PHẦN THỨ HAI - ÐỊNH
-ooOoo-
CHƯƠNG III - MÔ
TẢ
ÐỊNH - CHỌN ÐỀ MỤC THIỀN QUÁN
(Kammatthàna-gahana-niddesa)
Khi một người đã
đứng
vững trên đất giới và đang chấp nhận một pháp môn khổ
hạnh thì sẽ dễ dàng tu tập định. Nhưng cần phải khảo
sát cá tính của từng người, để chọn pháp định nào
thích hợp nhất mới có kết quả tốt đẹp. Ðể nắm vững
vấn đề định, chúng ta sẽ lần lượt trình bày các khía
cạnh sau: Ðịnh nghĩa định, đặc tính của định, phân loại
định, những trợ duyên và những trở ngại, làm cách nào
để tu tập và lợi ích của tu tập định.
1. ÐỊNH NGHĨA ÐỊNH.
Tiếng pàli
"Samàdhi" được dịch là định. Ðịnh nghĩa là tập
trung tâm ý vào một đề tài hay một đối tượng duy nhất
không được phân tán hay xao lãng.
2. ÐẶC TÍNH CỦA
ÐỊNH.
Ðặc tính của định
là không phân tán, loại trừ mọi dao động, tán loạn của
tâm trí.
3. PHÂN LOẠI VỀ
ÐỊNH.
Khái quát, định
được
xếp thành nhiều loại, từ một loại, 2 loại đến 5 loại.
a. Ðịnh
một loại:
Ý nghĩa tổng quát đã nói ở trên.
b. Ðịnh hai
loại:
Ðịnh cận hành và định an chỉ. Ðịnh cận hành
là sự nhất tâm đạt được nhờ các phép quán tưởng: Sáu
tưởng niệm, quán xác chết, quán sự bình an, quán bất tịnh
của thức ăn, phân tích tứ đại, và sự nhất tâm có trước
định an chỉ. Ðịnh an chỉ là sự nhất tâm theo liền
sau các việc đã chuẩn bị sẵn.
Ðịnh thế
gian và xuất
thế gian: Ðịnh thế
gian là sự nhất tâm có tánh thiện ở 3 cõi dục, sắc,
vô sắc. Ðịnh xuất thế gian: là định thuộc thánh
đạo.
Ðịnh câu hữu
hỉ
và định không hỉ. Ðịnh câu hữu hỉ là sự nhất
tâm ở 2 thiền đầu trong 4 thiền và 3 thiền đầu trong 5
thiền. Ðịnh không hỉ là sự nhất tâm trong 2 thiền
cuối.
c. Ðịnh 3
loại:
Ðịnh bậc hạ, bậc trung và bậc thượng. Ðịnh mới
đạt được là bậc hạ, định chưa phát triển là bậc
trung và định đã đến mức độ thuần thục là bậc
thượng.
Ngoài ra còn có Ðịnh
câu hữu hỉ, định câu hữu lạc và định câu hữu
xả. Ðịnh câu hữu hỉ: định ở 2 thiền đầu
trong 4 thiền hay 3 thiền đầu trong 5 thiền. Ðịnh câu hữu
lạc: Ðịnh ở tam thiền trong hệ thống 4 thiền và tứ
thiền trong hệ thống 5 thiền. Ðịnh câu hữu xả: định
ở thiền cuối cùng trong 2 hệ thống.
Lại có Ðịnh có
giới
hạn, định đại hành và định vô lượng. Ðịnh có giới
hạn là sự nhất tâm trong cận hành định. Ðịnh đại
hành là sự nhất tâm trong thiện pháp thuộc sắc giới
và vô sắc giới. Ðịnh vô lượng là sự nhất tâm
liên hệ đến thánh đạo.
d. Ðịnh 4
loại:
Ðịnh khó tiến lâu đắc, định khó tiến mau đắc, định
dễ tiến lâu đắc, và định dễ tiến mau đắc.
Khi một người tu tập những pháp thiền không thích hợp,
thì khó tiến lâu đắc. Khi tu tập pháp thiền thích hợp
thì dễ tiến mau đắc. Khi một người ít cấu uế,
nhưng căn môn cùn nhụt, thì tu tập dễ tiến nhưng lâu
đắc. Khi một người nhiều cấu uế, nhưng căn môn sắc
bén thì tu tập khó tiến nhưng mau đắc.
Ngoài ra còn có 4
loại
khác. Ðó là, ở sơ thiền, dùng 5 thiền chi tầm, tứ, hỉ,
lạc và nhất tâm để loại trừ 5 triền cái (tham, sân,
nghi, thùy miên, trạo cử). Ở nhị thiền bỏ tầm và tứ,
còn lại 3 thiền chi. Ở Tam thiền bỏ hỉ, còn 2 thiền chi.
Ở Tứ thiền bỏ lạc, còn nhất tâm và xả.
đ. Ðịnh 5
loại:
Ðó là 5 thiền: dùng hệ thống 4 thiền, nhưng chia nhị thiền
thành 2 là thiền không tầm có tứ và thiền không tầm
không tứ, do đó thành ra 5 thiền.
