CHƯƠNG XV - MÔ TẢ
VỀ
XỨ VÀ GIỚI
(Aryatana-Dhàtu-Niddesa)
A. MÔ TẢ VỀ XỨ.
Xứ gồm có 12 thứ:
1.
Nhãn xứ; 2. Sắc xứ; 3. Nhĩ xứ; 4. Thanh xứ; 5. Tỉ xứ; 6.
Hương xứ; 7. Thiệt xứ; 8. Vị xứ; 9. Thân xứ; 10. Xúc xứ;
11. Ý xứ; 12. Pháp xứ.
Ý nghĩa của chúng
như
sau: 1. Nhãn xứ (cakkhu) là cái thưởng thức sắc pháp.
2. Sắc xứ (rùpa) là cái làm cho thấy được. 3. Nhĩ
xứ (sota) là cái nghe 4. Thanh xứ (sadda) là cái được
truyền đi. 5. Tỉ xứ (ghàna) là cái ngửi. 6. Hương
xứ (gandha) là cái được ngửi. 7. Thiệt xứ (jivhà)
là cái gợi lên đời sống. 8. Vị xứ (rasa) là cái
chúng sinh thưởng thức. 9. Thân xứ (kàya) là nguồn gốc
của các pháp xấu xa chịu chi phối bởi lậu hoặc. 10. Xúc
xứ (phasso) là cái bị sờ chạm. 11. Ý xứ (mano)
là cái đo lường. 12. Pháp xứ (dhamma) là cái khiến
cho tự tính nó được duy trì.
Ở đây, Xứ có
nghĩa là trú xứ, chỗ gặp gỡ, chỗ phát xuất, là nguyên
nhân. Trong 12 xứ nầy gồm cả danh và sắc, ý xứ là
một phần của pháp thuộc về danh, còn lại các cái khác
đều là sắc.
Khi mắt và sắc pháp
gặp
nhau thì nhãn thức sinh khởi, do thế, con mắt thường bị các
sắc pháp đáng ưa và khó chịu nhiễu loạn. Thế nên, 6 nội
xứ đư?c ví như 6 con vật, và 6 ngoại xứ được ví như
chỗ lui tới của 6 con vật ấy.
B. MÔ TẢ VỀ GIỚI
Tiếp theo uẩn, xứ
là
Giới (xem chương XIV) gồm có 18 thứ: Nhãn giới, sắc
giới, nhãn thức giới, nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới,
tỉ giới, hương giới, tỉ thức giới, thiệt giới, vị giới,
thiệt thức giới, thân giới, xúc giới, thân thức giới,
ý giới, pháp giới, ý thức giới.
Về ý nghĩa riêng
biệt,
xem lại ở trên, còn ý nghĩa tổng quát thì Giới có
nghĩa: lựa riêng ra, thích hợp với, được mang theo. Vì giới
là thành tố của tri thức và cái khả tri. Giới là một
danh từ dùng để chỉ cái không có tự ngã.
Hai thứ nhãn giới
và
sắc giới là nhân, còn nhãn thức giới là quả. Vì căn (nhãn
giới), trần (sắc giới) đối nhau, mà thức (nhãn thức giới)
phát sinh.
Các kinh luận
thường
đề cập đến nhiều loại giới khác nữa như, dục giới,
sắc giới... địa giới, thủy giới v.v..., nhưng về
phương diện tự tính, thì tất cả giới hiện hữu đều
không ngoài 18 loại nầy. Mười bảy giới trước và một
phần của pháp giới là giới hữu vi, nhưng phần còn lại
của pháp giới là giới vô vi.
Ðức Phật vì muốn
đoạn trừ sự chấp ngã sai lầm của chúng sinh, tưởng rằng
có một cái ngã bền chắc, thường hằng, nên mới nói đến
18 giới.
Về phương diện
chúng
làm duyên cho nhau, thì cổ đức dạy: "Nhãn thức sinh do
duyên mắt, sắc pháp, ánh sáng và sự chú ý. Nhĩ thức sinh
do duyên lỗ tai, tiếng, khoảng trống và sự tác ý. Tỉ thức
sinh do duyên mũi, mùi, không gian và sự tác ý. Thiệt thức
sinh do duyên lưỡi, vị, nước và sự tác ý. Thân thức
sinh do duyên thân, chạm xúc, địa giới và tác ý. Ý thức
sinh do duyên tâm hữu phần, pháp và tác ý. Tất cả pháp hữu
vi cần được xem như tách biệt với quá khứ và vị lai,
là trống rỗng, không có tự ngã, và chúng hiện hữu tùy
thuộc các duyên (điều kiện).
Ðể làm sáng tỏ vấn
đề, bản luận dùng các ví dụ như sau: Nhãn giới ví như
cái mặt trống, sắc giới như dùi trống, và nhãn thức giới
ví như tiếng trống. Hoặc, nhãn giới ví như mặt gương, sắc
pháp ví như cái mặt, và nhãn thức giới ví như hình ảnh
cái mặt phản chiếu trong gương. Nhưng ý giới thì như kẻ
tùy tùng theo sau nhãn thức giới, song lại là kẻ đi trước
ý thức giới. Còn ý thức giới thì như con khỉ chuyền trên
cành cây, không bao giờ ở yên một chỗ, hay như một vũ công
trên sân khấu.
