[01]
LỄ UPOSATHA
(Bố-Tát hay Trai Giới)
Luật
qui định, các vị Tỳ-kheo mỗi nửa tháng một lần phải họp mặt để
tụng đọc
giới bổn pāṭimokkha. Ngày uposatha được ấn định là
ngày
rằm và cuối tháng theo âm lịch.
Có 3 trường hợp Bố-tát:
1. Saṅgha-uposatha,
tăng bố-tát. Tức là hội chúng có 4 vị Tỳ-kheo trở lên họp
mặt nơi
Sīmā làm bố-tát; Tăng bố-tát phải làm theo cách tụng giới
bổn
Pāṭimokkha.
2. Gaṇa-uposatha,
nhóm bố-tát. Tức là hội chúng chỉ có 2 hoặc 3 vị Tỳ-kheo họp mặt
làm
bố-tát; Trường hợp này không tụng giới mà chỉ làm bố-tát tỏ
thanh tịnh
(parisuddhi-uposatha) với nhau.
3. Puggala-uposatha,
người bố-tát. Tức là chỉ đơn độc một vị Tỳ-kheo trong ngày
bố-tát, không
tụng giới cũng không tỏ thanh tịnh, mà chỉ bố-tát chú nguyện (adhitthāna-uposatha).
-ooOoo-
CÁCH THỨC
SAṄGHA-UPOSATHA
Trước khi tụng giới phải
cử hai vị Tỳ-kheo thông hiểu đứng ra hỏi và đáp các luật lệ
trong ngày
bố-tát.
CÁCH VẤN ÐÁP NHƯ SAU:
Vấn: Namo tassa bhagavato arahato
sammā-sambuddhassa ... Suṇātu me bhante saṅgho yadi saṅghassa
pattakallaṃ ahaṃ āyasmantaṃ "itthan-nāmaṃ" vinayaṃ puccheyyaṃ.
Kính lễ Ðức Thế Tôn Ưng Cúng Chánh Biến Tri ...
Bạch Ðức Tăng, xin Tăng hãy nghe tôi trình, nếu đã hợp thời với
Tăng,
tôi xin được hỏi luật Tôn-giả tên vậy.
Ðáp: Namo tassa bhagavato arahato
sammā-sambuddhassa ... Suṇātu me bhante saṅgho yadi
saṅghassa
pattakallaṃ ahaṃ āyasmatā "itthannā-mena" vinayaṃ puṭṭho
vissajjeyyaṃ
Kính lễ Ðức Thế Tôn Ưng Cúng Chánh Biến Tri ...
Bạch Ðức Tăng, xin Tăng hãy nghe tôi trình, nếu đã hợp thời với
Tăng,
tôi phải đáp luật do Tôn-giả tên vậy đã hỏi.
Vấn: Sammajjanī padīpo ca udakaṃ āsanena
ca uposathassa etāni pubbakaranan'ti vuccati. Ukāsa sammajjanī?
Việc quét dọn, đèn đuốc, nước nôi, chỗ ngồi, các
việc đó là tiền sự trong ngày bố-tát. Vậy sự quét dọn là gì?
Ðáp: Sammajjanakaranañca.
Là việc lau bụi quét rác sạch sẽ chỗ hành lễ.
Vấn: Padīpo ca?
Sao là đèn đuốc?
Ðáp: Padīpa-ujjalanañca. Idāni
suriyālokassa natthitāya padīpakiccaṃ atthi. (hay là idāni
suri-yālokassa atthitāya padīpakiccaṃ natthi)
Là việc thắp đèn đốt đuốc cho sáng. Bây giờ
không có ánh sáng mặt trời, phải có đèn. (bây giờ giờ có ánh
sáng mặt
trời, không cần thắp đèn).
Vấn: Udakaṃ āsanena ca?
Nước và chỗ ngồi là sao?
Ðáp: Āsanena saha pānīyaparibhojanīya
uda-kaṭṭhapanañca.
Là sự sắp đặt nước uống, nước rửa cùng với tọa cụ trải ngồi nơi
hành lễ.
Vấn:
Uposathassa
etāni
pubbakaraṇan'ti vuccati?
Sao gọi là những tiền sự trong ngày bố-tát?
Ðáp: Etāni cattāri vattāni
sammajjanakara-ṇādīni saṅghasannipātato paṭhamaṃ kattabbattā
uposathassa
uposathakammassa pubbakaraṇan'ti vuc-cati pubbakaraṇānī'ti
akkhātāni.
Ðược gọi là tiền sự của Ngày bố-tát, vì bốn công
việc đó như là quét dọn, v.v ... cần phải làm xong trước khi
Tăng tụ
họp. Nói rằng tiền sự là thế.
Vấn: Chandapārisuddhi utukkhānaṃ
bhik-khugaṇanā ca ovādo uposathassa etāni pubbakiccan'ti vuccati
chandapārisuddhi?
Trình lời thoả hiệp, tỏ sự thanh tịnh, kể mùa
tiết, đếm tăng số, việc giáo giới, những việc đó gọi là "tiền
phận sự"
của lễ bố-tát. Việc trình lời thoả hiệp và tỏ sự thanh tịnh là
sao?
Ðáp: Chandārahānaṃ bhikkhūnaṃ
chanda-pārisuddhi āharanañca. Idha natthi.
Là sự đem trình Tăng lời thoả hiệp và tịnh hạnh
của những vị Tỳ-kheo đáng gởi lời
[1].
Hôm nay không có
[2].
Vấn: Utukkhānaṃ?
Việc kể mùa tiết?
Ðáp: Hemantādīnaṃ tiṇṇaṃ utūnaṃ etta-kaṃ
atikkantaṃ ettakaṃ avasiṭṭhan'ti evaṃ utu ācikkhanaṃ utūnī'dha
pana
sāsane hemantagimha-vassānānaṃ vasena tīni honti.
Ayaṃ hemanta-utu
asmiṃ utumhi aṭṭha uposathā. Iminā pakkhena eko uposatho
sampatto natthi
uposatho atikkanto satta uposathā avasiṭṭhā.
