CHƯƠNG V - ÐỊNH -
NHỮNG
ÐỀ MỤC KHÁC
1.
Biến xứ
nước
Người tu tập biến
xứ
này - cũng như trong trường hợp biến xứ đất - cần có
thế ngồi thoải mái và nắm lấy tướng nước. Nếu người
đã tu tập ở đời trước, thì khi cần tác ý đến nước,
biến xứ nước sẽ hiện ra. Nếu đời trước chưa tu tập
biến xứ này thì cần lấy một cái bát đổ đầy nước làm
căn cứ để tác ý đến nước, và miệng thầm nhủ "nước,
nước", cho đến khi nào Sơ tướng và Tợ tướng
khởi lên rõ rệt. Khi tướng ấy xuất hiện thì hành giả
đạt đến định cận hành và định an chỉ thuộc
Tứ thiền hay Ngũ thiền như trên đã nói.
2.
Biến xứ
lửa
Người muốn tu tập
biến
xứ lửa cần nắm lấy tướng lửa. Nếu hành giả đời
trước đã tu tập, thì có thể tác ý đến bất cứ loại
lửa nào khi cần. Nếu đời trước chưa tu tập thì phải
dùng một que củi đốt lên, rồi chú tâm đến ngọn lửa,
miệng thầm nhủ " lửa, lửa", cho đến khi nào 2 loại
định xuất hiện như trường hợp biến xứ nước.
3.
Biến xứ
gió
Người muốn tu tập
biến
xứ này cần phải nắm lấy tướng hư không, rồi an trú niệm
vào gió thầm nhũ "gió, gió", cho đến khi nào Sơ
tướng rồi tợ tướng xuất hiện.
4.
Biến xứ
xanh
Người tu tập biến
xứ
này cần phải nắm lấy tướng màu xanh. Nếu người đã từng
tu tập từ đời trước thì có thể tác ý về màu xanh ở
bất cứ vật gì. Nếu người chưa từng tu tập, thì phải
dùng hoa sen xanh đặt trên một vật cố định, rồi chú
tâm trên tướng ấy, thầm nhủ: "xanh, xanh", còn
các việc khác như đã nói trong phần biến xứ đất.
5.
Biến xứ
vàng
Người muốn tu tập
biến
xứ này cần phải nắm lấy tướng màu vàng nơi một cái
hoa, hay một tấm vải. Nếu đời trước đã tu tập thì tướng
màu vàng xuất hiện dễ dàng. Nếu đời trước chưa tu tập,
thì phải làm một biến xứ theo cách đã nói ở biến xứ
xanh, rồi chú tâm trên tướng ấy, thầm tưởng "vàng,
vàng".
6-9.
Biến
xứ màu đỏ; Biến xứ màu trắng; Biến xứ ánh sáng; Biến
xứ hư không.
Người muốn tu tập
các
biến xứ này cũng theo cách tương tự như đã trình bày ở
các biến xứ trên.
10.
Nói tổng
quát về tác dụng của các biến xứ trên
Ðức Ðạo sư đã dạy
về 10 biến xứ, mỗi thứ đều có thể làm nhân cho 4 thiền
hay 5 thiền. Ðó là chìa khóa chủ yếu của cõi sắc giới.
Trong những biến xứ này, biến xứ đất là căn bản
cho những thần thông, như: "một thân biến ra nhiều
thân". Biến xứ nước là căn bản cho những thần
thông như độn thổ, chui ra khỏi đất. Biến xứ lửa
là căn bản cho những năng lực làm ra khói, ra lửa,
nhưng chỉ đốt cháy những gì mình muốn đốt. Biến xứ
gió là căn bản cho những thần thông như tạo ra những
trận cuồng phong. Biến xứ xanh là căn bản cho những thần
thông như tạo ra những hình tướng màu đen, bóng tối.
Biến xứ vàng là căn bản cho những thần thông như tạo
ra những hình tướng màu vàng. Biến xứ đỏ là căn bản
cho những thần thông như tạo ra những hình tướng màu
đỏ. Ngoài ra, các biến xứ còn lại cũng có những tác
dụng tương tự như các loại vừa kể.
Tuy vậy, không phải
ai
cũng có thể tu tập được các loại biến xứ này. Bởi
vì, nếu một hữu tình thuộc loại sau đây thì không thể
tu tập bất cứ biến xứ nào: "Bị nghiệp làm chướng
ngại, bị phiền não làm chướng ngại, bị nghiệp dị thục
(quả báo của nghiệp) làm chướng ngại, thiếu đức tin,
thiếu dục, thiếu tuệ. Những kẻ này không thể nhập được
quyết định tánh trong các thiện pháp." (Vbh. 341)
Nghiệp
chướng
là chỉ những người có ác nghiệp kéo theo quả báo tức
thì vào lúc tái sinh. Phiền não chướng chỉ cho hạng
người có tà kiến bác bỏ nhân quả. Nghiệp dị thục
hay báo chướng chỉ cho hạng người có một kiết
sinh không có thiện căn. Thiếu đức tin là không tin
tam bảo. Thiếu dục là thiếu lòng ham muốn đối với
đạo lộ vô ngại. Thiếu tuệ là thiếu chánh kiến
thế gian và xuất thế gian. Tánh quyết định chỉ cho
thánh đạo.