Chương XV nầy mô tả
Xứ
và Giới, trong sự tu tập về Tuệ, đến đây
là hoàn tất.
-ooOoo-
CHƯƠNG
XVI - CĂN ÐẾ
(Indriya-Sacca-Niddesa)
MẢNH ÐẤT CHO TUỆ
TĂNG
TRƯỞNG
A.
MÔ TẢ
VỀ CĂN.
Tiếp theo giới là căn,
gồm có 22 thứ: Nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn, thân
căn, ý căn, nữ căn, nam căn, mạng căn, lạc căn, khổ căn
(thân lạc, thân khổ), hỉ căn, ưu căn, xả căn, tín căn, tấn
căn, niệm căn, định căn, tuệ căn, vị tri đương tri căn,
cụ tri căn, dĩ tri căn.
Trước hết, về ý
nghĩa
của căn thì phần lớn đã được giải thích ở chương
XV, ở đây sẽ giải thích về 3 căn cuối cùng.
Vị tri đương
tri căn:
Căn nầy khởi lên ở giai đoạn đầu của Dự lưu đạo,
nơi một người đã nhập lưu. Dĩ tri căn: đã hiểu
rõ vấn đề. Cụ tri căn: nó khởi lên nơi một người
đã đoạn trừ lậu hoặc, biết rốt ráo về 4 chân lý.
Vì sao gọi là căn?
Căn gồm có mấy nghĩa: 1. Nó là dấu hiệu của chủ tể;
2. Ðược vị chủ tể chỉ dạy; 3. Ðược vị chủ tể thấy
rõ; 4. Ðược vị chủ tể hoàn chỉnh; 5. Ðược vị chủ tể
nuôi dưỡng. Vị chủ tể ở đây nhằm chỉ đức Thế Tôn,
vì Ngài là vị chủ tể tối thượng.
Nhiệm vụ của nhãn
căn là phát sinh ra nhãn thức, và các tâm sở tương
ưng. Nhĩ, tỉ, thiệt, thân căn cũng thế.
Về cảnh giới, thì
có 10 căn thuộc Dục giới: Nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, nữ,
nam, lạc, khổ, ưu. Tám căn thuộc cả 4 cảnh giới, Dục, Sắc,
Vô sắc và Siêu thế: Ý căn, xả căn, mạng căn, tín, tấn,
niệm, định, tuệ. Một căn thuộc cả ba cảnh giới Dục,
Sắc, Siêu thế là: Hỉ. Ba căn thuộc Siêu thế là: Vị tri
đương tri căn, Dĩ tri căn và Cụ tri căn.
B. MÔ TẢ VỀ ÐẾ
Kế tiếp căn là đế,
tức 4 Thánh đế: Thánh đế về khổ, thánh đế về khổ tập,
thánh đế về khổ diệt, và thánh đế về đạo diệt khổ.
Bản luận đề cập đến
4 nghĩa của khổ là: "Bức bách, hữu vi, bốc
cháy và biến đổi; tính chất của nó là chân thật, không
hư ngụy, không thể khác. Nguồn gốc hay tập khởi của
khổ với ý nghĩa tích tập, căn nguyên, trói buộc, chướng
ngại. Diệt có nghĩa là thoát ly, tách rời, vô vi, bất
tử. Ðạo có nghĩa là lối ra, nguyên nhân, thấy, ưu
thắng. (Ps. 2, 104)
Nguyên nghĩa của Khổ
(Dukkha): Du là xấu xa, ác độc; Kham là trống
rỗng.
Thế nên, chân lý thứ nhất (khổ) là "xấu".
Vì nó là nơi thường lai vãng của nhiều sự hiểm nguy, và
nó trống rỗng, vì không trường cửu, không đẹp, không
vui, không có tự ngã.
Chân lý thứ hai Tập
(Samudaya): Sam là liên kết; U chỉ sự khởi lên,
như udita (đi lên); Aya chỉ lý do. Như vậy, chân
lý nầy là lý do cho sự khởi lên của khổ, khi phối hợp
với những duyên còn lại.
Chân lý thứ ba Diệt
(Nirodha): Ni chỉ sự vắng mặt; Rodha là nhà tù.
Chân lý này chỉ sự vắng mặt của mọi sanh thú, vì nơi
đây không có sự bức não của khổ được xem như nhà tù.
Chân lý thứ tư Ðạo
hay Khổ diệt đạo (Nirodha-Gamini-Patipadà): Con đường
đưa đến chấm dứt khổ nên gọi là Khổ diệt đạo.
Cả 4 chân lý này
được
gọi là Thánh đế, vì chỉ có những bậc thánh mới thâm
nhập được chúng. Lại nữa, những sự thật cao cả được
gọi là sự thật của các bậc thánh. Hoặc, bốn thánh đế
này là chân thật, không hư ảo, không thể khác, nên gọi
là thánh đế. Ðó là ý nghĩa của chữ đế.
Bản luận lại mô tả:
Không có niềm đau nào ngoài khổ; không có nguồn khổ nào
khác hơn tham ái; không có niềm an tịnh nào ngoài tịch diệt
(Niết bàn); và không có lối thoát nào ngoài chánh đạo.
