PHẦN THỨ BA - TUỆ
MÔ TẢ VỀ ÐẤT CHO
TUỆ SINH TRƯỞNG
-ooOoo-
CHƯƠNG XIV - MÔ
TẢ
VỀ CÁC UẨN
(Khandha niddesa)
A- TUỆ:
Sau khi kết thúc
phương
pháp tu tập về ÐỊNH, giờ đây, trình bày cách thức tu
tập về TUỆ. Tuệ có nhiều loại và nhiều khía cạnh, nhưng
ở đây chủ yếu là trình bày về cái tuệ thuộc quán trí
đưa đến đạo lộ siêu việt.
Tuệ là
hiểu biết, tương tự với nó có tưởng tri và thức tri.
Nhưng tưởng tri chỉ là sự nhận biết một đối tượng
như xanh hay vàng. Thức tri vừa biết đối tượng ấy
xanh, hay vàng, vừa biết cả bản chất cuả đối tượng
ấy. Còn Tuệ vừa biết đối tượng theo cách đã nói,
vừa hướng đến một đạo lộ siêu thế do tinh tấn. Tưởng
tri ví như một đứa trẻ khi nhìn đồng tiền, chỉ
biết đó là một vật kim loại, có hình vẽ. Thức tri
như người nhà quê không thể phân biệt đó là tiền giả
hay thật. Tuệ như người đổi tiền, biết rõ tính
chất và giá trị của đồng tiền. Tuy thế, sự khác nhau
giữa chúng rất tế nhị, khó mà phân biệt rằng: "đây
là tưởng tri, đây là thức tri và đây là tuệ".
Nếu phân tích chi
tiết thì tuệ có một loại, 2 loại, 3 loại và 4 loại.
* Tuệ một
loại:
là nó có đặc tính đi sâu vào tự tính của các pháp.
* Tuệ hai
loại:
là thế gian và xuất thế gian. Tuệ thế gian là liên
hệ đến đạo lộ thế gian; Tuệ xuất thế gian là
tuệ liên hệ đến đạo lộ siêu thế.
* Tuệ ba
loại: văn
tuệ, tư tuệ và tu
tuệ. Văn tuệ: tuệ có được do nghe người khác. Tư
tuệ: Tuệ có được do sự suy nghĩ của mình. Tu tuệ:
Tuệ phát sinh nhờ tu thiền định và đạt đến an lạc.
Tuệ ba loại
(thứ hai) là tuệ có một đối tượng hữu hạn;
tuệ có một đối tượng đại hành và tuệ có một đối
tượng vô lượng. Tuệ khởi lên liên hệ với các pháp
Dục giới là tuệ có đối tượng hữu hạn. Tuệ
khởi lên liên hệ với các pháp Sắc giới hay Vô sắc
giới là tuệ có đối tượng đại hành. Tuệ
sinh khởi liên hệ đến Niết bàn là tuệ có đối tượng Vô
lượng.
* Tuệ bốn
loại:
Tuệ phát sinh liên hệ đến chân lý về khổ gọi là khổ
trí. Tuệ phát sinh do biết nguồn gốc của khổ,
gọi là Khổ tập trí. Tuệ phát sinh liên hệ đến
sự diệt khổ, gọi là khổ diệt trí. Tuệ phát sanh
liên hệ đến đạo lộ đưa đến diệt khổ: gọi là khổ
diệt đạo trí. Ngoài ra còn có 4 loại tuệ khác được
gọi là 4 biện tài, đó là: Trí biết về nghĩa, gọi là biện
tài về nghĩa. Trí biết về pháp gọi là biện tài
về pháp. Trí biết về các ngôn từ, gọi là biện tài
về từ. Trí biết về các loại trí, gọi là biện
tài về trí.
B. NĂM
UẨN:
Bây giờ đến lượt
trình bày về 5 uẩn. Năm uẩn là: Sắc, thọ, tưởng, hành,
và thức.
1. Sắc uẩn:
Trước hết nói về
sắc uẩn. Bất cứ pháp nào có đặc tính bị quấy nhiễu
bởi lạnh nóng v.v... đều bao gồm trong sắc uẩn. Nếu đem
phân loại thì có sắc uẩn thuộc một loại, hai loại, và
bốn loại. Một loại là nó có đặc tính bị quấy nhiễu.
Hai loại là: đại chủng sắc và sở tạo sắc.
Ðại chủng sắc có 4
loại: địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại.
(Xem lại chương XI).
Sở tạo sắc có 24
loại: 1. Mắt; 2. Tai; 3. Mũi; 4. Lưỡi; 5. Thân; 6. sắc; 7.
Thanh; 8. Hương; 9. Vị; 10 Nữ căn; 11. Nam căn; 12. Mạng căn;
13. Tâm cơ; 14. Thân biểu; 15. Ngữ biểu; 16. Không giới; 17.
Khinh khoái; 18. Nhu nhuyến; 19. Kham nhậm; 20. Sinh; 21. Trú;
22.