Bởi vậy, việc tu
thiền
phải được thực hiện bởi một thiện nam tử không bị
báo chướng, không có phiền não chướng và nghiệp chướng,
nuôi lớn đức tin, có dục và tuệ, siêng nghe pháp và gần
gũi thiện hữu tri thức.
-ooOoo-
CHƯƠNG VI - ÐỊNH -
QUÁN BẤT TỊNH
1. ÐỊNH NGHĨA TỔNG
QUÁT
Theo luận chủ, 10
thứ
bất tịnh nơi thây chết không còn thần thức được kể
như sau: 1. Tướng phình trương; 2. Tướng xanh bầm; 3. Tướng
máu mủ; 4. Tướng nứt nẻ; 5. Bị gậm nhấm; 6. Bị rã rời;
7. Bị phân tán; 8. Bị chảy máu; 9. Bị trùng ăn; 10. Tướng
bộ xương. (Ch. III, 105)
2. TƯỚNG PHÌNH
TRƯƠNG
Khi một thiền giả
muốn
tu tập phép quán bất tịnh về một tử thi phình trương, cần
phải thọ giáo với một vị thầy am tường về đề tài
này. Lúc đi đến bãi tha ma hay nơi có tử thi, hành giả phải
thưa với một vị thượng tọa hay một tỳ kheo khác biết
việc mình làm, và nên đi theo chiều xuôi gió để tránh
hôi thối làm cho mình nôn mửa. Tử thi thích hợp phải là
tử thi của người cùng phái. Vì nếu thi thể của một phụ
nữ thì không thích hợp cho một hành giả phái nam. Thậm
chí, nếu thây mới chết, nó còn có thể trông đẹp nữa là
khác, và do đó có thể nguy hiểm cho đời sống phạm hạnh.
Khi đã đến nơi, hành giả phải đứng đối diện với tử
thi ở một khoảng cách vừa tầm nhìn rõ, không xa quá, cũng
không gần quá. Thế rồi, hành giả chú tâm trên đối tượng
ấy với các yếu tố: 1/ Theo màu sắc của nó; 2/ Theo đặc
điểm của nó; 3/ Theo hình dáng; 4/ Phương hướng; 5/ Ðịnh
xứ; 6/ Giới hạn của nó. Nhưng nếu quán tưởng theo các
cách trên mà tợ tướng không xuất hiện, thì hành giả
nên quán tưởng theo 5 cách khác nữa: 7/ Những khớp xương;
8/ Những chỗ mở ra; 9/Những chỗ lồi; 10/ Những chỗ lõm;
11/ Xung quanh 4 phía. Theo những cách này, hành giả chú tâm
vào tử thi, thầm nhủ: "Tướng phình trương, tướng phình
trương", cho đến khi nào hình ảnh tử thi hiện rõ
trong tâm hành giả. Nếu tướng ấy vẫn chưa hiện rõ,
hành giả phải lập đi lập lại nhiều lần: "Bất tịnh
là tướng phình trương, bất tịnh là tướng phình trương",
và nhắm mắt lại tưởng đến tướng ấy cho đến khi nào
tướng ấy hiện ra trước mắt, dù hành giả mở mắt nhìn
hay nhắm mắt quán.
Khi hành giả luyện
tập
đến độ nhuần nhuyễn, tợ tướng sẽ khởi lên, và khi
luyện tập tâm đối với tợ tướng, hành giả sẽ đắc
định an chỉ. Khi đã vững chắc với an chỉ, hành giả tu
tập tuệ giác và đắc quả A la hán.
Tướng tử thi phình
trương
được tu tập như trên thì các tướng bầm xanh v.v... cũng
áp dụng tương tự như thế, chỉ cần đổi danh từ
"phình trương" bằng danh từ thích hợp với tình trạng
tử thi mà mình đang quán tưởng.
3. BÀN TỔNG QUÁT
Một người đã đắc
thiền nhờ bất cứ pháp quán bất tịnh nào trên đây thì
thoát khỏi tham dục. Vì khi tâm đã được tập trung vào đề
mục quán tưởng thì không còn chú ý đến các đối tượng
bên ngoài.
