CHƯƠNG X - ÐỊNH -
CÁC VÔ SẮC XỨ
(Aruppa-niddesa)
        
1. KHÔNG VÔ BIÊN XỨ
(Akàsànantàyatana)
Sau khi hành giả tu
tập 
4 phạm trú đắc được các cấp thiền ở Sắc giới, tiếp 
tục tiến sâu hơn nữa vào cõi định, sẽ thấy rằng cõi 
sắc giới, vẫn còn có hàng ngàn thứ nguy hiểm, do thế hướng 
tâm về Không vô biên xứ thuộc cõi Vô sắc để tu tập. Hành 
giả tác ý đến khoảng Không vô biên ấy bằng cách thầm 
nhủ "Khoảng không, khoảng không". Khi hành giả vận 
dụng tầm, tứ tác ý đến cảnh giới ấy nhiều lần, thì 
những triền cái dần dần được chế ngự, niệm được 
an trú và tâm hành giả trở nên định tĩnh trong cận hành 
định, như bản luận nói: "Với sự hoàn toàn vượt 
qua sắc tưởng, với sự biến mất những chướng ngại tưởng, 
không tác ý sai biệt tưởng, hành giả biết rằng "Hư 
không là vô biên", chứng và trú "Không vô biên xứ. 
" (Vbh. 245)
Hoàn toàn 
nghĩa là về mọi phương diện.
Vượt qua sắc
tưởng 
nghĩa là vượt qua, siêu việt các thiền chứng đã đạt 
được ở cõi sắc giới, Với sự biến mất những chướng 
ngại tưởng: Chướng ngại tưởng hay đối ngại tưởng 
là những tưởng khởi lên do căn tiếp xúc với trần tương 
ứng, như các tưởng về sắc, thanh, hương, vị, xúc, đó 
là những đối ngại tưởng. Không tác ý các tướng sai 
biệt: Một người chưa đắc đ?nh, mà có tưởng về ý 
giới và ý thức giới, đó gọi là "Các tướng sai biệt".
Hư không vô 
biên 
nghĩa là biên giới sinh và diệt của nó không thể biết 
được. Cái khoảng không còn lại sau khi rời bỏ đề mục 
(biến xứ) tu tập gọi là "hư không". Không vô 
biên xứ: Cái gì không có giới hạn trong không gian thì 
gọi là hư không vô biên. Hư không vô biên nầy được xem 
như một "xứ" hay một khái niệm mà Thiền giả 
dùng để an trú. Nghĩa là tâm thiền giả lúc nầy tương 
ứng với một khoảng không bao la. Ðó là những giải thích 
về đề mục thiền Không vô biên xứ.
2. THỨC VÔ BIÊN XỨ
Sau khi đạt được 
thiền 
chứng về Không vô biên xứ, hành giả lại khám phá 
rằng thiền chứng nầy vẫn còn có những mối nguy hiểm, 
nên tác ý đến Thức vô biên xứ, xem đây như là đối 
tượng an tịnh hơn. Rồi hành giả vận dụng tầm và tứ 
tác ý đến "xứ" ấy nhiều lần như "Thức là 
vô biên, thức là vô biên".
Khi hành giả hướng 
tâm 
thiền nhiều lần trên tướng ấy như vậy, những triền cái 
được từ bỏ, niệm được an trú, tâm trở nên định 
tĩnh trong cận hành định, như kinh văn mô tả: "Vị ấy 
hoàn toàn vượt qua Không vô biên xứ, biết rằng Thức 
là vô biên, chứng và trú Thức vô biên xứ". 
(Vbh. 245)
Thức là vô 
biên: 
Hành giả tác ý đến khoảng không được biến mãn bởi thức, 
mà thức ấy thì bao la vô giới hạn, nên gọi là Thức 
vô biên. Hoặc là hành giả tác ý đến cái thức đã 
biến mãn hư không ấy. Thức vô biên xứ: Thức nầy 
là "xứ" hay môi trường, vì nó là nền tảng mà 
thiền giả đang hướng tâm tu tập.
3. VÔ SỞ HỮU XỨ
Khi hành giả muốn 
tu tập 
vô sở hữu xứ trước hết cần phải thành tựu sự 
thiện xảo theo 5 cách trong thiền chứng về Thức vô 
biên xứ. Thế rồi, thiền giả thấy được tính chất 
nguy hiểm trong Thức vô biên xứ như sau: "Thức này 
có Không vô biên xứ là kẻ thù gần của nó, và nó không 
được an tịnh như vô sở hữu xứ". Do đó, hành giả 
vận dụng tầm và tứ hướng đến vô sở hữu xứ tác ý 
nhiều lần như sau: "Không có gì cả", hoặc 
"Không, không", và liên tục quán sát nó.
Khi hành giả hướng 
tâm 
đến tướng ấy một cách thiện xảo, thì những triền 
cái bị áp đảo, niệm được an trú, và tâm hành giả tập 
trung ở cận hành định, như kinh văn nói: "Vị ấy 
hoàn toàn vượt qua Thức vô biên xứ, biết rằng 
"Không có gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ". 
(Vbh. 245)
Vô sở hữu xứ: 
"xứ" ở đây có nghĩa là chỗ trú, như "chư 
thiên xứ" là chỗ trú của chư thiên; do vậy, đây là 
một trú xứ không có sở hữu, nên gọi là vô sở hữu. 
Nó nói lên ý nghĩa Thức thuộc về không vô biên xứ đã 
biến mất.
4. PHI TƯỞNG PHI 
PHI TƯỞNG 
XỨ
Sau khi chứng đạt 
về 
định Vô sở hữu xứ, hành giả tiếp tục tư duy sâu hơn 
nữa, lại thấy rằng pháp định nầy còn có những nhược 
điểm, nhu sau: "Thiền nầy có Thức vô biên xứ là kẻ 
thù gần của nó, và nó không được an tịnh như Phi tưởng 
phi phi tưởng xứ".
Sau khi đã từ bỏ 
bám 
víu vào Vô sở hữu xứ, hành giả vận dụng tầm và tứ 
tác ý đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, xem cảnh giới nầy 
là an tịnh, bằng cách thầm nhủ "an tịnh, an tịnh".
Khi hành giả hướng 
tâm 
nhiều lần đến tướng ấy, thì những triền cái bị áp 
đảo, niệm được an trú, tâm trở nên tập trung trong cận 
hành định, như kinh văn mô tả: "Bằng cách vượt qua 
hoàn toàn Vô sở hữu xứ, hành giả chứng đạt và an trú 
Phi tưởng phi phi tưởng xứ". (Vbh. 245)
Phi tưởng 
phi phi tưởng: 
Vì ở đây vắng bóng những tưởng thô, nhưng có mặt những 
tưởng vi tế. Hơn nữa, tưởng ở đây không phải là tưởng, 
vì nó không đủ sức mạnh để làm nhiệm vụ của tưởng, 
nhưng nó cũng không phải là không hẳn, vì nó còn hiện diện 
trong một trạng thái vi tế, như một hành còn sót lại, 
nên gọi nó là Không phải tưởng cũng không phải không 
có tưởng. Ở đây không những Tưởng mới có 
tính chất như vậy, mà Thọ cũng là phi thọ phi phi thọ, 
kể cả Thức và Xúc cũng thế.
Ðể làm sáng tỏ vấn 
đề trên, ở đây cần nêu một ví dụ như sau: Ví như một 
cái bát đựng đầy dầu vừa mới trút ra, nếu bảo cái 
bát ấy không có dầu thì không đúng, vì nó vẫn còn dính 
dầu. Nhưng nếu bảo cái bát ấy có dầu cũng không ổn, 
vì dầu ấy không thể sử dụng vào việc gì được.
TỔNG QUÁT
Trong 4 pháp thiền 
cõi 
Vô sắc nầy, Không vô biên xứ đầu tiên là do vượt qua 
những tướng về sắc pháp. Thức vô biên xứ thứ hai là 
do vượt qua Không vô biên xứ; Vô sở hữu xứ thứ ba là 
do vượt qua Thức Vô biên xứ và Phi tưởng phi phi tưởng 
thứ tư là do vượt qua Vô sở hữu xứ, nghĩa là do sự biến 
mất của Thức lấy hư không làm đối tượng. Ở đây nên 
nhớ rằng mỗi thiền Vô sắc nầy chỉ có 2 thiền chi là xả 
và nhứt tâm mà thôi. Tuy chỉ có 2 thiền chi trong cả 
bốn Vô sắc, nhưng phải hiểu rằng mỗi thiền kế tiếp 
bao giờ cũng vi tế hơn là bậc thiền trước nó.