Lão; 23. Vô thường; 24. Ðoàn thực.
1. Mắt:
Ðặc tính
của nó là sự nhạy cảm của 4 đại trước sự va chạm
với sắc pháp.
2. Tai: Ðặc tính của nó là sự nhạy cảm của 4 đại
khi tiếp xúc với âm thanh.
3. Mũi: Ðặc tính của nó là sự nhạy cảm của 4
đại khi tiếp xúc với mùi hương.
4. Lưỡi: Ðặc tính của nó là sự nhạy cảm của
4 đại khi tiếp xúc với vị.
5. Thân: Ðặc tính của nó là tính nhạy cảm của 4
đại khi xúc chạm những vật sờ được.
Một số luận sư cho
rằng: "Trong con mắt, hỏa thịnh; trong lỗ tai, phong
thịnh; trong lỗ mũi, địa thịnh; trong lưỡi, thủy thịnh;
trong thân thì 4 đại quân bình".
Ví dụ: Như những
con
rắn, cá sấu, chim, chó, chồn hoang thường hướng về
những nơi chúng hay lui tới là tổ kiến, nước, không gian,
làng mạc, nghĩa địa v.v... Cũng thế, tai, mắt, v.v.. hướng
đến những hành xứ riêng của chúng là sắc, thanh v.v...
6. Sắc: Có
đặc
tính là đập vào mắt. Nhiệm vụ nó là làm đối tượng
cho nhãn thức.
7. Thanh: Có đặc tính là đập vào tai. Nhiệm vụ nó
là làm đối tượng cho nhĩ thức.
8. Mùi: có đặc tính là đập vào mũi. Nhiệm vụ nó
là làm đối tượng cho tỉ thức.
9. Vị: Có đặc tính là đập vào lưỡi. Nhiệm vụ
nó là làm đối tượng cho thiệt thức.
10. Nữ căn: Có đặc tính là nữ tánh. Nhiệm vu nó
là phân biệt với nam giới.
11. Nam căn: Có đặc tính là nam tánh. Nhiệm vụ nó
là phân biệt với nữ giới.
12. Mạng căn: Có đặc tính là duy trì các loại
sắc câu sinh. Nhiệm vụ nó là làm cho các sắc ấy sinh
ra.
13. Tâm cơ: Có đặc tính là làm điểm tựa cho ý
giới và ý thức giới. Nhiệm vụ nó là làm phương tiện
cho chúng.
14. Thân biểu: Nó làm nhân cho sự di chuyển tới
lui. Nhiệm vụ nó là bày tỏ ý định.
15. Ngữ biểu: Nó làm nhân cho sự phát ngôn. Nhiệm
vụ nó là bày tỏ nguyện vọng.
16. Không giới: Có đặc tính là định giới hạn
cho sắc. Nhiệm vụ nó là bày ra những ranh giới của
sắc.
17. Khinh khoái: Có đặc tính là không chậm chạp.
Nhiệm vụ nó là xua tan tính nặng nề của sắc.
18. Nhu nhuyến: Có đặc tính là không cứng đờ.
Nhiệm vụ nó là xua tan tính cứng đờ của sắc.
19. Kham nhậm: Có đặc tính là dễ sử dụng thuận
tiện cho hành vi của thân. Nhiệm vụ nó là xua tan tính khó
sử dụng.
20. Sanh: Có đặc tính là dựng nên. Nhiệm vụ nó là
làm cho các sắc pháp nổi lên đầu tiên.
21. Trụ: Nó được biểu hiện bằng sự không gián
đoạn. Nhiệm vụ nó là giữ lại.
22. Già: Có đặc tính là làm chín muồi sắc pháp.
Nhiệm vụ nó là tiếp tục dẫn đến sự chấm dứt.
23. Vô thường: Có đặc tính là tan rã hoàn toàn.
Nhiệm vụ nó là làm cho sắc pháp chìm xuống.
24. Ðoàn thực: Có đặc tính là làm dưỡng chất.
Nhiệm vụ nó là nuôi dưỡng các loại sắc.
Như vậy, Ðại chủng
sắc gồm 4 thứ, Sở tạo sắc gồm 24 thứ, tất cả có 28
thứ thuộc về sắc pháp. Tính chất của chúng là vô nhân,
tách rời nhân, hữu duyên, hữu lậu, thuộc thế gian v.v...
Nó thường có 2 phương diện: nội sắc và ngoại sắc; thô
và tế; xa và gần; sở tạo và phi sở tạo; tịnh sắc và
phi tịnh sắc; căn sắc và phi căn sắc; hữu chấp thủ và
vô chấp thủ v.v...