Khi khảo sát bản
tính
của từng người để tìm một pháp quán bất tịnh thích hợp,
ta thấy như sau: Tướng thây phình trương thích hợp cho mẫu
người tham hình dáng, vì nó làm hiện rõ sự xấu xí của
hình dáng tử thi. Thây bầm xanh thích hợp cho vị nào
tham màu da, vì nó hiện rõ sự xấu xí dị hình của màu
da. Thây có mủ thích hợp cho một người tham mùi thơm
toát ra từ thân thể ướp hương, vì vết thương này làm
hiện rõ mùi thối tha liên hệ đến thân thể. Thây bị
chặt thích hợp cho một người tham sự chắc chắn của
thân thể, vì nó làm hiện rõ những lỗ hổng trong thân. Thây
bị gặm nhấm thích hợp cho một người tham sự tích tụ
của thịt ở những thân phần như bộ ngực, vì nó làm hiện
rõ sự tích tụ thịt đi đến tan rã. Thây rã rời
thích hợp cho một người tham dáng kiều diễm của tay
chân, vì nó làm hiện rõ tay chân bị rã rời như thế nào.
Thây phân tán thích hợp cho một người tham toàn bộ
một thân hình đẹp, vì nó làm hiện rõ sự phân tán và đổi
khác của toàn bộ thân thể. Thây chảy máu thích hợp
cho một người tham cái vẻ yểu điệu do đồ trang sức, vì
nó làm hiện rõ vẻ ghê tởm của thây chết cả mình đầy
máu. Thây bị trùng ăn thích hợp cho một người tham
sở hữu thân thể, vì nó làm hiện rõ thân này là chỗ ở
của nhiều loại trùng bọ. Một bộ xương thích hợp
với người tham răng đẹp, vì nó làm hiện rõ tính cách
ghê tởm của những cái xương trong cơ thể. Ðây là cách
phân loại bất tịnh có 10 thứ tùy theo tính tham.
Pháp quán bất tịnh
này chỉ ở trong phạm vi Sơ thiền, Nhị thiền và những
thiền khác không có. Mặc dù đối tượng này đáng ghê tởm,
nhưng nó lại là một động cơ khích lệ cho những người
bị sự bức bách của các triền cái, họ có thể quyết
tâm tuyên bố: "Chắc chắn bằng cách này ta sẽ thoát
khỏi già chết". Tác dụng của pháp quán này cũng giống
như thuốc xổ đối với một người đau bụng.
Tuy pháp quán bất
tịnh
này được chia thành 10 loại, nhưng đều có cùng một đặc
tính, đó là trạng thái không sạch, hôi hám, đáng ghê tởm.
Không những tử thi mới gọi là bất tịnh, mà một xác sống
cũng mang đầy đủ tính chất bất tịnh như một xác chết,
chỉ khác một điều là tính chất bất tịnh nơi xác sống
không được rõ rệt, vì nó may mắn được che dấu dưới
những lớp trang sức khả ái.
Ðây là bản chất
đích
thực của thân xác: Nó là sự tích tụ của hơn 300 cái xương
được nối lại với nhau bởi 180 khớp dính liền nhờ 900
cái gân, trét đầy khắp với 900 miếng thịt, được bọc
bằng lớp da trong ẩm ướt, bao ngoài với lớp da có những
lỗ rải rác đó đây, luôn luôn tiết ra như một cái bình
dầu mà trong đó cả một tập thể vi trùng cư trú. Ðó là
cái nhà của tật bệnh, nền tảng của những trạng thái
đau khổ, luôn luôn rỉ ra từ 9 lỗ như một ung nhọt kinh
niên. Nơi 2 con mắt ghèn chảy, nơi 2 lỗ tai thì cứt ráy, từ
2 lỗ mũi là nước mũi, từ miệng là thức ăn, mật, đàm,
máu; từ 2 lỗ bài tiết bên dưới là phân và nước tiểu,
và từ 99. 000 lỗ chân lông tiết ra một chất mồ hôi vô vị,
với ruồi nhặng bu quanh. Cái thân xác này, nếu không được
tắm rửa, chăm sóc, khoác y phục bên ngoài, thì xét về
tính chất đáng tởm, một ông vua cũng không khác gì người
hốt rác. Nhưng nhờ đánh răng, súc miệng, nhờ thoa ướp bằng
những hương hoa mà nó biến thành một trạng thái được
xem là tôi và của tôi. Cứ thế, đàn ông say đắm
đàn bà, đàn bà say đắm đàn ông, mà không nhận thức
cái thực chất dơ bẩn của cơ thể được che đậy bằng
những trang sức mong manh. Trong ý nghĩa tối hậu thật không
có một chỗ nào trên thân xác, dù nhỏ như hạt bụi, đáng
để mà tham đắm.
