TRƯỜNG
CAO
CẤP PHẬT HỌC VIỆT NAM
VISUDDHI-MAGGA
(Luận sư Buddhaghosa)
THANH
TỊNH ÐẠO
LUẬN TOẢN YẾU
THÍCH
PHƯỚC
SƠN biên soạn
2540 - 1996
MỤC
LỤC
|
- Lời nói
đầu
- Tiểu sử ngài Buddhaghosa
- Tiểu sử ngài Nanamoli Thera
- Tiểu sử ngài Liễu Tham
- Bảng tra chữ tắt
- Dẫn nhập.
|
|
Phần
thứ
nhất: GIỚI
- Chương I.
Giảng nghĩa về giới.
- Chương II. Hạnh Ðầu Ðà
|
|
Phần
thứ hai:
ÐỊNH
- Chương
III. Mô
tả định. - Chọn đề mục Thiền quán.
- Chương IV. Ðịnh - Phân tích đề mục đất.
|
|
- Chương
V. Ðịnh
- Phân tích các đề mục khác.
- Chương VI. Ðịnh - Quán bất tịnh
- Chương VII. Ðịnh - Sáu tuỳ niệm
|
|
- Chương
VIII.
Ðịnh- Những tuỳ niệm khác
- Chương IX. Ðịnh - Các phạm trú
|
|
- Chương
X. Ðịnh
- Các Vô sắc xứ
- Chương XI. Ðịnh - Mô tả
- Chương XII. Ðịnh - Các thần thông
- Chương XIII. Ðịnh - Các thần thông (tt)
|
|
Phần
thứ ba:
TUỆ
- Chương
XIV. Mô
tả về các uẩn
- Chương XV. Mô tả về Xứ và Giới
|
|
- Chương
XVI. Căn
Ðế: Mảnh đất cho Tuệ tăng trưởng.
- Chương XVII. Ðạo lý Duyên khởi
|
|
- Chương
XVIII.
Kiến thanh tịnh
- Chương XIX. Ðoạn nghi thanh tịnh.
- Chương XX. Ðạo phi đạo tri kiến thanh tịnh
- Chương XXI. Ðạo tri kiến thanh tịnh
- Chương XXII. Tri kiến thanh tịnh
- Chương XXIII. Những lợi ích của sự tu tuệ.
Tổng luận.
Kinh sách
tham
khảo. |
-ooOoo-
Lời
Nói
Ðầu
Thanh Tịnh Ðạo luận
là tác phẩm do luận sư Buddhaghosa trước tác. Sư là người
Ấn Ðộ, sanh vào giữa thế kỷ thứ 5 tây lịch, vốn là
một nhà Phật học uyên thâm, vừa là một học giả lỗi
lạc. Ngài đã chọn lọc những tinh hoa của giáo điển Nam
truyền soạn thành bộ luận này, gồm 58 chương. Về sau, tác
phẩm này được đại đức Nànamoli, người Anh tu tại Tích
Lan, dịch sang Anh văn, gom lại còn 23 chương và xuất bản
tại Colombo Ceylon, năm 1956. Ni sư Thích Nữ Trí Hải, một
dịch giả tài hoa, đã đem bản Anh văn này dịch ra Việt văn
và cho xuất bản tại Hoa Kỳ, năm 1991. Chúng tôi dùng bản
dịch này làm cơ sở rút ngắn lại - nhưng vẫn giữ được
trọn vẹn những nội dung trọng yếu - thành tập giáo trình
để hướng dẫn tăng ni sinh lớp Cao cấp Phật học. Trong
khi biên soạn, chỗ nào thấy cần xem lại, chúng tôi dò
lại nguyên bản; chỗ nào chưa rõ, chúng tôi tham khảo kinh
luận Nikàya mà bản luận đã trích dẫn để tìm hiểu
vấn đề một cách thấu đáo. Ðồng thời chúng tôi so sánh
những điểm dị biệt giữa bản luận với luận điển
Bắc truyền, nhằm giúp độc giả thấy được tính chất
phong phú và tinh vi trong giáo lý của đức Phật.
Tập sách này không
những là tài liệu học tập thiết yếu đối với Tăng Ni
trường Cao cấp, mà còn là kim chỉ nam cho những ai có hoài
bảo thám hiểm đại dương chánh pháp và khát khao thưởng
thức hương vị tinh truyền của giáo lý nguyên thủy do đức
Thế Tôn truyền lại.