4. NHỮNG CHƯỚNG
NGẠI
TRONG SỰ TU TẬP
Khi khảo sát về
những
trở ngại đối với việc tu tập, các luận sư thường ghi
nhận 10 chướng ngại sau đây: Chướng ngại về trú xứ,
gia đình, lợi dưỡng, đồ chúng, việc xây cất, du lịch,
quyến thuộc, ưu não, sách vở và thần thông. Có người
trong lúc tu tập hay bận tâm quyến luyến đến chỗ ở của
mình, hoặc bị tình cảm gia đình trói buộc, hoặc do quyến
thuộc lôi kéo, hoặc vì những lợi dưỡng làm cho hệ lụy,
hoặc vì đồ chúng bủa vây chiếm hết thì giờ tu tập, hoặc
công việc xây cất chi phối tâm trí, hoặc ưa thích du lịch
đây đó, mất hết thì giờ, hoặc do sự buồn bực làm cho
trở ngại, hoặc vì đọc nhiều kinh sách làm cho tâm trí
phân tán, hoặc đặt sự tu tập vào mục đích đạt được
thần thông. Ðó là những trở ngại chính của người tu tập
thiền định.
5. KHẢO SÁT CÁ TÍNH
Ðể chọn đề tài tu
tập thích hợp cho từng đối tượng, các luận sư thường
chia thành 6 loại. Cá tính như sau: Cá tính nặng về tham, nặng
về sân, về si, về tín, về tuệ và tư duy. Lại còn có những
mối tương quan giữa các đức tính trên. Chẳng hạn, người
thiên về đức tin thường đi đôi với người nặng về
tham. Tính tham không từ bỏ cái gì có hại, còn đức tin thì
không bỏ cái gì có lợi. Người thiên về trí tuệ thường
đi đôi với tánh sân. Tính sân sinh khởi bằng cách bu?c tội
chúng sinh, trong khi tuệ sinh khởi bằng cách buộc tội các
hành. Người thiên về tư duy thường đi đôi với tính si,
và đặc tính của tầm cũng gần với đặc tính của si.
Tính si không an là do bối rối, tầm không an là do suy nghĩ
nhiều. Nếu phân tích thêm, ta sẽ thấy dục và mạn đều
liên hệ mật thiết với tham, và kiến chấp hay tà kiến
thì bắt nguồn từ si.
Phần lớn những đức
tính mà chúng ta hiện có thường bắt nguồn từ tiền kiếp.
Chẳng hạn, người nhiều tham có thể đời trước họ đã
làm nhiều việc mà họ ưa thích; người nhiều sân có thể
đời trước thường hay đâm chém hay làm những việc tàn bạo
khác; còn một người nhiều si, có lẽ trước kia đã từng
uống nhiều rượu, ít chú ý đến học vấn. Ðó là quan
điểm lấy nguồn gốc từ kiếp trước.
Hơn nữa, quan điểm
nầy
còn cho rằng 4 đại có ảnh hưởng đến tâm tính của mỗi
người. Chẳng hạn một người có tánh si là do hỏa đại
và địa đại tăng thịnh. Người có nhiều sân là do thủy
đại và phong đại tăng thịnh. Nhưng người nhiều tham là
vì 4 đại quân bình. Về khí chất, kẻ nặng về tham thì dư
đàm, người nặng về si thì dư phong. Tuy nhiên, những quan
điểm vừa nêu cũng không hoàn toàn đúng hẳn.
Nhưng muốn nhận xét
một
người thiên về tính nào nhiều hơn, luận chủ căn cứ vào
hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ, nhận thức và tâm trạng để
xếp loại.
Về hành vi,
cử chỉ.
Người có tính tham khi đi tự nhiên, bước chân cẩn thận,
tự nhiên và khoan thai. Người có tính sân, bước đi hấp tấp,
đặt chân xuống và dở chân lên đều nhanh nhẹn. Người có
tính si, dáng đi bối rối, để chân xuống và nhấc chân
lên một cách do dự.
Khi làm việc, người
tham làm việc một cách từ tốn, cẩn thận; người sân
làm việc một cách căng thẳng; người si làm việc một
cách vụng về. Khi ăn, người tham thích ăn thực phẩm ngọt
ngào, béo bổ; người sân ưa ăn đồ dai và chua; người si
không có sự lựa chọn nhất định. Khi nhìn sự vật, người
tham chú ý những gì mình thích, kể cả những chi tiết vụn
vặt, mà không quan tâm nhiều đến những khuyết điểm.
Người sân khi thấy một sắc pháp hơi khó ưa, thường xoi
mói các khuyết điểm nhỏ, mà bỏ qua những đức tính
khác; người si không có những chủ kiến nhất định, khen
chê theo ý của người khác.
Về tâm trạng:
Người tham thường có tâm trạng lừa dối, gian lận, kiêu
mạn, ác dục, bất mãn, làm đỏm, khoe khoang. Người sân thường
có tâm trạng giận dữ, thù hằn, phỉ báng, thống trị,
ganh tị, biển lận. Người si thường có tâm trạng đờ đẫn,
dao động, lo âu, bất định, bám víu không chịu xả bỏ.
Người có tín tâm, tính tình rộng rãi, mong muốn gặp những
bậc thánh, mong nghe diệu pháp, vui vẻ, hồn nhiên, thành thực
tin tưởng những gì gợi lên niềm tin. Người có tánh tuệ,
ngoan hiền, biết vừa đủ trong ẩm thực, chánh niệm tỉnh
giác, ưa sự thức tỉnh, có ý thức tôn trọng những
nguyên tắc. Người có tính tư duy, thích nói, dễ hòa mình,
không ham thích làm việc phước thiện, khó hoàn tất được
những công việc đã làm.
Tuy nhiên, những
chỉ dẫn
trên về cách nhận dạng tính tình không phải được lưu
truyền trong kinh hay luận, mà chỉ được diễn tả theo quan
điểm của các bậc thầy, do đó, không thể xem là một
chân lý hoàn hảo. Vì ngay cả một người có tính tham, hay
sân cũng không dễ gì đánh giá chính xác được tính tình
của họ, nếu ta chưa thực sự giác ngộ. Vả lại, ít có
người nào chỉ thuần nhất tham hay sân, mà thường là xen
lẫn nhiều đức tính khác nhau, và tùy theo mỗi cảnh ngộ
khác nhau.