Khi có một mẫu nhỏ
nào nơi thân xác như tóc, lông, răng, móng rơi ra, thì người
ta sẽ không dám động tới, mà còn cảm thấy hổ thẹn, nhục
nhã, ghê tởm. Vậy mà, khi chúng còn ở trong thân xác - thì
mặc dù vẫn đáng ghê tởm - người ta lại xem là dễ chịu,
đáng ham muốn, trường cửu, khả ái, tự ngã v.v.... Bởi
vì bị trùm kín trong màn tối vô minh, bị nhuốm đầy tham
ái đối với tự ngã, mà người ta đã nhận thức sai lạc
như thế. Chẳng khác chi con chồn già trông thấy cái hoa đỏ
trên cây mà tưởng lầm là miếng thịt:
"Xưa có con chồn
già
Thấy cây rừng trổ hoa
Vội vàng chạy đến, nghĩ:
Ðây thịt, cây sinh ra !
Chồn ta nhai hoa
rụng
Chả thấy nước nôi gì
Tưởng thịt trên cây khác
Thịt rụng có ngon chi."
Thế nhưng, người
trí
sẽ quán sát thân này như sau:
"Thân xác thối
tha này
Như phân, như nhà xí
Khó ưa với người trí
Nhưng kẻ ngu say mê.
Như vết thương
chín
lỗ
Bọc trong lớp áo da
Rỉ bất tịnh mọi chỗ
Uế khí, mùi bay xa."
Do vậy, một tỳ kheo
có khả năng nên nắm lấy bất cứ tướng bất tịnh nào
khi thấy chúng hiển lộ, để làm một đề mục thiền quán,
hầu đạt đến định tâm.
-ooOoo-
CHƯƠNG VII - ÐỊNH
-
SÁU TÙY NIỆM
Thông thường pháp Tùy
niệm gồm có 6 thứ, nhưng nếu nói đủ thì có 10 tùy
niệm, đó là: Niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm giới,
niệm thí, niệm thiên, niệm tử, niệm thân, niệm tức, niệm
diệt.
1) Tùy niệm khởi
lên có cảm hứng từ đấng giác ngộ, gọi là Niệm Phật.
2) Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ pháp, gọi là Niệm
pháp.
3) Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ tăng, gọi là Niệm
tăng.
4) Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ giới, gọi là Niệm
giới.
5) Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ bố thí, gọi là Niệm
thí.
6) Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ cái chết, gọi
là Niệm tử.
7) Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ chư thiên, gọi
là Niệm thiên.
8) Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ thân thể, gọi
là Niệm thân hay thân hành niệm.
9) Tùy niệm bắt nguồn từ hơi thở ra vào, gọi là Niệm
tức, hay niệm hơi thở (anàpanàsati).
10) Tùy niệm có cảm hứng từ sự bình an, gọi là Niệm
diệt.
1. NIỆM PHẬT
Một thiền giả muốn
tu tập tùy niệm về đấng Giác ngộ, thì nên độc cư tại
một trú xứ thích hợp, và tưởng niệm đức tính đặc biệt
của đấng Giác Ngộ như sau: "Ðức Thế Tôn là bậc A
la hán, Chánh Ðẳng giác, đầy đủ minh và hạnh, đấng Thiện
Thệ, đấng hiểu rõ thế gian, bậc Vô thượng Ðạo sư điều
phục những người đáng điều phục, bậc thầy của chư
thiên và loài người, Phật, Thế Tôn . (M.I. 37; A. III. 285)
a. A La Hán
(Arahanta)
Trước tiên hành giả
niệm về những đức tính của bậc A la hán: - Ngài là bậc
hoàn toàn tách rời khỏi mọi cấu uế. Ngài đã tiêu diệt
tất cả mọi kẻ thù (tức là những nhiễm ô). Ngài đã
phá hủy hoàn toàn bánh xe luân hồi được làm bằng vô
minh và khát ái. Ngài xứng đáng nhận những đồ cúng dường
của cõi trời và cõi người. Ngài không có các hành vi mờ
ám như những kẻ ngu ở đời, tự khoe thông minh nhưng lại
làm ác. Vì thế, nên Ngài được gọi là A la hán:
"Bậc Thánh xa uế
nhiễm
Chiến thắng giặc não phiền
Các căm xe phá hủy
Xứng đáng được cúng dường
Không ác hành bí mật
Vì năm lý do nầy
Ngài có thể tuyên bố
Thành bậc A la hán."