Trong Phật giáo có ba mùa: mùa lạnh, mùa nóng và
mùa mưa, việc kể mùa tiết như sau, kể rằng đây là mùa nào trong
ba mùa,
đã trải qua bao nhiêu kỳ bố-tát? còn lại bao nhiêu kỳ? chẳng hạn
như:
"Ðây là mùa lạnh, trong mùa này có tám kỳ
bố-tát, nay là một kỳ bố-tát đang diễn ra, chưa có kỳ bố-tát nào
trải
qua, vậy còn lại bảy kỳ bố-tát nữa".
[3]
Vấn: Bhikkhugaṇanā ca?
Việc đếm tăng số?
Ðáp: Imasmiṃ uposathagge sannipati tānaṃ
bhikkhūnaṃ gaṇanā "cattāro" bhikkhū honti.
Tại phòng bố-tát này có số lượng tỳ-kheo tụ hội là "bốn"
[4]
vị tỳ-kheo.
Vấn: Ovādo?
Việc giáo giới?
Ðáp: Bhikkhunīnaṃ ovādo dātabbo. idāni
pana tāsaṃ natthitāya so ca ovādo idha natthi.
Là việc phải dạy đạo chư Tỳ-kheo ni. Nhưng hiện
nay vì Tỳ-kheo ni không còn nữa nên việc dạy đạo ấy không có.
Vấn:
Uposathassa etāni
pubbakiccan'ti vuccati?
Sao gọi rằng các việc
đó là tiền phận sự của lễ bố-tát?
Ðáp:
Etāni pañca kammāni
chandāharaṇā-dīni
pāṭimokkhuddesato paṭhamaṃ kattabbattā upo-sathassa
uposathakammassa
pubbakiccan'ti vuccati pubbakiccānī'ti akkhātāni.
Gọi là tiền phận sự
của lễ bố-tát, tức nói đến các phận sự tiên khởi của lễ bố-tát,
năm việc
đó như là đem trình lời thoả hiệp v.v ... cần phải làm xong
trước khi
tụng giới bổn.
Vấn:
uposatho yāvatikā ca bhikkhū
kam-mappattā
sabhāgāpattiyo ca na vijjanti vajjanīyā ca puggalā tasmiṃ na
honti
pattakallan'ti vuccati. Uposatho?
Ngày bố-tát, chừng ấy Tỳ-kheo làm được tăng sự,
không có đồng tội, trong chúng không có hạng người cần tránh,
như thế
gọi là hợp thời. Ngày bố-tát là gì?
Ðáp:
Tīsu uposathadivasesu
catuddasīpaṇ-ṇara
sīsamaggīsu. Ajjuposatho "paṇṇaraso".
Có ba ngày làm bố-tát là ngày 14, ngày rằm và
ngày hòa hợp tăng
[5].
Ngày bố-tát hôm nay là "ngày rằm"
[6]
Vấn:
Yāvatikā ca bhikkhū kammappattā?
Chừng nhiêu vị Tỳ-kheo làm được tăng sự?
Ðáp: Yattakā ca bhikkhū tassa
uposatha-kammassa pattāyuttā anurūpā sabbantimena paric-chedena
cattāro
bhikkhū pakatattā saṅghena anuk-khittā te ca kho hatthapāsaṃ
avijjahitvā
ekasīmā-yaṃ ṭhitā.
Tối đa bao nhiêu vị Tỳ-kheo cũng được, cũng
thích hợp làm tăng sự bố-tát cả, nhưng tối thiểu cũng là bốn vị
Tỳ-kheo
thanh tịnh không bị tăng nghị tội, và các vị ấy cùng trụ trong
một giới
Sīmā không cách biệt hắc tay.
Vấn:
Sabhāgāpattiyo ca na vijjanti?
Không có đồng tội là sao?
Ðáp:
Vikālabhojanādivatthu sabhāgāpattiyo ca na vijjanti.
Là không có các tội bị phạm giống nhau như thể
đồng phạm
tội ăn phi thời chẳng hạn.
Vấn: Vajjanīyā ca puggalā tasmiṃ na
honti?
Trong chúng không có hạng người cần tránh là sao?
Ðáp: gahaṭṭhapaṇḍakādayo ekavīsati
vajja-nīyapuggalā hatthapāsato bahikaraṇavasena vajje-tabbā
tasmiṃ na
honti.
Là trong chỗ tăng hội ấy không có 21 hạng người
phải cách ly chẳng hạn như người thế tục, người bộ nấp v.v...
[7]
nên cách xa ngoài hắc tay.
Vấn:
Pattakallan'ti vuccati?
Sao gọi là hợp thời?
Ðáp: Saṅghassa uposathakammaṃ imehi
ca-tūhi lakkhaṇehi saṅgahitaṃ pattakallan'ti vuccati
pattakālavantan'ti
akkhātaṃ.
Gọi là hợp thời, tức nói đến tặng sự đúng thời
điểm để làm, như việc bố-tát của tăng đã hội đủ bốn yếu tố này
vậy.
*
Khi hỏi luật xong, vị vấn phải bạch thỉnh tụng giới
như sau:
Pubbakaraṇapubbakiccāni samāpetvā
desitā-pattikassa samaggassa bhikkhusaṅghassa anumatiyā
paṭimokkhaṃ
uddisituṃ ārādhanaṃ karomi.
Sau khi hoàn tất các
tiền sự và phận sự tiên khởi, với sự đồng ý của tỳ-kheo tăng hòa
hợp và
đã phát lồ tội lỗi, tôi cầu thỉnh tụng giới bổn.
*
Sau khi vấn đáp luật xong, một vị sẽ bắt đầu tụng
giới (pāṭimokkhuddeso).
Tụng giới, phải tụng thứ lớp năm phần uddesa
là:
1. Nidānuddesa.
Thuyết giới khởi.
2. Pārājikuddesa. Thuyết giới triệt khai.
3. Saṅghādisesuddesa. Thuyết giới tăng tàng.
4. Aniyatuddesa. Thuyết giới bất định.
5. Vitthāruddesa. Thuyết giới tổng trì.
Tụng xong cả năm phần ấy mới tụng kết.
Trường hợp có điều trở ngại (antarāyika) thì
được phép tụng giới tóm tắt.
-ooOoo-
THUYẾT
DUYÊN KHỞI
(Nidānuddeso)
Namo tassa bhagavato
arahato sammāsam-buddhassa ...