6. PHÂN LOẠI ÐỀ MỤC
Tiếp theo sự khảo
sát cá tính là sự lựa chọn những đề mục thích hợp để
tu tập. Luận chủ đã khái quát các đề mục ấy thành 40
loại: Mười biến xứ, mười bất tịnh, mười chỗ tưởng
niệm, bốn phạm trú, bốn vô sắc xứ, một tưởng và một
phân tích.
Mười biến
xứ:
đất, nuớc, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng,
hư không.
Mười bất
tịnh:
Thây phình trướng, thây bầm xanh, thây máu mủ, thây nứt
nẻ, thây thú ăn, thây phân lìa, thây rã rời, thây chảy
máu, thây sâu đục, bộ xương.
Mười chỗ
tưởng niệm:
niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí,
niệm Thiên, niệm Chết, niệm Thân, niệm hơi thở và niệm
diệt.
Bốn phạm
trú:
Từ, Bi, Hỉ, Xả.
Bốn vô sắc:
Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi tưởng phi
phi tưởng.
Một tưởng:
tưởng đồ ăn bất tịnh.
Một phân
tích:
phân tích 4 đại chủng.
Trong 40 đề mục
trên,
thì 22 đề mục có tướng trạng bên ngoài, đó là: 10 biến
xứ, 10 bất tịnh của tử thi, niệm thân và niệm hơi thở.
Mặt khác, có 12 đề mục lấy tự tính làm đối tượng,
đó là: 8 trong 10 tưởng niệm - trừ niệm thân và niệm hơi
thở, tưởng thức ăn bất tịnh, phân tích 4 đại chủng,
Thức vô biên xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Còn những
đề mục khác không thể phân loại như thế được.
Xét về những duyên
(điều
kiện) làm cơ sở để chứng đắc các thiền, thì 9 biến
xứ - trừ biến xứ hư không - là những điều kiện để
chứng Vô sắc xứ. Mười biến xứ là những điều
kiện để chứng đắc các loại thắng trí (thần thông). Ba
phạm trú (vô lượng tâm) đầu là điều kiện để
chứng phạm trú thứ tư. Mỗi vô sắc cấp dưới là điều
kiện cho vô sắc trên nó một bậc. Phi tưởng phi phi tưởng
xứ là điều kiện để chứng diệt thọ tưởng định. Tất
cả là điều kiện phát sinh trí tuệ để sống an lạc
trong những sinh thú tốt đẹp.
7. ÐỀ MỤC THÍCH HỢP
CHO CÁC CÁ TÍNH
Mười phép quán bất
tịnh
của tử thi và niệm thân là những đề mục thích hợp cho
người nhiều tham dục. Bốn phạm trú và bốn biến xứ về
màu sắc là những đề mục thích hợp cho người hay sân.
Niệm hơi thở thích hợp cho người có tính si và người có
tính tư duy. Sáu niệm đầu trong 10 tưởng niệm thích hợp
cho những người có tịnh tín. Niệm chết, niệm diệt,
phân tích bốn đại, tưởng thức ăn bất tịnh, là bốn đề
mục thích hợp cho những người có tính tuệ. Những biến
xứ còn lại và những vô sắc thích hợp cho mọi loại
tính tình. Và bất cứ biến xứ nào cũng cần có giới hạn
cho người có tính tư duy và vô hạn cho người có tính si.
Những cách phân
loại
trên là nói theo thể thức đối trị trực tiếp và hoàn
toàn thích hợp, nhưng kỳ thực không có pháp tu nào mà
không trừ bỏ được tham, hỗ trợ được tín v.v... Nói một
cách khái quát thì: "Tu bất tịnh quán để trừ tham dục;
tu từ bi quán để từ bỏ sân hận; niệm hơi thở để từ
bỏ tầm tư duy; tưởng vô thường để từ bỏ ngã mạn"
(A. IV, 358)
Khi một hành giả đã
quyết tâm hạ thủ công phu, liều bỏ tính mệnh thì không
có một nỗi sợ hãi nào hay một chướng ngại nào là
không vượt qua được.
-ooOoo-
CHƯƠNG IV - ÐỊNH -
PHÂN TÍCH ÐỀ MỤC ÐẤT
(Pathavì- kasina -
niddesa)
Khi hành giả đã
chọn
một đề mục thích hợp để tu tập cần phải an trú tại
một trú xứ thuận tiện, tránh các chướng ngại sau: Trú xứ
quá rộng, mới mẻ, tả tơi, gần đường, có cây ăn trái,
có tiếng tăm, gần đô thị, gần chỗ lấy gỗ, gần đồng
ruộng cày cấy, có những người xung khắc nhau, gần cửa
khẩu, gần biên giới các nước, gần kinh đô, thiếu thiện
tri thức.
Nếu trú xứ quá rộng
thì sẽ có đông người thành ra bất tiện; hoặc một ngôi
chùa mới thì trở ngại vì việc xây cất; còn nếu chùa cũ
kỹ tơi tả, thì phải lo việc sửa chữa. Nếu gần đường
thì luôn luôn có khách lui tới. Nếu có cây ăn trái thì có
người đến hái quả. Nếu là chỗ nổi tiếng thì thường
có nhiều người lui tới đảnh lễ. Nếu gần đô thị sẽ
gặp những cảnh hào nhoáng đập vào mắt. Nếu gần chỗ lấy
gỗ sẽ gặp cảnh ồn ào tấp nập. Còn gần đồng ruộng
thì bị những người làm ruộng gây trở ngại. Nếu trú xứ
có những người chống đối nhau, thì gây nên không khí căng
thẳng bất an. Nếu ngôi chùa gần cửa khẩu thì bất tiện
vì có nhiều đoàn lữ hành tới xin tá túc. Nếu ở gần
biên giới các nước thì sợ có việc tranh chấp, binh đao xảy
ra. Nếu thiếu thiện tri thức thì không ai dìu dắt giúp đỡ.