Năm thứ: mắt, tai,
mũi,
lưỡi và thân, gọi là nội sắc; vì chúng sinh ra như
một phần của toàn thể con người. Những gì còn lại là ngoại
sắc; vì chúng ở ngoài con người. Năm thứ trên cọng
thêm sắc, thanh, hương, vị, và địa, hỏa, phong thành 12
thứ được xem là thô sắc; vì chúng có sự tiếp xúc.
Còn lại là tế sắc, vì chúng ngược lại. Cái gì
tế gọi là viễn sắc (sắc xa); vì chúng khó vào sâu.
Cái gì thô gọi là cận sắc (sắc gần); vì chúng
dễ vào. Bốn đại chủng, đoàn thực và 13 thứ khởi từ
mắt, thành 18 thứ, gọi là tịnh sắc; vì chúng là điều
kiện để nhận biết các sắc pháp v.v... Còn lại là phi
tịnh sắc; vì ngược với tịnh sắc. Tịnh sắc, nam căn,
nữ căn và mạng căn, gọi là căn sắc; vì tính nổi
bật của chúng. Còn lại là phi căn sắc; vì ngược
lại với căn sắc. Những thứ đề cập sau đây, kể như
nghiệp sinh, gọi là hữu chấp thủ; còn lại là vô
chấp thủ.
Về loại thô sắc,
thì một vật có thể thấy được gọi là sắc hữu
kiến, hữu đối; còn lại là vô kiến, hữu đối. Tất
cả tế sắc là vô
kiến, vô đối.
Lại nữa, sắc thuộc
4 loại là: Kiến, văn, giác, tri. Sắc xứ được thấy, vì
là đối tượng của sự thấy, nên thuộc về kiến.
Thanh xứ được nghe, vì là đối tượng của sự nghe, nên
thuộc về văn. Hương, vị, xúc xứ được biết, vì
là đối tượng của cảm giác, nên thuộc về giác. Các
sắc còn lại đều là đối tượng nhận thức của tâm, nên
thuộc về tri.
Nói chung, Sắc uẩn
hay
Sắc pháp ở đây được chia thành 2 loại, Ðại chủng
sắc và Sở tạo sắc, gồm có 28 thứ. Thế nhưng, các
luận điển của Ðại Thừa (Duy thức) chia Sắc pháp thành
2 loại là căn và trần gồm 11 thứ như sau: Nhãn căn, nhĩ căn,
tỉ căn, thiệt căn, và thân căn (5 căn). Sắc trần, thanh
trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần (6
trần).
2. Tâm uẩn (Thức
uẩn)
Trong 5 uẩn, một
uẩn
đầu thuộc về sắc, đã được đề cập ở trên, 4 uẩn
còn lại thuộc về tâm, giờ đây sẽ bàn đến. Cái gì có
đặc tính cảm thọ, thuộc về thọ uẩn. Cái gì có
đặc tính tri giác, tưởng tượng, thuộc về tưởng
uẩn. Cái gì có đặc tính tạo tác, thuộc về hành
uẩn. Cái gì có đặc tính phân biệt, thuộc về thức
uẩn. Trong các uẩn trên, thức uẩn là trọng tâm của
tất cả. Ở đây, Thức có nghĩa như là tâm
hay ý.
Theo bản luận, tâm
thức được phân tích thành 3 phương diện là thiện, bất
thiện và bất định, gồm có tất cả 89 thứ.
Thiện tâm:
được chia theo 4 cõi là Dục giới; Sắc giới; Vô sắc
giới và Siêu thế.
Thiện tâm ở Dục
giới với hỉ, xả, trí và nhắc bảo, gồm có 8 thứ sau đây:
1/ Câu hữu với
hỉ,
tương ưng với trí, cần nhắc bảo.
2/ Câu hữu với hỉ, tương ưng với trí, không cần nhắc
bảo.
3/ Câu hữu với hỉ, không tương ưng với trí, cần nhắc
bảo.
4/ Câu hữu với hỉ, không tương ưng với trí, không cần
nhắc bảo.
5/ Câu hữu với xả, tương ưng với trí, cần nhắc bảo.
6/ Câu hữu với xả, tương ưng với trí, không cần nhắc
bảo.
7/ Câu hữu với xả, không tương ưng với trí, cần nhắc
bảo.
8/ Câu hữu với xả, không tương ưng với trí, không cần
nhắc bảo.
Giải thích:
1. Khi một người
sung
sướng nghĩ rằng: "Bố thí có công đức lớn", và
bố thí không do dự; đó là tâm câu hữu với hỉ, tương
ưng với trí, không cần nhắc bảo.
2. Khi một người
sung
sướng hài lòng như trên, nhưng hành động do dự, cần được
người khác nhắc bảo; đó là tâm cần nhắc bảo.
3. Khi một em bé
muốn
làm việc thiện, nhưng phải được người lớn cổ vũ; đó
là tâm cần nhắc bảo.
4. Khi một em bé
bắt
chước người lớn, làm việc thiện một cách tự nhiên; đó
là tâm không cần nhắc
bảo.