Kính lễ Ðức Thế Tôn
bậc ưng cúng đấng chánh đẳng giác.
Suṇātu me bhante saṅgho ajj'uposatho
"paṇ-ṇaraso"
[8].
yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho upo-sathaṃ kareyya pātimokkhaṃ
uddiseyya.
Kiṃ saṅghassa pubbakiccaṃ? pārisuddhiṃ āyasmanto
ārocetha pāṭimokkhaṃ uddisissāmi taṃ sabb'eva santā sādhukaṃ
suṇoma
manasikaroma yassa siyā āpatti so āvikareyya asantiyā āpattiyā
tuṇhī
bhavitabbaṃ. Tuṇhī bhāvena kho pan'āyas-mante parisuddhā'ti
vedissāmi.
yathā kho pana paccekapuṭṭhassa veyyākaraṇaṃ hoti. Evamevaṃ
evarūpāya
parisāya yāvatatiyaṃ anussāvitaṃ hoti. Yo pana bhikkhu
yāvatatiyaṃ
anussāviyamāne sara-māno santiṃ āpattiṃ n'āvikareyya
sampajāna-musāvādassa hoti sampajānamusāvādo kho pan' āyasmanto
antarāyiko dhammo vutto bhagavatā tas-mā saramānena bhikkhunā
āpannena
visuddhā-pekkhena santī āpatti āvikātabbā āvikatā hi'ssa phāsu
hoti.
Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth'āyasmanto tasmā tuṇhī evame-taṃ
dhārayāmi.
Nidānuddeso niṭṭhito.
*
Bạch Ðại Ðức Tăng,
xin Tăng hãy nghe tôi nói, hôm nay là lễ bố-tát ngày rằm. Nếu đã
hợp
thời, chúng tăng có thể cử hành lễ bố-tát thuyết giới
ba-đề-mộc-xoa.
Phận sự trước tiên của Tăng là gì? là các Tôn
giả hãy bày tỏ sự thanh tịnh, tôi sẽ thuyết giới ba-đề-mộc-xoa.
Khi tất
cả thanh tịnh hãy lắng nghe hãy khéo tác ý giới bổn; vị nào có
tội lỗi
phải sám hối, vị không có tội thì nên im lặng. Do sự im lặng mà
tôi biết
rằng các Tôn-giả được thanh tịnh. Cũng như một người bị cật vấn
phải trả
lời thế nào thì cũng vậy giữa hội chúng nầy sẽ được bố cáo ba
lần. Vị
Tỳ-kheo nào khi được bố cáo ba lần,nhớ mà chẳng sám hối tội lỗi
thì vị
ấy phạm lỗi biết vẫn nói dối; Thưa các Tôn giả, sự biết vẫn nói
dối là
một pháp chướng ngại mà Ðức Thế Tôn đã nói; bởi thế với vị
Tỳ-kheo đã
phạm tội nhớ ra và muốn thanh tịnh thì cần phải sám hối tội lỗi,
khi đã
sám hối thì vị ấy có sự an vui.
Thưa chư Tôn giả,
duyên khởi đã nói xong.
Ở đây tôi xin hỏi các
Tôn Giả; các vị có được thanh tịnh chăng? Tôi hỏi lần thứ nhì,
các vị có
được thanh tịnh chăng? Tôi hỏi lần thứ ba, các vị có được thanh
tịnh
chăng?
DỨT PHẦN
THUYẾT DUYÊN KHỞI.
-ooOoo-
THUYẾT
GIỚI TRIỆT KHAI
(Pārājikuddeso)
Tatr'ime cattāro
pārājikā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Yo pana bhikkhu bhikkhūnaṃ
sikkhāsājī-vasamāpanno sikkhaṃ appaccakkhāya dubbalyaṃ
anāvikatvā
methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyya anta-maso tiracchānagatāyapi
pārājiko hoti
asaṃvāso.
2. Yo pana bhikkhu gāmā vā araññā vā adinnaṃ
theyyasaṅkhātaṃ ādiyeyya yathārūpe adin-nādāne rājāno coraṃ
gahetvā
haneyyuṃ vā ban-dheyyuṃ vā pabbājeyyuṃ vā coro'si bālo'si mūḷho'
si
theno'sī'ti tathārūpaṃ bhikkhu adinnaṃ ādiyamāno ayampi pārājiko
hoti
asaṃvāso.
3. Yo pana bhikkhu sañcicca manussavigga-haṃ
jīvitā voropeyya satthahārakaṃ vā'ssa pariye-seyya maraṇavaṇṇaṃ
vā
saṃvaṇṇeyya maraṇāya vā samādapeyya ambho purisa kiṃ tuyh'iminā
pāpakena
dujjīvitena matante jīvitā seyyo'ti iticittamano citta-saṅkappo
anekapariyāyena maraṇavaṇṇaṃ vā saṃ-vaṇṇeyya maraṇāya vā
samādapeyya
ayampi pārāji-ko hoti asaṃvāso.
4. Yo pana bhikkhu anābhijānaṃ
uttarima-nussadhammaṃ attūpanāyikaṃ alamariyaññāṇadas-sanaṃ
samudācareyya iti jānāmi iti passāmī'ti tato aparena samayena
samanuggāhiyamāno vā asama-nuggāhiyamāno vā āpanno
visuddhāpekkho evaṃ
vadeyya ajānaṃ evaṃ āvuso avacaṃ jānāmi apas-saṃ passāmi tucchaṃ
musāvilapin'ti aññatra adhi-mānā ayampi pārājiko hoti asaṃvāso.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto cattāro pārājikā dhammā
yesaṃ bhikkhu aññataraṃ vā aññataraṃ vā āpajjitvā na labhati
bhikkhūhi
saddhiṃ saṃvāsaṃ yathā pure tathā pacchā pārājiko hoti asaṃvāso.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh' etthāyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ
dhārayāmi.
Pārājikuddeso niṭṭhito.
*
Bạch chư Tôn giả, Bốn
pháp triệt khai ở đây phải thuyết giới như sau:
1. Vị Tỳ-kheo nào đã
thọ trì học giới và hạnh sống của hàng Tỳ Kheo, khi chưa xả bỏ
học giới,
chưa bày tỏ sự yếu kém mà hành động dâm dục, thậm chí với loài
thú vật,
vị ấy bị tội triệt khai bất cộng trụ.