Ðó là những điều kiện bất tiện đối với một hành giả
tu tập thiền quán.
Trái lại, một trú
xứ
thuận lợi cho sự tu tập sẽ có 5 yếu tố như đức Thế
tôn dạy: "Một trú xứ không quá xa, không quá gần và
có một con đường để đi lại; ban ngày ít người lui tới,
ban đêm ít ồn ào; ít ruồi, muỗi, gió, ánh nắng và các
loài bò sát; người sống trong đó dễ kiếm 4 thứ nhu yếu;
trong đó có những thượng tọa Tỳ kheo đa văn, thông kinh
điển, những người tuân giữ Pháp và Luật, thỉnh thoảng
hỏi nghĩa lý kinh điển thì những vị nầy có thể khai thị
những điều chưa được khai thị, trừ nghi cho hành giả những
điểm còn nghi". (A. v. 15)
Khi một Tỳ kheo đã
tìm được một nơi tương đối thuận lợi, thì cần phải
chọn một đề mục thích hợp để thiền quán. Ðề mục
hay biến xứ phổ thông nhất mà các Tỳ kheo thường dùng
là đề mục đất.
Cách làm biến xứ
đất
này có thể gắn cố định tại một chỗ hoặc dùng để
mang theo bên mình đều được. Biến xứ cố định thì nên
nắn một cục đất có hình dáng một đóa hoa sen, đường
kính khoảng một gang tay, đặt tại một chỗ thuận tiện
khi ngồi thiền, tránh các màu xanh, vàng, đỏ hoặc trắng.
Trước lúc ngồi, phải loại trừ các chướng ngại từ
nơi thân mình như tóc và móng tay dài, thân thể phải tắm
rửa sạch sẽ, vá lại áo rách, nhuộm lại y cũ v.v.. Thế
rồi, đặt hết tâm tư vào đối tượng ấy, nghĩ rằng:
"Chắc chắn bằng cách nầy ta sẽ thoát khỏi già chết".
Và suy nghĩ: "Dục đem lại vui ít mà khổ nhiều, não
nhiều", khởi lên sự khao khát thoát ly dục vọng, khao
khát từ bỏ mọi sự ô nhiễm của tâm hồn. Khởi lên niềm
hân hoan tưởng nhớ những đức tính đặc biệt của Phật,
Pháp, Tăng, khởi lên niềm kính phục với ý nghĩ rằng:
"Ðây là con đường từ bỏ mà tất cả chư Phật, Ðộc
giác và Thánh chúng đã dấn thân", Khởi lên niềm hăng
hái với ý nghĩ: "Bằng cách nầy, chắc chắn ta sẽ biết
được vị ngọt của hạnh độc cư". Sau đó, vị nầy
nên mở 2 con mắt một cách vừa phải, quán tưởng và tiếp
tục khai triển, nhưng mắt không rời đối tượng, như thể
đang nhìn gương mặt mình trên một tấm gương soi.
Hành giả tiếp tục
tu
tập quán biến xứ ấy cho đến khi thâm nhập vào nơi tâm,
bấy giờ dù mở mắt hay nhắm mắt, hành giả vẫn thấy tướng
ấy rõ ràng. Ðó tức là Sơ tướng đã phát sinh. Thế
rồi, tiếp tục quán chiếu dần dần, những triền cái được
dập tắt, cấu uế lắng xuống, tâm trở nên tập trung với
định cận hành và Tợ tướng xuất hiện. Sự khác
nhau giữa Sơ tướng và Tợ tướng, như sau:
Trong Sơ tướng, bất cứ lỗi nào của biến xứ đều
hiện rõ, nhưng Tợ tướng xuất hiện như thể tách rời
khỏi sơ tướng và trong sạch hơn gấp trăm ngàn lần.
Tâm hành giả bấy
giờ
trở nên an tĩnh, mà thông thường luận chủ gọi là phát
sinh 2 thứ định. Ðó là Ðịnh cận hành (upacàra) và
Ðịnh an chỉ (appanà). Ðịnh cận hành là do từ
bỏ những triền cái, và Ðịnh an chỉ là do sự xuất
hiện những thiền chi. Hai loại định nầy khác nhau chủ yếu
là khi Ðịnh cận hành thì các thiền chi (tầm, tứ, hỉ,
lạc, nhất tâm) còn yếu kém, nhưng đến khi Ðịnh an chỉ
thì các thiền chi trở nên mạnh mẽ, và do thế, khi định
nầy phát sinh là lúc hữu phần dừng lại, tâm tiếp tục với
một dòng tốc hành tâm suốt cả đêm ngày.
MƯỜI THIỆN XẢO
TRONG
ÐỊNH AN CHỈ
Nếu như hành giả đã
chọn được một trú xứ có khí hậu mát mẻ, ẩm thực đầy
đủ, không xa xóm làng, cũng không quá gần xóm làng, có thiện
hữu tri thức, nỗ lực tu tập mà vẫn không đắc định thì
phải nhờ đến 10 thiện xảo trong sự đắc định an chỉ
như sau: 1. Làm sạch nội, ngoại xứ. 2. Duy trì sự quân
bình giữa các căn. 3. Thiện xảo về tướng. 4. Nỗ lực tâm
đúng lúc nỗ lực. 5. Chế ngự tâm lúc đáng chế ngự. 6.