Cuối cùng, tôi chân
thành
cảm ơn tập thể Ni sinh năm thứ 4, khóa III của trường đã
tận tụy lo việc in ấn để cho soạn phẩm hoàn thành viên
mãn và đến tay Tăng Ni sinh đúng thời hạn.
Thiền viện Vạn
Hạnh, ngày 17-09-1996
THÍCH PHƯỚC SƠN
-ooOoo-
TIỂU SỬ
PHẬT ÂM
(BUDDHAGHOSA)
Còn gọi là Phật
Minh,
Giác Âm, Phật Ðà Cù Sa, Người ở Phật đà già da, nước
Ma Kiệt Ðà (Magadha), thuộc Trung Ấn Ðộ, vào thế kỷ
thứ V. Sư xuất thân trong gia đình Bà la môn, ban đầu học
Phệ đà, tinh thông Du già, Số luận v.v..., về sau, Sư quy y
Phật giáo, tinh thông các kinh điển. Vì mục đích hoằng
truyền Phật pháp, rống tiếng rống của sư tử mà Sư
soạn các chú thích bộ luận Phát trí (Nanodaya), luận Thù
Thắng Nghĩa (Atthasàlini) và Luận Pháp Tập.
Vào năm 432 Tây
lịch
kỷ nguyên, Sư vượt biển sang Tích Lan, trú tại Ðại tự
(Mahàvihàra), theo Trưởng lão Tăng-già-ba-la (Sanghapàla Thera)
nghiên cứu thánh điển tàng trữ tại chùa ấy, rồi đem
dịch sang tiếng Pàli, và soạn Thanh Tịnh Ðạo luận
(Visuddhimagga), Thiện Kiến Luật chú tự (Samantapàsàdikà) chú
giải luật tạng (Sách nầy còn có tên là Thiện Kiến
Luật Tì bà sa; Thiện Kiến luận.) v.v.... Ðồng thời, Sư
đem giáo nghĩa của Thượng Toạ bộ ra soạn thuật thành
một hệ thống hoàn chỉnh. Trong đó, có thể nói Thanh
Tịnh Ðạo luận là một tác phẩm toát yếu toàn bộ Tam
tạng kinh điển và Luận sớ. Về sau, Sư đem 4 bộ kinh Nikàya
dịch sang tiếng Ba lợi (Pàli), và soạn chú sớ tại chùa
Kiền Ðà la (Granthakara parivena), xứ A nỗ lạp đạt phổ
lạp (Anuràdhapura). Giải thích Trường Bộ kinh thì có Cát Tường
Duyệt ý luận (Sumangalavilàsinì); giải thích Trung Bộ kinh
thì có Phá trừ nghi chướng luận (Papaĩcasùdanì); giải thích
Tương Ưng Bộ kinh thì có Hiển Dương Tâm Nghĩa Luận
(Sàratthappakàsinì);
giải thích Tăng Chi Bộ kinh thì có Mãn túc hi cầu luận
(Manorathapùraịì). Ðến khi ấy Tam Tạng Ba Lợi mới cực
kỳ hoàn bị.
Những chú thích của
Sư,
không chỉ hạn cuộc chữ nào nghĩa nấy của bản văn, mà
bao quát cả các loại giải thích về lịch sử, địa lý,
thiên văn, âm nhạc, động vật, thực vật v.v..., đặc
biệt, đối với phong tục tập quán của Ấn độ cổ đại,
Sư còn làm thêm ký thuật liên quan đến những văn hiến
trọng yếu dùng để nghiên cứu về Ấn độ. Người Tích
Lan ca ngợi học vấn uyên bác của Sư và sùng kính Sư như
là Bồ tát Di Lặc tái thế. Lúc cuối đời, Sư trở về
cố quốc an dưỡng tuổi già. Nhưng trong lịch sử Phật giáo
Miến Ðiện bảo Sư là người Miến Ðiện, khoảng năm 400
từ nước Kim Ðịa (Kim địa: ngày nay nằm về hạ lưu
Miến Ðiện cho đến bán đảo Mã Lai Á.) vào Tích Lan du
học, rồi 3 năm sau, đem kinh điển trở về phục hung Phật
giáo Miến Ðiện. (Căn bản Phật Ðiển nghiên cứu; The Life
and Work of Buddhaghosa, PQÐTÐ, tr 2643 a-c).