2. Vị Tỳ-kheo nào lấy
trộm cắp vật chưa được cho, ở nơi xóm làng hoặc ở rừng, nếu trộm
vật như
thế nào mà khi vua bắt được kẻ trộm có thể giết hoặc cầm tù hoặc
lưu
đày, trách rằng: Ngươi là tên trộm, người là kẻ ngu si, ngươi là
kẻ sai
lạc, ngươi là đạo tặc". Vị Tỳ-kheo khi lấy trộm vật như thế phạm
tội
triệt khai bất cộng trụ.
3. Vị Tỳ-kheo nào cố
ý đoạt mạng sống con người, hoặc tìm phương tiện khí giới cho
người,
hoặc khen ngợi sự chết,
hoặc
xúi giục chết, nói rằng: Hỡi người, có ích gì cho ngươi với mạng
sống
khổ xấu xa này, người nên chết tốt hơn là sống" suy nghĩ tính
toán như
vậy rồi dùng nhiều cách thức khen ngợi sự chết, xúi giục cho
chết, thì
vị này phạm tội Triệt khai bất cộng trụ.
4. Vị Tỳ-kheo nào
chưa chứng tri lại khoe khoang pháp thượng nhân tự thể nhập
tương ứng
thánh tri kiến, nói rằng: "Tôi biết tôi thấy như vậy", thời gian
sau đó
dù có bị thẩm vấn hay không bị thẩm vấn, nhưng muốn được trong
sạch bèn
nói lại như sau: "Thưa chư hiền, tôi không biết như vậy mà tôi
nói tôi
biết, tôi không thấy mà nói tôi thấy, thành ra nói dối nói láo."
Dù thế
vị này cũng phạm tội triệt khai bất cộng trụ, trừ phi tăng
thượng mạn.
Thưa chư Tôn giả, bốn
pháp triệt khai đã được thuyết giới. Vị Tỳ-kheo phạm bất cứ một
điều nào
đều không được cộng trú với các vị Tỳ khưu, trước như thế nào
thì sau
cũng thế ấy, vị đó phạm triệt khai bất cộng trụ.
Ở đây, tôi xin hỏi
chư Tôn giả, các Ngài có thanh tịnh chăng?
Lần thứ hai tôi xin
hỏi, các Ngài có thanh tịnh chăng?
Lần thứ ba tôi xin
hỏi, các Ngài có thanh tịnh chăng?
Chư Tôn giả ở đây
thanh tịnh do đó mới im lặng,Tôi ghi nhận việc đó là vậy.
DỨT PHẦN
THUYẾT GIỚI TRIỆT KHAI.
-ooOoo-
THUYẾT
GIỚI TĂNG TÀNG
(Saṅghādisesuddeso)
Ime kho pan'āyasmanto terasa saṅghādise-sā
dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Sañcetanikā sukkavisaṭṭhi aññatra supi-nantā
saṅghādiseso.
2. Yo pana bhikkhu otiṇṇo vipariṇatena cit-tena
mātugāmena saddhiṃ kāyasaṃsaggaṃ samā-pajjeyya hatthaggāhaṃ vā
veṇiggāhaṃ vā aññata-rassa vā aññatarassa vā aṅgassa parāmasanaṃ
saṅ-ghādiseso.
3. Yo pana bhikkhu otiṇṇo vipariṇatena citte-na
mātugāmaṃ duṭṭhullāhi vācāhi obhāseyya yathā-taṃ yuvā yuvatiṃ
methunūpasañhitāhi saṅghādiseso.
4. Yo pana bhikkhu otiṇṇo vipariṇatena cit-tena
mātugāmassa santike attakāmapāricariyāya vaṇṇaṃ bhāseyya
etadaggaṃ
bhagini pāricariyānaṃ yā mādisaṃ sīlavantaṃ kalyāna dhammaṃ
brah-macāriṃ
etena dhammena paricareyyā'ti methu-nūpasañhitena saṅghādiseso.
5. Yo pana bhikkhu sañcarittaṃ samāpaj-jeyya
itthiyā vā purisamatiṃ purisassa vā itthīmatiṃ jāyattane vā
jārattane vā
antamaso taṃkhaṇikāya pi saṅghādiseso.
6. Saññācikāya pana bhikkhunā kutiṃ
kāra-yamānena assāmikaṃ attuddesaṃ pamāṇikā kāre-tabbā tatridaṃ
pamāṇaṃ
dīghaso dvādasavidatthiyo sugatavidatthiyā tiriyaṃ sattantarā
bhikkhū
abhi-netabbā vatthudesanāya tehi bhikkhūhi vatthuṃ desetabbaṃ
anārambhaṃ
saparikkamanaṃ sāram-bhe ce bhikkhu vatthusmiṃ aparikkamane
saññāci-kāya
kutiṃ kareyya bhikkhū vā anabhineyya vat-thudesanāya pamāṇaṃ vā
atikkāmeyya saṅghādiseso
7. Mahallakaṃ pana bhikkhunā vihāraṃ
kā-rayamānena sassāmikaṃ attuddesaṃ bhikkhū abhi-netabbā
vatthudesanāya
tehi bhikkhūhi vatthuṃ de-setabbaṃ anārambhaṃ saparikkamanaṃ
sārambhe ce
bhikkhuvatthusmiṃ aparikkamane mahallakaṃ vihāraṃ kāreyya
bhikkhū vā
anabhineyya vatthu-desanāya saṅghādiseso.
8- Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ duṭṭho doso appatīto
amūlakena pārājikena dhammena anud-dhaṃseyya appeva nāma naṃ
imamhā
brahmacariyā cāveyyan'ti tato aparena samayena
samanuggāhi-yamāno vā
asamanuggāhiyamāno vā amūlakañceva taṃ adhikaranaṃ hoti bhikkhu
ca dosaṃ
patiṭṭhāti saṅghādiseso.