Khích lệ tâm lúc đáng khích lệ. 7. Nhìn tâm với thái độ
xả khi cần nhìn với xả. 8. Tránh những người không định
tĩnh. 9. Gần những người định tĩnh. 10. Quyết tâm đối
với định.
1. Làm sạch
nội, ngoại
xứ là giữ cho thân thể
và quần áo sạch sẽ.
2. Duy trì
các căn
là làm quân bình 5 căn tín, tấn, niệm, định, và tuệ. Vì
khi bất cứ một căn nào trở nên quá mạnh thì những căn
khác không phát huy được tác dụng của nó. Chẳng hạn một
người có tín nhiều, tuệ ít, thì tin tưởng thiếu phán
đoán, thiếu căn cứ. Còn một người nhiều tuệ mà ít
tín thì dễ sinh ra ngông cuồng, cũng như người bị lạm
thuốc rất khó chữa trị. Một người định nhiều, tấn
ít, thì dễ sinh giải đãi; một người tấn nhiều, định
ít, thì dễ sinh trạo cử. Nhưng nếu định quân bình với
tấn, thì không rơi vào giải đãi, và tinh tấn cân đối với
định thì không rơi vào trạo cử. Tuy nhiên, niệm mới là
yếu tố cần thiết nhất trong mọi trường hợp, vì nó có
khả năng thiết lập sự cân bằng giữa các căn khác.
3. Thiện xảo
về tướng
là sự khéo léo làm phát sinh tướng nhất tâm qua biến xứ
đất.
4. Nỗ lực
tâm khi cần
nỗ lực là khi tâm giải
đãi thì hành giả nên tu tập trạch pháp, tinh tấn và hỉ.
Có 7 pháp trợ duyên cho Trạch pháp giác chi là: 1. đặt câu
hỏi; 2. Làm sạch nội, ngoại xứ; 3. Quân bình các căn; 4.
Tránh những kẻ thiếu trí tuệ; 5. Thân cận người có
trí; 6. Ôn lại những tri kiến đã thủ đắc; 7. Quyết định
đối với trạch pháp.
Ðồng thời có 11
pháp
trợ duyên cho tinh tấn giác chi như sau: 1. Ôn lại sự khủng
khiếp của các đọa xứ; 2. Thấy lợi ích trong sự đạt
đến những điều thù thắng thuộc thế gian và xuất thế
gian; 3. Thấy rõ con đường mình đi cũng chính là con đường
mà chư Phật đã đi; 4. Phải tỏ ra xứng đáng với những
đồ khất thực; 5. Nhớ đến tính cách vĩ đại của đức
Ðạo Sư; 6. Nghĩ đến sự cao cả của chánh pháp; 7. Dùng
quán tưởng để đoạn trừ hôn trầm thụy miên; 8. Tránh
những kẻ biếng nhác; 9. Gần những người siêng năng; 10.
Ôn lại 4 chánh cần; 11. quyết định đối với tinh tấn.
Lại có 11 pháp trợ
duyên cho Hỉ giác chi: 1. NIệm Phật; 2. Niệm pháp; 3. Niệm
Tăng; 4. Niệm giới; 5. Niệm thí; 6. Niệm Thiên; 7. Niệm sự
bình an; 8. Tránh gần người thô lỗ; 9. Gần người tao nhã;
10. Ðọc lại những kinh khích lệ; 11. Quyết tâm đối với
hỉ.
5. Chế ngự
tâm lúc cần
chế ngự là khi tâm (dao
động)
thì cần tu tập khinh an, định và xả giác chi. Vì một tâm
dao động nhờ những pháp nầy mà được định tĩnh. Theo
luận chủ có 7 pháp trợ duyên cho khinh an giác chi như sau:
1. Dùng thực phẩm bậc thượng; 2. Ở nơi khí hậu tốt; 3.
Giữ tư thế thoải mái, dễ chịu; 4. Làm theo trung đạo; 5.
Tránh kẻ hung hăng, bạo động; 6. Gần gũi người thân
hành an tịnh; 7. Quyết tâm đối với sự khinh an.
Ðồng thời có 11
pháp
trợ duyên cho định giác chi: 1. Làm sạch nội ngoại xứ;
2. Thiện xảo về tướng; 3. Quân bình các căn; 4. Chế ngự
tâm khi cần chế ngự; 5. Tu tập tâm lúc cần tu tập; 6.
Khích lệ tâm bằng niềm tin và ý thức về cái chết; 7.
Nhìn mọi sự xảy ra với thái độ xả; 8. Tránh những kẻ
không định tĩnh; 9. Gần gũi người định tĩnh; 10. Ôn tầm
các thiền và giải thoát; 11. quyết tâm đối với định.
Lại có 5 pháp trợ
duyên cho xả giác chi: 1. Giữ thái độ xả đối với các hữu
tình; 2. Xả đối với các hành (loài vô tình); 3. Tránh những
người bảo thủ cố chấp; 4. Gần gũi người ưa hỉ xả;
5. Quyết tâm đối với xả.
6. Khích lệ
tâm lúc cần
khích lệ là hành giả nên
tự cảnh tỉnh về nỗi khổ sinh, già, bịnh, chết, và những
nỗi khổ khác.
7. Nhìn tâm
với thái
độ xả khi cần nhìn là
hành giả khi thấy có tiến bộ phải giữ tâm một cách
bình thản, an tịnh.
8. Tránh
những người
không định tĩnh là tránh
những kẻ đa đoan, hiếu sự, tâm trí tán loạn.
9. Gần gũi
người định
tĩnh là nên gần gũi
những
người đã xuất ly, đã đắc định.