5 - 8. Tương tự 4
trường
hợp trên, nhưng không có hỉ; đó là tâm câu hữu với xả.
Ðó là 8 thiện tâm
thuộc Dục giới. Giờ đây đề cập đến 5 thiện tâm
thuộc sắc giới, như sau:
9/. Tương ưng với
cả 5 thiền chi (tâm Sơ thiền).
10/. Tương ưng với tứ, hỉ, lạc, nhất tâm (tâm Nhị
thiền).
11/. Tương ưng với hỉ, lạc, nhất tâm (tâm Tam thiền).
12/. Tương ưng với lạc, nhứt tâm (tâm Tứ thiền).
13/. Tương ưng với xả và nhất tâm (tâm Ngũ thiền).
Ðó là 5 thiện tâm
thuộc Sắc giới, theo hệ thống Ngũ thiền. Bây giờ đề
cập đến 4 thiện tâm Vô sắc giới:
14/. Tương ưng
với
Không vô biên xứ.
15/ - 17/. Tương ưng với Thức vô biên xứ, Vô sở hữu
xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Và đây là 4 thiện
tâm
thuộc Siêu thế:
18/ - 21/.
Tương ưng với 4 đạo lộ thuộc 4
thánh quả.
Như vậy, Thiện tâm
gồm có tất cả 21 thứ.
Bất thiện
tâm:
tâm nầy chỉ thuộc Dục giới, liên hệ đến 3 yếu tố, là
tham, sân và si, gồm có 12 thứ.
Trước hết là tâm
bất thiện liên quan đến tham gồm 8 thứ:
22/. Câu hữu với
hỉ, tương ưng với tà kiến, không cần nhắc bảo.
23/. Câu hữu với hỉ, tương ưng với tà kiến, cần
nhắc bảo.
24/. Câu hữu với hỉ, không tương ưng tà kiến, không
cần nhắc bảo.
25/. Câu hữu với hỉ, không tương ưng tà kiến, cần
nhắc bảo.
26/. Câu hữu với xả, tương ưng tà kiến, không cần
nhắc bảo.
27/. Câu hữu với xả, tương ưng với tà kiền, cần
nhắc bảo.
28/. Câu hữu với xả, không tương ưng tà kiến, không
cần nhắc bảo.
29/. Câu hữu với xả, không tương ưng tà kiến, cần
nhắc bảo.
Tiếp theo đây là
Tâm
bất thiện liên quan đến sân, gồm 2 thứ:
30/. Câu hữu với
ưu,
tương ưng với hận, cần nhắc bảo.
31/. Câu hữu với ưu, tương ưng với hận, không cần
nhắc bảo.
Bây giờ đến tâm
bất thiện liên quan đến si, gồm 2 thứ:
32/. Câu hữu với
xả, tương ưng với nghi.
33/. Câu hữu với xả, tương ưng với trạo cử.
Ðó là 12 thứ bất
thiện tâm thuộc Dục giới.
Tâm bất định:
Loại này chia theo 2 phương diện là tâm dị thục và tâm
duy tác. Tâm dị thục lại xếp theo 4 cõi là Dục giới,
Sắc giới, Vô sắc giới và Siêu thế. Tâm thuộc Dục
giới có 2 loại là Thiện dị thục và Bất thiện dị
thục. Thiện dị thục lại chia thành 2 loại là hữu nhân và
vô nhân.
Thiện dị
thục vô nhân:
là tâm không có tham v.v... làm nhân cho quả dị thục, gồm
có 8 thứ:
34/ - 38/. Nhãn
thức,
nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, và thân thức.
39/. Ý giới, có nhiệm vụ tiếp thọ.
40/. - 41/. Hai ý thức giới với nhiệm vụ suy đạt v.v...
Nhãn thức (34)
có đặc tính được hỗ trợ bởi con mắt, và nhận biết
sắc pháp.
Ý giới
(39) có đặc tính là nhận biết sắc, kế tiếp nhãn thức.
Ý thức giới
(40-41) có đặc tính là nhận biết 6 loại đối tượng;
nhiệm vụ của nó là suy đạt.
Tâm dị thục vô nhân
(40) tương ưng với hỉ, có 2 vị trí trong lộ trình tâm là:
khởi lên ở 5 căn môn (Ngũ môn hướng tâm) gọi là tâm
suy đạt; khởi lên ở cuối tốc hành tâm, gọi là tâm
đồng sở duyên.
Tâm (41) tương ưng
với xả, có 5 vị trí là: ở tâm suy đạt; đồng sở duyên;
kiết sinh; hữu phần; tử tâm.
Thiện dị
thục hữu
nhân là những tâm tương
ưng với vô tham, vô sân, vô si, làm nhân cho quả dị thục,
từ tâm (42) - (49). Nó có 8 loại, liên quan đến hỉ, xả,
trí và nhắc bảo, y như thiện tâm thuộc Dục giới từ (1)
- (8).