Về thứ tự: Khổ đế
được nêu trước tiên, vì nó dễ hiểu, vì nó thô phù,
vì nó chung cho tất cả chúng sinh. Chân lý khổ tập nêu kế
tiếp để chỉ rõ nguyên nhân. Rồi chân lý về diệt để
hiển thị rằng khi nhân chấm dứt thì quả sẽ kết thúc.
Chân lý về đạo được nói sau rốt để chỉ ra con đường,
phương tiện đạt đến diệt. Và cổ đức cũng bảo: tri
khổ, đoạn tập, tu đạo, chứng diệt. (Biết khổ để đoạn
trừ các nguyên nhân của khổ (tập), nên phải thực hành
các pháp môn, do đó mà chứng đạt sự tịch diệt)
Luận Vibhanga nêu
ra 12
thứ Khổ: Sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, gần
gũi cái không ưa, xa lìa cái yêu mến, cầu không toại ý,
nói tóm, 5 thủ uẩn là khổ. Về nguồn gốc của khổ có 3
thứ: Dục ái, hữu ái, phi hữu ái. Về Diệt chỉ có
một, đó là Niết bàn. Về Ðạo có 8 thứ, đó là
Bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
(Vbh. 104)
1. Chân lý về khổ
Thông thường khổ
gồm có 3 loại là: Khổ khổ (dukkha-dukkha) tức nỗi khổ
ở nội tại; Hoại khổ (Viparinàma-dukkha), khổ do biến hoại;
và Hành khổ (Sankhàra-dukkha), khổ về các phương diện, hoặc
ngấm ngầm, hoặc lộ liễu. Khi cảm thọ khổ về thân và
tâm, gọi là khổ khổ, vì tự tính của nó là khổ.
Khi cảm thọ lạc về thân và tâm, gọi là hoại khổ,
vì đó là nhân sinh ra khổ khi cảm thọ ấy biến mất. Xả
thọ và các hành khác trong ba cõi là hành khổ, vì
chúng bị bức bách trong sinh diệt.
a. Sanh
(Jàti):
Sanh là khổ, vì nó là cội nguồn cho khổ trong các đọa
xứ; nào là nỗi khổ khi đầu thai, khi ở trong bào thai
và khi sinh ra. Lúc đang sống, chúng sinh cũng phải chịu
bao nhiêu nỗi khổ. Nếu ở địa ngục thì khổ vì bị lửa
dữ thiêu đốt. Nếu ở loài súc sinh thì phải chịu khổ
vì bị đánh đập bằng roi, gậy, hoặc ăn nuốt lẫn
nhau. Nếu sinh ngạ quỷ thì đau khổ vì đói khát bức
bách. Nếu sinh vào a tu la thì đau khổ vì giá lạnh, tối
tăm.
b. Già: là
căn bản cho sự đau khổ thể xác và tâm hồn, khởi lên do
nhiều duyên, như tứ chi nặng nề, các căn suy yếu, tuổi
trẻ tan biến, sức lực phá sản, trí nhớ sút kém, bị người
khi dễ v.v...
c. Chết:
là sự chấm dứt mạng căn nơi một chúng sinh, có nhiều
nguyên nhân, như chết do thọ mạng hết, do công đức tận,
hoặc chết bất đắc kỳ tử, bị tai nạn đột ngột xảy
ra.
d. Sầu:
là sự nung nấu đốt cháy tâm can nơi người bị mất thân
quyến, hay bị mất mát những gì mình yêu quí.
đ. Bi: là sự
đau buồn do mất mát người thân, của cải v.v..., được
biểu hiện bằng những hành vi cử chỉ người khác có thể
thấy được
e. Khổ: là
sự
khổ đau, bức bách của thân xác.
g. Ưu: sự
khổ sở
về tâm.
h. Não: sự
thiêu
đốt tâm can.
Sầu
như chảo dầu nấu trên bếp lửa riu riu. Bi như nấu
trên bếp lửa mạnh. Não như những gì còn lại trong
chảo sau khi nấu, còn tiếp tục cho đến khi chảo khô.
i. Oan gia tụ
hội:
sự gặp gỡ những người và vật mình oán ghét.
k. Ái biệt ly:
phải
xa lìa những người, vật mà ta yêu mến.
l. Cầu bất đắc:
sự mong cầu không toại ý.
m. Năm thủ uẩn
là
khổ: Vì 5 uẩn là đối tượng của chấp thủ, như tấm
bia thu hút những tên bắn, như ruồi nhặng bu trên thân con
bò.
Các nỗi khổ thuộc 5
thủ uẩn thì sinh là cái khổ đầu tiên, già
là khổ chặng giữa, chết là khổ chặng cuối. Khổ
nung nấu tâm can, gọi là sầu. Khổ dưới hình thức
than van khóc lóc, gọi là Bi. Cái khổ do thân tứ đại
bị xáo trộn gọi là khổ. Nỗi khổ bức bách trong
tâm hồn, gọi là ưu. Khổ ngấm ngầm, chồng chất
nhiều lớp gọi là não. Khổ do thất vọng, gọi là cầu
bất đắc khổ. Chung quy, khi 5 uẩn bị chấp thủ, chính
là khổ.
Ở đây, Khổ uẩn được
chia thành 12 thứ. Thế nhưng, theo các luận điển của Ðại
thừa, Khổ uẩn được chia gọn thành 8 thứ là: Sinh, lão,
bệnh, tử, oán tắng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc và
ngũ ấm xí thạnh.