10. Quyết
tâm đối với
định tức xem định là yếu
tố quan trọng, luôn luôn hướng tâm về định.
Khi hành giả hướng
tâm
tu tập theo những cách kể trên thì sẽ phát sinh 4 hoặc 5 tốc
hành tâm sau đây: tâm chuẩn bị; tâm cận hành; tâm thuận
thứ; tâm chuyển tánh; tâm an chỉ. Hoặc bỏ bớt tâm chuẩn
bị còn lại 4 tâm.
SƠ THIỀN
Ðến đây, hành giả
hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền,
có tầm, có tứ, với hỉ lạc do ly dục sinh; từ bỏ 5
pháp, đạt được 5 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có
10 đặc tính, và Sơ thiền nầy thuộc biên xứ đất.
Hoàn toàn ly
dục
nghĩa là thoát khỏi mọi dục vọng, vì dục là cái đối
nghịch với so thiền. Nếu có dục thì không thể đắc Sơ
thiền, cũng như có tối thì không có sáng. Danh từ "dục"
bao gồm nhiều thứ; Ðó là dục kể như đối tượng, tức
là những sắc pháp dễ ưa thích, và dục kể như cấu uế
như vibhanga nói: "Ðam mê là dục, thèm muốn là dục,
khát khao là dục".
Ly bất thiện
pháp
là xa lìa các triền cái khác ngoài dục. Như vậy, ly dục
là từ bỏ cái nhân của tham, còn ly bất thiện pháp
là từ bỏ cái nhân của si. Ly dục là thanh tịnh thân nghiệp,
ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp. Nói cách khác, ly
dục tức là thân viễn ly còn ly bất thiện
pháp tức là tâm viễn ly.
Ở đây, cũng nên
hiểu
thêm về ý nghĩa của dục. Chữ dục thường dùng
để dịch các từ chanda, kàma và ràga. Chanda rất
thông dụng, có nghĩa là hăng say, ham muốn tốt hoặc xấu. Kàma
chỉ chung ngũ dục thuộc dục giới, còn theo nghĩa hẹp là
dâm dục. Nếu kàma kết hợp với chanda thì
thành ra kàmacchanda nghĩa là dục tham. Ràga là
ham muốn, thèm khát theo ý xấu.
Ở trên nói đạt
được năm pháp tức chỉ cho 5 thiền chi là tầm, tứ, hỉ,
lạc và nhất tâm.
Tầm
(vitakka) là trạng thái hướng tâm đến một đối tượng;
nhiệm vụ nó là đập mạnh vào. Tứ (vicàra) là tư
duy được nâng lên cao độ. Ðặc tính của nó là liên tục
nhấn mạnh vào đối tượng. Nhiệm vụ của nó là khiến
cho những tâm pháp đều tập trung trên đối tượng.
Mặc dù tầm và tứ không rời nhau, nhưng tầm có nghĩa
là sự xúc chạm đầu tiên của tâm với đối tượng, như
đánh lên một tiếng chuông. Còn tứ là buộc tâm vào
một chỗ, như rung chuông. Hơn nữa, tầm được ví như
bàn tay nắm chặt cái đĩa kim loại bị hoen rỉ, còn tứ
như bàn tay chà xát cái đĩa ấy bằng một mảnh dẻ tẩm
dầu. Hoặc khi ta vẽ một cái vòng tròn thì cây kim cố định
giữa trung tâm ví như tầm, cây kim di động vòng quanh
cái tâm điểm đó gọi là tứ. Sơ thiền được xảy
đến cùng lúc với tầm và tứ nên được gọi
là "Câu hữu với tầm tứ".
Hỉ
là trạng thái tươi tỉnh, mát mẻ. Nó gồm có 5 cấp bậc
từ thấp lên cao: tiểu hỉ; hỉ như chớp nhoáng; hỉ như
mưa rào; hỉ nâng người lên và hỉ sung mãn. Tiểu hỉ
chỉ có thể là dựng lông tóc trong người mà thôi. Hỉ
như chớp nhoáng thỉnh thoảng lóe lên. Hỉ như mưa rào
nổi trên cơ thể liên tục, như sóng vỗ vào bờ. Hỉ
nâng người có thể làm cho thân thể mất trọng lượng
và bay bổng lên. Hỉ sung mãn là toàn thân được thấm
nhuần, như cái chai đổ đầy nước.
Năm thứ hỉ nói
trên,
khi được làm cho chín muồi thì sẽ viên mãn 2 thứ khinh an
là thân khinh an và tâm khinh an. Khinh an được làm cho chín
muồi sẽ viên mãn 2 thứ lạc là thân lạc và tâm lạc. Lạc
được ấp ủ làm cho chín muồi, sẽ viên mãn 3 thứ định
là định chốc lát, định cận hành và định an chỉ.
Lạc (sukha)
là sự hài lòng, sự hạnh phúc. Ðặc tính của nó là
làm thỏa mãn. Dụng của nó là tăng cường độ các pháp tương
ứng. Tướng của nó là sự hỗ trợ.
Khi hỉ lạc
được
liên kết, thì hỉ có nghĩa "hài lòng vì đạt
được điều mong ước", còn lạc là "kinh
nghiệm thực thụ đối với điều đã đạt được". Có
hỉ tất nhiên có lạc, nhưng có lạc thì
không nhất định có hỉ. Hỉ thuộc hành uẩn, lạc
thuộc thọ uẩn. Lúc một người khát nước kiệt sức trên
sa mạc mà thấy được vũng nước ven rừng, người ấy sẽ
có hỉ, nếu người ấy đi đến uống nước ấy thì
sẽ có lạc.
Nhất tâm
hay định là tâm chuyên chú vào một đối tượng duy
nhất.