Ðến đây cũng cần 
mượn một ví dụ để trình bày vấn đề: Ví như có một 
cái lều dựng trên một chỗ dơ dáy. Rồi một người đi 
đến nhờm gớm sự nhơ uế, nên tựa 2 tay vào túp lều. Người 
thứ hai đi đến, liền dựa vào người ấy. Người thứ ba 
đi đến và nghĩ, cả 2 người kia không an toàn, vì nếu 
túp lều sụp đổ thì chúng sẽ gặp nguy hiểm, do vậy ta 
nên đứng ở ngoài. Thế rồi, một người thứ tư đi đến, 
thấy sự bất ổn của 2 người đầu, và nghĩ rằng người 
đứng ở ngoài an toàn hơn, nên y đứng dựa vào người ấy.
Cái khoảng không mà
biến 
xứ đã dời bỏ, ví như căn lều dựng chỗ dơ uế. Thức 
thuộc Không vô biên xứ, lấy không gian làm đối tượng, 
do chán ghét các sắc vi tế, là giống như người đầu bám 
vào cái lều vì nhờm gớm đồ dơ. Thức thuộc Thức vô 
biên xứ, mà sự sinh khởi nương vào Thức thuộc Không vô 
biên xứ, là ví như người tựa vào người bám cái lều. 
Thức thuộc Vô sở hữu xứ, thay vì lấy cái thức thuộc 
Không vô biên xứ làm đối tượng, lại lấy sự phi hữu của 
thức ấy làm đối tượng, ví như người thứ ba sau khi xét 
thấy bất ổn nơi hai người trước, không dựa vào người 
thứ hai, mà đứng ở ngoài. Thức thuộc Phi tưởng phi phi 
tưởng xứ phát sinh nương nơi thức thuộc Vô sở hữu, 
cái thức ra ngoài, nghĩa là ở nơi phi hữu của thức trước 
đấy, ví như người đứng dựa vào người thứ ba, sau khi 
đã xét thấy bất ổn ở hai người đầu, và nghĩ rằng 
người đứng ngoài là khéo đứng.
Chương thứ 10 nầy, 
trọng 
tâm mô tả về các Thiền Vô sắc giới, vừa được trình 
bày tóm tắt ở trên.
-ooOoo-
CHƯƠNG XI - ÐỊNH -
MÔ TẢ
A. BỐN LOẠI THỰC 
PHẨM
Bây giờ, đến phần 
trình bày sự tu tập bất tịnh tưởng đối với thức ăn. 
Thông thường, thức ăn được chia thành 4 loại sau đây: 1. 
Ðoàn thực (thức ăn vật chất); 2. Xúc thực, 3. Tư niệm 
thực (hành thực); 4. Và thức thực.
Ở đây, thức ăn có 
công dụng nuôi sống: Ðoàn thực nuôi thân thể vật 
chất. Xúc thực: nuôi 3 cảm thọ (lạc, khổ và bất 
khổ bất lạc). Hành thực nuôi sự tái sinh trong 3 
cõi hữu. Còn Thức thực nuôi danh sắc vào lúc tái 
sinh.
Khi có Ðoàn thực
thì có chấp thủ, đem lại nguy hiểm. Khi có Xúc thực 
thì có ái, đem lại nguy hiểm. Khi có Hành thực thì 
có tái sinh, đem lại nguy hiểm. Khi có Thức thực thì 
có kiết sinh (nối kết với sự tái sinh), đem lại nguy hiểm. 
Trong kinh ví dụ chúng ta phải nhờ thức ăn đoàn thực để 
nuôi thân xác nầy chẳng khác gì một người phải ăn thịt 
con mình để vượt qua bãi sa mạc hoang vu. (Tương ưng II, 
98)
Một người muốn tu 
tập 
quán bất tịnh về thức ăn, cần phải học thuộc đề mục 
thiền nầy, rồi tìm một nơi vắng vẻ, sống độc cư, để 
quán tưởng 10 khía cạnh bất tịnh của thức ăn sau đây: 
Ra đi, tìm kiếm, sử dụng, sự tiết lậu, chỗ chứa, vật 
không tiêu hóa, vật được tiêu hóa, kết quả, sự tuôn 
ra, sự vấy bẩn.
Một người dù đã 
xuất 
gia, sống trong một giáo pháp cao cả, vẫn phải cần đến 
thức ăn để duy trì đời sống. Do vậy, người ấy hằng 
ngày tay cầm bát đi lang thang từ nhà này đến nhà khác như 
một kẻ ăn mày, để nhận lấy thức ăn từ những thí chủ 
hảo tâm. Nhưng đến lúc sử dụng, thức ăn đã mất hết 
màu sắc và hương vị nguyên sơ của nó. Thức ăn ấy khi 
nuốt khỏi cổ, các dịch vị sẽ tiết ra để tiêu hóa 
nó, bấy giờ nó đã trở thành một thứ đáng buồn nôn. Nơi 
chứa đựng nó chẳng khác gì một thùng chứa phân đã 10 năm, 
hoặc 6, 7 mươi năm không rửa, nếu người ấy sống đến 
70 -80 tuổi. Thức ăn ấy nếu không được tiêu hóa, trộn 
lẫn với những thức ăn còn lại hôm trước, trở thành một 
thứ đáng gớm ghiếc, và là nguyên nhân gây ra bệnh hoạn. 
Nhưng nếu nó được tiêu hóa, nó sẽ sản xuất ra đủ thứ 
dơ dáy gồm tóc, lông, răng, móng v.v... Khi được nuốt vào, 
nó vào bằng một cửa nhưng khi tuôn ra, nó thoát ra bằng 
nhiều cửa, nói đúng hơn là thoát ra bằng cả 9 cửa (cửu 
khiếu). Khi nuốt vào, nó được nuốt cùng với một đám 
đông tụ họp vui vầy, nhưng khi tuôn ra, nó được bài tiết 
trong quạnh quẽ cô đơn. Vào lúc sử dụng nó, hành giả 
làm bẩn tay, môi, lưỡi, và những thứ nầy trở nên gớm 
ghiếc, vì dính đầy thức ăn. Ðó là tóm tắt về 10 tính 
chất bất tịnh của thức ăn mà luận chủ đã quảng diễn 
khá phong phú.
Khi hành giả vận 
dụng 
tầm và tứ quán sát 10 khía cạnh bất tịnh như trên, thì 
tính chất đáng ghê tởm của thức ăn hiện rất rõ nơi hành 
giả. Nhờ đó, tâm hành giả sẽ dễ dàng tập trung ở định 
cận hành. Và nếu chưa chứng được mục tiêu bất tử 
trong đời nầy, ít nhất vị ấy cũng hướng đến một thiện 
thú tốt đẹp.
B. BỐN ÐẠI CHỦNG
Những kinh chuyên 
trình 
bày về 4 đại gồm có các kinh chủ yếu sau đây: Kinh Ðại 
niệm xứ (Mahàsatipatthàna, D. II, 294), Tượng tích dụ đại 
kinh (Mahàhatthipàdùpamà, M. I, 184), Kinh Giáo giới La Hầu La 
(Ràhulovàda, M. I. 421) và kinh Giới phân biệt (Dhàtuvibhanga, 
M. III, 240).
Kinh Ðại Niệm xứ 
dành cho hạng người lợi căn, trình bày vắn tắt phương 
pháp thiền quán 4 đại chủng như sau: "Nầy các Tỳ 
kheo, như một đồ tể thiện xảo hay đệ tử người đồ 
tể, sau khi giết một con bò, và ngồi ở ngã tư đường, xẻ 
nó ra thành từng miếng, cũng vậy, một Tỳ kheo quán sát 
thân nầy, dù đặt như thế nào, sử dụng như thế nào cũng 
chỉ gồm có 4 đại: Trong thân nầy, đây là địa đại, thủy 
đại, hỏa đại và phong đại". (D. II, 294).