Bất thiện dị
thục:
Loại này chỉ có vô nhân, gồm 7 thứ:
50/. -54/. Nhãn
thức,
nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức.
55/. Ý giới nhiệm vụ tiếp thọ.
56/. Ý thức giới với nhiệm vụ suy đạt, có 5 vị trí,
về đặc tính v.v.. tương tự như thiện dị thục vô nhân
(34-41).
Chỗ khác nhau giữa
Thiện dị thục và Bất thiện dị thục là Thiện dị
thục thì chỉ có những đối tượng khả ý hoặc khả
ý trung tính, còn Bất thiện dị thục thì chỉ có
những đối tượng bất khả ý, hoặc bất khả ý trung tính.
Như vậy, tâm dị thục Dục giới có tất cả 23 thứ.
Tâm dị thục
Sắc
giới gồm có 5 thứ:
57/. - 61/. Giống
như
tâm thiền (9-13) . Nhưng, chỗ khác nhau là tâm nầy khởi lên
như một kiết sinh, hữu phần và tử tâm.
Tâm dị thục
Vô sắc
giới gồm có 4 thứ:
62/. -65/. Các
tâm
nầy thuộc Không vô biên xứ v.v.. Như (14-17). Sự sinh
khởi của nó cũng được xếp loại như đã nói về tâm
sắc giới.
Tâm dị thục
Siêu
thế gồm có 4 thứ:
66/. - 69/. Ðây
là
quả của những tâm tương ưng với 4 đạo lộ, như các tâm
(18-21), sẽ đề cập ở chương XXII.
Như vậy, tâm dị
thục trong cả 4 cõi gồm có 36 thứ.
Tâm duy tác
được chia theo 3 cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc
giới. Dục giới gồm 2 loại, vô nhân và hữu nhân.
Duy tác vô
nhân
là tâm không có tham v.v.. làm nhân cho quả dị thục, gồm 2
loại:
70/. Ý giới
có
đặc tính làm tiền đạo cho nhãn thức.
71/. - 72/. Ý
thức
giới nầy gồm có 2 là chung và không chung. Chung
(71) là câu hữu với xả. Không chung (72) là câu
hữu với hỉ.
Như vậy tâm duy
tác
vô nhân thuộc Dục giới gồm có 3 thứ.
Duy tác hữu
nhân ?
Dục giới, gồm 8 thứ:
73/. -80/ . Giống
như
thiện tâm ở Dục giới (1-8). Nhưng, chỗ khác nhau là
thiện tâm chỉ khởi lên ở bậc phàm phu hữu học, còn
duy tác tâm hữu nhân thì khởi nơi vị A la hán.
Như vậy, tâm duy
tác
ở Dục giới gồm có 11 thứ.
Tâm Duy tác
ở Sắc giới có 5 thứ: 81/. - 85/.
Tâm Duy tác
ở Vô sắc giới có 4 thứ: 86/. - 89/.
Cả hai loại nầy đều
giống thiền tâm Sắc giới và Vô sắc giới. Nhưng tâm duy
tác thì chỉ khởi lên nơi A la hán.
Như vậy, tâm Duy
tác
ở cả 3 cõi gồm có 20 thứ.
Tóm lại, Thiện tâm
gồm có 21; Bất thiện tâm gồm có 12; Bất định dị thục
có 36; Bất định duy tác có 20; tổng cộng thành 89 tâm. Xem
đồ biểu dưới đây:
BẢNG
LIỆT KÊ TÓM TẮT 89 LOẠI TÂM
I.
THIỆN
DỤC
GIỚI
CÓ 8 |
1. |
Câu hữu hỉ |
tương ưng trí |
không cần
nhắc |
2. |
-nt- |
-nt- |
cần nhắc |
3. |
-nt- |
không tương
ưng
trí |
không cần
nhắc |
4. |
-nt- |
-nt- |
cần nhắc |
5. |
Câu hữu xả |
tương ưng trí |
không cần
nhắc |
6. |
-nt- |
-nt- |
cần nhắc |
7. |
-nt- |
không tương
ưng
trí |
không cần
nhắc |
8. |
-nt- |
-nt- |
cần nhắc |
SẮC
GIỚI
CÓ
5 |
9. |
Sơ thiền |
10. |
Nhị thiền |
11. |
Tam thiền |
12. |
Tứ thiền |
13. |
Ngũ thiền (tốc
hành tâm chứng thiền) |
VÔ
SẮC
GIỚI
CÓ
4 |
14. |
Không vô biên |
15. |
Thức vô biên |
16. |
Vô sở hữu xứ |
17. |
Phi
tưởng phi phi tưởng xứ (chứng định) |
SIÊU
THẾ
CÓ
4 |
18. |
Dự lưu
đạo |
19. |
Nhất
lai đạo |
20. |
Bất hoàn đạo |
21. |
A la
hán đạo (sát na chứng đạo) |
Tổng kết thiện tâm
cả 4 cõi có 21
II.