Sơ thiền
là cấp thiền đầu tiên đối với các cấp bậc khác. Chứng
(upassampajja) là đạt đến, là thể nhập, đến nơi, sờ chạm,
thực hiện. Trú (viharati) là an trú trong tư thế thích
hợp đối với cấp thiền đã đạt được.
Từ bỏ 5 pháp
tức là từ bỏ 5 triền cái (tham, sân, hôn trầm, trạo hối
và nghi). Mặc dù lúc đắc thiền, các pháp bất thiện khác
cũng được từ bỏ, nhưng chỉ có 5 pháp nầy là đặc biệt
chướng ngại đối với thiền.
Khi tâm bị tham dục
chi phối do thèm muốn các đối tượng sai khác, thì không
thể tập trung vào một đối tượng duy nhất. Khi tâm bị
nhiễm độc bởi sân thì không thể sinh khởi hỉ lạc. Khi
tâm bị hôn trầm, thùy miên chi phối, thì rất khó điều
phục. Khi bị trạo hối quấy nhiễu, thì tâm trở nên bất
an, lăng xăng. Khi hoài nghi nổi lên thì tâm không thể bước
lên đạo lộ để đắc thiền.
Ðây là bản dồ dùng
5 thiền chi đối trị 5 triền cái.
Thiền
chi |
* |
Triền
cái |
Tầm |
đối
trị |
Hôn trầm |
Tứ |
đối
trị |
Nghi |
Hỉ |
đối
trị |
Sân |
Lạc |
đối
trị |
Trạo hối
(cử) |
Nhất
tâm (định) |
đối
trị |
Tham dục. |
Những ví dụ về 5
triền
cái: Tham dục được ví như một tô nước có trộn lẫn
các màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Sân được ví như một
nồi nước đang đun sôi sùng sục. Hôn trầm được ví
như một hồ nước bị rong rêu che phủ. Trạo hối
được ví như một hồ nước bị gió chao làm cho nổi
sóng. Nghi được ví như một hồ nước bị khuấy bùn
đục ngầu. (Tương Ưng bộ kinh, Chương II, phẩm VI, mục
55, tr. 126-129)
Tốt đẹp ở 3
phương
diện là chỉ cho 3 giai
đoạn
đầu, giữa và cuối. Ở Sơ thiền, sự thanh tịnh đạo lộ
là chặng đầu; sự tăng trưởng xả là chặng giữa và sự
toại ý là chặng cuối.
Mười đặc
tính
là chặng đầu có 3, chặng giữa 3 và chặng cuối 4. Chặng
đầu 3 đặc tính là: tâm được lọc sạch chướng ngại
do thiền; nhờ lọc sạch nó chuẩn bị cho trạng thái quân
bình ở chặng giữa tức tịnh chỉ tướng; nhờ tâm đã
chuẩn bị, nên dễ thể nhập trạng thái ấy. Chặng giữa
3 đặc tính là: hành giả bấy giờ, với trạng thái xả,
nhìn tâm đã được thanh lọc; nhìn tâm đã được chuẩn bị
cho tịnh chỉ, và nhìn sự xuất hiện của nhất tướng. Chặng
cuối có 4 đặc tính là: toại ý vì không có sự quá độ
nào trong các pháp khởi lên; toại ý vì các căn chỉ có một
nhiệm vụ duy nhất; toại ý vì sự nỗ lực đã có kết quả;
toại ý với nghĩa lý thuần thục. Ðó là 10 đặc tính khi
m?t hành giả đã đạt được Sơ thiền.
Khi hành giả đã làm
chủ sự tác ý, làm chủ sự chứng đắc, làm chủ sự quyết
định, làm chủ sự xuất định và làm chủ sự quán
sát, thì lúc xuất khỏi sơ thiền đã trở nên quen thuộc.
Vị nầy có thể quán những khuyết điểm của nó như sau:
"Thiền nầy bị đe dọa vì gần các triền cái, và các
thiền chi còn yếu do bởi tầm, tứ còn thô". Hành giả
có thể nghĩ đến Nhị thiền là an tịnh hơn; do đó, chấm
dứt bám víu vào Sơ thiền, mà khởi sự làm những gì cần
thiết để đạt đến Nhị thiền.
NHỊ THIỀN
Ðến đây, "hành
giả làm tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Nhị thiền,
nội tĩnh nhất tâm, không tầm, không tứ, với hỉ và lạc
do định sanh; Vị ấy từ bỏ 2 pháp, có được 3 pháp,tốt
đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính và thuộc biến xứ
đất."
Làm tịnh chỉ
tầm và
tứ nghĩa là làm cho tầm
và tứ lắng xuống, vượt qua Tầm và Tứ,
hai thiền chi này không có mặt ở Nhị thiền.
Nội tĩnh
nhất tâm:
Nội là phát xuất từ nội tâm. Tĩnh là làm cho
tâm an ổn với niềm tin, làm lắng dịu sự dao động. Nhất
tâm là làm tâm thuần nhất, vững chãi, là sự tập
trung cao độ. Từ nầy chỉ cho định.
Có hỉ và lạc
như đã giải thích ở Sơ thiền. Do định sanh nghĩa là
sinh từ định của Sơ thiền, hoặc sinh từ định tương
ưng.
Từ bỏ hai
pháp
là từ bỏ tầm và tứ. Có được 3 pháp là có hỉ,
lạc và nhất tâm. Những gì còn lại cũng giống như đã
nói ở Sơ thiền.
Khi hành giả đã
nhuần
nhuyễn đối với Nhị thiền, dần dần sẽ thấy rõ Nhị
thiền còn có những khuyết điểm. Do đó, hướng đến Tam
thiền.