Một cư sĩ hay một 
Tỳ 
kheo khi chưa tu tập phương pháp phân tích về tứ đại, thì 
thường thấy bản thân mình là một con người, một chúng 
sinh hay một tự ngã; nhưng khi Tỳ kheo ấy đã 
phân tích thân nầy cặn kẽ, thì cái tưởng về chúng 
sinh sẽ biến mất, mà chỉ còn thấy một khối vật chất 
gồm 4 đại chủng mà thôi.
Ngoài bản kinh kể 
trên mô tả vắn tắt dành cho hạng người lợi căn, ba kinh 
còn lại trình bày tương đối tỉ mỉ về 4 đại, dành cho 
hạng người bình thường, như kinh Giới Phân biệt mô tả: 
"Nầy chư hiền, thế nào là địa đại ở bên 
trong? - Bất cứ cái gì ở nội thân thuộc cá nhân, thô 
phù kiên cứng, bị chấp thủ, như tóc, lông, răng, móng, 
da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, 
lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân, và bất cứ 
vật gì khác, thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, 
kiên cứng, bị chấp thủ, đây gọi là nội địa giới 
(M. I.185).
"Và chư hiền, thế 
nào là thủy giới ở bên trong? Cái gì thuộc nội 
thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị 
chấp thủ như mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, mở da, nước 
mắt, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, và nước 
tiểu, và bất cứ thứ gì khác thuộc nội thân, thuộc cá 
nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ, đây 
gọi là nội thủy giới (M. I. 187)
" Và chư hiền, thế 
nào là nội hỏa giới? Cái gì thuộc nội thân, thuộc 
cá nhân, thuộc lửa thuộc chất nóng, bị chấp thủ, cái 
gì khiến cho thân thể nóng lên, thiêu đốt, biến hoại, cái 
gì khiến cho những vật được ăn uống, nhai nếm có thể 
khéo tiêu hóa, hay tất cả những gì khác thuộc nội thân, 
thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ; 
đây gọi là nội hỏa giới (M. I. 188).
" Và này chư hiền, 
thế nào là nội phong giới? Cái gì thuộc về nội 
thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc về động tánh, bị 
chấp thủ, nghĩa là gió thổi lên, gió thổi xuống, gió 
trong bụng, gió trong ruột, gió thổi qua các chân tay, hơi thở 
vô, hơi thở ra, hay bất cứ cái gì khác thuộc nội thân, 
thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ, 
đây gọi là nội phong giới (M. I. 188).
Ðối với những người
lợi căn thì có thể quán sát về tứ đại ngay trong mình 
như sau: "Trong thân nầy, cái gì thuộc chất cứng, thô 
là Ðịa đại (giới). Cái gì thuộc chất lỏng, chảy 
được, làm cho dính liền, là Thủy đại; Cái gì làm 
cho chín, làm cho nóng, là Hỏa đại; Cái gì duy trì 
hay chuyển động là phong đại". Nghĩa là quán 
thân nầy như là tứ đại mà thôi, chứ không phải là một 
chúng sinh, và không có tự ngã.
Khi hành giả nỗ lực
bằng cách đó, thì không bao lâu định cận hành sẽ sinh khởi, 
được tăng cường bởi tuệ, soi sáng sự phân loại của 
các đại chủng, nhưng chưa đạt đến định an chỉ, vì 
các đối tượng của nó là những đặc tính cá biệt.
Thế nhưng, nếu hành
giả là hạng người thuộc căn cơ bình thường, thì nên tu 
tập đề mục thiền nầy theo 4 cách: 1. Lược thuyết các 
thành phần; 2. Quảng thuyết các thành phần; 3. Lược thuyết 
về các đặc tính; 4. Quảng thuyết về các đặc tính.
1. Lược 
thuyết về các 
thành phần (các thành 
phần 
nầy sẽ nói rõ ở phần Quảng thuyết):
Ở đây hành giả phân
tích ngắn gọn như sau: "Cái gì có tính chất kiên cứng, 
thuộc địa đại, gồm có 20 thành phần. Cái gì có 
tính chất dính liền thuộc thủy đại, gồm 12 thành 
phần; Cái gì làm cho chín, thuộc hỏa đại, gồm có 
4 thành phần; Cái gì có tính chất duy trì, thuộc phong đại,
gồm có 6 thành phần". Như vậy, toàn bộ tứ đại gồm 
có tất cả 42 thành phần.
Khi hành giả phân 
tích 
chúng như vậy, chúng sẽ trở nên rõ rệt, và nhờ tác ý 
nhiều lần định cận hành sẽ khởi lên nơi hành giả.
2. Quảng thuyết về 
các thành phần:
Hành giả khi phân 
tích 
về 4 đại chủng nên dùng 32 vật bất tịnh làm đối tượng 
để phân tích. Nhưng điểm khác nhau là ở đây phân tích 
32 vật nầy về phương diện đại chủng, còn ở chướng 
VIII, phân tích 32 vật nầy về phương diện bất tịnh. 
Trong 32 vật này địa đại gồm có 20 thành phần: 
tóc, lông, răng, móng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, 
tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột non, ruột già, 
bao tử, phân, não. Thủy đại gồm có 12 thành phần: 
Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, mỡ nước, nước mắt, 
nước dãi, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu.
Cùng lúc hành giả 
tác 
ý đến các vật bất tịnh tóc, lông v.v..., cần phải chú 
tâm đến 4 thành phần thuộc Hỏa đại của chúng như 
sau: cái làm cho nóng, cái làm cho chín, cái làm cho biến đổi 
và cái làm cho tiêu hóa. Ðồng thời cũng tác ý đến thân 
thể qua 6 thành phần thuộc phong đại sau đây: Sự 
chuyển động đi lên, sự chuyển động đi xuống, sự chuyển 
động trong bụng, sự chuyển động trong ruột, sự chuyển 
động ngang qua tứ chi và hơi thở vô hơi thở ra. Ðó là 
cách chú tâm về phong đại theo 6 thành phần:
3. Lược thuyết về các đặc tính:
Nếu đã tác ý về 
các thành phần của tứ đại như trên, mà chưa đạt được 
mục đích thì hành giả hãy tác ý một cách tóm lược về 
các đặc tính của chúng nhu sau: Cái gì có tính chất cứng 
là thuộc Ðịa đại, cái gì có tính chất dính liền 
là thuộc Thủy đại, cái gì có tính chất làm cho 
chín là thuộc Hỏa đại, cái gì có tính chất bành 
trướng là thuộc phong đại. Ðó là nói sơ lược về 
các đặc tính của 4 đại.
4. Quảng thuyết về 
các 
đặc tính:
Nhưng nếu đề mục 
thiền ấy vẫn chưa đạt được thành công thì hành giả 
hãy tác ý một cách tỉ mỉ theo 13 cách sau đây: a. Về ý 
nghĩa danh từ; b. Theo từng nhóm; c. Bằng những vi tế; d. Do 
đặc tính; đ. Do sự phát sinh; e. Về khía cạnh dị đồng; 
g. Về tính chất khả phân và bất khả phân; h. Về giống 
và khác; i. Về phân định trong ngoài; k. Về sự bao gồm; 
l. Về điều kiện; m. Về sự thiếu phản ứng tâm thức; 
n. Về sự phân tích các duyên (điều kiện).
a. Về 
phương diện 
ý nghĩa: Nếu nói một 
cách tổng quát thì 4 đại chủng đều là giới (dhàtu) 
mang tính chất đau khổ. Nhưng nói theo cách phân biệt thì 
cái gì trải ra gọi là địa; cái gì trôi chảy gọi 
là thuỷ; cái gì làm cho nóng, gọi là hoả; 
cái gì chuyển động gọi là phong.
b. Theo 
từng nhóm: 
Trong 32 vật bất tịnh được chia thành 2 nhóm, nhóm địa 
đại gồm 20 thành phần và nhóm thủy đại gồm 12 thành 
phần.
c. Bằng 
những vi thể: 
Trong thân ta, địa đại
kể như đã nghiền thành bụi nhỏ như cỡ vi trần; nó 
được kết hợp với thủy đại, được duy trì bằng hỏa 
đại, và được tăng trưởng nhờ phong đại.
d. Về đặc 
tính: 
Ðịa đại có đặc tính cứng; Thủy đại có 
đặc tính chảy; Hỏa đại có đặc tính nóng; 
và phong đại có đặc tính bành trướng.