2. Chân lý về
nguyên
nhân khổ.
Vấn đề này sẽ
trình bày trong phần duyên khởi, chương XVII.
3. Chân lý về sự
diệt
khổ.
Nói đến diệt khổ
tức
là diệt cái nguyên nhân của khổ, tức là khát ái, như bài
kệ:
"Như cây bị chặt
đốn
Gốc còn vẫn mọc hoài
Ái tùy miên chưa nhổ
Khổ này sanh dài dài."
Bản luận nêu một ví
dụ để minh họa như sau: "Như con sư tử chuyển sức mạnh
tấn công người bắn nó chứ không hướng về mũi tên, cũng
thế, đức Phật đề cập nguyên nhân chứ không nói hậu
quả. Trái lại, ngoại đạo thì như con chó bị ném cục đất,
nó sẽ hướng đến cục đất thay vì tấn công người ném.
Ngoại đạo chỉ dạy chấm dứt khổ bằng cách hành thân
hoại thể, mà lại không lo chấm dứt những ô nhiễm của
tự tâm. (Pm, 533)
Luận về Khổ diệt
hay Niết bàn:
Niết bàn có thể đạt
dược nhờ đạo lộ chân chánh. Vì đã có các bậc thánh
đạt được nó nhờ dùng phương tiện Giới, Ðịnh, Tuệ.
Do thế, không thể bảo rằng Niết bàn là không có gì cả,
vì ta không thể hiểu được. Ðiều hiển nhiên là không phải
ai cũng thấy được Niết bàn, mà nó chỉ có thể đạt
được bởi các vị A la hán, tức là những người đã đoạn
tận tham, sân, si, đã cắt đứt mọi gốc rễ của khát
ái.
Mục tiêu duy nhất
mà
đức Phật truyền dạy chính là Niết bàn. Theo bản luận
thì Niết bàn có hai loại là Hữu dư y và Vô dư y.
Hữu dư y Niết bàn nghĩa là các cấu uế đã lắng dịu,
nhưng hậu quả của sự chấp thủ trong quá khứ vẫn còn tồn
tại. Vô dư y Niết bàn nghĩa là đoạn tận các nghiệp
đưa đến tái sinh trong tương lai, các uẩn không còn sinh khởi
nữa, mà những uẩn đã sinh thì đã biến mất.
Ðó là ý nghĩa Niết
bàn
theo bộ luận nầy. Nhưng trong Thành Duy Thức Luận thuộc Ðại
Thừa, thì ngoài 2 tên gọi trên còn có 2 tên gọi khác về
Niết bàn nữa là: Bản lai tự tính thanh tịnh Niết bàn
và Vô trụ xứ Niết bàn, tức gồm 4 loại. Bản
lai tự tính thanh tịnh Niết bàn: Tự tính của tất cả
chúng sanh xưa nay vốn thanh tịnh, có vô lượng công đức,
không sinh không diệt, vắng lặng như hư không, nhưng vì bị
bụi bặm phiền não che khuất nên không hiển lộ được. Vô
trụ xứ Niết bàn: Khi đã đoạn trừ hết mọi chướng
ngại của tri thức, liền được trí tuệ siêu việt, không
còn phân biệt giữa sinh tử và Niết bàn, không còn ưa thích
hay chán ghét, phát đại trí, đại bi làm lợi ích cho chúng
sinh đến cùng tận đời vị lai mà vẫn sống theo tự tính
vắng lặng. (Thành Duy Thức Luận, q10, ÐTK. 31, tr. 55)
4.
Chân
lý về con đường đưa đến khổ diệt.
Con đường dẫn đến
khổ diệt chính là 8 chánh đạo. Tám pháp này đã được
giải thích trong phần mô tả về các uẩn, nhưng ở đây cũng
cần đề cập đến ý nghĩa của chúng, như sau:
a. Chánh kiến
(Samma-ditthi): Kiến giải chính xác, hiểu biết chính xác.
b. Chánh tư
duy
(Samma-Sankappa): Suy nghĩ một cách chính xác, đúng đắn.
c. Chánh ngữ
(Samma-vaca): Nói lời chân thực, đúng đắn, dễ nghe, có lợi
ích.
d. Chánh
nghiệp
(Samma-Kammanta): Làm những việc chân chánh, như không sát
sinh, không trộm cắp, không tà dâm v.v...
đ. Chánh mạng
(Samma-jìvati): Sinh sống bằng những nghề nghiệp chân
chính, lương thiện.
e. Chánh tinh
tấn
(Samma-Viriya): Nỗ lực chính đáng, siêng làm việc thiện.
g. Chánh niệm
(Samma-sati): Nghĩ nhớ chân chánh, luôn tỉnh táo, cảnh
giác từng việc nhỏ.
h. Chánh định
(Samma-samàdhi): Tập trung tư tưởng một cách chân chánh,
không để ngoại vật chi phối làm rối loạn tâm trí.
Tám chánh đạo này
liên quan đến các pháp như sau: Chánh kiến dẫn đầu
bao gồm trạch pháp như ý túc, tuệ căn, tuệ lực và trạch
pháp giác chi. Chánh tư duy bao gồm 3 loại tầm là viễn
ly tham, sân và hại. Chánh ngữ bao hàm 3 loại thiện về
thân. Chánh mạng bao hàm thiểu dục, tri túc. Chánh
tinh tấn bao hàm 4 chánh cần, tấn căn, tấn lực và tinh
tấn giác chi. Chánh niệm bao hàm 4 niệm xứ, niệm căn,
niệm lực và niệm giác chi. Chánh định bao hàm 4 loại
định là định có tầm tứ, định tâm, định căn, định
lực và các giác chi Hỉ, Khinh an, Ðịnh, Xả.