TAM THIỀN
Ðến đây, "Hành
giả ly hỉ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm thọ
lạc, một trạng thái mà các bậc thánh tuyên bố là
"Có xả và chánh niệm, trú trong an lạc", và vị
này đạt đến Tam thiền, từ bỏ một pháp, có được 2 pháp,
tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính và thuộc biến
xứ đất. "
Ly hỉ
là vượt qua, làm rơi rụng Hỉ ở Nhị thiền.
Trú xả (Upekkha-xả)
có nghĩa là ngắm nhìn sự vật khi chúng xảy ra một
cách thản nhiên, không thêm không bớt, không thành kiến.
Khái niệm xả này gồm có 10 thứ: Xả thuộc 6 căn; Xả thuộc
4 phạm trú; Xả kể như một giác chi; Xả về tinh tấn; Xả
về hành uẩn; Xả về thọ uẩn; Xả thuộc tuệ; Xả kể
như tính trung lập đặc biệt; Xả ở thiền; Và xả kể như
sự thanh tịnh.
Xả thuộc 6
căn
là xả ở một vị đã đoạn tận lậu hoặc. Xả kể
như một phạm trú là thái độ bình đẳng đối với mọi
loài chúng sanh. Xả kể như một giác chi là trạng
thái trung tính. Xả về tinh tấn là trạng thái không
quá tinh cần, cũng không quá biếng nhác. Xả thuộc hành
uẩn là thái độ thản nhiên đối với những triền cái.
Xả về thọ uẩn là tình trạng không lạc không khổ.
Xả thuộc tuệ là tính cách trung lập đối với sự
suy đạt. Xả kể như tính trung lập đặt biệt là một
trong 4 pháp thuộc bất định pháp. Xả thuộc thiền
là tính vô tư bình đẳng. Xả kể như sự thanh tịnh
là loại xả nhờ đã được tịnh chỉ hết các đối lập.
Tóm lại, Xả nầy có đặc tính là trung tính; Nhiệm vụ
nó là không can dự. Nó được biểu hiện bằng vô dục.
Nhân gần của nó là sự từ bỏ hỉ. Ðó là giải thích về
Xả. Sau đây, tiếp tục giải thích các vấn đề ở
trên.
Chánh niệm
tỉnh giác:
Vị ấy nhớ lại (sarati) nên gọi là chánh niệm (sati); có
sự giác tỉnh toàn vẹn, nên gọi là tỉnh giác (sampajàna).
Mặc dù chánh niệm và tỉnh giác nầy cũng hiện hữu ở 2
thiền đầu, nhưng chưa rõ rệt lắm.
Thân cảm thọ
lạc
là vị này cảm thấy lạc liên hệ đến thân thể, và sau
khi xuất thiền vẫn còn lạc.
Tam thiền
là theo thứ tự thiền này được chứng vào hàng thứ 3.
Từ bỏ một
pháp, có
hai pháp là từ bỏ hỉ,
khởi lên lạc và nhất tâm. Ðây là những yếu
tố căn bản của thiền thứ 3 này. Nhưng hành giả tu tập
thiền này đến độ thuần thục, dần dần sẽ nhận ra thiền
này vẫn còn khuyết điểm, nên hướng tâm đến thiền thứ
tư.
TỨ THIỀN
Bước sang giai đoạn
này
" Với sự từ bỏ lạc và khổ, với sự biến mất từ
trước của hỉ và ưu, vị này chứng và trú Tứ thiền,
không khổ, không lạc, có sự thanh tịnh của niệm nhờ xả.
" Và như vậy, hành giả đắc Tứ thiền, từ bỏ một
pháp, có 2 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính
và thuộc biến xứ đất.
Với sự từ bỏ
lạc
và khổ là từ bỏ lạc
và khổ của thân. Với sự biến mất của hỉ và
ưu là sự biến mất lạc và khổ của tâm. Từ
trước là không phải ở giai đoạn Tứ thiền mới xảy
ra.
Không khổ
không lạc:
không khổ vì vắng mặt thân khổ; Không lạc vì
vắng mặt thân lạc. Bằng câu này, luận chủ nêu lên loại
cảm thọ thứ ba trái ngược hẳn với khổ và lạc, chứ
không phải chỉ có sự vắng mặt của khổ và lạc mà
thôi. Do đó, không khổ không lạc còn gọi là xả.
Từ bỏ một
pháp, có
được hai pháp là từ bỏ
lạc, có được xả - kể như cảm thọ - và nhất
tâm. Ðây là những yếu tố căn bản của thiền thứ
tư này.
Tóm lại, trải qua
các
giai đoạn từ Sơ thiền đến thứ tư, dần dần các yếu tố
được loại trừ và còn lại như sau:
- Sơ thiền bỏ 5 triền
cái, được 5 thiền chi. - Nhị thiền bỏ tầm tứ,
còn lại hỉ, lạc và nhất tâm. - Tam thiền bỏ
hỉ còn lại lạc và nhất tâm. - Tứ thiền
bỏ lạc còn lại nhất tâm và Xả.
Hệ thống 5 thiền
Ngoài ra, có một số
luận sư còn chủ trương hệ thống 5 thiền. Hệ thống này
chỉ khác hệ thống 4 thiền ở chỗ chia thiền thứ hai
thành ra 2 cấp, như bảng so sánh sau đây:
Hệ
thống 4 thiền |
Hệ
thống 5 thiền |
Sơ thiền |
Sơ thiền |
Nhị thiền |
Nhị thiền |
Tam thiền |
Tam thiền |
Tứ thiền |
Tứ thiền |
Ngũ thiền. |
-ooOoo-