CHƯƠNG VIII -
ÐỊNH -
NHỮNG TÙY NIỆM KHÁC
(Anussati
Kammatthàna-niddesa)
1. NIỆM CHẾT
Sau sự tu tập về 6
tùy niệm là tu tập về niệm chết. Ở đây chết là
sự gián đoạn mạng căn được giới hạn trong một đời
sống. Cái chết nầy có thể chia thành 2 loại: Chết đúng
thời hạn và chết phi thời. Chết đúng thời hạn xảy
đến hoặc do hết phước đức, hoặc do hết thọ mạng, hoặc
do hết cả hai cùng lúc. Cái chết do hết phước đức như
người bị chết đói mặc dù thân thể không đau ốm gì.
Cái chết do hết thọ mạng như những người già chết mà
chúng ta thường thấy. Còn chết phi thời là cái chết
xảy đến đột ngột do ác nghiệp đời trước đã gây,
nên đời nầy bị người ta giết hại bằng vũ lực hoặc
bằng binh khí.
Một người muốn tu
tập
phép quán nầy, cần đi vào độc cư và chuyên tâm tác ý một
cách trí tuệ như sau: "Chết sẽ xảy đến, mạng căn sẽ
bị gián đoạn." hay: "chết, chết". Hành giả
có thể tác ý đến cái chết một cách chung chung, hoặc
tác ý cụ thể đến những người trước đây đã thọ hưởng
đầy đủ dục lạc mà mình từng quen biết, nhưng giờ đây
họ đã ra người thiên cổ. Hành giả nghĩ đến trường hợp
người ấy và thầm nhủ: "Cái chết thực sự đã xảy
đến.", làm như vậy, tức là niệm chết một cách có
trí tuệ.
Khi một người tu
tập
niệm chết như vậy thì những triền cái của vị này được
điều phục, niệm được an trú với cái chết làm đối
tượng, và có thể đạt đến c?n hành định.
TÁM CÁCH NIỆM CHẾT
Nhưng, nếu hành giả
nhận thấy sự tu tập niệm chết không được tiến bộ thì
có thể áp dụng 8 cách sau: 1/ Có sự xuất hiện của một
kẻ sát nhân; 2/ Sự thành công bị phá sản; 3/ So sánh; 4/
Thân thể bị san sẻ với nhiều chúng sinh; 5/ Mạng sống
mong manh; 6/ Không tướng; 7/ Sự giới hạn của đời người;
8/ Sự ngắn ngủi của sát na.
1/ Có sự xuất
hiện
của một kẻ sát nhân nghĩa là vị ấy nên nghĩ về mạng
sống của mình cũng như của mọi người rất là mong manh,
như đang bị một kẻ sát nhân rình rập định sát hại bất
cứ lúc nào. Bởi vì, mọi chúng sinh từ lúc mới chào đời
là đã tuần tự du hành hướng về cái chết. Do vậy mà
có một bài kệ cảnh tỉnh như sau:
"Ngày nay đã qua
Mạng sống giảm dần
Như cá ít nước
Nào có vui gì!
Ðại chúng cần phải tinh tấn
Như cứu đầu cháy
Phải nghĩ vô thường
Chớ có phóng dật."
2/ Sự thành công
bị
phá sản nghĩa là mọi sự thành công dù vẻ vang đến
đâu cũng đều chứa cái mầm móng của sự thất bại và
suy tàn. Hơn nữa, mọi sức khỏe sẽ chấm dứt bằng tật
bệnh, mọi tuổi trẻ sẽ chấm dứt bằng già nua, mọi sự
sống chấm dứt bằng cái chết. Tất cả sự tồn sinh trên
thế gian đều do sinh mà có, bị già ám ảnh, bị tật bệnh
tấn công thình lình, và bị cái chết đánh gục.
3/ Bằng cách so
sánh
là so sánh mình với những hạng người có danh vọng, công
đức, sức mạnh, thần thông, trí tuệ và với đức Phật
Ðộc giác và đức Phật toàn giác. Những vị có tài năng
đức hạnh, sự nghiệp và công hạnh cao cả, chung cục cũng
phải tuân theo định luật vô thường, không thoát khỏi
cái chết. Thế thì, chắc chắn cái chết cũng sẽ đến với
ta như đã đến với các vị ấy.
4/ Thân thể bị
san
sẻ với nhiều chúng sinh nghĩa là thân thể của ta có
nhiều chúng sinh cư trú, mà luận chủ cho là có 80 gia đình
vi trùng, sống bám vào thân ta từ ngoài da cho đến trong
xương tủy.
5/ Mạng sống
mong
manh là mạng sống con người liên quan mật thiết với
những yếu tố khác nhau để được tồn tại một cách rất
tạm bợ. Nếu khi thở vào mà không thở ra, khi nóng lạnh bất
hòa, khi 4 đại mâu thuẫn nhau, hay không được tiếp tế thức
ăn, thì mạng sống liền kết thúc.
6/ Không tướng
nghĩa là có tính cách bấp bênh, khônh thể định trước
được. Người ta không thể biết trước là mình sẽ chết
vì bệnh gì, chừng nào chết, thọ bao nhiêu tuổi, và sẽ
chết tại nơi nào. Ðó là sự vô tướng hay tính cách bất
định của cái chết.
7/ Sự giới hạn
của
đời người là mạng sống con người tối đa cũng chỉ
độ trên trăm tuổi, nhưng mấy ai sống đến tuổi đó, có
người chỉ sống được 70, 50, 20 v.v.... Thậm chí có người
từ giã cuộc đời từ lúc còn nằm trên nôi. Ðó là sự
giới hạn của đời sống.
8/ Sự ngắn ngủi
trong sát na nghĩa là đời của chúng sanh vô cùng ngắn
ngủi chỉ trong khoảng một niệm. Như cái bánh xe khi lăn chỉ
lăn trên một điểm và khi nghỉ cũng chỉ nghỉ trên một
điểm (điểm tiếp giáp với đất). Mạng sống chúng sinh cũng
chỉ trong khoảnh khắc, khi niệm ấy qua đi, chúng sinh ấy
được coi như đã kết thúc. Ðó là niệm chết theo nghĩa sự
ngắn ngủi trong sát na.
Tóm lại, khi hành
giả
tưởng niệm về sự chết bằng một trong tám cách nói
trên, tâm vị ấy sẽ an trú trong chánh niệm, những triền
cái bị áp đảo, và những thiền chi xuất hiện. Vị ấy sẽ
không còn tham luyến đối với các hữu, không còn bám víu
vào đời sống, không bị cấu uế chi phối, tướng vô thường
dần dần phát triển trong tâm. Nhờ đó, khi chết vị ấy
chết một cách tỉnh táo, không vọng tưởng. Trong khi những
chúng sinh chưa tu tập niệm chết thường là nạn nhân của
hãi hùng kinh sợ, bối rối dữ dội vào lúc chết. Khác hẳn
những chúng sinh ấy, người có tu tập niệm chết dù không
đạt được bất tử ngay trong hiện tại, ít ra cũng hướng
đến một cảnh giới tốt đẹp khi thân hoại mạng chung.