NANAMOLI THERA
(Na-na-ma-lợi Trưởng lão) (1905-1960)
Tôn giả Nanamoli
sinh ngày
25-6-1905 tại Anh quốc, thế danh là Osbert Moore (Áo-tư-bá-
đặc-ma-nhĩ).
Thiếu thời, Tôn giả tùng học và tốt nghiệp tại Ngưu Tân
Ái Tắc Ðặc Học Viện. Trong lúc thế chiến thứ 2 xảy
ra, Tôn giả phục vụ trong hàng ngũ lục quân Anh, và đóng
quân tại Ý Ðại Lợi. Do nhân duyên dun rủi, Tôn giả cùng
người bạn là Harold Musson (Cáp-la-đức Mặc-Tốn), đọc
được một cuốn sách viết về Phật giáo của người Ý là
J. Evola (Nghệ-a-na); vì thế, 2 người phát tâm quy hướng
Phật giáo.
Sau khi đệ nhị thế
chiến kết thúc, Sư trở về nước, đến năm 1949 Sư cùng
Mặc Tốn quyết tâm sang Tích Lan nghiên cứu Phật học, và
may mắn được một Trưởng lão người Ðức là Nại-na-đề-
lộ-biện hướng dẫn gia nhập Tăng đoàn, dưới quyền điều
khiển của Ðại đức Ðại-na-nhã-biện-tì-trí-la-na-na.
Sang năm sau (1950), hai người thọ giới cụ túc với Ðại
na nhã biện nên tôn vị này làm thầy, và được pháp
hiệu là Nànamoli.
Ðến năm 49 tuổi
(1954) Na-na-ma-lợi chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ Pàli, Tân
cáp lợi và Miến Ðiện. Không bao lâu sau đó, Sư rất tinh
thông các ngôn ngữ nầy, nhờ vậy có điều kiện nghiên
cứu sâu về Phật pháp, và trở thành một học giả uyên
thâm. Từ đó, Sư cộng tác với Hiệp hội Thánh điển Pàli
để phiên dịch các kinh luận Pàli sau đây sang Anh văn: 1.
Thanh Tịnh Ðạo luận (Visuddhimagga); 2. Vô Ngại Giải Ðạo
(Patisambhidà-magga) 3. Chỉ Ðạo luận (Nettipakarana); 4. Tạng
luận Thích (Petakopadesa). Ngoài ra, Sư còn viết về Lịch
sử đức Phật và dịch kinh Trung bộ. Chừng ấy công trình
phiên dịch cũng đủ chứng minh trình độ Phật học uyên
thâm của Sư.
Sư sống rất giản
dị, tuân thủ giới luật một cách tinh nghiêm (trong suốt
11 năm trường, Sư chỉ mặc ròng y vàng, tượng trưng cho
sự thanh khiết, và cũng hiếm khi xỏ chân vào dép). Tính tình
hòa nhã, trầm lặng, ít nói, và mỗi lời nói của Sư đều
là lời vàng ngọc, đầy tính chất trí tuệ và truyền
cảm. Sư xem việc sinh tử nhẹ như lông hồng. Thế nên,
trong lúc chiến tranh, đã bao lần đối diện với cái
chết, nhưng Sư đều thoát khỏi.
Sư viên tịch năm
1960.