9.Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ duṭṭho doso appatīto
aññabhāgiyassa adhikaraṇassa kiñci desaṃ lesamattaṃ upādāya
pārājikena
dhammena anud-dhaṃseyya appeva nāma naṃ imamhā brahmacariyā
cāveyyan' ti
tato aparena samayena samanuggāhi-yamāno vā asamanuggāhiyamāno
vā
aññabhāgiyañ-ceva taṃ adhikaranaṃ hoti koci deso lesamatto
upādinno
bhikkhu ca dosaṃ patiṭṭhāti saṅghādiseso.
10. Yo pana bhikkhu samaggassa saṅghassa bhedāya
parakkameyya bhedanasaṃvattanikaṃ vā adhikaranaṃ samādāya
paggayha
tittheyya. So bhik-khu bhikkhūhi evam-assa vacanīyo mā āyasmā
sa-maggassa saṅghassa bhedāya parakkami bheda-nasaṃvattanikaṃ vā
adhikaraṇaṃ samādāya pag-gayha aṭṭhāsi samet'āyasmā saṅghena
samaggo hi
saṅgho sammodamāno avivadamāno ekuddeso phāsu viharatī' ti.
Evañca so
bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno tath' eva paggaṇheyya so bhikkhu
bhikkhūhi
yāvata-tiyaṃ samanubhāsitabbo tassa paṭinissaggāya
yāva-tatiyañce
samanubhāsiyamāno taṃ paṭinissajjeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce
paṭinissajjeyya saṅghādiseso.
11. Tass'eva kho pana bhikkhussa bhikkhū honti
anuvattakā vaggavādakā eko vā dve vā tayo vā te evaṃ vadeyyuṃ mā
āyasmanto etaṃ bhikkhuṃ kiñci avacuttha dhammavādī c'eso bhikkhu
c'eso
bhikkhu amhākañc'eso bhikkhu chandañca ruciñca ādāya voharati
jānāti no
bhāsati amhākamp'etaṃ khamatī'ti. Te bhikkhū bhikkhūhi evam-assu
vacanī-yā mā āyasmanto evaṃ avacuttha na c'eso bhikkhu
dhammavādī na
c'eso bhikkhu vinayavādī mā āyas-mantānampi saṅghabhedo rucittha
samet'
āyasman-tānaṃ saṅghena samaggo hi saṅgho sammodamāno avivadamāno
ekuddeso phāsu viharatī'ti. Evañca te bhikkhū bhikkhūhi
vuccamānā
tath'eva paggaṇhey-yuṃ te bhikkhū bhikkhūhi yāvatatiyaṃ
samanubhā-sitabbā tassa paṭinissaggāya. Yāvatatiyañce
sa-manubhāsiyamānā
taṃ paṭinissajjeyyuṃ iccetaṃ kusalaṃ no ce paṭinissajjeyyuṃ
saṅghādiseso.
12. Bhikkhu pan'eva dubbacajātiko hoti
udde-sapariyāpannesu sikkhāpadesu bhikkhūhi saha-dhammikaṃ
vuccamāno
attānaṃ avacanīyaṃ karoti mā maṃ āyasmanto kiñci avacuttha
kalyānaṃ vā
pāpakaṃ vā ahamp'āyasmante na kiñci vakkhāmi kalyānaṃ vā pāpakaṃ
vā
viramath' āyamanto mama vacanāyā'ti. So bhikkhu bhikkhūhi
evam-assa
vaca-nīyo mā āyasmā attānaṃ avacanīyaṃ akāsi vaca-nīyameva
āyasmā
attānaṃ karotu āyasmāpi bhikkhū vadetu sahadhammena bhikkhūpi
āyasmantaṃ
vak-khanti sahadhammena evaṃ saṃvaḍḍhā hi tassa bhagavato parisā
yadidaṃ
aññamaññavacanena añ-ñamaññavuṭṭhāpanenā' ti. Evañca so bhikkhu
bhik-khūhi vuccamāno tath'eva paggaṇheyya so bhikkhu bhikkhūhi
yāvatatiyaṃ samanubhāsitabbo tassa paṭi-nissaggāya.
Yāvatatiyañce
samanubhāsiyamāno taṃ paṭinissajjeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce
paṭinissajjeyya saṅghādiseso.
13. Bhikkhu pan' eva aññataraṃ gāmaṃ vā nigamaṃ
vā upanissāya viharati kuladūsako pāpasa-mācāro. Tassa kho
pāpakā
samācārā dissanti c'eva suyyanti ca kulāni ca tena duṭṭhāni
dissanti
c'eva suyyanti ca. So bhikkhu bhikkhūhi evam-assa vaca-nīyo
āyasmā kho
kuladūsako pāpasamācāro āyasmato kho pāpakā samācārā dissanti
c'eva
suyyanti ca ku-lāni c' āyasmatā duṭṭhāni dissanti c'eva suyyanti
ca
pakkamat' āyasmā imamhā āvāsā alante idha vāsenā' ti. Evañca so
bhikkhu
bhikkhūhi vuccamāno te bhik-khū evaṃ vadeyya chandagāmino ca
bhikkhū
dosagā-mino ca bhikkhū mohagāmino ca bhikkhū bhayagā-mino ca
bhikkhū
tādisikāya āpattiyā ekaccaṃ pabbā-jenti ekaccaṃ na pabbā
jentī'ti. So
bhikkhu bhikkhū-hi evam-assa vacanīyo mā āyasmā evaṃ avaca na ca
bhikkhū
chandagāmino na ca bhikkhū dosagāmino na ca bhikkhū mohagāmino
na ca
bhikkhū bhayagāmi-no āyasmā kho kuladusako pāpasamācāro āyasmato
kho
pāpakā samācārā dissanti c'eva suyyanti ca kulāni c'āyasmatā
duṭṭhāni
dissanti c'eva suyyanti ca pakkamat' āyasmā imamhā āvāsā alante
idha
vāse-nā'ti. Evañca so bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno tath' eva
paggaṇheyya
so bhikkhu bhikkhūhi yāvatatiyaṃ samanubhāsitabbo tassa
paṭinissaggāya.