đ. Về 
nguồn gốc phát 
sinh: Trong 32 vật gồm
địa 
đại và thủy đại là do thời sinh và tâm sinh; hỏa 
đại làm tiêu hóa thức ăn, là nghiệp sinh; phong đại, 
tức hơi thở là tâm sinh.
e. Về khía
cạnh dị 
đồng: Bốn đại chủng 
tuy đặc tính, nhiệm vụ và tướng trạng khác nhau, nhưng 
chúng cùng có chung một đặc tính là thuộc về sắc 
pháp.
g. Về tính
khả phân 
và bất khả phân: Bốn 
đại có thể phân tích riêng theo đặc tính của chúng, đó 
là tính khả phân; nhưng chúng cùng gồm chung trong 4 phương 
diện là: màu, mùi, vị và dưỡng chất, đó là tính bất 
khả phân.
h. Về 
phương diện 
giống và khác: Mặc dù 
chúng cùng chung là sắc pháp nhưng 2 đại địa và thuỷ
có tính nặng, 2 đại hỏa và phong có tính nhẹ. 
Ðó là chỗ khác nhau của chúng.
i. Về phân
định 
trong ngoài: Bốn đại ở
nội giới làm cơ sở cho thức tồn tại, còn 4 đại ở 
ngoại giới thì làm đối tượng cho thức nhận biết.
k. Về sự 
bao gồm: 
Ðịa đại do nghiệp sinh được gồm chung với những 
đại do nghiệp sinh khác. Cũng thế, những đại 
do thức sinh được gồm chung với nhau.
l. Về 
phương diện 
điều kiện: Ðịa đại 
được giữ lại nhờ nước, được duy trì bởi 
lửa, và bành trướng nhờ phong. Như vậy, các 
đại đều là nhân duyên cho nhau, đại nầy làm điều kiện 
cho đại khác tồn tại.
m. Về sự 
thiếu phản 
ứng ý thức: Ðịa đại
không biết "ta là địa đại", hoặc "ta là 
điều kiện cho các đại khác tồn tại". Ðó là tính 
chất không có phản ứng ý thức của chúng.
n. Về sự 
phân tích 
các duyên (điều kiện):
có 4 duyên cho 4 đại chủng, đó là: nghiệp, thức, dưỡng 
chất, và nhiệt độ (thời tiết). Nghiệp là sanh 
duyên cho những gì do nghiệp sanh, và là thân y duyên cho 
những 
cái còn lại. Thức là sanh duyên cho những gì do thức 
sanh, và là hậu sanh duyên, hữu duyên, bất ly khứ duyên 
cho những thứ còn lại. Dưỡng chất và Nhiệt độ 
cũng tương tự như 2 loại trên.
LỢI ÍCH CỦA PHÁP 
MÔN 
NÀY
Vị Tỳ kheo chuyên 
phân tích về 4 đại thì dễ thấu hiểu được tính không 
của các pháp, do đó có thể đoạn trừ được cái tưởng 
về chúng sinh, về tự ngã, nhiếp phục được sự sợ hãi, 
dứt được niệm ưa ghét. Nếu không đạt được Niết bàn 
hiện tại, thì cũng hướng đến một thiện thú tốt đẹp 
trong tương lai. Vị nầy thường có được 5 việc lợi ích 
sau đây: An trú trong giới luật của bậc thánh; trí tuệ 
khai phát, thấy đúng chân tướng của các sự vật; có thể 
đạt được thần túc thông, như một thân hiện ra nhiều 
thân; bảo đảm một cuộc sống tốt đẹp sau khi tái sinh 
trong cõi dục giới, hoặc sinh vào phạm thiên giới; có thể 
đạt được diệt thọ tưởng định ngay trong hiện tại. 
Ðó là 5 lợi ích của một người tu tập về pháp môn 
phân tích 4 đại chủng.
-ooOoo-
CHƯƠNG XII - ÐỊNH
- 
CÁC THẦN THÔNG
1. THẦN TÚC THÔNG
Sau phần mô tả về 4
đại chủng là nói về các loại thần thông. Ở đây, trước 
hết bàn về Thần túc thông.
Hành giả muốn thực 
hiện các năng lực thần thông cần phải hoàn tất 8 thiền 
chứng về các đề mục thiền khởi từ đề mục đất và 
cuối cùng là đề mục màu trắng. Ðồng thời vị ấy còn 
phải tăng trưởng 6 pháp sau đây: Tăng cường Tín, để 
tâm khỏi dao động; tăng cường Tấn để tâm khỏi 
giải đãi; tăng cường Niệm để tâm khỏi lơ đễnh 
(thất niệm); tăng cường Ðịnh, để tâm khỏi trạo 
cử; tăng cường Tuệ, để tâm khỏi mê muội; tăng 
cường Quán chiếu, để tâm khỏi bị lung lạc (bởi 
phiền não). Ðó là 6 pháp hỗ trợ làm cho tâm trở nên bất 
động.
Ngoài ra, còn có 8 
pháp 
khác dùng để yểm trợ thần thông như sau: Tâm được định 
tĩnh nhờ định tứ thiền; tâm được thuần tịnh 
nhờ tách rời các triền cái, tâm được trong sáng nhờ 
vượt qua tầm; tâm không lỗi lầm nhờ không có các 
ác dục; tâm được vô nhiễm nhờ các cấu uế biến 
mất, tâm được nhu nhuyến nhờ sự tự chủ; tâm dễ 
sử dụng nhờ có quyết tâm; tâm vững chắc nhờ 
sự tu tập đã viên mãn.
Thông thường bản 
luận 
xếp các thứ thần thông (thành công) thành 10 loại, như 
sau: 1, Thần thông do quyết định; 2. Thần thông bằng biến 
hóa; 3. Thần thông bằng thân ý sinh; 4. Thần thông bằng sự 
can thiệp của trí; 5. Thần thông bằng sự can thiệp của 
định; 6. Thần thông của các thánh giả; 7. Thần thông do 
nghiệp; 8. Thần thông do công đức; 9. Thần thông do kỹ thuật; 
10. Thần thông do nỗ lực đúng. Ðó là 10 loại thần 
thông.
1. Thần thông do
quyết 
định: chẳng hạn hành giả quyết định biến một thân 
mình thành ra cả trăm, nghìn thân.
2. Thần thông do
biến 
hoá: Hành giả từ bỏ hình dáng thông thường và biến 
thành một cậu bé hay một con rắn.
3. Thần thông do
thân ý sinh: Hành giả dùng mãnh lực của tâm tạo ra một 
thân người theo ý đồ của mình.
4. Thần thông do
sự 
can thiệp của trí: Hành giả vận dụng trí tuệ đoạn 
trừ các lậu hoặc, đắc A La hán quả, đó là thần thông 
do trí can thiệp.
5. Thần thông do
sự 
can thiệp của định: Như trường hợp tôn giả Xá lợi 
Phất đang ngồi nhập định ngoài trời vào lúc đêm trăng, 
bỗng có một ác quỉ đến đánh vào đầu tôn giả vang tiếng 
như sấm nổ, nhưng tôn giả chẳng hề hấn gì cả. Ðó là 
thần thông do định can thiệp.
6. Thần thông 
của 
các bậc thánh: Hành giả có tâm thản nhiên đối với 
những gì đáng ghê tởm mà không ghê tởm, đó là thần 
thông của thánh giả.
7. Thần thông do
quả 
báo của nghiệp: Như trường hợp chư thiên hay các loài 
chim bay đi trong không trung, đó là thần thông do nghiệp.
8. Thần thông do
công đức: Như trường hợp Chuyển luân Vương du hành tự 
tại trong không gian, đó là thần thông do những công đức.
9. Thần thông do
kỹ 
thuật: Như trường hợp những thầy phù thủy dùng bùa 
chú có thể bay đi trong không trung, đó là thần thông do kỹ 
thuật.
10. Thần thông 
do nỗ 
lực đúng: Như hành giả nỗ lực tu tập mà đạt được 
giải thoát, hay bất cứ người học nghề gì, do nỗ lực tối 
đa mà học tập thành nghề; đó là thần thông do nỗ lực 
đúng đắn.