Từ lúc xuất gia cho đến lúc xả báo thân, ròng rã 11 năm
trời, Sư cống hiến trọn vẹn cho sự nghiệp phiên dịch
kinh điển, và truyền bá chánh pháp. Sư mất sớm, thật là
một tổn thất lớn đối với Phật giáo. (Tây Dương Phật
giáo học giả truyện, William Peiris soạn bằng Anh văn, Mai Nãi
Văn dịch ra Hán văn, xb. 1986, tr. 73)
LIỄU THAM hay DIỆP
QUÂN
(1916-1985)
Sư sinh năm 1916,
tại
tỉnh Chiết Giang, Trung quốc, xuất gia lúc còn trẻ, được
pháp hiệu là Liễu Tham. Sau đó, Sư tham học với Ðại sư
Thái Hư tại viện Giáo lý Hán tạng. Năm 1944, gặp cơ duyên
thuận tiện, Ðại sư cho phép Sư cùng Quang Tông và Bạch
Tuệ sang Tích Lan du học. Từ năm 1953-1956 Sư dốc tâm học
Anh văn và Pàli văn, đồng thời theo nhà học giả Pàli Bát
Nhã Nan đà (Pannananda) chuyên nghiên cứu Thanh Tịnh Ðạo
luận. Thế rồi, Sư đem phần luận văn học được mỗi ngày
dịch sang Hán văn. Sang năm 1957, Sư trở về nước mang theo
bản Thanh Tịnh Ðạo luận đã dịch, rồi cho ấn hành
chừng 100 bản để đáp ứng nhu cầu học Phật của người
trong nước. Sau đó, vì hoàn cảnh khó khăn, Sư phải hoàn
tục. Ðến năm 1978, Sư mới có thì giờ đem bản dịch còn
nhiều lầm lẫn trước kia ra hiệu đính, tới năm 1980 thì
hoàn chỉnh. Nhân bài phát biểu của Sư đăng trên tạp chí
"Lan Khải chi Quang Báo", các học giả trong nước
thấy rõ giá trị của dịch phẩm, nên yêu cầu Sư cho
xuất bản. Do vậy, nhà xuất bản Hoa vũ bèn đem ấn hành
thành 3 tập vào năm 1987.
Sư nổi tiếng thông
minh từ bé, được duyên lành sang Tích Lan du học trong 14 năm
(1944- 1957). Sau khi về nước, do nghịch cảnh Sư phải trở
về thế tục, nhưng vẫn lấy việc nghiên cứu Phật học và
phiên dịch kinh điển làm sự nghiệp. Ngoài bản dịch trên,
Sư còn dịch kinh Pháp cú và Nhiếp A Tì Ðạt Ma Nghĩa Luận
thuộc hệ thống Nam tạng. Sư viên tịch vào năm 1985 tại
quê nhà. (PQÐTÐ, tr. 165. a; Thanh Tịnh Ðạo luận, quyển thượng,
Ðài Loan xb. 1987)
-ooOoo-
LIST OF ABBREVIATIONS USED
(BẢNG TRA CHỮ TẮT)
A. : Anguttara
Nikàya
AA. : Anguttara Nikàya Atthakathà (Commentary) = Manorathapùranì
Cp. : Cariyàpitaka
Dh. : Dhammapada
DhA. : Dhammapada Atthakathà (Commentary)
Dhs. : Dhammasanganì
DhsA. : Dhammsanganì Atthakathà (Commentary) = Atthasàlinì
DhsAA. : Dhammasanganì Tìkà (Sub-commentary) = Mùla Tìkà (pt. I)
Dhk. : Dhàtukathà
D. : Dìgha Nikàya
DA. : Dìgha Nikàya Atthakathà (Commentary) = Sumangalavilàsinì
It. : Itivuttaka
Jà. : Jàtaka (Fausboll's ed.)
Kv. : Kathàvatthu
Mv. : Mahàvamsa
M. : Majjhima Nikàya
MA. : Majjhima Nikàya Atthakathà (Commentary) = Papancasùdanì
Miln. : Milinda-panhà
Netti. : Netti-pakarana
Nd1. : Mahà Niddesa
Nd2. : Cùla Niddesa (Siamese ed.)
Ps. : Patisambhidàmagga
PsA. : Patisambhidàmagga Atthakathà (Commentary) =
Saddhammappakàsinì
(Sinhalese Hewavitarne ed.)
Ptn1. : Patthàna, Tika Patthàna
Ptn2. : Patthàna, Duka Patthàna (Siamese and Burmese eds.)
Pm. : Visuddhimagga Atthakathà (Commentary) = Mahà Tìkà (Vis.
Chs. I
to XVII Sinhalese Vidyodaya ed.; Chs. XVIII to XXIII Burmese
ed.)