Yāvatati-yañce samanubhāsiyamāno taṃ paṭinissajjeyya icce-taṃ
kusalaṃ no
ce paṭinissajjeyya saṅghādiseso.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto terasa saṅghādisesā
dhammā nava paṭhamāpattikā cattāro yāvatatiyakā. Yesaṃ bhikkhu
aññataraṃ
vā aññataraṃ vā āpaj-jitvā yāvatihaṃ jānaṃ paṭicchādeti
tāvatihaṃ tena
bhikkhunā akāmā parivatthabbaṃ parivutthapari-vāsena bhikkhunā
uttariṃ
chārattaṃ bhikkhumā-nattāya paṭipajjitabbaṃ. Ciṇṇamānatto
bhikkhu
yat-tha siyā vīsatigaṇo bhikkhusaṅgho tattha so bhik-khu
abbhetabbo.
Ekenapi ce ūno vīsatigano bhikkhu-saṅgho taṃ bhikkhuṃ abbheyya
so ca
bhikkhu anabbhito te ca bhikkhū gārayhā. Ayaṃ tattha sā-mīci.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh' etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ
dhārayāmi.
Saṅghādisesuddeso
niṭṭhito.
*
Thưa chư Tôn giả đây là mười ba pháp Tăng tàng
được thuyết giới.
1. Cố ý làm di tinh, phạm tăng tàng, ngoại trừ
mộng tinh.
2. Tỳ-kheo nào do tâm dục nhiễm dồn nén, xúc
chạm thân người nữ, hoặc nắm tay hoặc nắm tóc hoặc rờ chạm bất
cứ chi
thể nào, phạm Tăng tàng.
3. Tỳ-kheo nào do tâm dục nhiễm dồn nén, nói lời
tục tĩu với phụ nữ, như thể trai với gái liên hệ dâm dục, phạm
Tăng
tàng.
4. Tỳ-kheo nào do tâm dục nhiễm dồn nén, đối
trước phụ nữ lại ca ngợi sự cung phụng dục lạc cho mình, nói
rằng "Này
cô em, sự cung phụng này là tối thượng, tức là cô nào với pháp
dâm dục
cung phụng bậc giới hạnh thiện hạnh phạm hạnh như tôi đây". Bởi
liên hệ
dâm dục, phạm Tăng tàng.
5. Tỳ-kheo nào làm mai mối, là đem ý người nam
nói với người nữ, hoặc đem ý người nữ nói với người nam, để làm
vợ chồng
hoặc để làm tình nhân, dù chỉ cho họ đến nhau chốc lát, phạm
Tăng tàng.
6. Thất liêu do Tỳ-kheo tự quyên góp xây cất,
không có thí chủ, tự làm cho mình, thì cần phải làm đúng kích
cỡ, trong
điều này đúng kích cỡ là mười hai gang chiều dài, bảy gang chiều
ngang,
theo gang tay Ðức Phật
[9]
phải mời chư Tỳ-kheo để chỉ định nơi chốn, nơi chốn được tỳ-kheo
ấy chỉ
định là chỗ không có trở ngại, có lối thông. Nếu vị Tỳ-kheo làm
thất
liêu do tự quyên góp, làm ở chỗ có trở ngại, không lối thông,
cũng không
mời các Tỳ-kheo để chỉ định nơi chỗ, vượt quá kích cỡ, phạm Tăng
Tàng.
7. Tịnh xá lớn mà Tỳ-kheo xây dựng cho mình, có
thí chủ cúng, phải mời chư Tỳ-kheo để chỉ định nơi chốn, nơi
chốn được
các Tỳ-kheo ấy chỉ định là chỗ không có trở ngại, có lối thông;
nếu vị
Tỳ-kheo làm tịnh xá lớn ở nơi có điều trở ngại, không lối thông,
lại
không mời các Tỳ-kheo để chỉ định nơi chỗ, phạm Tăng Tàng.
8. Tỳ-kheo nào phẫn nộ sân hận bất bình, vu
khống vị Tỳ-kheo với tội triệt khai không căn cứ, nghĩ rằng làm
vị ấy
bại hoại phạm hạnh này. Sau lúc đó, có bị gạn hỏi hay chưa được
gạn hỏi,
sự tố tụng ấy là vô căn cứ và dù Tỳ-kheo này có nhìn nhận lỗi
lầm vẫn
phạm Tăng Tàng.
9. Tỳ-kheo nào phẫn nộ sân hận bất bình, vịn cớ
nhỏ nào đó của một sự vụ khác rồi vu khống vị Tỳ-kheo với tội
triệt
khai, nghĩ rằng làm vị ấy bại hoại phạm hạnh này. Sau lúc đó, bị
gạn hỏi
hay chưa được gạn hỏi, nhưng sự tố tụng ấy là sự vụ khác được
vịn lấy cớ
nhỏ, và Tỳ-kheo này có nhìn nhận lỗi lầm vẫn phạm Tăng Tàng.
10. Tỳ-kheo nào cố gắng phá vỡ hòa hợp Tăng,
hoặc sống chấp giữ tranh sự dẫn đến chia rẽ; Tỳ-kheo ấy cần được
chư
Tỳ-kheo nhắc bảo như sau: "Tôn giả chớ cố gắng phá vỡ hòa hợp
tăng, hay
đừng sống chấp giữ tranh sự dẫn đến chia rẽ, Tôn giả hãy đoàn
kết với
tăng, vì Tăng hòa hòa hợp hoan hỷ nhau, không tranh cãi, đồng
quan điểm,
sẽ trú an lạc". Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy
mà vẫn
cố chấp như thế Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo can gián ba lần
cho bỏ
sự ấy. Nếu khi được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt, nếu
không bỏ,
phạm Tăng Tàng.
11. Những vị Tỳ-kheo tùng bọn phe đảng của
Tỳ-kheo chia rẽ ấy, có một, hoặc hai, hoặc ba vị; họ nói như
sau: "Chư
Tôn giả chớ nói gì vị Tỳ-kheo ấy, tỳ-kheo đó là bậc thuyết pháp,
thuyết
luật, Tỳ-kheo đó lấy điều tâm tư nguyện vọng của chúng tôi mà tỏ
bày cảm
thông và nói ra theo chúng tôi, vả lại chúng tôi cũng chấp
nhận". Các
Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo nhắc bảo rằng: "Các Tôn giả đừng
nói như
vậy, Tỳ-kheo đó không phải là vị thuyết pháp, thuyết luật, các
Tôn giả
chớ vui thích chia rẽ tăng, các Tôn giả hãy đoàn kết với Tăng,
vì Tăng
hòa hợp, hoan hỷ nhau, không tranh cãi, đồng quan điểm, sẽ trú
an lạc."