2. NIỆM THÂN HAY
THÂN
HÀNH NIỆM
Pháp môn thân hành
niệm
này do đấng Ðại Giác khám phá và công bố để cho các đệ
tử dùng làm một đề tài thiền quán. Trước khi Phật phát
hiện, trong hàng ngũ ngoại đạo chưa hề có pháp môn này.
Những ai tu tập pháp thiền này sẽ được lợi ích như đoạn
kinh mô tả: "Hỡi các tỳ kheo, ai thưởng thức thân
hành niệm, người ấy nếm vị bất tử, ai không thưởng
thức thân hành niệm, người ấy không nếm được vị bất
tử. " (A. I, 45)
Thông thường pháp
quán thân hành niệm gồm có 14 đề mục: Niệm hơi thở (sẽ
xếp thành mục riêng); nói về thế ngồi; các loại tỉnh
giác; về pháp quán bất tịnh; quán tứ đại; và về 9
pháp quán tử thi nơi nghĩa địa "đề mục này đã được
nói ở trước".
Ở đây, chủ yếu đề
cập đến 32 vật bất tịnh như kinh văn mô tả: "Lại
nữa, này các tỳ kheo, một tỳ kheo quán sát thân này, từ
dưới bàn chân trở lên cho đến đỉnh tóc, bao bọc bởi
da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân
này đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận,
tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, phân, mật,
đàm, niêm dịch, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ
da, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu
và não. (M III, 90)
Ba mươi hai vật này
được xếp thành 6 nhóm như sau:
- Nhóm 1 (tóc
lông), gồm
5 thứ: tóc, lông, móng, răng, da.
- Nhóm 2 (thịt xương), gồm 5 thứ: thịt, gân, xương, tủy,
thận.
- Nhóm 3 (tim phổi), gồm 5 thứ: tim, gan, hoành cách mô, lá
lách, phổi.
- Nhóm 4 (ruột não), gồm 5 thứ: ruột non, màng ruột, mỡ
da, phân, não.
- Nhóm 5 (máu mủ), gồm 6 thứ: mật, đàm, mủ, máu, mồ
hôi, mỡ.
- Nhóm 6 (nước tiểu), gồm 6 thứ: nước mắt, nước
mũi, nước miếng, niêm dịch, nước khớp xương, nước
tiểu.
Ở đây chỉ kể có 32
vật bất tịnh và chia thành 6 nhóm; Nhưng các luận điển của
Bắc truyền được kể thành 36 vật, và chia thành 3 nhóm:
Nhóm I gồm có 12 thứ ở ngoài thân là: tóc, lông, móng, răng,
ghèn, nước mắt, nước mũi, nước bọt, phân, nước tiểu,
cáu bẩn, mồ hôi. Nhóm II gồm có 12 thứ ở trong thân là:
da, da non, máu, thịt, gân, mạch, xương, tuỷ, lớp mỡ da, mỡ,
óc, màng bọc gân thịt. Nhóm III gồm có 12 thứ nằm sâu
trong thân là: gan, mật, ruột, dạ dày, lá lách, thận, tim,
phổi, bàng quang, mề phân, đờm đỏ, đờm trắng. (Kinh Ðại
Bát Niết Bàn Ðại thừa, quyển 24. Ðại Sớ Diễn Nghĩa
Sao, quyển 30).
Một hành giả muốn
tu
tập đ? mục thiền này, trước hết phải đến thụ giáo với
một vị thầy đã có kinh nghiệm tu tập về nó. Vị thầy
cần chỉ dạy cho hành giả 7 điều thiện xảo để áp dụng
cho việc tu tập như sau: 1/ Học thuộc tên gọi của các vật;
2/ Làm cho nó thuộc nằm lòng; 3/ Biết rõ màu sắc của mỗi
vật; 4/ Biết rõ hình dáng của mỗi vật; 5/ Biết rõ phương
hướng; 6/ Biết rõ vị trí; 7/ Biết rõ giới hạn.
Ðó là 7 thiện xảo
mà một hành giả muốn tu tập về quán tưởng 32 vật bất
tịnh trước hết phải học tập. Tiếp đến vị thầy cần
phải hướng dẫn về 10 thiện xảo trong việc chú tâm như
sau: 1/ Về thứ tự; 2/ Không quá nhanh; 3/ Không quá chậm; 4/
Tránh phân tâm; 5/ Vượt qua khái niệm; 6/ Lần lượt loại
bỏ; 7/ Về định; 8/ - 10/ Về bản kinh trình bày rõ vấn đề
trên.
Nói chung, hành giả
khi
bắt đầu học thuộc phải nhớ rõ thứ tự của từng
vật; khi khảo sát không nên quá nhanh, cũng không
được quá chậm; vì nhanh hay chậm đều làm cho vật ấy
không hiện rõ ràng. Ðồng thời phải chú tâm không
được để tâm bị phân tán trong những đối tượng bên
ngoài. Khi tâm phân tán thì thiền định bị thối thất. Tiếp
đến là vượt qua khái niệm, nghĩa là phải quên tên
gọi của chúng mà chú trọng khía cạnh ghê tởm của
chúng. Thế rồi, cần lần lượt loại bỏ những phần
nào không hiện rõ mà chú tâm vào những phần hiện rõ. Nhờ
đó mà hành giả phát sinh định tâm. Nhưng hành giả
phải biết cách điều hòa mới đạt được kết quả tốt
nhất. Nếu một tỳ kheo tu tập tăng thượng tâm mà chỉ
tác ý đến tướng định, thì tâm dễ trở nên giải
đãi. Trái lại nếu tinh tấn quá mức, thì cũng dễ
sinh ra trạo cử. Thế nhưng, nếu chỉ tác ý đến tưởng
xả, thì tâm sẽ không tập trung đúng mức để diệt trừ
các lậu hoặc. Về 3 bản kinh: Ba bản kinh này chủ yếu
lý giải về sự khéo léo trong cách tu tập pháp thiền kể
trên, như được diễn tả: " Này các tỳ kheo, như một
người thợ vàng thiện xảo sửa soạn lò bệ, đốt lò và
đổ vàng thô vào đó để luyện, thì vị ấy thỉnh thoảng
thụt bệ, thỉnh thoảng rưới nước, thỉnh thoảng ngồi
canh chừng. Nếu người thợ vàng ấy chỉ có một bề thụt
ống bệ thì vàng sẽ cháy; nếu chỉ có một bề rưới nước,
thì vàng sẽ nguội lạnh; và nếu chỉ ngồi nhìn mãi thì
vàng không được tôi luyện đúng mức. Nhưng nếu vị ấy
thỉnh thoảng thụt bệ, thỉnh thoảng rưới nước, thỉnh
thoảng ngồi canh chừng, thì vàng sẻ trở nên nhu nhuyến, dễ
sử dụng, tươi sáng không vỡ bể và dễ uốn nắn, muốn
làm đồ trang sức như dây chuyền, kiềng vàng đều làm
được dễ dàng.