b. Chánh Ðẳng Giác
(Sammàsambuddha)
Ngài là bậc Chánh
đẳng
giác, vì Ngài đã biết mọi sự vật một cách chân chính
(sammà). Nghĩa là Ngài đã thấu triệt bốn Thánh đế: Khổ,
tập, diệt và đạo. Cái gì cần thắng tri đã được thắng
tri (tức khổ đế). Cái gì cần tu tập đã được tu tập
(tức đạo đế). Cái gì cần được từ bỏ đã được từ
bỏ (tức tập đế). Cái gì cần chứng đắc đã được chứng
đắc (tức diệt đế). Cho nên Ngài xứng danh là bậc Giác
Ngộ. (Sn. 558)
c. Minh hạnh túc
(Vijjàcaranasampanno)
Ngài có đủ minh trí
và giới hạnh. Ở đây, minh trí là chỉ cho ba minh:
Thiên nhãn minh, Túc mạng minh và Lậu tận minh. Còn Hạnh
là chỉ cho 15 đức tính: Phòng hộ bằng giới; gìn giữ
các căn môn; biết vừa đủ trong sự ăn uống; Chánh niệm
tỉnh giác; có bảy thiện pháp (tín, tàm, quí, đa văn, tấn,
niệm, tuệ) và 4 thiền thuộc Sắc giới.
d. Thiện Thệ
(Sugatà)
Ngài được gọi là
đấng
Thi?n Thệ vì Ngài có 4 yếu tố: Cách đi tốt đẹp; đã đi
đến một nơi tốt đẹp; đã đi một cách đúng pháp; và
đã tuyên bố đúng. Cách đi tốt đẹp là đi theo con
đường Thánh đạo tám ngành. Ðã đến một nơi tốt đẹp
là đã đến Niết bàn bất tử. Ðã đi một cách đúng
pháp tức là Ngài không thiên về cực đoan nào trong 2 cực
đoan là thường kiến và đoạn kiên, không theo hướng đam
mê dục lạc, cũng không theo hướng ép xác khổ hạnh. Ngài
đã tuyên bố đúng tức là Ngài chỉ nói những lời
nói thích đáng, như đoạn kinh sau đây mô tả: "Bất cứ
lời nào đức Như Lai biết là không thật, không đúng,
đưa đến tai hại, làm người khác buồn khổ không thích
ý, Như Lai không nói lời ấy. Bất cứ lời nói nào Như Lai
biết là không thật, không đúng, đưa đến tai hại, nhưng
dễ nghe và người khác ưa thích, Như Lai không nói lời ấy.
Bất cứ lời nào Như Lai biết là thật và đúng, nhưng
đưa đến tai hại, làm cho kẻ khác buồn khổ không thích,
Như Lai không nói lời ấy. Bất cứ lời nào Như Lai biết là
thật và đúng, đưa đến lợi ích, nhưng khó nghe và làm
cho người khác không thích, Như Lai biết thời để nói lời
ấy. Bất cứ lời nào Như Lai biết là thật và đúng, nhưng
có hại, thì mặc dù vui tai và làm kẻ khác ưa thích, Như
Lai không nói lời ấy. Lời nói nào Như Lai biết là thật
và đúng, đưa đến lợi ích, dễ nghe, làm kẻ khác ưa thích,
Như Lai biết thời để nói lên lời ấy. (M. I, 395). Do vậy,
Ngài là bậc Thiện Thệ, vì tuyên bố chính đáng.
đ.
Thế
gian giải
Ngài là đấng biết
rõ
thế gian, vì Ngài đã biết cuộc đời trên mọi phương diện,
đã thâm nhập thế gian về mọi mặt, như kinh nói: "Nầy
hành giả, có một chỗ tận cùng thế giới, ở đây người
ta không sinh, không già, không chết, không tái sinh, có thể
được biết, được thấy hay đi đến bằng du lịch, điều
ấy Ta không tuyên bố. Tuy nhiên, Ta cũng không nói rằng có
sự chấm dứt khổ mà không cần đi đến tận cùng thế giới.
Ðúng hơn trong cái thân xác nhỏ bé nầy, với các tưởng,
các thức của nó, mà Ta công bố có thế giới, sự sinh khởi
của thế giới, sự chấm dứt của thế giới, và con đường
đưa đến sự chấm dứt." (Tương Ưng bộ kinh. IA, 69).
Hơn nữa, Ngài biết
cả
3 thế giới là thế giới các hành; thế giới của hữu
tình và thế giới của xứ sở. Thế giới các hành
là thế giới mà mọi loài hữu tình tồn tại nhờ thức
ăn. Thế giới hữu tình có nghĩa là Ngài rõ khuynh hướng,
tâm trạng và nghiệp báo thiện ác của tất cả các loài hữu
tình. Thế giới xứ sở tức là 10 phương thế giới
hay vũ trụ bao la. Trong vũ trụ nầy đức Phật biết rõ sự
vận hành sinh diệt của các hành tinh và những thứ khác.
e. Vô Thượng Sĩ
Ðiều
Ngự Trượng Phu.
Vì trong thế giới
Ta
bà nầy không có một người nào cao cả hơn Ngài về những
đức tính đặc biệt, do đó, Ngài được gọi là không ai
trên (Vô thượng sĩ). Ngài vượt hẳn thế gian về giới,
định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Như trong
kinh đã nói: "Ta không thấy trong thế giới với chư thiên,
ma, phạm vương, sa môn và Bà la môn với các tiểu vương và
loài người, không một người nào toàn vẹn hơn ta về giới..."