Các vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy mà vẫn
cố chấp
thì các Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo can gián ba lần cho bỏ
sự ấy.
Nếu khi được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt, nếu không bỏ,
phạm
Tăng Tàng.
12. Vị Tỳ-kheo có tánh khó dạy khi được chư
Tỳ-kheo nhắc bảo đúng pháp theo những điều học liên quan giới
bổn, tỏ ra
mình không cần khuyên dạy rằng: "Các Tôn giả đừng nói chi đến
tôi điều
tốt hay xấu, tôi cũng không nói gì đến các Tôn giả điều tốt hay
điều
xấu; các Tôn giả hãy thôi khuyên dạy tôi". Vị Tỳ-kheo ấy cần
được chư
Tỳ-kheo nói như sau:
"Xin Tôn giả chớ tỏ ra mình khó dạy, hãy làm
người dễ dạy; Tôn giả hãy nhắc bảo chư Tỳ-kheo theo đúng pháp,
chư
Tỳ-kheo cũng sẽ nhắc bảo Tôn giả theo đúng pháp, như vậy hội
chúng của
Ðức Thế Tôn được tăng thịnh tức là nhờ sự nhắc bảo lẫn nhau,
thức tỉnh
lẫn nhau". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc nhở như vậy
mà vẫn cố
chấp thế ấy thì vị Tỳ-kheo đó cần được chư Tỳ-kheo can gián ba
lần cho
bỏ sự ấy. Nếu được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt, nếu
không bỏ,
phạm Tăng Tàng.
13. Vị Tỳ-kheo sống nương làng mạc hay thị trấn
nào đó, làm nhơ nhà người, có hành vi xấu; những hành vi xấu của
vị ấy
đều được thấy được nghe, các tục gia bị vị ấy làm nhơ cũng đều
được thấy
được nghe. Vị Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo khuyên nhắc như
sau: "Tôn
giả là kẻ làm nhơ nhà người, có hành vi xấu, những hành vi xấu
của Tôn
giả đều được thấy được nghe, các tục gia bị Tôn giả làm nhơ cũng
đều
được thấy được nghe; Tôn giả hãy đi khỏi chỗ này; đủ rồi cuộc
sống của
ông tại đây!". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như
vậy lại
nói với chư Tỳ-kheo như sau; "chư Tỳ-kheo là tây vị thương, chư
Tỳ-kheo
tây vị ghét, chư Tỳ-kheo tây vị dốt nát, chư Tỳ-kheo tây vị sợ
hãi; tội
phạm như nhau mà có người đuổi đi, có người không đuổi". Vị
Tỳ-kheo ấy
cần được chư Tỳ-kheo khuyên bảo như vầy: "Tôn giả chớ có nói như
vậy,
chư Tỳ-kheo không tây vị thương, chư Tỳ-kheo không tây vị ghét,
chư
Tỳ-kheo không tây vị dốt nát, chư Tỳ-kheo không tây vị sợ hãi
đâu; Tôn
giả là kẻ làm nhơ nhà người, có hành vi xấu, những hành vi xấu
của Tôn
giả đều được thấy được nghe, các tục gia bị Tôn giả làm nhơ cũng
đều
được thấy được nghe; Tôn giả hãy đi khỏi chỗ này! đủ rồi cuộc
sống của
ông tại đây!". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc nhở như
vậy mà
vẫn cố chấp thế ấy thì vị Tỳ-kheo đó cần được chư Tỳ-kheo can
gián ba
lần cho bỏ sự ấy. Nếu được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt,
nếu
không bỏ, phạm tăng tàng.
Bạch chư Tôn giả, mười ba pháp tăng tàng đã được
thuyết giới; có chín điều phạm ngay lúc đầu, bốn điều phạm sau
ba lần
can gián, vị Tỳ-kheo vi phạm bất cứ điều nào, biết mà che giấu
đến bao
nhiêu ngày thì Tỳ-kheo ấy phải bị biệt trú cưỡng bức bấy nhiêu
ngày;
Tỳ-kheo đã mãn hạ biệt trú cần phải thực hành thêm sáu đêm tự
hối.
Tỳ-kheo đã đủ thời tự hối, vị ấy phải được phục vị tại nơi mà có
Tỳ-kheo
Tăng túc số hai mươi vị. Nếu Tỳ-kheo Tăng thiếu túc số hai mươi,
dù chỉ
thiếu một, lại phục vị cho Tỳ-kheo ấy, thì vị Tỳ-kheo ấy vẫn
không được
phục vị, còn chư Tỳ-kheo kia đáng quở trách. Ðây là cách hợp
thức hóa.
Ở đây tôi xin hỏi chư Tôn giả, các ngài có thanh
tịnh chăng? Lần thứ nhì, tôi xin hỏi, các ngài có thanh tịnh
chăng? Lần
thứ ba, tôi hỏi, các ngài có thanh tịnh chăng? Chư Tôn giả được
thanh
tịnh nên mới im lặng, tôi ghi nhận việc đó là vậy.
DỨT THUYẾT GIỚI TĂNG TÀNG.
--ooOoo--
THUYẾT
GIỚI BẤT ÐỊNH
(Aniyatuddeso)
Ime kho pan'āyasmanto
dve aniyatā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ eko ekāya
raho paṭicchanne āsane alaṅkammaniye nis-sajjaṃ kappeyya tamenaṃ
saddheyyavacasā upāsikā disvā tiṇṇaṃ dhammānaṃ aññatarena
vadeyya
pārā-jikena vā saṅghādisesena vā pācittiyena vā nisajjaṃ bhikkhu
paṭijānamāno tiṇṇaṃ dhammānaṃ añña-tarena kāretabbo pārājikena
vā
saṅghādisesena vā pācittiyena vā yena vā sā saddheyyavacasā
upāsikā
vadeyya tena so bhikkhu kāretabbo. Ayaṃ dhammo aniyato.