Ðồng thời Tám chánh
đạo liên quan mật thiết đến 3 Vô lậu học, như đoạn
kinh sau đây mô tả: "Bất cứ Chánh ngữ nào, Chánh nghiệp
nào, Chánh mạng nào, đều thuộc Giới uẩn. Bất cứ
Chánh tinh tấn nào, Chánh niệm nào, Chánh định nào, đều
thuộc Ðịnh uẩn. Bất cứ Chánh kiến nào, Chánh tư
duy nào, đ?u thuộc về Tuệ uẩn. (M. I, 301)
Bản luận nêu ví dụ:
Ðịnh ví như một người trông thấy hoa đẹp mà tự
mình không hái được; Tinh tấn ví như người bạn
đưa lưng ra cho người ấy đứng lên; Niệm ví như
người đứng gần đưa vai làm điểm tựa; nhờ vậy mà người
ấy hái đuợc hoa. Nghĩa là Tinh tấn và Niệm là những yếu
tố giúp sức rất đắc lực cho Ðịnh.
Ðể làm sáng tỏ ý
nghĩa của cả 4 chân lý, luận chủ đưa ra ví dụ: Khổ
ví như gánh nặng; Tập ví như sự mang gánh nặng; Diệt
như gánh nặng được đặt xuống; Ðạo như phương
tiện đặt gánh nặng. Hoặc Khổ như chứng bệnh. Tập
như nguyên nhân gây bệnh. Diệt như sự hết bệnh; Ðạo
như thuốc chữa bệnh.
Theo nghĩa tuyệt
đối,
cả 4 chân lý cần được hiểu là trống rỗng, vì
không có người chịu khổ, người tập khởi nên cái khổ,
người chứng sự diệt khổ, và người đi trên đạo lộ
đến khổ diệt. Do đó:
Có khổ, nhưng không có người chịu khổ
Có sở tác, nhưng không có người tạo tác
Có tịch diệt, nhưng không có người chứng đắc
Có đạo lộ, nhưng không thực có người đi.
Tóm tắt, hai đế Khổ,
Tập giống nhau, vì sâu xa, khó nắm, thuộc thế gian, hữu
lậu. Nhưng chúng khác nhau về phương diện nhân và quả,
cái cần liễu tri (khổ), và cái cần đoạn trừ (tập). Diệt,
Ðạo giống nhau, vì sâu xa, khó nắm, vì xuất thế, vô
lậu. Nhưng chúng khác nhau khi chia thành đối tượng cần chứng
(diệt), và cần tu tập (đạo). Lại nữa, Khổ, Diệt
giống nhau, vì cùng là hậu quả; Nhưng chúng khác nhau, vì khổ
thuộc hữu vi, diệt thuộc vô vi. Tập, Ðạo giống
nhau, vì chúng cùng là nhân; nhưng khác nhau vì Tập thuần
là bất thiện, Ðạo thuần là thiện. Khổ, Ðạo
giống nhau, vì chúng cùng là hữu vi; nhưng khác nhau ở chỗ
Khổ thuộc thế gian, Ðạo thì xuất thế. Cũng
vậy, Tập và Diệt giống nhau, vì là pháp không
phải hữu học hay vô học; nhưng khác nhau, vì Tập
có đối tượng, còn Diệt thì không.
Chương XVI mô tả về
Căn và Ðế, đến đây là chấm dứt.
-ooOoo-
CHƯƠNG XVII - ÐẠO
LÝ DUYÊN KHỞI
A. ÐỊNH NGHĨA DUYÊN
SINH
Ðến đây, đạo lý
Duyên khởi được trình bày, như Thế Tôn dạy: "Và nầy
các Tỳ kheo, Duyên khởi là gì? Ðó là: Vô minh duyên Hành,
Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục
nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái,
Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sinh, Sinh duyên
Lão tử, Sầu, Bi Khổ Ưu Não. Như vậy là duyên khởi của
toàn bộ khổ uẩn này." (S II, 1)
Thế nào là Duyên
khởi?
Vì nó do duyên (paticco) và cùng sinh (samuppàda) nên gọi là
Duyên khởi hay Duyên sinh (paticca-samuppàda). Hoặc, tùy thuộc
(paticca) một sự sinh khởi (uppàda) chân chánh (samma), tùy
thuộc vào nguyên nhân một cách chân chánh, gọi là Duyên khởi.
Và vì các pháp nầy cần được thấu hiểu. Khi hiểu rõ,
chúng sẽ đưa hành giả đến an lạc siêu thế.
Khi đề cập đến ý
nghĩa của chữ Duyên, bản luận nêu ra 24 duyên sau đây: 1.
Nhân duyên; 2. Sở duyên duyên 3. Tăng thượng duyên; 4. Vô
gián duyên; 5. Ðẳng vô gián duyên; 6. Câu sinh duyên; 7. Hỗ
tương duyên; 8. Y chỉ duyên; 9. Thân y duyên; 10. Tiền sinh
duyên; 11. Hậu sinh duyên; 12. Tập hành duyên; 13. Nghiệp
duyên; 14. Dị thục duyên; 15. Thục duyên; 16. Căn duyên; 17.