Cũng vậy, này các
tỳ
kheo, có 3 tướng mà tỳ kheo tu tập tăng thượng tâm cần
phải thỉnh thoảng tác ý... thì tâm vị ấy trở nên nhu
nhuyến, dễ sử dụng và tập trung đúng mức để diệt trừ
lậu hoặc. Vị ấy sẽ có khả năng chứng đắc bất cứ
trạng thái nào mà vị ấy mong muốn chứng đắc nhờ vào
trí tuệ." (A. I, 256)
BÀN CHI TIẾT VỀ 32
UẾ
VẬT
Khi khởi sự tu tập,
trước hết hành giả hãy khảo sát đối tượng thứ nhất
của 32 uế vật, tức là tóc v.v... Phương pháp khảo sát
là dựa vào 5 yếu tố đã đề cập trên, tức là: màu sắc,
hình dáng, phương hướng, xuất xứ và giới hạn của nó.
Trước hết, tóc bình thường có màu đen, ngoại trừ
vài trường hợp có những màu sắc khác. Về hình dáng,
tóc có hình ống dài. Về phương hướng, chúng ở
phía trên. Về xuất xứ, chúng ở trong lớp da sát lớp
da bao bọc cái sọ. Về giới hạn, ở 2 bên chúng là
2 vành tai, phía trước là cái trán, và phía sau là cái gáy.
Nói chung, chủ yếu của phương pháp khảo sát là làm nổi
bất tính chất bất tịnh của chúng.
Hành giả lần lượt
khảo sát 31 vật còn lại cũng theo phương cách vừa kể. Nhưng
ở đây, chúng ta cũng nên ghi nhận vài vật cụ thể mà luận
chủ đã khảo sát tỉ mỉ để hiểu rõ và đối chiếu với
y học hiện đại. Chẳng hạn về răng, luận chủ bảo
rằng từ răng cửa cho đến răng cùng được chia thành 4 loại:
từ loại răng 1 chân, đến 2 chân, 3 chân và cuối cùng là
4 chân. Về xương có tất cả 300 xương, bao gồm 64 đốt
xương chân, 64 xương sụn phụ thuộc vào thịt, 18 xương sống,
24 xương sường (gồm cả 2 bên), 14 xương ngực, 7 xương cổ
v.v...; cộng tất cả thành số lượng kể trên. Về quả
tim, luận chủ bảo: ở người có trí tuệ trái tim hơi
rộng, còn ở người không có trí tuệ, nó chỉ là một
cái chồi hoa sen. Về mật, gồm có mật tại chỗ và
mật luân lưu. Mật luân lưu rải ra như một giọt dầu lan
trên mặt nước khắp cả châu thân, trừ tóc, lông v.v...
Khi túi mật bị xáo trộn, sinh vật sẽ nổi điên khùng, mất
hết tàm quí, và làm những việc không suy nghĩ. Về đàm,
nó có màu trắng, khi thức ăn rơi xuống bao tử lớp đàm sẽ
phủ lên trên giống như nắp đậy của một thùng phân. Nếu
đàm yếu, thì bao tử trở nên hôi hám ghê tởm như mùi
phân hay mùi trứng thối. Về máu: máu của người có
tánh tham thì màu đỏ; tánh sân thì màu đen;
tánh si thì giống như nước rửa thịt; máu ở người
hay suy nghĩ thì giống như canh đậm màu; ở người có
tánh tín thì giống như hoa vàng. Ở người có tánh tuệ
thì trong sáng, không vẩn đục. Ðó là trạng thái của máu
tùy theo tâm tính của mỗi hạng người. Về nước ở khớp
xương: đây là chất nhờn ở trong những khớp xương
nơi cơ thể. Nó có nhiệm vụ làm cho trơn khớp. Nếu chất
nước nầy thiếu hụt thì một người đi đứng, cử động
rất vất vả, làm cho tứ chi bị đau nhức.
Khi hành giả chú
tâm
quan sát về màu sắc, hình dáng, phương hướng, trú xứ và
ranh giới của 32 vật nầy cho đến lúc dù mắt không trông
thấy, chúng vẫn hiện rõ trong tâm. Ðó là sự tu tập về học
tướng đã nhuần nhuyễn, rồi phát triển tính chất
ghê tởm của chúng làm cho tâm cảm thấy nhàm chán, đó là
tợ tướng xuất hiện. Khi hành giả khai triển được
tợ tướng, làm cho nó rõ ràng, thì định tướng sẽ
khởi lên. Nhưng, nên nhớ rằng pháp quán về 32 vật bất tịnh
này chỉ ở trong lãnh vực sơ thiền, chứ không có trong
các tầng thiền cao hơn.
3. NIỆM TỨC HAY
NIỆM
HƠI THỞ
Bây giờ đến phần mô
tả sự tu tập niệm hơi thở kể như một đề mục thiền.
Ðề tài này được Thế Tôn trình bày cặn kẽ thành 16
công đoạn như sau: Nầy các tỷ kheo thế nào là niệm hơi
thở được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ đưa đến
an lạc, loại trừ các nhiễm ô, làm cho tịnh chỉ các tư
duy bất thiện khi chúng khởi lên? Ở đây, nầy các tỷ
kheo, một tỷ kheo đi đến khu rừng, hay đến một gốc cây,
hoặc ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú niệm
trước mặt, luôn tỉnh giác, vị ấy thở vào và thở ra:
1. Khi thở vô
dài, vị
ấy biết "Tôi thở vô dài". Khi thở ra dài, vị
ấy biết "Tôi thở ra dài".
2. Khi thở vô ngắn, vị ấy biết "Tôi thở vô ngắn".
Khi thở ra ngắn, vị ấy biết "Tôi thở ra ngắn".
3. Vị ấy tập "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở
ra".
4. Vị ấy tập "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở
ra".
5. Vị ấy tập
"Cảm giác hỉ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập
"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra".
6. Vị ấy tập "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở
ra".
7. Vị ấy tập "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ trở
ra".
8. Vị ấy tập "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở
ra".
9. Vị ấy tập
"Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập
"Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra".
10. Vị ấy tập "Khiến tâm hân hoan, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập "Khiến tâm hân hoan, tôi sẽ thở
ra".
11, Vị ấy tập "Khiến tâm định tĩnh, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập "Khiến tâm định tĩnh, tôi sẽ
thở ra".
12. Vị ấy tập "Khiến tâm cởi mở, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập "Khiến tâm cởi mở, tôi sẽ thở
ra".
13. Vị ấy tập
"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập
"Quán vô thường, tôi sẽ thở ra".
14. Vị ấy tập "Quán tan hoại, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập "Quán tan hoại, tôi sẽ thở ra".
15, Vị ấy tập "Quán tịch diệt, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập "Quán tịch diệt, tôi sẽ thở
ra".
16. Vị ấy tập "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra". (Tương
ưng V, 321-2)
KHAI TRIỂN ÐỀ TÀI
THEO 4 NIỆM XỨ
a. Quán niệm thân
thể
nơi thân thể.