(S. I. 139). Cũng thế trong một kệ khác nói: "Ta không
có thầy, và người như Ta không có trong toàn thế giới."
(M. I, 171).
Ngài dẫn đạo những
người đáng dẫn đạo, và điều phục đủ mọi loài
chúng sinh, từ chư thiên cho đến loài phi nhân, như đoạn
kinh sau đây mô tả: "Nầy Kosi, Ta điều phục những ai
đáng được điều phục, khi thì ôn hòa, khi thì cứng rắn,
khi thì vừa ôn hòa, vừa cứng rắn". (A. II, 112) Do đó,
Ngài được gọi là Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu.
g. Thiên Nhân Sư.
Ngài dạy dỗ về
những
vấn đề trong hiện tại, những vấn đề thuộc đời sau,
và những mục đích tối hậu, tùy trường hợp thích đáng,
cho nên Ngài là bậc Thầy. Một đoạn trong Niddesa diễn tả:
"Ðức Thế Tôn là bậc dẫn đạo đoàn lữ hành, người
đưa kẻ lữ hành về đến nhà, đưa chúng vượt qua sa mạc
sinh tử." (Nd.1, 446)
Chư thiên và nhân
loại
là chỉ cho những kẻ tốt nhất, có khả năng tiến hóa nhất.
Thậm chí nhờ tài giáo hóa của Ngài mà loài súc sinh khi
may mắn nghe diệu pháp, cũng hưởng được nhiều lợi lạc,
được tái sinh vào những cảnh giới thuận tiện cho sự tiến
hóa trong tương lai.
h. Phật
Ngài là đấng Giác
Ngộ,
là bậc trí tuệ tuyệt vời, đã tự mình giác ngộ và
giác ngộ cho những kẻ khác cùng đạt đến mục đích trọn
vẹn. Hoặc như Niddesa nói: "Ngài là đấng đã tìm ra
chân lý, cho nên Ngài là Giác giả (Buddha); Ngài là đấng đánh
thức chúng sinh, nên Ngài là Giác giả." (Nd. I. 457)
i. Thế Tôn.
Thế Tôn (Bhagavant)
là
một danh từ có nghĩa kính trọng, tôn sùng gán cho Ngài,
được xem như cao cả nhất trong các chúng sanh, là bậc được
thế gian nhiệt thành tôn kính. Ngài còn được gọi là lưỡng
túc tôn, vì giới hạnh và trí tuệ của Ngài đã đạt đến
chỗ hoàn toàn viên mãn, nên được mọi loài tuyệt đối tôn
sùng. Danh hiệu Thế Tôn không phải do cha mẹ đặt ra mà
phát xuất từ sự giải thoát rốt ráo của những đấng Giác
ngộ, do sự chứng đắc Chánh biến tri dưới cội bồ đề,
nên Ngài được gọi là Thế Tôn. Ngài đã từ bỏ cả trăm
nghìn thứ phiền não, đã đoạn trừ mọi khát ái, loại trừ
10 bất thiện nghiệp, các lậu hoặc đã hoàn toàn đoạn tận,
như bài kệ sau:
"Từ bỏ tham sân
si
Ngài không còn lậu hoặc
Ác pháp được tận trừ
Thế Tôn xứng tên gọi."
Danh hiệu Phật ở
đây
chỉ kể có chín hiệu và ghép Vô Thượng Sĩ và Ðiều ngự
trượng phu thành một. Thế nhưng, theo các Kinh Luận của Ðại
thừa thì danh hiệu của Phật được tính thành 10, như sau:
1. Như Lai; 2. Ứng cúng; 3. Chánh Biến Tri; 4. Minh Hạnh Túc;
5. Thiện Thệ; 6. Thế Gian Giải; 7. Vô Thượng Sĩ; 8. Ðiều
Ngự Trượng Phu; 9. Thiên Nhân Sư; 10. Phật, Thế Tôn. (Kinh
Ðại Bát Niết Bàn Ðại Thừa, quyển 17 và 18). Và Ðại
Trí Ðộ Luận lại tách Phật, Thế Tôn riêng ra; đến Phật
là vừa đủ 10 hiệu, còn Thế Tôn được xem như một tôn
hiệu bao gồm đủ 10 đức kể trên.
2. NIỆM PHÁP
Một người muốn tu
tập
đề mục niệm pháp, hãy đi vào sống riêng biệt một mình
và tưởng niệm những đức tính đặc biệt của pháp như
sau: "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, tự chứng
ngay hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy,
có hiệu năng hướng thượng, được người trí chứng biết".