Trong 10 loại thần 
thông 
kể trên, chỉ có thần thông do quyết định, do biến hóa 
và thân ý sinh là thực sự được gọi là thần thông 
mà thôi.
Bây giờ, để trình 
bày về những phương diện khác nhau của loại thần túc 
thông nầy, ở đây, nên trích dẫn một đoạn kinh văn như 
sau: "Vị ấy một thân hóa thành nhiều thân, nhiều 
thân trở thành một thân. Vị ấy hiện ra rồi biến mất, 
hoặc đi ngang qua tường, qua vách núi, qua những chỗ kín 
bít không bị trở ngại như qua hư không. Vị ấy độn thổ 
rồi trồi lên mặt đất như thể là ở trong nước; hoặc 
đi trên nước như đi trên đất. Vị ấy ngồi kiết già 
mà đi trên hư không như con chim, với bàn tay, vị ấy sờ 
chạm mặt trăng, mặt trời, và những vật có đại oai lực 
như thế. Vị ấy thực hiện việc làm chủ thân xác cho đến 
tận Phạm thiên giới". (D I, 77)
Muốn thực hiện được
các phép thần thông trên đây, hành giả trước hết phải 
hoàn tất các vấn đề sau: 1. Bốn cấp thiền; 2. Bốn yếu 
tố căn bản; 3. Tám bước; 4. Mười sáu trợ duyên và; 5. 
Trí quyết định.
1. Về 4 cấp 
thiền: 
như tôn giả Xá lợi Phất đã trình bày: "Sơ thiền, cõi 
phát sinh do viễn ly; Nhị thiền, cõi của hỉ và lạc; Tam 
thiền, cõi của xả và lạc; Tứ thiền, cõi của không lạc 
không khổ. Bốn cõi nầy của Thắng trí đưa đến sự chứng 
đắc các thần thông". (D. II. 205)
2. Bốn yếu tố 
căn 
bản: Ðịnh do dục và sự quyết tâm; định do tinh 
tấn và sự quyết tâm; định do thanh tịnh tự nhiên 
và sự quyết tâm; Ðịnh do trạch pháp và sự quyết 
tâm.
3. Tám bước:
Y 
chỉ vào dục đạt được định, nhưng dục khác, định khác 
(bước 1-2); y chỉ vào tinh tấn đạt được định, nhưng 
tinh tấn khác, định khác (bước 3-4); y chỉ vào tâm (niệm) 
đạt được định, nhưng tâm khác, định khác (bước 5-6); 
y chỉ vào trạch pháp đạt được định, nhưng trạch pháp 
khác, định khác (bước 7-8).
4. Mười sáu trợ 
duyên: Tâm không chán nản nên không bị giải đãi làm 
dao động. Tâm không mừng rỡ nên không bị trạo cử làm 
dao động. Tâm không đam mê thì không bị tham dục làm dao 
động. Tâm không oán ghét thì không bị ác ý làm dao động. 
Tâm độc lập thì không bị tà kiến làm dao động. Tâm 
không dính mắc thì không bị tham lam làm dao động. Tâm giải 
thoát thì không bị ngũ dục làm dao động. Tâm không trói 
buộc (vì cấu uế) thì không bị cấu uế làm dao động. Tâm 
không còn rào ngăn thì không bị rào ngăn cấu uế làm dao 
động. Tâm chuyên nhất thì không bị cấu uế sai biệt làm 
dao động. Tâm tăng cường với tín, thì không bị nghi ngờ 
làm dao động. Tâm tăng cường bởi tấn, thì không bị uể 
oải làm dao động. Tâm tăng cường bởi niệm thì không bị 
lơ đễnh làm dao động. Tâm tăng cường bởi định, thì 
không bị tán loạn làm dao động. Tâm tăng cường bởi tuệ 
thì không bị si mê làm dao động. Tâm quán chiếu thì không 
bị bóng tối vô minh làm dao động. Ðó là 16 trợ duyên 
đưa đến chứng đắc thần thông (Ps. II, 206).
5. Trí quyết 
định: 
Hành giả nhập thiền về phương diện thắng trí và xuất 
thiền, rồi quyết định như sau: "Ta hãy biến ra 100, ta 
hãy biến ra 100". Ðó là trí quyết định
Một thân biến thành
nhiều thân: Hành giả muốn thực hiện phép thần thông nầy 
- hay các phép thần thông khác - cần phải vận dụng các 
pháp trợ duyên đã kể trên, rồi dùng ý chí quyết định: 
"Ta hãy biến ra nhiều thân.", rồi biến ra nhiều 
thân. Ðó là trường hợp tôn giả Cùla-panthaka (Châu-lợi Bàn-đà), 
như trong luận đã kể (Ps. II, 207). Tôn giả vốn tối dạ, 
học cả 4 tháng trời mà không thuộc một bài kệ, người 
anh thầy định đuổi thầy ra khỏi tu viện, đức Thế Tôn 
thương tình, đưa thầy một miếng giẻ bắt thầy lau bụi. 
Nhưng lau được một ít lâu, miếng giẻ trở thành màu 
đen, Thầy nghĩ rằng: "Miếng vải vốn sạch, không có 
gì quấy ở nó, chỉ có chấp ngã là sai lầm.", nhờ thế 
thầy đắc thiền chứng, và đạt được thần biến, một 
thân hiện ra nhiều thân.
Phép tàng hình - 
làm 
cho biến mất: Hành giả muốn thực hiện phép thần biến nầy 
thì phải xuất khỏi thiền căn bản và tác ý như sau: 
"Ánh sáng nầy hãy trở thành bóng tối", hoặc 
"Vật không bị che khuất nầy phải bị che khuất". 
Thế là vật ấy sẽ khuất dạng không ai còn trông thấy nữa.
Phép thần thông đi 
ngang qua vách, qua tường, qua núi, không bị trở ngại như 
đi trên hư không: Hành giả muốn thực hiện phép thần biến 
nầy cần phải đắc thiền về biến xứ hư không và xuất 
thiền, rồi tác ý đến bức tường, bức vách như sau: 
"Hãy hiện ra hư không", thì nó sẽ thành hư không. 
Tuy nhiên, nếu núi hay vách tường đó do một vị có thần 
thông tạo ra trước, thì phép thần thông sau không thể hư 
vô hóa nó được, mà phải đi tránh qua nó.
Phép thần thông độn
thổ, rồi trồi lên: Một hành giả muốn thực hiện phép nầy 
thì phải đắc thiền về biến xứ nước, rồi xuất khỏi 
thiền ấy, và quyết định rằng: "Ðất đai vùng nầy 
hãy biến thành nước." Thế là đất đai vùng ấy đều 
hóa thành nước, và vị nầy có thể lặn xuống, trồi lên 
khỏi mặt đất như ở trong nước. Nhưng chỉ có vị nầy 
làm được thế, còn những người khác vẫn phải đi bộ 
trên đất ấy, vì đất vẫn nguyên trạng là đất.
Phép thần thông làm
cho nước đông cứng: Hành giả muốn thực hiện phép thần 
biến nầy cần phải đắc thiền về biến xứ đất, rồi 
xuất thiền, và quyết định: "Nước ở tại chỗ nầy 
hãy biến thành đất.", thế là nước biến thành đất, 
và vị nầy có thể đi trên đó. Hơn nữa, vị nầy còn có 
thể biến nước thành ra ngọc, vàng, cây, đá v.v..., nếu vị 
nầy muốn.
Phép thần thông bay
trên hư không: Hành giả muốn thực hiện phép nầy cần phải 
đắc thiền về biến xứ đất, rồi quyết định: "Hãy 
có đất", thế là đất hiện ra, và vị nầy có thể 
du hành trên ấy, nhưng vị nầy phải là người đã đắc 
thiên nhãn, để có thể tránh được những chướng ngại vật 
như núi, cây v.v..., trên đường đi.
Phép thần thông 
dùng 
bàn tay rờ mặt trăng, mặt trời: Phép thần biến nầy thực 
hiện được nhờ đắc thiền và tâm tự tại, chứ không cần 
phải đắc thiền bằng một biến xứ nào đặc biệt. Vị 
nầy tác ý đến mặt trời, mặt trăng, và quyết định với 
trí: "Nó hãy ở trong tầm tay ta.", thế là mặt trăng, 
mặt trời nằm ngay trong tầm tay, và vị nầy có thể dùng 
tay sờ mặt trăng, mặt trời.