"Hành giả quán niệm
thân thể nơi thân thể bằng cách áp dụng 4 đề mục đầu
(như trên), để tu tập như sau: "Tôi có ý thức rõ rệt,
về trọn cả hơi thở mà tôi đang hít vào. Tôi có ý thức
về trọn cả hơi thở mà tôi đang thở ra. Tôi đang hít
vào và làm cho sự điều hành trong thân thể tôi trở nên tĩnh
lặng. Tôi đang thở ra và làm cho sự điều hành trong thân
thể tôi trở nên tĩnh lặng". Cũng như khi quay một vòng
dài, người thợ tiện khéo tay ý thức rằng mình đang xoay
một vòng dài, và khi xoay một vòng ngắn, ý thức rằng
mình đang xoay một vòng ngắn. Người hành giả mỗi khi hít
vào một hơi dài, ý thức rằng mình đang hít vào một hơi
dài. Mỗi khi thở ra một hơi dài, ý thức rằng mình đang
thở ra một hơi dài. Mỗi khi hít vào một hơi ngắn, ý thức
rằng mình đang hít vào một hơi ngắn. Mỗi khi thở ra một
hơi ngắn, ý thức rằng mình đang thở ra một hơi ngắn.
Người ấy tự mình tập luyện như sau: "Tôi có ý thức
rõ rệt về trọn cả hơi thở mà tôi đang thở vào. Tôi
có ý thức về trọn cả hơi thở mà tôi đang thở ra. Tôi
đang thở vào và làm cho sự điều hành trong thân thể tôi
trở nên tĩnh lặng. Tôi đang thở ra và làm cho sự điều hành
trong thân thể tôi trở nên tĩnh lặng". Cứ như thế, hành
giả sống thường trực trong sự quán niệm thân thể trong
thân thể, hoặc quán niệm bên trong lẫn bên ngoài. Người
ấy sống trong sự thường trực quán niệm quá trình sinh khởi
nơi thân thể, hoặc quán niệm quá trình hủy diệt nơi thân
thể. Hay người đó quán niệm "có thân thể đây",
để quán chiếu và ý thức được sự có mặt của thân thể,
và như vậy, người ấy sống một cách tự do, không bị bất
cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận. Ðó là
phương pháp quán niệm thân thể nơi thân thể.
b. Quán niệm cảm
thọ
nơi cảm thọ.
Hành giả quán niệm
cảm
thọ nơi cảm thọ bằng cách vừa theo dõi hơi thở- từ 5
đến 8 đã nói ở trên - vừa ý thức mỗi khi có một cảm
thọ khoái lạc: "Ta đang có một cảm thọ khoái lạc".
Mỗi khi có một cảm thọ khổ đau, người ấy ý thức rằng:
"Ta đang có một cảm thọ khổ đau". Mỗi khi có một
cảm thọ không khoái lạc, cũng không khổ đau, người ấy
ý thức rằng: "Ta đang có cảm thọ không khoái lạc cũng
không khổ đau". Khi có một cảm thọ khoái lạc vật chất,
người ấy ý thức rằng: "Ta đang có một cảm thọ
khoái lạc vật chất". Khi có một cảm thọ khoái lạc
tinh thần, người ấy ý thức rằng: "Ta đang có một cảm
thọ khoái lạc tinh thần". Khi có một cảm thọ khổ
đau vật chất, người ấy ý thức rằng: " Ta đang có một
cảm thọ khổ đau vật chất". Khi có một cảm thọ khổ
đau tinh thần, người ấy ý thức rằng: "Ta đang có một
cảm thọ khổ đau tinh thần". Khi có một cảm thọ vật
chất không khoái lạc cũng không khổ đau, người ấy ý thức
rằng: "Ta đang có một cảm thọ vật chất không khoái
lạc, cũng không khổ đau". Khi có một cảm thọ tinh thần
không khoái lạc, cũng không khổ đau, người ấy ý thức rằng:
"Ta đang có một cảm thọ tinh thần không khoái lạc cũng
không khổ đau". Cứ như thế, hành giả trong sự thường
trực quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ, hoặc quán niệm
bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài cảm thọ ấy; hoặc
quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài cảm thọ ấy. Người
ấy sống trong sự thường trực quán niệm quá trình sinh khởi
cảm thọ hay quá trình hủy diệt cảm thọ. Hoặc người
ấy quán niệm: "có cảm thọ đây", đủ để quán
chiếu và ý thức được sự có mặt của cảm thọ đó;
và như thế, người đó sống một cách tự nhiên, không bị
bất cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng bận. Ðó
là phương pháp quán niệm cảm thọ nơi cảm thọ của một
thiền quả.
c. Quán niệm tâm
thức
nơi tâm thức.
Hành giả quán niệm
tâm thức nơi tâm thức bằng cách kết hợp với các đề mục
hơi thở (từ 9 đến 12) như sau: "Mỗi khi tâm thức có
tham dục, người ấy ý thức là tâm thức mình có tham dục.
Mối khi tâm thức không có tham dục, người ấy ý thức là
tâm thức mình không có tham dục. Mỗi khi tâm thức có sân
hận, người ấy ý thức là tâm thức mình có sân hận. Mối
khi tâm thức không có sân hận, người ấy ý thức là tâm
thức mình không có sân hận. Mỗi khi tâm thức si mê, người
ấy ý thức là tâm thức mình si mê. Mỗi khi tâm thức
không si mê, người ấy ý thức là tâm thức mình không si
mê. Mỗi khi tâm thức có thu nhiếp, người ấy ý thức là
tâm thức mình có thu nhiếp. Mỗi khi tâm ý thức trở thành
khoáng đạt, người ấy ý thức là tâm thức mình trở
thành khoáng đạt. Mỗi khi tâm thức mình trở thành hạn hẹp,
người ấy ý thức là tâm thức mình trở nên hạn hẹp. Mỗi
khi tâm thức đạt đến trạng thái cao nhất, người ấy ý
thức rằng tâm thức mình đạt đến trạng thái cao nhất.
Mỗi khi tâm thức có định người ấy ý thức tâm thức
mình có định. Mỗi khi tâm thức mình không có định, hành
giả ý thức rằng tâm thức mình không có định. Mỗi khi tâm
thức mình giải thoát, hành giả ý thức rằng tâm thức
mình giải thoát. Mỗi khi tâm thức mình không giải thoát,
hành giả ý thức rằng tâm thức mình không giải thoát.
Cứ như thế, hành
giả
sống trong sự thường trực quán niệm nơi tâm thức, hoặc
quán niệm bên trong, hoặc quán niệm bên ngoài tâm thức ấy,
hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên ngoài. Người ấy sống
trong sự thường trực quán niệm quá trình sinh khởi của
tâm thức hay quá trình hủy diệt của tâm thức, hoặc cả
quá trình sinh khởi lẫn hủy diệt của tâm thức. Hoặc người
ấy quán niệm: "có tâm thức đây", đủ để quán
chiếu và ý thức được sự có mặt của tâm thức; và như
vậy, người ấy sống một cách tự do, không bị một thứ
gì trong cuộc đời làm vướng bận. Ðó là phương pháp
quán niệm tâm thức nơi tâm thức của một thiền giả dựa
trên hơi thở".
d.