(M. I, 37)
Khéo thuyết
giảng
là giảng một cách lão luyện ở phần nhập đề, phần nội
dung và kết luận, tất cả đều hoàn hảo. Hoặc, toàn bộ
giáo pháp tốt đẹp ở chặng đầu với giới đem lại an lạc
bản thân, chặng giữa với định, tuệ, đạo và quả, tốt
đẹp ở chặng cuối với Niết bàn. Lại nữa, khéo giảng
vì pháp được tuyên bố một cách thích đáng không mâu thuẫn,
không trái ngược. Vì những pháp Ngài gọi là chướng ngại,
thực sự là chướng ngại, những pháp Ngài gọi là giải
thoát thực sự là giải thoát.
Thiết thực
hiện tại:
Vì pháp nầy được thấy bởi một con người cao quí đã
xa lìa tham dục nơi bản thân mình, như đoạn kinh mô tả:
"Nầy Bà la môn, khi một người bị tham chi phối, bị
tham tràn ngập, tâm bị ám ảnh bởi tham, thì nó suy nghĩ hại
mình, hại người, hại cả hai, và cảm thọ đau khổ về tâm.
Khi tham đã được trừ diệt, nó không suy nghĩ hại mình, hại
người, hại cả hai, và không cảm thọ đau khổ về tâm. Nầy
Bà la môn, đây là pháp thiết thực hiện tại". (A. I.
156). Hơn nữa, pháp nầy có thể trông thấy kết quả ngay
trong hiện tại, nên gọi là thiết thực hiện tại.
Không có
thời gian
nghĩa là pháp nầy không có chậm trễ trong việc đem lại kết
quả, nên gọi là không có thời gian. Hoặc, thay vì phải đợi
một thời gian mới có kết quả, thì pháp nầy đem lại kết
quả ngay tức khắc.
Ðến để mà
thấy
nghĩa là pháp nầy mời gọi người ta thẩm sát như sau:
"Hãy đến đây mà thấy pháp nầy", cho nên gọi là
"đến để mà thấy" (Ehipassika). Vì pháp xuất thế
nầy hoàn toàn thuần tịnh như mặt trăng rằm trên bầu trời
không mây, như ngọc mani trên tấm vải tinh sạch. Lại nữa,
pháp nầy mang tính chất hướng thượng, đưa đến đạo quả
giác ngộ và Niết bàn.
Ðược người
trí chứng
biết nghĩa là pháp nầy
được những người lợi căn, những bậc trí tuệ chứng
biết. Pháp nầy không thể thấy như người ta thấy một đóa
hoa, mà chỉ được thấy trong tự tâm mình, nghĩa là chỉ
có người trí mới kinh nghiệm được, chứ không thuộc
lãnh vực của những kẻ ngu, như một bài kệ đã đề cập:
"Người thực sự
có trí
Thì thường xuyên tu tập
Niệm tưởng về chánh pháp
Tối thắng nhiều tiềm năng."
3.
NIỆM
TĂNG
Một người tu tập
niệm
Tăng, nên đi vào độc cư tại những nơi thanh vắng để
tưởng niệm những đức tính đặc biệt của đoàn thể
Thánh chúng như sau: "Chúng đệ tử của Thế Tôn đã
đi vào thiện đạo, trực đạo, chân đạo, chánh đạo,
nghĩa là 4 đôi 8 vị. Chúng đệ tử nầy của Thế Tôn đáng
được cúng dường, cung kính chấp tay chào, là phước điền
vô thượng của thế gian." (A. III, 286)
Ði vào thiện
đạo, trực
đạo, chân đạo, chánh đạo
có nghĩa là đi vào con đường thánh thiện, con đường thẳng,
con đường đúng đắn và con đường chân chánh. Lại nữa,
con đường nầy là con đường trung đạo, từ bỏ hai cực
đoan là hưởng thụ và ép xác, từ bỏ những tà vạy và lỗi
lầm.
Bốn đôi 8 vị
nghĩa là trong 4 thánh quả, mỗi quả có 2 bậc như sau: Dự
lưu hướng, Dự lưu quả; Nhất lai hướng, Nhất lai quả; Bất
hoàn hướng, Bất hoàn quả; và A la hán hướng, A la hán quả.
Ðáng được
cúng dường
nghĩa là xứng đáng hưởng sự cúng dường của tín thí. Bởi
vì những người cúng dường cho chúng Tăng sẽ được kết
quả lớn như Pháp cú 107 nói:
"Dù trải một trăm
năm
Thờ lửa tại rừng sâu
Chẳng bằng trong giây lát
Cúng dường bậc chân tu."
Là ruộng
phước vô thượng
của thế gian nghĩa là
Tăng
chúng là đối tượng tuyệt hảo để cho chúng sinh gieo trồng
phước đức. Vì các loại công đức của thế gian đưa đến
an lạc hạnh phúc đều y cứ vào Thánh chúng để tăng trưởng,
nên chúng tăng là ruộng phước vô thượng của thế gian.