Phép thần thông nhỏ
biến thành lớn, lớn biến thành nhỏ: Con độc long 
Nandopananda ỷ mình có thần thông, đã biến thành vật khổng 
lồ nằm khoanh núi Tu Di 14 vòng, rồi tung bụi mù mịt để 
gây trở ngại đoàn du hành có đức Phật và Thánh chúng. 
Do đó Phật đã bảo tôn giả Mục Kiền Liên dùng thần lực 
hàng phục nó. Cuối cùng, nó đã bị chinh phục, và xin quy 
y Phật.
Phép thần thông rút
hay tăng đường đất - làm cho xa trở thành gần hay gần 
thành xa: Hành giả muốn thực hiện phép nầy cần phải là 
người đã làm chủ được thân xác, và nếu muốn đi đến 
cõi Phạm thiên, liền quyết định: "Cõi Phạm thiên 
hãy đến gần đây." thế là nó đến gần. Hoặc đối 
với một chỗ rất gần nếu muốn nó xa, liền quyết định: 
"Chỗ này hãy cách xa ra", thế là chỗ ấy cách xa 
đến một mức độ mà hành giả muốn.
Phép thần thông 
biến 
ít thành nhiều: Tôn giả Mục Kiền Liên đã thực hiện 
phép nầy như kinh Bổn Sinh đã kể (Ja. I, 348). Có khi, đức 
Thế Tôn cũng từng biến một tô cháo, đủ cho cả Tăng chúng 
dùng một bữa no nê.
Ngoài ra, còn có 
các 
phép thần thông như biến nặng thành nhẹ, biến nhẹ thành 
nặng, hoặc biến mình thành một con voi hay một em bé, như 
trường hợp Ðề Bà Ðạt Ða đã làm (Vin. II, 185).
Chương XII nầy bàn 
về 
Thần túc thông, đến đây là kết thúc.
-ooOoo-
CHƯƠNG XIII - 
ÐỊNH - 
CÁC THẦN THÔNG (tiếp theo)
2. THIÊN NHĨ THÔNG
Bây giờ đến lượt mô
tả về Thiên nhĩ thông, ta có thể dẫn đoạn kinh sau đây 
làm căn cứ: "Vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Thiên 
nhĩ thông. Với Thiên nhĩ thuần tịnh, siêu nhân, vị ấy 
nghe cả 2 loại âm thanh, âm thanh của Chư thiên và âm thanh 
của loài người, xa cũng như gần." (D. I, 79)
Thiên nhĩ 
thông: 
tức tai giống như tai của chư Thiên, vì chư thiên có khả 
năng nghe được một đối tượng âm thanh dù cách rất xa, 
do họ đã giải thoát khỏi các cấu uế.
Thuần tịnh: 
Thiên nhĩ nầy hoàn toàn trong sạch, không có cấu uế.
Siêu nhân: 
vượt khỏi phạm vi của loài người. Hành giả muốn thực 
hiện phép thần thông nầy cần phải đạt được thiền chứng 
căn bản về thắng trí, rồi xuất định và tác ý đến các 
âm thanh thô ở xa mà tầm tai có thể nghe được, như tiếng 
chuông, tiếng trống trong tu viện, hay tiếng sư tử trong rừng 
sâu. Thế rồi, vị ấy tuần tự tác ý đến những loại 
âm thanh vi tế, xa xôi ở 4 phương trời. Bấy giờ diễn tiến 
4 hoặc 5 Tốc hành tâm xảy ra. Ba hay 4 tâm đầu là 
giai đoạn chuẩn bị gồm có tâm cận hành, tâm thuận thứ, 
và tâm chuyển tánh thuộc dục giới, còn tâm thứ 
tư hay thứ 5 là tâm an chỉ thuộc thiền thứ tư ở Sắc 
giới. Hành giả định giới hạn từ một tu viện, đến một 
khu làng, dần dần đến cả thế giới hay xa hơn nữa, tất 
cả âm thanh trong phạm vi ấy đều nghe được, nếu hành giả 
tác ý đến nó. Ðây là cách hành giả nới rộng tâm thiên 
nhĩ từng phạm vi.
3. THA TÂM THÔNG
Giải thích về Tha 
tâm 
thông, kinh văn viết như sau: "Vị ấy dẫn tâm, hướng 
tâm đến Tha tâm thông. Vị ấy dùng tâm của mình thâm nhập 
vào tâm của các chúng sinh khác, và hiểu chúng như sau: - Tâm 
có tham biết là tâm có tham; tâm không tham biết là tâm 
không tham; tâm có sân biết là tâm có sân; tâm không sân biết 
là tâm không sân; tâm có si biết là tâm có si; tâm không 
có si biết là tâm không có si; tâm chật hẹp biết là tâm 
chật hẹp; tâm tán loạn biết là tâm tán loạn; tâm đại 
hành biết là tâm đại hành; tâm không đại hành biết là 
tâm không đại hành; tâm hữu thượng biết là tâm hữu thượng; 
tâm vô thượng biết là tâm vô thượng; tâm định tĩnh biết 
là tâm định tĩnh; tâm không định tĩnh biết là tâm không 
định tĩnh; tâm giải thoát biết là tâm giải thoát; tâm 
không giải thoát biết là tâm không giải thoát." 
(D.I,79). Ðó là 16 loại tâm thông thường của các chúng 
sanh.
Tha tâm thông nầy 
sinh 
khởi được là nhờ có sự trợ giúp của Thiên nhãn 
thông, và có thể thấy được máu trong tim của các chúng 
sinh đang hiện hữu. Nếu tâm của chúng sinh đó đang hoan hỉ, 
thì máu có màu đỏ; nếu tâm đang ưu sầu thì máu có màu 
hơi đen; nếu tâm an tịnh, thì máu có màu trong như dầu mè. 
Do quan sát như vậy mà thấy rõ tâm trạng của chúng sinh.
Chỉ khi Tha tâm 
thông 
được củng cố như thế, tâm hành giả mới dần dần biết 
được tâm trạng của chúng sinh ở cõi Sắc và Vô sắc mà 
không cần phải xem máu trong tim nữa.
Ở đoạn văn trích 
dẫn 
có mấy từ sau đây cần phải giải thích: Tâm đại hành
là tâm thuộc phạm vi Sắc giới và Vô sắc giới. Tâm 
không đại hành tức ngược lại tâm trên. Tâm hữu 
thượng là tâm thuộc về 3 cõi. Tâm vô thượng là 
tâm siêu thế - vượt ngoài 3 cõi. Tâm định tĩnh là 
tâm đạt được định cận hành và định an chỉ. Tâm 
không định tỉnh là tâm không đạt cả 2. Tâm giải 
thoát là tâm đạt đến một trong 5 thứ giải thoát sau: 
Giải thoát bằng sự thay thế pháp đối lập (nhờ tuệ quán); 
giải thoát nhờ sự đàn áp các pháp chướng ngại (nhờ định); 
giải thoát bằng sự đoạn trừ các chướng ngại (nhờ đạo 
lộ); giải thoát bằng sự an tịnh (nhờ quả chứng); giải 
thoát bằng sự từ bỏ (nhờ đạt được Niết bàn). Tâm 
không giải thoát là tâm chưa đạt được bất cứ giải 
thoát nào trong 5 loại trên.
4. TÚC MẠNG THÔNG
Ðể giải thích về 
Túc mạng thông, kinh văn viết: "Vị ấy dẫn tâm, hướng 
tâm đến Túc mạng thông, nhớ đến nhiều đời trước của 
mình, đó là: một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm 
đời, 10 đời, 20 đời, 30 đời, 40 đời, 50 đời, 100 đời, 
1000 đời, 100. 000 đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, 
nhiều hoại kiếp và thành kiếp. Vị ấy nhớ tại chỗ kia 
ta có tên như thế, chủng tộc như thế, tướng mạo như thế, 
đồ ăn như thế, thọ khổ lạc như thế, tuổi thọ như thế. 
Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ, tại 
đây, ta có tên như thế, chủng tộc như thế, tướng mạo 
như thế, ăn uống như thế, tuổi thọ như thế. Sau khi chết 
tại chỗ nọ, ta được sinh ra ở đây. Như vậy, vị ấy 
nhớ đến nhiều đời sống quá khứ, cùng với các nét đại 
cương và chi tiết". (D. I. 81)
Túc mạng 
thông 
hay Túc mạng trí là cái trí nhớ lại những đời quá 
khứ. Trong trường hợp nhớ lại các đấng Giác ngộ trong 
quá khứ đã cắt đứt dòng luân hồi, thì chỉ có các đấng 
Giác ngộ mới làm được. Có 6 hạng người nhớ đời quá 
khứ, đó là: Ngoại đạo; đệ tử thường; đệ tử trẻ 
xuất sắc; đại đệ tử; Ðộc giác; Phật.
Ngoại đạo chỉ nhớ 
40 kiếp về trước, không thể xa hơn nữa, vì trí tuệ họ 
yếu ớt. Những đệ tử thường nhớ đến 100 kiếp hay 
1000 kiếp; vì trí tuệ họ mãnh liệt. Hạng đệ tử trẻ 
xuất sắc cũng thế. Nhưng các đại đệ tử nhớ được 
trăm nghìn kiếp hay một vô số kiếp về trước. Các bậc 
Ðộc giác nhớ được trăm nghìn kiếp và 2 vô số kiếp về 
trước. Còn với chư Phật thì trí nhớ không có giới hạn.
Bản luận nêu ví dụ:
Cái thấy của ngoại đạo như lửa đom đóm; 
cái thấy của phàm phu như ánh đèn cầy; cái thấy của 
đệ tử xuất sắc như bó đuốc; cái thấy của 
đại đệ tử như sao mai; của Ðộc giác như 
mặt trăng; của chư Phật như muôn ngàn tia 
sáng mặt trời vào mùa thu quang đãng.
Một Tỳ kheo mới tu 
tập 
muốn nhớ lại đời sống quá khứ theo cách trên, cần phải 
đi vào độc cư, tuần tự nhập 4 thiền và xuất thiền thứ 
tư thuộc căn bản thắng trí. Rồi vị ấy hướng tâm đến 
hành vi gần nhất của mình như lúc mới ngồi xuống, và 
đi ngược về quá khứ như các việc làm hôm qua, tháng trước, 
năm trước, v.v.. cho đến một đời, nhiều đời, hoại kiếp 
và thành kiếp, với những nét đại cương và chi tiết.
Về hoại kiếp
có 3 loại tai nạn là hỏa tai, thủy tai, và phong tai. Ðó gọi 
là tam tai. Ba loại tai họa nầy lần lượt xuất hiện để 
hủy diệt thế giới. Ðầu tiên là hỏa tai nổi lên, từ một 
mặt trời lần lần đến 2 mặt trời xuất hiện rồi đến 
7 mặt trời xuất hiện cùng lúc, thiêu hủy thế giới đến 
hết cõi Sơ thiền, và dừng lại ở Nhị thiền. Thế rồi 
thủy tai nổi lên phá hủy đến cõi Nhị thiền và dừng lại 
ở Tam thiền. Sau đó phong tai xuất hiện, phá hủy hết cõi 
Tam thiền và dừng lại ở Tứ thiền. Thoạt tiên liên tiếp 
khởi 7 trận hỏa tai, tiếp theo có một trận thuỷ tai nổi 
lên. Thuỷ tai nầy lập lại tới 7 lần thì đến trận 
phong tai. (Luận Câu xá q. 12: Theo bản luận cho biết khi tham 
dục quá cường thịnh thế giới sẽ bị hủy hoại bởi thủy 
tai. Khi sân hận quá cường thịnh thì thế giới sẽ bị hủy 
hoại bỡi hỏa tai, và khi si mê quá cường thịnh thì thế 
giới bị hủy hoại bởi phong tai)
Ở đây thiết tưởng 
nên giảng rõ chữ kiếp để làm sáng tỏ vấn đề trên. Kiếp 
(kalpa) gồm có 3 loại: Tiểu kiếp, trung kiếp, và đại 
kiếp. Tiểu kiếp: Lấy đời sống của nhân loại ở 
mức độ 10 tuổi mà khởi sự, cứ qua 100 năm thì đời sống 
thêm một tuổi, cho đến lúc đời sống con người được 
84.000 năm; đó là kiếp tăng. Rồi bắt đầu con người từ 
84.000 tuổi, cứ qua 100 năm thì đời sống giảm một tuổi 
cho đến lúc đời sống con người chỉ còn 10 tuổi; đó 
là kiếp giảm. Một lần kiếp tăng và một lần kiếp giảm 
như vậy được kể là một Tiểu kiếp, gồm có 
16.800.000 năm. Trung kiếp: Lần lượt đủ hai mươi tiểu 
kiếp được kể là một trung kiếp, gồm có (16.800.000 x 20 
=) 336.000.000 năm. Ðại kiếp có 4 trung kiếp. Trải qua 
Trung kiếp thứ nhất gọi là thành kiếp; trải qua 
trung kiếp thứ nhì, gọi là trụ kiếp; trải qua trung 
kiếp thứ ba gọi là Hoại kiếp; trải qua trung kiếp 
thứ tư gọi là Không kiếp. Như vậy một Ðại kiếp 
gồm có 4 giai đoạn là: thành, trụ, hoại và không, 
và thời gian là (336.000.000 x 4 =) 1.344.000.000 năm. (Phật Học
từ điển, mục từ Kiếp)
Về Thành kiếp:
Sau một thời gian dài, đất bắt đầu xuất hiện. Nó có 
màu sắc và mùi vị như lớp ván trên mặt nồi cơm vừa cạn. 
Rồi những chúng sinh ở cõi trời Quang Âm, do hết phước và 
mạng chung, liền sinh đến đó. Chúng tự phát sáng, và du 
hành trong hư không. Thế rồi, nghe mùi đất thơm hấp dẫn, 
chúng nếm thử và thấy thích thú, nên ăn chất đất ấy càng 
lúc càng nhiều, do đó, ánh sáng của chúng tan biến. Vì vậy 
mặt trời xuất hiện; sau đó là mặt trăng và tinh tú xuất 
hiện. Từ đó hình thành thời gian, ngày đêm, tháng năm và 
thời tiết. Kế đến là núi non, sông biển và ngũ cốc xuất 
hiện.
Những chúng sinh sử
dụng 
chất đất đầu tiên ấy, dần dần một số trở nên đẹp 
đẽ, một số xấu xí. Người đẹp khinh bỉ người xấu, 
do đó, chất đất tinh túy kia biến mất, và từ đất mọc 
lên một thứ cỏ, cây leo, lúa không có trấu cám. Rồi một 
ngọn lửa tự nhiên nấu chín lúa ấy thành cơm, có mùi thơm 
ngon, và chúng sinh dùng thứ cơm ấy. Do đó, nước tiểu và 
phân xuất hiện, dần dần nam căn và nữ căn xuất hiện. Vì 
có hình thức nam nữ khác nhau nên nam giới nghĩ tưởng nữ 
giới, nữ giới nghĩ tưởng nam giới. Do khoảng thời gian dài 
nghĩ tưởng về nhau, nên cơn sốt nhục dục sinh khởi, vì 
thế chúng bắt đầu hành lạc. Thấy cảnh hành lạc công 
khai chướng mắt, nên những người trí chỉ trích và trừng 
phạt những kẻ ấy. Từ đó, chúng bắt đầu xây nhà với 
mục đích che đậy những việc xấu kia, đồng thời dùng 
làm chỗ cất chứa thức ăn. Bấy giờ lúa sinh ra cám và trấu, 
và chúng phải đi lấy phần hằng ngày để về dùng. Do vậy 
chúng dựng lên những ranh giới để chia phần cho mỗi cá 
thể. Tuy thế, có người tham lam, lấy phần của người khác, 
vì vậy mà thành ra có sự ăn trộm. Do có sự trộm cắp, 
chúng bèn hội nhau lại, bầu ra một người lãnh tụ để 
giữ vai trò thưởng phạt, ổn định trật tự. Người đầu 
tiên được mọi người bầu làm lãnh tụ trong thời kiếp 
này chính là Ðức Thế Tôn. Vì Ngài được tất cả mọi 
người trên thế gian nầy tín nhiệm, tôn kính, nên có danh 
hiệu là Thế Tôn. Ngài cũng có danh hiệu là điền chủ 
(khetta), lại được gọi là Sát đế lợi (Khettiya), tức 
giai cấp chiến sĩ cao quí. Ngài đem lại lợi ích cho mọi 
người một cách chính trực và công bằng, nên Ngài được 
gọi là một vị vua (Ràjà). Sau đó là Bà la môn và những 
giai cấp khác được tuần tự thành lập. (D. III. 85)
5. THIÊN NHÃN THÔNG
Giải thích về Thiên
nhãn thông này, kinh văn viết: "Vị ấy dẫn tâm, hướng 
tâm đến trí biết về sự chết và tái sanh của chúng 
sinh. Với Thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, vị ấy thấy 
chúng sinh chết và sinh trở lại, chịu số phận hạ liệt 
hay cao sang, đẹp hay xấu, hạnh phúc hay bất hạnh; vị ấy 
biết hữu tình đi theo hạnh nghiệp của chúng: Những tôn 
giả chúng sinh nầy tạo ác nghiệp về thân, về lời, và về 
ý, phỉ báng các bậc Thánh, có tà kiến, tạo những nghiệp 
theo tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, đã sinh vào cõi 
dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục v.v... Còn những tôn giả 
chúng sinh nầy, tạo những thiện nghiệp về thân,về lời 
và về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, có chánh kiến, tạo 
những nghiệp theo chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung 
đã sinh vào một thiện thú, thiên giới. Như vậy, với thiên 
nhãn thuần tịnh siêu nhân vị ấy thấy chúng sinh chết và 
tái sinh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ 
thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp 
của chúng". (D. I, 82)
Thiên nhãn: 
mắt của chư thiên. Vì nhãn quang của chư thiên rất bén nhạy, 
do thiện nghiệp phát sinh, nên có thể trông thấy một đối 
tượng ở rất xa. Một tỳ kheo do tinh tấn tu hành, trong 
tâm trí cũng phát sinh một thứ nhãn quang kỳ diệu như thế, 
nên gọi là Thiên nhãn.