Thiền duyên; 18. Ðạo duyên; 19. Tương ưng duyên; 20. Bất tương
ưng duyên; 21. Hữu duyên; 22. Phi hữu duyên; 23. Ly khứ
duyên; 24. Bất ly khứ duyên.
1. Nhân duyên:
là một nhân căn bản làm điều kiện. Kết quả từ nó
sinh ra, thì gọi nó là một duyên. Nó giúp cho sự sinh khởi
một yếu tố khác, thì gọi nó là duyên. Hoặc, nó
là yếu tố căn bản, nền tảng, nên gọi nó là nhân
duyên (điều kiện gốc).
2. Sở duyên
duyên:
Một tâm sở pháp trợ giúp bằng cách làm đối tượng
cho tâm và tâm sở nên gọi là Sở duyên duyên hay Sở
duyên.
3. Tăng thượng
duyên:
Một pháp trợ lực nổi bật nhất cho những pháp khác, gọi
là Tăng thượng duyên.
4. Vô gián
duyên:
Một pháp trợ lực bằng cách ở gần kề, gọi là Vô
gián duyên.
5. Ðẳng vô
gián
duyên: Một pháp trợ lực bằng cách tiếp nối, gọi
là Ðẳng vô gián duyên.
6. Câu sinh
duyên:
Một pháp nào giúp cho pháp khác cùng sinh khởi, gọi là Câu
sinh duyên.
7. Hỗ tương
duyên:
Một pháp giúp cho pháp khác gây thêm thế lực, gọi là Hỗ
tương duyên.
8. Y chỉ duyên:
Một pháp trợ giúp cho pháp khác làm chỗ nương tựa, gọi
là Y chỉ duyên.
9. Thân y
duyên:
Một pháp trợ lực mạnh mẽ cho pháp kia sinh khởi, gọi
là Thân y duyên.
10. Tiền sinh
duyên:
Một pháp khởi lên trước, làm điều kiện cho pháp khác
phát sinh, gọi là Tiền
sinh duyên
11. Hậu sinh
duyên:
Một pháp nào phát sinh, làm điều kiện để củng cố pháp
trước, gọi là Hậu sinh duyên.
12. Tập hành
duyên:
Một pháp trợ giúp cho pháp kế nó có hiệu quả, nhờ lặp
đi lặp lại, gọi là Tập hành duyên.
13. Nghiệp
duyên:
Một pháp trợ giúp cho pháp khác bằng sự chủ động của
tâm, gọi là Nghiệp duyên.
14. Dị thục
duyên:
Một pháp trợ giúp cho pháp khác một cách vô công dụng,
gọi là Dị thục duyên.
15. Thục duyên:
Bốn loại thức ăn giúp cho các sắc, vô sắc pháp bằng
cách củng cố chúng, gọi là Thục duyên.
16. Căn duyên:
Ngoại trừ nam căn và nữ căn, 20 căn còn lại (xem chương
XVI) trợ giúp cho pháp khác tăng trưởng, gọi là Căn
duyên.
17. Thiền
duyên:
Một thiền chi nào trợ giúp cho cái khác tăng trưởng thiện
pháp, gọi là Thiền duyên.
18. Ðạo duyên:
Mười hai đạo chi trợ giúp cho pháp khác tìm ra lối
thoát, gọi là Ðạo duyên.
19. Tương ưng
duyên:
Các Vô sắc pháp trợ giúp cho những pháp khác có cùng một
căn, trần, khởi, diệt, gọi là Tương ưng duyên.
20. Bất tương
ưng
duyên: Sắc nào giúp cho vô sắc pháp, hay vô sắc pháp
giúp cho sắc pháp mà không cùng một căn trần, gọi là Bất
tương ưng duyên.
21. Hữu duyên:
Một pháp giúp cho một pháp tương tự khác củng cố thêm
sức mạnh, gọi là Hữu duyên.
22. Phi hữu
duyên:
Tâm và tâm sở vừa chấm dứt trước, là Phi hữu
duyên cho những tâm và tâm sở hiện tại.
23. Ly khứ
duyên:
Cũng chính những tâm pháp ấy, trợ giúp pháp khác bằng
cách biến mất, gọi là Ly
khứ duyên
24. Bất ly khứ
duyên: Những pháp trợ giúp cho pháp khác bằng cách
không biến mất, gọi là Bất ly khứ duyên.
Ðó là 24 duyên theo
bản
luận. Thế nhưng, các luận điển của Ðại thừa chỉ cô
đọng thành 4 duyên là: 1/ Nhân duyên; 2/ Ðẳng vô gián
duyên; 3/ Sở duyên duyên; 4/ Tăng thượng duyên. (Luận Duy thức,
Ðại trí độ). Bốn duyên này cũng chính là 3 duyên đầu và
duyên thứ 5 của bản luận. Sau đây, đi sâu vào vòng 12
nhân duyên.
Trích dẫn kinh:
1. Già chết:
cái gì thuộc chúng sinh bị già yếu, suy nhược, các căn
tàn lụi v.v..., gọi là Già. Cái gì thuộc chúng
sinh, bị hủy hoại, tiêu mất, các uẩn tàn lụn, thân thể
vứt bỏ, đó gọi là Chết. Như vậy, đây là già
và chết.