BẤT
THIỆN (CHỈ CÓ Ở DỤC GIỚI)
Gốc ở
THAM: 8 |
22. |
Câu hữu hỉ |
tương ưng tà
kiến |
không cần
nhắc |
23. |
-nt- |
-nt- |
cần nhắc |
24. |
-nt- |
không tương
ưng tà
kiến |
không cần
nhắc |
25. |
-nt- |
-nt- |
cần nhắc |
26. |
Câu hữu xả |
tương ưng tà
kiến |
không cần
nhắc |
27. |
-nt- |
-nt- |
cần nhắc |
28. |
-nt- |
không tương
ưng tà
kiến |
không cần
nhắc |
29. |
-nt- |
-nt- |
cần nhắc |
Gốc ở
SÂN: 2 |
30. |
Câu hữu ưu |
tương ưng hận |
không cần
nhắc |
31. |
-nt- |
-nt- |
cần nhắc |
Gốc ở
SI: 2 |
32. |
Câu hữu xả |
tương ưng
nghi |
|
33. |
Câu hữu xả |
tương ưng
trạo
cử |
|
Tổng cộng bất thiện
tâm có 12
III. BẤT
ÐỊNH
A. DỤC
GIỚI
1. THIỆN DỊ THỤC
34-38 |
nhãn... thân
thức, lạc |
vô nhân |
39 |
(tiếp thọ) ý
giới |
vô nhân |
40 |
(suy
đạt) ý thức giới câu hữu hỉ |
vô nhân |
41 |
(suy đạt, sở
duyên,
câu hữu hỉ kiết sanh, Hữu phần, tử)
ý thức giới câu hữu xả |
vô nhân |
42-49 |
thiện dục
giới
(giống tâm 1-8),
ở Ðồng sở Duyên, Kiết sanh |
hữu nhân |
THIỆN DUY TÁC
70 |
Ý giới có đặc
tính làm tiền đạo cho nhãn thức. |
vô nhân |
71-72 |
71. Ý thức
giới,
câu hữu với xả (5 môn hướng, xác định tâm, ý môn
hướng)
72. Ý thức
giới
(tốc hành tâm) |
vô nhân |
73-80 |
Giống như
thiện
tâm ở Dục giới (1-8 tốc hành tâm). Nhưng khởi nơi
vị A la hán. |
hữu nhân |
2. BẤT THIỆN DỊ
THỤC (CHỈ CÓ VÔ NHÂN)
50-54 |
nhãn nhĩ tỉ
thiệt thân thức, khổ |
55 |
ý giới (tiếp
thọ) |
56 |
ý thức giới
(suy
đạt, Ðồng sở Duyên, Kiết sanh, Hữu phần, tử) |
B. SẮC GIỚI
57-61 |
năm thiền tâm
như
Tâm 9-13, ở kiết sanh, hữu phần, tử tâm tốc hành,
dị thục. |
81-85 |
như Tâm 9-13,
duy tác,
khởi nơi vị A la hán. |
C. VÔ SẮC
GIỚI
62-65 |
bốn Ðịnh vô
sắc, như Tâm14-17, ở Kiết Sanh, Hữu phần, tử, tốc
hành tâm, dị thục |
86-89 |
như Tâm
14-17, duy
tác, khởi nơi vị A la hán. |
D. SIÊU THẾ
66 |
Dự lưu quả
(sát
na chứng quả) |
67 |
Nhất lai quả
(nt) |
68 |
Bất hoàn quả
(nt) |
69 |
A la hán quả
(nt) |
Tổng kết Dị thục
tâm
có 36 thuộc cả 4 cõi. Duy tác có 20. Từ Tâm 72 đến 89
chỉ có ở bậc A la hán.
Luận Duy Thức, đại
diện cho các luận điển của Ðại thừa, chia vạn pháp
trong vũ trụ thành 100 thứ là: 11 Sắc pháp, 83 Tâm pháp (8 Tâm
vương, 51 Tâm sở, 24 Tâm bất tương ưng) và 6 Vô vi pháp.
Về Sắc pháp, như đã so sánh ở phần Sắc uẩn kể trên.
Về Tâm pháp gồm 83 thứ, nếu cộng với 6 vô vi pháp sẽ
thành 89 thứ như số lượng của Thanh Tịnh Ðạo luận đã
đề cập.
3. Thọ uẩn.
Thế nào là Thọ uẩn?
Bất cứ cái gì có đặc tính được cảm nhận, gọi là
Thọ uẩn. Thông thường Thọ gồm có 3 loại là: lạc thọ,
khổ thọ và xả thọ (bất khổ bất lạc thọ); hoặc nó
được xếp theo 3 loại là: thiện, bất thiện và bất định;
hoặc được chia thành 5 loại là: thân lạc, thân khổ, tâm
hỉ, tâm ưu và xả.