Quán niệm
đối tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức (quán
pháp trên
các pháp)
Hành giả quán niệm
đối
tượng tâm thức nơi đối tượng tâm thức qua hơi thở (từ
13 đến 16 đã nói ở trên) về 5 hiện tượng ngăn che như
sau:
1. Khi có ái dục,
hành giả ý thức rằng mình có ái dục. Khi không có ái dục,
hành giả ý thức rằng mình không có ái dục. Khi một niệm
ái dục bắt đầu sanh khởi, hành giả ý thức được sự
sanh khởi ấy. Khi một niệm ái dục đã sinh, đang được
khử diệt, hành giả ý thức được sự khử diệt ấy.
Khi một niệm ái dục đã được khử diệt, không còn có
thể tái sanh nữa, hành giả cũng ý thức về điều đó.
2. Khi có sân
hận,
hành giả ý thức rằng mình có sân hận. Khi không có sân
hận, hành giả ý thức rằng mình không có sân hận. Khi một
niệm sân hận bắt đầu sanh khởi, hành giả ý thức được
sự sanh khởi ấy. Khi một niệm sân hận đã sinh, đang
được trừ diệt, hành giả ý thức được sự trừ diệt
ấy. Khi một niệm sân hận đã được trừ diệt không
còn có thể tái sanh được nữa, hành giả cũng ý thức về
điều đó.
3. Khi có mê muội
và
buồn ngủ, hành giả ý thức rằng mình có mê muội và buồn
ngủ. Khi không có mê muội và buồn ngủ, hành giả ý thức
rằng mình không có mê muội và buồn ngủ. Khi sự mê muội
và buồn ngủ bắt đầu sanh khởi, hành giả ý thức được
sự sanh khởi ấy. Khi sự mê muội và buồn ngủ đang được
khử diệt, hành giả ý thức được sự khử diệt ấy.
Khi sự mê muội và buồn ngủ đã được khử diệt không
còn có thể tái sinh được nữa, hành giả cũng ý thức về
điều đó.
4. Khi có dao
động bất
an (trạo) và hối hận (hối) hành giả ý thức rằng mình
có dao động bất an và hối hận. Khi không có dao động bất
an và hối hận, hành giả ý thức rằng mình không có dao
động bất an và hối hận. Khi dao động bất an và hối hận
phát sinh, hành giả ý thức rằng dao động, bất an và hối
hận vừa phát sanh. Khi dao động, bất an và hối hận
đang được khử diệt, hành giả ý thức rằng dao động,
bất an và hối hận đang được khử diệt. Khi dao động
bất an và hối hận đã được khử diệt không còn có thể
tái sanh được nữa, hành giả cũng ý thức về điều đó.
5. Khi có người
nghi
ngờ, hành giả ý thức rằng mình đang có nghi ngờ. Khi
không có nghi ngờ, hành giả ý thức rằng mình không có
nghi ngờ. Khi sự nghi ngờ bất đầu sanh khởi, hành giả
ý thức được sự sanh khởi đó. Khi sự nghi ngờ đã
phát sanh và đang được khử diệt, hành giả ý thức được
sự khử diệt đó. Khi sự nghi ngờ đã được khử diệt
và không còn tái sanh được nữa, hành giả cũng ý thức
được điều đó.
Cứ như thế, hành
giả
sống trong sự thường trực quán niệm đối tượng tâm thức
nơi đối tượng tâm thức, hoặc quán niệm bên trong, hoặc
quán niệm bên ngoài; hoặc quán niệm cả bên trong lẫn bên
ngoài đối tượng tâm thức ấy. Người ấy sống thường
trực trong sự quán niệm quá trình sanh khởi nơi đối tượng
tâm thức, hoặc quá trình hủy diệt nơi đối tượng tâm
thức, hoặc quán niệm quá trình sinh khởi lẫn quá trình hủy
diệt. Hoặc người ấy quán niệm: "Có đối tượng tâm
thức đây", và như vậy, người ấy sống một cách tự
do, không bị bắt cứ một thứ gì trong cuộc đời làm vướng
bận. Ðó là quán niệm đối tượng tâm thức nơi đối tượng
tâm thức của một thiền giả, lấy hơi thở làm căn cứ"
(Phép lạ của sự tỉnh thức, T. Nhất Hạnh, An Tiêm xb.
1976, tr. 75-83)
Hành giả muốn tu
tập
pháp môn niệm hơi thở thông qua 4 niệm xứ cần phải tìm
một nơi yên tĩnh cách xa mọi tiếng động, vì tiếng động
là cây gai đối với pháp thiền nầy. Hơn nữa, luận chủ
còn cho rằng trú xứ còn liên quan đến thời tiết và tính
tình của mỗi người. Chẳng hạn về mùa nóng, thích hợp
nơi núi rừng. Về mùa rét, thích hợp dưới gốc cây; về
mùa mưa, thích hợp nơi khoảng trống. Lại nữa, đối với
người đàm thạnh, thì thích hợp nơi núi rừng; đối với
người mật thạnh, thì thích hợp dưới gốc cây; đối với
người phong thạnh thì thích hợp chỗ khoảng trống. Ðối
với người tánh si, thích ở nơi rừng; đối với người tánh
sân, thích hợp gốc cây; đối với người tánh tham, thích
hợp khoảng trống.
Bản luận có nêu một
ví dụ: Cũng như một con khỉ đang chạy lăng xăng, muốn
cho nó nằm yên một chỗ, cần phải dùng một sợi dây buộc
nó vào một cây cọc. Con khỉ chỉ cho tâm thức
chúng ta, sợi dây chỉ cho niệm, và cây cọc
chỉ cho hơi thở. Ðồng thởi Bản luận cũng cho biết
hơi thở không có ở các trường hợp: Một em bé còn nằm
trong bụng mẹ, một người đã chết, những người đã đắc
thiền thứ tư, những người sinh vào sắc giới hoặc vô sắc
giới, và những người đã đắc Diệt tận định.
Luận chủ bảo rằng
đề mục thiền niệm hơi thở nầy rất khó tu tập. Ðây
là lãnh vực mà chỉ có tâm của chư Phật, các bậc Duyên
Giác và Thanh văn mới quen thuộc, còn những người tầm
thường thật không dễ dàng gì khi tu tập pháp môn nầy. Hơn
nữa, những ai đắc quả do tu tập pháp thiền nầy thì có
thể định trước được thời điểm chết của mình.
Tóm lại, pháp niệm
hơi
thở với 16 đề mục trên đây nếu được tu tập sẽ
đưa đến kết quả lớn, lợi ích lớn, như Thế Tôn đã dạy:
"Nầy các Tỳ kheo, niệm hơi thở khi được tu tập,
được làm cho sung mãn, thì 4 niệm xứ được viên mãn. Bốn
niệm xứ khi được tu tập, được làm cho sung mãn thì bảy
giác chi sẽ viên mãn. Bảy giác chi được tu tập, được làm
cho viên mãn, sẽ viên mãn minh kiến và giải thoát". (M.