2. Sinh:
cái gì
thuộc chúng sinh, xuất hiện, sự sinh khởi các uẩn, sự
thành tựu các xứ, đó gọi là Sinh.
3. Hữu:
gồm
có 3 thứ, đó là: Dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu, đó
gọi là Hữu.
4. Thủ:
gồm
có 4 thứ, đó là: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ
và ngã luận thủ, đó gọi là Thủ.
5. Ái: gồm
có
6 thứ, đó là: Sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc
ái và pháp ái, đó gọi là ái.
6. Thọ:
gồm
có 6 thứ, đó là: Thọ do nhãn xúc sinh, thọ do nhĩ xúc
sinh, thọ do tỉ xúc sinh, thọ do thiệt xúc sinh, thọ do
thân xúc sinh, thọ do ý xúc sinh, đó gọi là Thọ.
7. Xúc:
gồm 6
thứ, đó là: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỉ xúc, thiệt xúc, thân
xúc và ý xúc, đó gọi là Xúc.
8. Sáu xứ (lục
nhập) gồm có 6 thứ, đó là: Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỉ xứ,
thiệt xứ, thân xứ và ý xứ, đó gọi là Sáu xứ.
9. Danh sắc:
Thọ,
tưởng, tư, xúc, tác ý, đó gọi là Danh. Bốn đại
chủng và các sắc do 4 đại chủng tạo ra, đó gọi là Sắc.
Như vậy, đây là Danh và Sắc.
10. Thức:
gồm
có 6 thứ, đó là: Nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt
thức, thân thức, ý thức; đó gọi là Thức.
11. Hành:
gồm
có 3 thứ, đó là: Thân hành, khẩu hành và ý hành, đó gọi
là Hành.
12. Vô minh:
không biết rõ về khổ, không biết rõ về khổ tập,
không biết rõ về khổ diệt, không biết rõ về con đường
đưa đến khổ diệt, đó là Vô
minh
Như vậy, "Nầy các
tỳ kheo, Vô minh duyên hành, Hành duyên thức; Thức
duyên danh sắc; Danh sắc duyên sáu xứ; Sáu xứ
duyên xúc; Xúc duyên thọ; Thọ duyên ái; Ái
duyên thủ; Thủ duyên hữu; Hữu duyên sinh; Sinh
duyên Lão Tử, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy là
toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do sự đoạn diệt,
ly khai vô minh một cách hoàn toàn, nên Hành diệt. Do
hành diệt, nên Thức diệt. Do thức diệt, nên Danh
sắc diệt. Do danh sắc diệt, nên Sáu xứ diệt. Do
sáu xứ diệt, nên Xúc diệt. Do xúc diệt, nên Thọ
diệt. Do thọ diệt, nên Ái diệt. Do ái diệt, nên Thủ
diệt. Do thủ diệt, nên Hữu diệt. Do hữu diệt, nên
Sinh diệt. Do sinh diệt, nên Lão Tử, sầu, bi, khổ,
ưu, não, đều diệt. Như vậy là đoạn diệt toàn bộ khổ
uẩn này. " (Tương Ưng Bộ Kinh II, tr. 3 - 4).
Ðoạn kinh sau đây
còn
triển khai thêm: "Cái gì có mặt, nên già chết có mặt?
Do duyên cái gì mà già chết sinh khởi? - Do Sinh có mặt,
nên Già Chết có mặt; do duyên sinh mà già chết sinh
khởi. - Do Hữu có mặt, nên sinh có mặt, do duyên hữu
nên sinh sanh khởi - Do Thủ có mặt, nên hữu có mặt;
do duyên thủ, nên hữu sinh khởi. - Do Ái có mặt, nên
thủ có mặt; do duyên ái, nên thủ sanh khởi - Do Thọ
có mặt, nên ái có mặt; do duyên thọ nên ái sanh khởi - Do
Xúc có mặt, nên thọ có mặt; do duyên xúc, nên thọ
sinh khởi - Do Sáu xứ có mặt, nên xúc có mặt; do
duyên sáu xứ, nên xúc sanh khởi - Do Danh sắc có mặt,
nên Sáu xứ có mặt; do duyên danh sắc, nên sáu xứ sanh khởi
- Do Thức có mặt, nên danh sắc có mặt; do duyên thức
nên danh sắc sanh khởi - Do Hành có mặt, nên Thức có
mặt; do duyên hành, nên thức sanh khởi - Do Vô minh có
mặt, nên hành có mặt; có duyên vô minh, nên hành sanh khởi".
Ðó là cái vòng 12
nhân duyên về phương diện sinh khởi, khảo sát ngược từ
dưới lên, và sau đây là khảo sát về phương diện hoàn
diệt, cũng từ dưới trở lên:
"Cái gì không có
mặt,
nên già chết không có mặt? Do cái gì diệt mà già chết diệt?