Khi hành giả tưởng niệm những đức tính đặc biệt của
Tăng như thế, thì tâm hành giả sẽ không bị tham, sân, si
chi phối, và dễ đưa đến an tịnh.
4. NIỆM GIỚI
Người muốn tu pháp niệm
giới nên đi vào độc cư tại một nơi thanh vắng và tưởng
niệm đến những loại giới khác nhau của chính mình. Nếu
giới pháp mà người xuất gia hay tại gia đã lãnh thọ,
không bị phá hủy ở chặng đầu, hay chặng cuối, như miếng
vải vị xé rách ở hai đầu thì giới ấy gọi là không
bị rách. Nếu giới không bị phá hủy ở chặng giữa,
thì gọi là giới không bị lủng, như miếng vải bị
đâm lủng ở giữa. Nếu học giới không bị vi phạm 2, 3,
lần liên tiếp, gọi là giới không bị vá. Nếu giới
không bị phá cùng khắp, cách nhau từng thời khoảng, thì gọi
là giới không bị lốm đốm, như con bò có những đốm
trên lưng.
Chính những giới ấy
là nền tảng đưa đến giải thoát, vì chúng giải tỏa khỏi
sự nô lệ cho dục ái. Chúng được người trí tán thán.
Chúng không liên hệ đến tham dục và tà kiến. Chúng có khả
năng đưa đến thiền định.
Khi chuyên tâm vào
việc
niệm giới, hành giả có sự tôn trọng đối với học pháp.
Vị nầy sống hòa hợp với những bạn đồng phạm hạnh,
không sợ bị lương tâm cắn rứt. Vị nầy thấy sự sợ
hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, đạt đến lòng tin viên
mãn. Vị nầy sẽ sống an lạc, dù không đạt được đạo
quả gì cao hơn, thì cũng đang trên đường tiến đến những
thiện thú tươi đẹp. Thế nên:
"Người thật sự
có trí
Sẽ thường xuyên niệm giới."
5. NIỆM THÍ
Người muốn tu tập niệm
thí nên phát tâm bố thí một cách tự nhiên, thường
san sẻ những gì mình có khi gặp người khác đến xin. Một
người thường bố thí thì được nhiều người thân cận
và mến mộ. Người nầy sẽ an ổn khi sống tại một trú
xứ với suy nghĩ: "Ta an trú với tâm không bị ô nhiễm
bởi tham." hay "Ta thích thú trong sự từ bỏ, ta vui
mừng được cơ hội ban phát cho người nghèo thiếu một
ít tài vật của chính mình." Khi một Tỳ kheo chuyên
tâm niệm tưởng về bố thí, vị ấy sẽ cảm thấy hân
hoan trong sự bố thí, hành xử phù hợp với tâm từ bi, và
niệm vô úy, và do đó, sẽ hưởng được nhiều an lạc.
6. NIỆM THIÊN
Người muốn tu tập niệm
thiên cần phải đi vào độc cư để tưởng niệm về
chư thiên, và tin rằng: "Có chư thiên thuộc cõi Tứ
thiên vương, chư thiên thuộc cõi Tam thập tam v.v... và chư
thiên ấy có giới... đa văn, bố thí, trí tuệ, đồng thời
trí tuệ ấy cũng có nơi ta". Khi hành giả niệm tín,
thí, giới, văn, tuệ của chư thiên, rồi liên tưởng mình
cũng có những đức tính ấy, thì tâm hành giả sẽ không bị
tham, sân, si ám ảnh.
Tóm lại, một Tỳ
kheo
chuyên tu tập niệm thiên sẽ được chư Thiên thương
tưởng, nếu không đắc quả gì cao, thì ít nhất cũng hướng
đến một cảnh giới tốt đẹp.
Nói chung, lục niệm
vừa
kể là đối tượng dành cho các Tỳ kheo tu tập. Khi hành giả
quyết chí chuyên niệm về một trong những đề mục ấy, cần
phải sống độc cư tại một nơi thanh vắng, dốc hết tâm
tư suy nghĩ về những đức tính tốt đẹp của đề tài
mình đã chọn. Nhờ chuyên chú vào đề mục với những tính
chất tốt đẹp, tâm hành giả sẽ dần dần loại trừ các
cấu uế và trở nên thanh tịnh, tạo điều kiện để chứng
đạt các thiền chứng. Ngoài ra, một cư sĩ nếu giới thanh
tịnh, cũng có thể tu tập 6 pháp nầy, nhờ đó các triền
cái sẽ lắng xuống, tâm trở nên an lạc, trí tuệ sẽ
phát triển, hướng đến những kết quả tốt đẹp trong đời
sống hiện tại.
-ooOoo-