III. 82)
4. NIỆM DIỆT (NIẾT
BÀN)
Một người muốn tu
tập
niệm diệt, hãy đi vào độc cư để tưởng đến những đức
tính đặc biệt của sự tịch diệt (Niết bàn). Ðó là sự
ly tham, vì ly tham, được xem là yếu tố tối thượng
trong tất cả pháp hữu vi cũng như vô vi; là nhiếp phục
kiêu mạn; nhổ tận gốc rễ của khát ái, vì khát
ái là yếu tố gắn bó bốn loài chúng sinh, 5 thú, 7 thức
và 9 cõi; là chấm dứt tái sanh; đạt đến Niết bàn.
Ðức tính niết bàn này được Thế Tôn mô tả như sau:
"Nầy các Tỳ kheo, ta sẽ dạy cho các ngươi cái vô
vi, chân lý, bỉ ngạn, cái khó thấy, cái bất hoại, cái trường
cửu, cái không biến dị, cái bất tử, cái hiền thiện,
cái an ổn, cái kỳ diệu, cái nguyên vẹn, cái không sầu,
cái thanh tịnh, hòn đảo, chỗ trú". (S. IV, 360-72)
Tóm lại, một tỷ
kheo
chuyên tâm tưởng đến tịch diệt sẽ ngủ trong an lạc và
thức trong an lạc, các căn tịch tịnh, tâm được bình an,
vị ấy có tàm quí, tin tưởng, quyết định đạt đến đạo
quả cao cả, và được sự tôn trọng cung kính của những
vị đồng phạm hạnh. Và dù cho vị ấy không được quả
vị nào cao hơn, ít nhất cũng hướng đến một thiện thú.
-ooOoo-
CHƯƠNG IX - ÐỊNH -
CÁC PHẠM TRÚ
(Brahmavihàra - niddesa)
1. TỪ (METTÀ)
Những đề mục Thiền
kế tiếp các tùy niệm là 4 Phạm trú, tức Từ, Bi, Hỉ và
Xả. Trước hết hãy nói về Từ.
Một hành giả muốn
tu
tập đề mục thiền nầy trước hết phải trừ khử những
chướng ngại và học kỹ về nó bằng cách quán sát những
nguy hiểm của sân hận và lợi ích của sự kham nhẫn, như
kinh đã dạy: "Không có pháp nào cao hơn nhẫn nhục, không
có Niết bàn nào cao hơn kham nhẫn". (Trường II, 94; Pháp
cú 184).
Theo luận chủ, lúc
mới
bắt đầu tu tập về tâm từ, hành giả nên tránh 5 đối
tượng sau đây: Người thân; kẻ thù; người dưng; người
khác phái; và người đã chết. Vì đối với người thân
thì tâm ta bị ràng buộc nặng nề về đời sống của họ.
Còn đối với kẻ thù thì hành giả sẽ dễ nổi
sân. Ðối với người dưng, hành giả sẽ khó chú
tâm. Ðối với người khác phái, thì hành giả có thể
khởi lên tham dục. Ðối với người chết, thì quán
niệm khó đạt được kết quả. Thế nên, tốt nhứt là
hành giả nên trải tâm từ đến chính bản thân mình và lập
đi lập lại như sau: "Mong rằng ta được an lạc, thoát
khỏi mọi khổ ách". Kế đến, hành giả nên trải tâm
từ đến một giáo thọ sư hay một đồng giáo thọ
sư với ước mong: "Mong rằng con người hiền thiện
ấy được hạnh phúc an vui, thoát khỏi mọi khổ ách".
Hành giả áp dụng phương pháp quán từ tâm như thế rất dễ
đạt đến định an chỉ. Khi pháp quán đã tiến triển thuận
lợi, hành giả sẽ trải tâm từ đến một người thân,
rồi đến một người dưng và cuối cùng là đến kẻ
thù.
(Xua tan tâm hận)
Nhưng nếu hành giả
lấy
kẻ thù làm đối tượng để quán từ tâm mà không thể
xua tan được những sự hiềm hận đối với họ, thì nên
suy nghĩ theo tinh thần Phật dạy:
"Hận thù diệt hận
thù
Ðời nầy không thể có
Từ bi diệt hận thù
Là định luật nghìn thu". (PC. 5)
Ðồng thời tự cảnh
tỉnh mình bằng cách suy nghĩ về những điều mà kẻ thù
mong muốn cho kẻ thù mình như sau: "Mong rằng nó xấu
xí, mong rằng nó ngủ trong đau khổ; mong rằng nó gặp điều
bất hạnh; mong rằng nó bị nghèo khốn; mong rằng nó phải
sống trong cô độc; mong rằng sau khi thân hoại mạng chung
nó phải sinh vào cõi dữ, ác thú". (A. IV. 94). Bởi vì,
nếu ta để cho lòng hận thù cấu xé, thì ta sẽ ngủ không
yên, thân thể sẽ trở nên xấu xí và do thế sẽ tự làm
hại mình và làm cho kẻ thù được thỏa mãn mà thôi.
Theo chiều hướng
suy
nghĩ như vậy mà hận thù lắng dịu thì tốt, bằng không,
hành giả nên xóa bỏ mối tức giận kia bằng cách nhớ lại
vài ưu điểm nơi người ấy. Vì một người dù ngu si, xấu
xa đến đâu cũng sẽ có được vài nét dễ mến.
Nhưng nếu sự tức
giận
vẫn khởi lên, mặc dù hành giả đã cố gắng, thì nên tự
trách như sau:
"Cơn giận dữ
chưa chắc hại ai
Nhưng chắc chắn hại ngươi trước nhất
Kẻ sân trước lên đường đau khổ
Người sân sau bén gót theo sau".
Nếu hiềm hận vẫn
không giảm, thì hành giả nên nghĩ đến sự thật "Mọi
chúng sinh đều là kẻ thừa tự nghiệp quả của
chúng" như sau: "Có lợi ích gì khi tức giận như vậy
! Há chẳng phải nghiệp sân nầy của ngươi chỉ đưa đến
tai hại cho ngươi? Vì ngươi là sở hữu chủ của nghiệp,
là kẻ thừa tự của nghiệp. Ngươi giống như kẻ tay cầm
cục than nóng đỏ, hay cục phân để đánh người, chưa gì,
mà chính mình đã cháy và hôi thối ghê tởm". Lại nghĩ:
"Kẻ tức giận ngươi sẽ ra sao? Có phải chung cục sẽ
đưa đến tai hại cho chính nó? Ðiều đó có khác gì một
người đứng ngược gió mà tung bụi vào kẻ khác, cuối
cùng chỉ làm cho chính thân mình lấm bụi mà thôi":
"Nếu hại người
lương thiện
Người thanh tịnh vô nhiễm
Ác quả sẽ về ta
Như ngược gió tung bụi". (PC. 125)
Nhưng nếu hiềm hận
vẫn
không nguôi, thì hành giả nên nghĩ đến những đức tính
đặc biệt của đức Thế Tôn trong những tiền kiếp, như
chuyện Bản sinh Khantivàdin kể lại: "Khi vua Kàsi ngu ngốc
hỏi Ngài (đang là một tu sĩ): "Nầy sa môn, ngươi giảng
về pháp gì thế?" Ngài đáp: "Tôi là người giảng
về pháp nhẫn nhục". Nhà vua liền sai quân lính chặt hết
tay chân Ngài, nhưng Ngài vẫn tự chế ngự, không khởi lên
một niệm sân hận nào hết". (Jà III, 39) Và còn biết
bao chuyện Bản sinh khác nói về hạnh nhẫn nhục, từ ái của
Phật, khi thì Ngài làm tượng vương, khi thì làm long vương,
khi thì làm khỉ chúa v.v... tất cả đều đáng cho chúng ta
tìm hiểu để học về hạnh nhẫn nhục của Ðức Ðạo Sư.