Lạc:
có đặc tính là cảm nhận một vật xúc chạm đáng ưa thích.
Nó được biểu hiện bằng sự vui sướng của thân. Khổ
có đặc tính là cảm thọ một vật được xúc chạm không
đáng ưa. Nó có biểu hiện là sự đau đớn của thân. Hỉ
có đặc tính là cảm thọ một đối tượng đáng ưa thích.
Nó được biểu hiện bằng sự vui mừng trong tâm. Ưu
có đặc tính là cảm thọ một đối tượng không đáng ưa.
Xả có đặc tính là cảm thọ một đối tượng không
vui không khổ. Nó được biểu hiện bằng sự an tĩnh. Ðó
là những giải thích về Thọ uẩn.
4. Tưởng uẩn
Thế nào là Tưởng
uẩn? Bất cứ cái gì có đặc tính tri giác, tưởng tượng,
đều thuộc về Tưởng uẩn. Ở đây, tưởng cũng được
xếp thành 3 loại là: thiện, bất thiện, và bất định. Cái
gì tương ưng với thiện tâm, gọi là thiện, tương ưng
với bất thiện tâm, gọi là bất thiện. Tưởng không thể
tách rời với tâm, nên nó có cùng một cách phân loại như
tâm, nghĩa là gồm 89 loại.
Về đặc tính, tưởng
chỉ có một là nhận biết. Nhiệm vụ nó là ghi nhận một
dấu hiệu để làm điều kiện cho lần sau có thể nhận
diện được, như "đây là một thứ như trước ".
Ðó là những giải thích về Tưởng uẩn.
5. Hành uẩn
Thế nào là Hành
uẩn?
Bất cứ cái gì có đặc tính tạo tác, gọi là Hành uẩn.
Theo đặc tính thì Hành chỉ có một, nhưng theo loại thì có
3 là: thiện, bất thiện và bất định.
Hành tương
ưng với 89
loại tâm:
Trước hết, tương
ưng
với thiện tâm thuộc Dục giới có 27 tâm sở biến hành,
4 tâm sở bất định và 5 tâm sở không thường, tổng
cọng là 36 tâm sở hành.
27 tâm sở
biến hành:
(1) Xúc (Phasso)
(2) Tư (Cetanà)
(3) Tầm (Vitakko)
(4) Tứ (Vicàra)
(5) Hỉ (Pìti)
(6) Tinh tấn (Viriyam)
(7) Mạng căn (Jìvitindriyam)
(8) Ðịnh (Samàdhi)
(9) Tín (Saddhà)
(10) Niệm (Sati)
(11) Tàm (Hiri)
(12) Quí (Ottapam)
(13) Vô tham (Alabho)
(14) Vô sân (Adoso)
(15) Vô si (Amoha)
(16) Tâm sở thư thái (Kàyapassaddhi)
(17) Tâm thư thái (Cittapassaddhi)
(18) Tâm sở khinh an (Kàyalahutà)
(19) Tâm khinh an (Cittalahutà)
(20) Tâm sở nhu nhuyến (Kàyamudutà)
(21) Tâm nhu nhuyến (Cittamudutà)
(22) Tâm sở kham nhậm (Kàyakammannatà)
(23) Tâm kham nhậm (Cittakammannatà)
(24) Tâm sở tinh luyện (Kàyapàgunnatà)
(25) Tâm tinh luyện (Cittapàgunnatà)
(26) Tâm sở chánh trực (Kàyujjukatà)
(27) Tâm chánh trực (Cittujjukatà)
4
Tâm sở bất định:
(28) Dục (Chanda)
(29) Thắng giải (Adhimokkha)
(30) Tác ý (Manikàra)
(31) Trung tánh (Tatramajjattatà)
5 Tâm sở
không thường:
(32) Bi (Karunà)
(33) Hỉ (Mudità)
(34) Vô thân ác hạnh
(35) Vô ngữ ác hạnh
(36) Tâm tà mạng.
Trên đây khi nói
tâm
thư thái, khinh an v.v... thì chỉ có tâm được như vậy, còn
khi nói tâm sở thư thái, khinh an v.v... thì cả cơ thể vật
lý cũng được như vậy. Ðó là chỗ khác nhau giữa tâm thư
thái... và tâm sở thư thái.
Bây giờ đề cập đến
các tâm sở tương ưng với tâm bất thiện có nguồn
gốc từ tham. Loại này gồm có 13 tâm sở biến hành
và 4 tâm sở bất định, thành ra 17 thứ.
13 Tâm sở biến hành
là:
Xúc, tư, tầm, tứ, hỉ, tinh tấn, mạng căn, định, vô tàm,
vô quí, tham, si, tà kiến. 4 bất định là: Dục, thắng
giải, trạo cử và tác ý. Ðó là những tâm sở tương ưng
với tâm bất thiện.