Pe. : Petakopadesa
Pv. : Petavatthu
S. : Samyutta Nikàya
SA. : Samyutta Nikàya Atthakathà (Commentary) =
Sàratthappakàsinì
Sn. : Sutta-nipàta
SnA. : Sutta-nipàta Atthakathà (Commentary) = Paramatthajotikà
Thag. : Thera-gàthà
Ud. : Udàna
Vbh. : Vibhanga
VbhA. : Vibhanga Atthakathà (Commetary) = Sammohavinodanì
VbhAA. : Vibhanga Tìkà (Sub-commentary) = Mùla-Tikà (pt. 2)
Vv. : Vimàna-vatthu
Vin. i. : Vinaya Pitaka (3) - Mahàvagga
Vin. ii. : Vinaya Pitaka (4) - Cùlavagga
Vin. iii. : Vinaya Pitaka (1) - Suttavibhanga 1
Vin. iv. : Vinaya Pitaka (2) - Suttavibhanga 2
Vin. v. : Vinaya Pitaka (5) - Parivàra
Vis. : Visuddhimagga (P.T.S. ed. and Harvard Oriental Series
ed.)
-ooOoo-
Dẫn Nhập
Thanh Tịnh
Ðạo
là gì? Chữ Thanh tịnh ở đây phải hiểu là Niết bàn. Vì
Niết bàn không có tất cả cấu uế, nên hoàn toàn Thanh
tịnh. Thanh Tịnh Ðạo là con đường dẫn đến sự
thanh tịnh ấy, cách đi đến gọi là con đường.
Trong vài trường
hợp,
con đường dẫn đến thanh tịnh được dạy là do tuệ
quán (quán về vô thường, khổ và vô ngã), như kinh nói:
"Tất cả hành vô
thường
Với tuệ quán thấy vậy
Ðau khổ được nhàm chán
Chính con đường Thanh tịnh". (Pháp cú 277)
Khi thì được bảo là
do Thiền định và Trí tuệ, như kinh nói:
"Người có
Thiền có trí,
Nhất định gần Niết bàn". (Pc. 372)
Khi thì được giảng
là
do nghiệp, như nói:
"Nghiệp minh và
chánh pháp
Giới, tối thượng sinh mạng
Chính nhờ các pháp trên
Khiến chúng sinh thanh tịnh". (Trung bộ III. 262)
Khi thì được giảng
là
do giới, như nói:
"Ai luôn luôn trì
giới
Trí tuệ khéo định tĩnh
Chí siêng năng dõng mãnh
Vượt bộc lưu khó vượt".
Và có trường hợp
được giảng là do Bốn niệm xứ, như khi nói:
"Nầy các Tỳ kheo, con đường nầy là con đường duy
nhất để thanh tịnh các hữu tình... để chứng Niết bàn,
đó là Bốn niệm xứ (Trường bộ II, 290)
Nhưng nếu nói một
cách
đầy đủ thì con đường dẫn đến thanh tịnh chính là 3 môn
học vô lậu: Giới, Ðịnh và Tuệ. Sự tu tập tăng thượng
giới được nêu bằng Giới; tu tập tăng thượng tâm
được nêu bằng Ðịnh; và tu tập tăng thượng tuệ,
bằng Tuệ. Hoặc là: Giáo lý tốt đẹp ở chặng đầu
được nêu bằng Giới; giáo lý tốt đẹp ở chặng
giữa được nêu bằng Ðịnh; và giáo lý tốt đẹp
ở chặng cuối được nêu bằng Tuệ. Chính bài kệ
183 trong kinh Pháp cú tóm tắt 3 ý nghĩa trên:
"Không làm mọi
điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Giữ tâm ý trong sạch
Chính lời chư Phật dạy".
Câu kệ đầu nói về Giới,
câu thứ hai nói về Ðịnh và hai câu cuối nói
về Tuệ.
Lại nữa, điều kiện
cần thiết để chứng ba minh chính là Giới; điều
kiện cần thiết để đạt được lục thông là Ðịnh;
và điều kiện cần thiết để đắc bốn Vô ngại giải chính
là Tuệ. Hoặc là: Ðề phòng vi phạm những ô nhiễm
là nhờ Giới; đề phòng các ám ảnh của ô nhiễm là nhờ
Ðịnh; đề phòng các tùy miên (khuynh hướng nội tại dẫn
đến ô nhiễm) là nhờ Tuệ.
Kinh còn nói rõ: Lý
do
đắc quả Dự lưu và Nhất lai là nhờ Giới, quả
Bất hoàn là nhờ Ðịnh, và quả A La Hán là nhờ Tuệ.
Vì bậc Dự lưu và Nhất lai được gọi là " người thành
tựu viên mãn các phẩm loại của Giới" bậc
Bất hoàn gọi là "viên mãn Ðịnh", và A La Hán
gọi là " viên mãn Tuệ".
-ooOoo-