Nhưng, nếu nghĩ
những
đức tính đặc biệt của Thế Tôn, mà hiềm hận vẫn
không lắng dịu, thì hành giả nên đọc lại những kinh đề
cập đến vòng sinh tử nối tiếp vô tận, như sau: "Nầy
các Tỳ kheo, không dễ gì tìm thấy một chúng sinh nào chưa
từng là mẹ ngươi, cha ngươi, anh ngươi, chị ngươi, con
trai, con gái ngươi". (S. II. 189) Thế nên, hành giả hãy
nghĩ về người kia như sau: "Con người nầy trong quá khứ
đã từng làm mẹ ta, cưu mang ta suốt 10 tháng trong bụng,
chính tay đã rửa phân, tiểu, sài, đẹn của ta không chút
nhờm gớm, nâng niu ta trên gối, ẵm bồng ta bên nách, nuôi
nấng ta suốt cả tuổi ấu thơ...", rồi nghĩ rằng người
đó hoặc là cha, là anh, chị hay em ta v.v..., cũng bằng cách
ấy.
Nhưng nếu vẫn không
dập
tắt được hiềm hận bằng cách ấy, thì hành giả nên gợi
lại 11 lợi ích của lòng từ mà đức Thế Tôn đã dạy
sau đây: "Người tu tập lòng từ sẽ ngủ trong an ổn;
thức trong an ổn; không chiêm bao ác mộng; được người khác
yêu mến; được phi nhân giúp đỡ; được chư Thiên hộ
trì; lửa, khí giới và chất độc không làm hại được; tâm
dễ an định; nét mặt thanh thoát; khi chết tâm không rối
loạn; và nếu không được đạo quả gì cao siêu, thì ít
nhất cũng đuợc tái sinh về cảnh giới Phạm thiên".
(A. V. 342)
Nếu đã áp dụng
phương
pháp đó mà vẫn không hết tức giận, thì hành giả hãy
phân tích tính chất vô ngã nơi người ấy, như sau:
"Khi ngươi tức giận kẻ kia, thì cái gì nơi kẻ lấy làm
cho ngươi tức giận? Người giận tóc, hay lông, hay móng...
hay nước tiểu?" Nếu phân tích con người ấy, về tứ
đại, ngũ uẩn, thập nhị xứ hay thập bát giới, ta đều
không thấy có một yếu tố nào để kết luận có một
ngã thể nơi người ấy. Do thế nên cơn giận không có một
chỗ nào để mà đặt chân lên được.
Nhưng nếu hành giả
không thể phân tích được bằng cách ấy, thì nên tìm
cách tặng cho người đó một món quà. Khi làm như vậy, sự
hiềm hận sẽ có nhiều thuận duyên để lắng dịu.
Qua các phương thức
đã
trình bày, thế nào hành giả cũng tìm được một gi?i pháp
thích hợp với hoàn cảnh và trình độ của mình để mà
tu tập, như Kinh mô tả: "Vị tỳ kheo an trú biến mãn một
phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ
hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư, trên,
dưới, bốn bên, cùng khắp thế giới bình đẳng; vị ấy
an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, chan chứa, cao cả,
vô biên, không hận, không não" . (D. I, 250)
Biến mãn
nghĩa là cùng khắp tất cả. Ở đây chỉ cho khắp chủng
loại và khắp 10 phương. Chủng loại gồm có 7, đó là: Nữ
nhân, nam nhân, các bậc thánh, người phàm tục, chư thiên,
nhân loại, và tất cả những chúng sinh ở các đọa xứ. Mười
phương là Ðông, Tây, Nam, Bắc, 4 góc và trên dưới.
Hành giả phải cầu mong cho 7 chủng loại ở khắp mười
phương thoát khỏi hận thù, ưu não, và sống hạnh phúc.
Từ chúng sinh
hay
hữu tình được dịch từ chữ Satta có nghĩa là bị
giữ lại, hay bị dục vọng tóm lấy, và tham luyến đối với
5 uẩn. Lại còn có mấy từ tương đương khác, như vật
có hơi thở (pàna), vì sự hiện hữu của chúng tùy thuộc
vào hơi thở vô, hơi thở ra; hữu thể (bhùta), vì có
sự hiện hữu, được sinh ra và được trở thành; người
(puggala), được dịch âm là bổ-đặc-già-la, nó được
cấu trúc từ chữ pum: tên gọi địa ngục, và chữ galanti:
rơi vào. Ngoài ra, còn có từ tự ngã (attabhàva), chỉ
cho cái thân vật lý, hay cả ngũ uẩn. Tóm lại, từ chúng
sinh gồm có các nghĩa: hữu tình, hữu thể, vật có hơi
thở, người và tự ngã (Satta, pàna, bhùta, puggala và
attabhàva).
Bản luận kể về
trường
hợp trưởng lão Visàkha an trú 4 tháng tại tu viện
Cittapabbata, tu tập từ tâm được loài phi nhân cảm mến,
đến lúc Ngài ra đi, phi nhân ấy khóc lóc, Ngài hỏi vì
sao, thì nó nói: "Bạch đại đức, trong lúc Ngài trú tại
đây, thì các phi nhân đối xử với nhau ôn hòa và tử tế.
Bây giờ Ngài đi, thì chúng sẽ khởi sự gây lộn và nói tục".
2. BI (KARUNÀ)
Một người muốn tu
tập
tâm bi cần phải khởi đầu quán sát sự nguy hiểm do thiếu
tâm bi, và lợi ích của tâm bi. Hành giả cũng cần phải tránh
quán sát đến 5 hạng người: người thân, kẻ thù, người
dưng, người chết và người khác phái, như trường hợp tu
tập tâm từ đã nói ở trên.
Trước hết, hành giả
nên khởi tâm bi đối với một người bất hạnh, thiếu
may mắn, nghĩ rằng: "Khổ thay vị chúng sinh nầy, mong
sao vị ấy thoát khỏi đau khổ". Nếu không gặp trường
hợp như thế, thì hành giả có thể khởi tâm bi đối với
một người làm ác, dù hiện tại nó đang sống hạnh phúc,
nghĩ rằng: "Mặc dù kẻ khốn nạn nầy hiện giờ đang
hạnh phúc, vui vẻ hưởng thụ những tài sản mà y có được,
nhưng vì y không làm được một việc thiện nào về thân,
ngữ, ý trong hiện tại, chắc chắn y sẽ chuốc lấy cái khổ
không thể nói được ở trong các đọa xứ". Người
ấy cũng giống như một kẻ trộm cướp đang bị bắt quả
tang với những vật dụng nó lấy trộm, rồi nhà vua ra lệnh
cho quân lính trói chặt nó, và dẫn nó đến pháp trường.