Hạ liệt: 
bị khinh bỉ, bị miệt thị v.v... Vì chủng tộc thấp hèn; 
do quả báo của si. Cao sang: Ngược lại hạ liệt, 
do quả báo không si. Ðẹp: có một bề ngoài dễ 
coi, khả ái, do quả báo của vô sân. Xấu: có một 
bề ngoài khó ưa, khả ố, do quả báo của sân. May 
mắn: đi đến một thiện thú, hoặc nơi giàu sang, do quả 
báo không tham. Bất hạnh: đi đến một ác thú, 
hoặc nơi nghèo hèn, do quả báo của tham lam. Hủy 
báng các bậc thánh: Các bậc thánh gồm có Phật, Ðộc 
giác, các đệ tử Thanh văn, hoặc những gia chủ đã chứng 
Dự lưu quả. Hủy báng có 2 cách: hoặc là xúc phạm, khinh 
miệt họ; hoặc là phủ nhận những công đức phẩm hạnh 
của họ. Những ai đã hủy báng các vị ấy bằng một 
trong 2 cách thì phải sám hối hoặc trực tiếp hoặc gián 
tiếp đối với họ. Nếu không sám hối thì đạo lộ tu hành 
sẽ bị chướng ngại.
Cõi dữ: 
đồng nghĩa với địa ngục. Ðịa ngục: là cảnh giới 
đau khổ cùng cực, đáng ghê sợ nhất .
Ác thú: 
là chỗ trú ẩn của những đau khổ.
Ðọa xứ: 
nơi những người phạm tà hạnh rơi vào đó. Thông thường 
cõi dữ chỉ cho cảnh giới của loài súc sinh; ác 
thú là cảnh giới của ngạ quỉ; đọa xứ là cảnh 
giới của A tu la, nhưng cảnh giới nầy cũng có nghĩa là 
cõi dữ và ác thú.
Thiện thú: 
chỉ cho cảnh giới của nhân loại, còn cảnh giới của chư 
thiên thì thường gọi là cõi trời.
Một hành giả muốn 
thực 
hiện phép Thiên nhãn thông cần phải tu tập thành tựu ba 
biến xứ: biến xứ lửa, biến xứ màu trắng và biến xứ 
ánh sáng. Nhưng biến xứ ánh sáng là tốt nhất.
TỔNG QUÁT:
Về loại Thần túc 
thông (đã trình bày ở chương XII) liên hệ đến 7 thứ đối 
tượng: đối tượng hữu hạn; đối tượng đại hành (cao 
cả); đối tượng quá khứ; đối tượng hiện tại; đối 
tượng vị lai; đối tượng bên trong; đối tượng bên 
ngoài. Hữu hạn: nghĩa là thuộc lãnh vực Dục giới; 
đại hành thuộc lãnh vực Sắc giới và Vô sắc giới; 
bên trong là ngay trong thân mình; bên ngoài là ở 
ngoài thân mình. Còn quá khứ, vị lai và hiện tại là khoảng 
thời gian trước, sau và ngay lúc ấy.
Về loại Thiên nhĩ 
thông 
gồm có 4 đối tượng: đối tượng hữu hạn; đối tượng 
hiện tại; đối tượng bên trong và đối tượng bên 
ngoài. Vì nó lấy âm thanh làm đối tượng, mà âm thanh thì 
có giới hạn, nên nó có một đối tượng hữu hạn. 
Vì nó phát sinh từ những âm thanh đang hiện hữu, nên nó 
có một đối tượng hiện tại.
Về Tha tâm thông 
gồm 
có 8 đối tượng: đối tượng hữu hạn; đại hành; vô lượng; 
đạo lộ; quá khứ; hiện tại; vị lai; bên ngoài. Vào lúc 
biết đạo và quả, nó có một đối tượng vô lượng. 
Vì một người thường (phàm phu) không thể biết được tâm 
của một bậc Dự lưu; một bậc Dự lưu không thể biết 
được tâm của một bậc Nhất lai; và cứ thế lên đến A 
la hán. Còn A la hán thì biết được tâm của tất cả. Vào 
lúc trí lấy tâm của một đạo lộ làm đối tượng, nó 
có một đối tượng đạo lộ.
Về Túc mạng thông 
gồm 
có 8 đối tượng: hữu hạn; đại hành; vô lượng; đạo lộ; 
quá khứ; bên trong; bên ngoài; không thể phân loại. Vào 
lúc nhớ lại các khái niệm như danh, tánh, trong quá khứ 
thì trí ấy có một đối tượng không thể phân loại. 
Ngoài ra những từ khác như đã giải thích ở trên.
Về Thiên nhãn 
thông, 
luận chủ chia thành 3 loại: trí biết sự chết và tái 
sanh; trí biết vị lai; trí biết sở hành tùy theo nghiệp.
Trí biết sự chết và
tái sinh gồm có 4 đối tuợng: hữu hạn; hiện tại; bên 
trong; bên ngoài.
Trí biết vị lai 
tương 
ứng với 8 đối tượng: hữu hạn; đại hành; vô lượng; 
đạo lộ; vị lai; bên trong; bên ngoài; không thể xếp loại.
Trí biết sở hành 
tùy 
theo nghiệp tương ứng với 5 đối tượng: hữu hạn; đại 
hành; quá khứ; bên trong; bên ngoài. Về ý nghĩa các từ, 
xem những giải thích ở trên.
Theo quan điểm của 
luận 
chủ các loại thần thông- đôi khi còn gọi là thắng trí 
hay năng lực siêu nhiên - chỉ gồm có 5 thứ: Thần túc 
thông; Thiên nhĩ thông; Tha tâm thông; Túc mạng thông; Thiên 
nhãn thông. Nhưng thông thường kinh điển thêm một loại nữa 
là Lậu tận thông, thành ra 6 loại, và được gọi là 
lục thông.
Ba loại đầu thường 
gọi là thông, nhưng 3 loại sau còn gọi là minh hay trí như: 
Túc mạng minh hay Túc mạng trí; Thiên nhãn minh hay Thiên 
nhãn trí; Lậu tận minh hay Lậu tận trí.
Ðến đây, bản luận 
kết thúc phần thứ hai trình bày về Ðịnh, và chuyển 
sang phần thứ ba trình bày về Tuệ .
-ooOoo-