- Do Sanh không có mặt, nên Già chết không có mặt;
do sanh diệt, nên già chết diệt - Do Hữu không có mặt,
nên sanh không có mặt; do hữu diệt, nên sanh diệt - Do Thủ
không có mặt, nên hữu không có mặt, do thủ diệt, nên hữu
diệt - Do Ái không có mặt, nên thủ không có mặt; do
ái diệt nên thủ diệt - Do Thọ không có mặt, nên
ái không có mặt; do thọ diệt nên ái diệt - Do Xúc không
có mặt, nên thọ không có mặt; do xúc diệt, nên thọ diệt
- Do Sáu xứ không có mặt, nên xúc không có mặt; do
sáu xứ diệt, nên xúc diệt- Do Danh sắc không có mặt,
nên sáu xứ không có mặt; do danh sắc diệt, nên sáu xứ diệt
- Do Thức không có mặt, nên danh sắc không có mặt;
do thức diệt, nên danh sắc diệt - Do Hành không có mặt,
nên thức không có mặt; do hành diệt, nên thức diệt - Do Vô
minh không có mặt, nên hành không có mặt; do vô minh diệt,
nên hành diệt.
Như vậy, do Vô
minh
diệt, nên hành diệt. Do Hành diệt, nên thức diệt.
Do Thức diệt, nên danh sắc diệt. Do Danh sắc diệt,
nên sáu xứ diệt. Do Sáu xứ diệt, nên xúc diệt. Do Xúc
diệt, nên thọ diệt. Do Thọ diệt, nên ái diệt.
Do ái diệt, nên thủ diệt. Do Thủ diệt, nên hữu
diệt. Do Hữu diệt, nên sanh diệt. Do sanh diệt,
nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự
đoạn diệt toàn bộ khổ uẩn nầy". (Tương ưng BK. II,
tr. 6-10)
Giải thích thêm ý
nghĩa
quan hệ của các khâu: Vô minh duyên hành được thiết
lập để khỏi thấy có người tạo tác. Hành duyên thức
được thiết lập để khỏi thấy sự luân chuyển của một
tự ngã. Thức duyên danh sắc được thiết lập, để
khỏi có ảo tưởng về sự bền chắc của tự ngã, vì nó
phân tích rõ căn để của cái tự ngã ảo tưởng. Danh sắc
duyên sáu xứ ..., được thiết lập để ngăn chận sự
thấy cái tự ngã nhìn, nghe, ngửi, nếm, nhận thức, xúc, cảm
thọ, khát ái, chấp thủ, trở thành, sanh, già, chết. Vậy,
bánh xe sanh tử nầy cần được hiểu là để ngăn ngừa sự
nhận thức sai lầm.
Bản luận nêu ví dụ
để làm sáng tỏ các khâu trên: Vô minh như người mù,
vì không thấy được đặc tính chung và riêng của các
pháp. Hành do duyên vô minh ví như sự vấp của anh mù.
Thức do hành ví như sự té ngã. Danh sắc do thức,
ví như ung nhọt phát sinh. Sáu xứ do danh sắc như máu
mủ tụ lại. Xúc do duyên sáu xứ như đánh vào chỗ
máu tụ. Thọ như cơn đau do bị đánh. Ái ví như
khao khát một liều thuốc. Thủ ví như vớ nhằm thứ
thuốc không hợp. Hữu ví như đắp vào vết thương
thứ thuốc không hợp ấy. Sanh ví như vết thương thành
trầm trọng do xức thuốc bậy. Già chết ví như ung
nhọt vỡ ra, sau khi biến đổi.
ÐỒ BIỂU 1: TAM
THẾ LƯỠNG TRÙNG NHÂN QUẢ
TAM
THẾ |
Quá khứ |
- Vô minh
- Hành |
Nhân |
Nhất trùng |
Hiện tại |
- Thức
- Danh sắc
- Lục nhập
- Xúc
- Thụ |
Quả |
- Ái
- Thủ
- Hữu |
Nhân |
Nhất trùng
|
Vị lai |
- Sinh
- Lão tử |
Quả |
ÐỒ BIỂU 2: VÔ
MINH DUYÊN KHỞI VÀ ÁI DỤC DUYÊN KHỞI
Phần trước |
Nhân |
- Vô minh
- Hành |
- Ái, thủ
- Hữu |
Quả |
- Thức
- Danh sắc
- Lục nhập
- Xúc
- Thụ |
- Sinh
- Lão tử |
Phần sau |
Nhân |
- Ái
- Thủ
- Hữu |
- Vô minh
- Hành |
Quả |
- Sinh
- Lão tử |
- Thức
- Danh sắc
- Lục nhập
- Xúc
- Thụ |
Bài kệ giải thích
đồ
biểu số 2:
"Vô minh, Ái,
Thủ tam phiền não
Hành, Hữu nhị chi thuộc nghiệp đạo
Tự Thức chí Thọ tinh Sinh Tử
Nhất thiết đồng danh vi khổ đạo".
(Vô minh, Ái, Thủ ba phiền não
Hành, Hữu, hai chi thuộc nghiệp đạo
Từ Thức đến Thọ cùng Sinh Tử
Tất cả cùng tên là khổ đạo.)
ÐỒ BIỂU 3: VÒNG
LUÂN HỒI (A)
ÐỒ BIỂU 4: NHỊ
THẾ NHẤT TRÙNG
(Các đồ biểu từ
1-4, lấy từ Tiểu thừa Phật giáo Tư tưởng luận, Kimura
Taiken trước tác, TT. Quảng Ðộ dịch, Khuông Việt xuất bản
1971; tr, 447- 454)
-ooOoo-