Sau khi đã khởi tâm
bi
đối với một người như thế, kế đó, hành giả nên khởi
tâm bi đối với một người thân, người dưng và đối với
kẻ thù. Về diễn tiến tu tập tâm bi nầy cũng tương tự
như phương pháp tu tập tâm từ đã được đề cập rộng
rãi ở trên.
3. HỈ (MUDITÀ)
Một người mới khởi
sự tu tập tâm hỉ, trước hết nên bắt đầu từ vị giáo
thọ sư rồi đến người thân, người dưng và kẻ thù, như
trường hợp quán niệm về 2 tâm từ và bi ở trước. Sau
đó mở rộng đến các đối tượng khác và trải tâm hỉ
đến khắp 10 phương, chung cục sẽ đạt được những lợi
ích như đã nói ở phần tu tập tâm từ.
Tu tập tâm hỉ khi
đạt
được kết quả sẽ đắc thiền thứ ba, còn 2 tâm từ và
bi thì ở giai đoạn thiền thứ nhất và thứ hai trong hệ
thống 4 thiền.
4. XẢ. (UPEKKHÀ)
Một người muốn tu
tập
tâm xả cần phải đắc tam thiền trong hệ thống 4 thiền và
tứ thiền trong hệ thống 5 thiền về quán niệm tâm từ,
bi, hỉ. Hành giả trước hết nên hướng tâm xả đến một
người không thân, không sơ theo cách đã nói ở trên, rồi
đến các đối tượng người thân, kẻ thù và chính bản
thân mình. Khi tu tập tâm nầy đến độ sung mãn, tứ thiền
sẽ khởi lên nơi hành giả theo cách đã nói trong phần biến
xứ đất. Còn các phương diện khác cũng tương tự như tu
tập tâm từ, bi, hỉ ở trước.
TỔNG QUÁT
a. Ý nghĩa
Trước hết nói về ý
nghĩa của Từ, bi, hỉ và xả. Từ có nghĩa là hòa
tan, là hóa giải những uất kết; Bi là tiêu hủy những
nỗi khổ của người khác; Hỉ là tươi mát, vui vẻ;
Xả là trạng thái thản nhiên, không bận tâm. Nói
chung, Từ cho vui đối với tất cả chúng sinh, Bi
là cứu khổ tất cả chúng sinh (Từ năng dữ nhất
thiết chúng sinh chi lạc, Bi năng bạt nhất thiết chúng
sinh chi khổ.)
b. Ðặc tính
Về phương diện đặc
tính, Từ đem lại sự an lạc, làm cho ác tâm lắng dịu.
Bi có đặc tính làm giảm bớt đau khổ, và triệt
tiêu sự tàn bạo. Hỉ là vui mừng trước sự thành
công của người khác, nó làm cho sự chán ghét tiêu tan. Xả
có đặc tính là phát triển tính thản nhiên đối với hữu
tình, nó dẫn đến trạng thái không còn ưa và ghét.
c.
Mục đích
Mục đích tổng quát
của
4 phạm trú nầy là sự an lạc của tuệ giác, và đưa đến
một hình thức tái sinh tốt đẹp trong tương lai. Từ
có mục đích là diệt tâm sân; Bi có mục đích là ngăn
tâm ác; Hỉ có mục đích là trừ tâm chán
ghét; Xả có mục đích là đoạn tâm hận
và tham.
d. Những chướng
ngại
gần và xa.
Mỗi đức tính trên
đây
có 2 chướng ngại, một gần và một xa. Phạm trú Từ
có tham là chướng ngại (kẻ thù) gần, sân là chướng
ngại xa. Phạm trú Bi có nỗi buồn liên hệ với gia
đình là chướng ngại gần, và sự tàn bạo là chướng
ngại xa của nó. Phạm trú Hỉ có niềm vui liên hệ tại
gia là chướng ngại gần, và sự thù ghét là chướng
ngại xa của nó. Phạm trú Xả có xả do vô tri liên hệ
đến đời sống tại gia là kẻ thù gần, và lòng tham cùng
chán ghét là kẻ thù xa của nó.
đ.
Các
giai đoạn
Lòng hăng hái muốn
tu
tập các đức tính kể trên là giai đoạn đầu. Trừ khử
các triền cái là giai đoạn giữa, và đạt được định
an chỉ là giai đoạn cuối.
e.
Bốn yếu
tố cần được giải thích.
Tại sao từ, bi, hỉ,
xả
được gọi là 4 phạm trú? Tại sao chỉ có 4? Thứ tự của
chúng thế nào? Tại sao chúng được gọi là vô lượng?
Từ phạm trú ở
đây cần được hiểu là tốt nhất, là vô cấu. Cũng như
vị trời Phạm thiên an trú với tâm cao thượng, vô nhiễm,
thiền giả thành tựu những đức tính nầy cũng an trú
ngang hàng với phạm thiên. Do đó, chúng được gọi là phạm
trú theo nghĩa tốt nhất và vô nhiễm. Vì mục đích cứu
độ chúng sinh cũng chỉ cần đến 4 phương diện là: đem lại
an lạc (từ), tẩy trừ đau khổ (bi), vui trước sự thành
công của chúng sinh (hỉ), và không bận tâm với bất cứ
điều gì (xả); do đó, chỉ cần đến 4 pháp mà thôi. Vì Xả
là kết quả của 3 phạm trú trên, do đó, phải theo thứ tự
từ, bi, hỉ và xả. Phạm vi của chúng là bao la không
thể lường được, nên chúng được gọi là Vô lượng.
g. Lãnh vực hoạt
hiện
của chúng.
Mặc dù phạm vi của
chúng được nói là vô lượng, nhưng 3 phạm trú đầu phát
huy tác dụng mạnh mẽ ở 3 bậc thiền đầu trong 4 thiền,
hay 4 bậc thiền đầu trong hệ thống 5 thiền. Nhưng Xả
thì thuộc bậc thiền cuối cùng trong 2 hệ thống.
h. Giới hạn cao
nhất
của chúng.
Ðành rằng 4 phạm
trú
nầy phát huy tác dụng rõ ràng nhất ở cõi thiền Sắc giới,
nhưng đồng thời chúng cũng làm nền tảng sự tu tập ở
cõi Vô sắc. Luận chủ cho rằng Từ là cơ sở cho sự
giải thoát nhờ tịnh tướng (M. II, 12). Bi là điểm tựa
căn bản cho Không vô biên xứ. Hỉ là điểm tựa căn
bản cho Thức vô biên xứ. Và Xả là điểm tựa căn
bản cho Vô sở hữu xứ.
Tóm lại, chủ yếu
của
chương IX nầy là đề cập đến phương pháp tu tập lấy 4
phạm trú từ, bi, hỉ, xả làm cơ sở.
-ooOoo-