. 31b10: ni-tát-kỳ điều 2. Pali, Pārājika, Vn.iii.tr.197 ticīvarena vippavaseyya ... nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.

[28] Tứ phần luật 35, Đại 22, tr. 820a6. Tì-ni tì-bà-sa 4, Đại 23, tr. 529b28.

[29] Tứ phần luật 43, «Dược kiền độ» Đại 22, tr. 874.c. Thiện kiến luật 27, Đại 24, tr. 975b5: tịnh ốc. Cf. Mahāvagga III, Vn. i. tr. 138: kappiyakuṭi.

[30] Ngũ phần luật 22, Đại 22, tr. 150a6. Tứ phần luật 43, Đại 22, tr. 876a10: tịnh địa. Cf. Mahāvagga vi. Vn. i. tr. 237: kappiyabhūmi.

[31] Tứ phần luật 43, Đại 22, tr. 874c15. Mahāvagga VI, Vn.1. 240: catasso kappiyabhūmiyo - ussavānantikaṃ gonisādikaṃ gahapatiṃ samumtiṃ. Bản dịch Anh Book of the Dícipline iv. tr.328), chỉ có 3, trừ sammutiṃ mà Hán dịch la Tăng yết-ma.

[32] Tứ phần luật 6, Đại 22, tr. 604a21: bát thọ trung gian, và giải thích, một trung gian, tức khoảng cách gữa 2 cây, là 7 cung. Theo cung pháp của nước Già-ma-lê, 1 cung = 7 khủyu. 1 khủyu (nhất chẩu). Skt. 1 hasta = 24 aṅgula = 18 inches, tức khoảng 44cm10. Như vậy, khoảng cách được coi là lìa y để mất y là 21, 61 m. Ngũ phần luật 4, Đại 22, tr. 24b11, nếu ngồi kết già một chỗ, khoảng cách để mất y là cách mặt ngoài 7 thước; nếu đang đi đương, cách thân minh ngoài 7 cung.

-ooOoo-