Tiếp theo đây là
những tâm sở tương ưng với tâm bất thiện có
nguồn gốc từ sân. Loại nầy có tất cả 18 thứ: 11
tâm sở biến hành, 4 tâm sở bất định và 3 tâm sở không
thường.
11 Tâm sở biến hành
là:
Xúc, tư, tầm, tứ, tinh tấn, mạng căn, định, vô tàm, vô
quí, sân, si. 4 Tâm sở bất định (xem trên), và 3 tâm sở
không thường là: Tật đố, xan lẫn và trạo hối.
Lại có 13 tâm sở
tương
ưng với tâm bất thiện có gốc từ si, sau đây:
11 tâm sở biến hành (xem ở trên); 2 tâm sở bất định:
Trạo cử, tác ý.
Về các tâm sở tương
ưng với tâm bất định dị thục gồm có 2 loại là
hữu nhân và vô nhân. Những tâm sở nào tương ưng với tâm
dị thục vô nhân, gọi là các hành vô nhân. Những tâm
sở nào tương ưng với tâm dị thục hữu nhân, gọi
là các hành hữu nhân.
Các tâm sở tương
ưng
với tâm dị thục Sắc giới (57-61), với tâm dị thục Vô
sắc giới (62-65) và tâm dị thục Siêu thế (66-69) là tương
tự các tâm sở tương ưng với thiện tâm cùng loại (9-21).
Các tâm sở tương
ưng
với tâm bất định duy tác cũng được chia thành 2
loại là vô nhân và hữu nhân. Những tâm sở nào
tương ưng với các tâm duy tác vô nhân (70-72), gọi là
các hành vô nhân. Những tâm sở nào tương ưng với các tâm
duy tác hữu nhân (73-80), gọi là các hành hữu nhân.
Các tâm sở tương
ưng
với tâm duy tác Sắc giới (81-85) và tâm duy tác
Vô sắc giới (86-89) cũng tương tự như các tâm sở tương
ưng với thiện tâm (9-17).
Trên đây là phần
trình
bày về các tâm sở thuộc về hành.
Sau đây là vài giải
thích thêm để làm sáng tỏ 5 thủ uẩn. Giữa uẩn và
thủ uẩn khác nhau thế nào? Uẩn là được nói
lên mà không phân biệt. Thủ uẩn là nói để phân
biệt những uẩn bị chấp thủ và còn lậu hoặc. Chẳng
hạn, khi nói sắc thì đó chỉ là một pháp đơn
thuần. Nhưng khi sắc đó làm đối tượng cho sự chấp
thủ, thì nó được gọi là thủ uẩn. Thọ, tưởng,
hành và thức cũng thế, khi chúng không còn lậu hoặc chi
phối, thì chúng chỉ là những pháp đơn thuần. Nhưng khi chúng
còn lậu hoặc và là cơ sở cho sự chấp thủ, thì chúng
được gọi là Thủ uẩn.
Ở đây, ta có thể ví
dụ Sắc thủ uẩn như cái phòng bệnh, vì nó là chỗ
cư trú; Thọ thủ uẩn, ví như cơn bệnh, vì nó đem
lại đau khổ; Tưởng thủ uẩn ví như sự kích thích
của cơn bệnh, vì nó làm sinh khởi cảm thọ tương ưng
với tham; Hành thủ uẩn ví như dùng thứ thuốc không
thích hợp, vì nó là nguồn gốc phát sinh ra bệnh; Thức
thủ uẩn ví như người bệnh, vì nó không bao giờ thoát
khỏi thọ và cơn bệnh.
Lại nữa, 5 uẩn lần
lượt được ví như lao ngục, hình phạt, tội lỗi, người
trừng phạt và người gây tội.
Lại thêm một ví dụ
khác: Sắc ví như đống bọt; Thọ ví như bong bóng
nổi trên mặt nước; Tưởng ví như ảo ảnh; Hành
ví như thân cây chuối; Thức ví như trò ảo thuật.
Nếu một người thấy
Nội sắc là bất tịnh, thì hiểu rõ về thức ăn đoàn
thực. Một người thấy Thọ là khổ, thì hiểu rõ xúc
thực. Một người thấy Tưởng, Hành là vô ngã, thì
hiểu rõ tư niệm thực. Một người thấy Thức là vô
thường, thì hiểu rõ thức thực. Người ấy từ bỏ tà
kiến thấy thường trong vô thường, vượt bộc lưu vô
minh, thoát kiết sử vô minh, giải thoát vô minh lậu, bẻ gãy
hệ phược của sự bám vào lễ nghi tế tự. Người ấy
sẽ không chấp thủ tà kiến, thoát khỏi kiến thủ.
Ðến đây, kết thúc
chương XIV "mô tả các uẩn", trong sự tu tập về Tuệ.
-ooOoo-