2. Na h'eva kho pana paṭicchannaṃ āsanaṃ hoti
n'ālaṅkammaniyaṃ alañca kho hoti mātugāmaṃ duṭṭhullāhi vācāhi
obhāsituṃ.
Yo pana bhikkhu tathārūpe āsane mātugāmena saddhiṃ eko ekāya
raho
nisajjaṃ kappeyya tamenaṃ saddheyyavacasā upāsikā disvā dvinnaṃ
dhammānaṃ aññatarena vadeyya saṅghādisesena vā pācittiyena vā
nisajjaṃ
bhikkhu paṭijānamāno dvinnaṃ dhammānaṃ añña-tarena kāretabbo
saṅghādisesena vā pācittiyena vā yena vā sā saddheyyavacasā
upāsikā
vadeyya tena so bhikkhu kāretabbo. Ayampi dhammo aniyato.
Uddiṭṭhā kho
āyasmanto dve
aniyatā dhammā.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ
dhārayāmi.
Aniyatuddeso
niṭṭhito.
*
Thưa Tôn giả, Ðây là
hai pháp bất định được thuyết giới:
1. Vị Tỳ-kheo nào cùng với người nữ, một với
một, ngồi ở nơi che đậy kín đáo, chỗ có thể hành động quấy có
người cận
sự nữ tín ngôn thấy được bèn tố cáo một tội nào trong ba tội là
triệt
khai hoặc Tăng tàng hoặc ưng đối trị; và nếu vị Tỳ-kheo thú nhận
có ngồi
thật thì cần xử trị theo một tội nào trong ba tội là triệt khai
hoặc
tăng tàng hoặc ưng đối trị. Bằng như người cận sự nữ tín ngôn ấy
tố cáo
ngay tội nào thì vị Tỳ-kheo ấy phải được xử theo tội đó. Ðây là
pháp bất
định.
2. Mặc dù chỗ ngồi không che kín đáo, chỗ không
thể hành động quấy, nhưng là nơi đủ để chọc ghẹo người nữ bằng
lời dâm
tục. Vị Tỳ-kheo nào cùng với người nữ, một với một ngồi ở nơi
khuất vắng
như thế; có người cận sự nữ tín ngôn thấy được bèn tố cáo một
tội nào
trong hai tội là tăng tàng hoặc ưng đối trị, và nếu vị Tỳ-kheo
thú nhận
có ngồi thật thì cần xử trị theo một tội nào trong hai tội là
tăng
tàng hoặc ưng đối trị. Bằng như người cận sự nữ tín ngôn ấy tố
cáo ngay
tội nào thì vị Tỳ-kheo ấy phải được xử theo tội đó. Ðây cũng là
pháp bất
định.
Bạch chư Tôn giả, hai pháp bất định đã được tổng
thuyết. Ở đây tôi xin hỏi các Tôn giả, các Ngài có thanh tịnh
chăng?
Lần thứ nhì, tôi xin hỏi, các ngài có thanh tịnh
chăng?
Lần thứ ba, tôi xin hỏi, các ngài có thanh tịnh
chăng?
Ở đây các Tôn giả được thanh tịnh bởi thế mới im
lặng, tôi ghi nhận sự việc đó là vậy.
DỨT THUYẾT
GIỚI BẤT ÐỊNH.
-ooOoo-
THUYỀT GIỚI ƯNG XẢ
ÐỐI TRỊ
(Nissaggiyapācittiye vitthāruddeso)
Ime kho pan'āyasmanto
tiṃsa nissaggiyā pā-cittiyā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatas-miṃ
kaṭhine dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāre-tabbaṃ taṃ
atikkāmayato
nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
2. Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatas-miṃ
kaṭhine ekarattampi ce bhikkhu ticīvarena vip-pavaseyya aññatra
bhikkhu
sammatiyā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
3. Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatas-miṃ
kaṭhine bhikkhuno pan'eva akālacīvaraṃ uppaj-jeyya ākaṅkhamānena
bhikkhunā paṭiggahetabbaṃ paṭiggahetvā khippameva kāretabbaṃ no
c'assa
pā-ripūri māsaparamantena bhikkhunā taṃ cīvaraṃ nikkhipitabbaṃ
ūnassa
pāripūriyā satiyā paccāsāya. Tato ce utariṃ nikkhipeyya satiyāpi
paccāsāya nis-saggiyaṃ pācittiyaṃ.
4. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā
purāṇacīvaraṃ dhovāpeyya vā rajāpeyya vā ākoṭā-peyya vā
nissaggiyaṃ
pācittiyaṃ.
5. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā
hatthato cīvaraṃ paṭigganheyya aññatra pārivaṭṭa-kā nissaggiyaṃ
pācittiyaṃ.
6. Yo pana bhikkhu aññātakaṃ gahapaṭiṃ vā
gahapatāniṃ vā cīvaraṃ viññāpeyya aññatra samayā nissaggiyaṃ
pācittiyaṃ.
Tath' āyaṃ samayo acchin-nacīvaro vā hoti bhikkhu naṭṭhacīvaro
vā. Ayaṃ
tattha samayo.
7. Tañce aññātako gahapati vā gahapatānī vā
bahūhi cīvarehi abhihaṭṭhuṃ pavāreyya santarut-taraparamantena
bhikkhunā
tato cīvaraṃ sāditab-baṃ tato ce uttariṃ sādiyeyya nissaggiyaṃ
pācit-tiyaṃ.
8. Bhikkhuṃ pan'eva uddissa aññātakassa
gahapatissa vā gahapatāniyā vā cīvaracetāpanaṃ upakkhataṃ hoti:
Iminā
cīvaracetāpanena cīvaraṃ cetāpetvā Itthannāmaṃ bhikkhuṃ cīvarena
acchā-dessāmī'ti. Tatra ce so bhikkhu pubbe appavārito
upasaṅkamitvā
cīvare vikappaṃ āpajjeyya sādhu va-ta maṃ āyasmā iminā
cīvaracetāpanena
evarūpaṃ vā evarūpaṃ vā cīvaraṃ cetāpetvā acchādehī'ti
kal-yānakamyataṃ
upādāya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
9. Bhikkhuṃ pan'eva uddissa ubhinnaṃ
añ-ñatakānaṃ gahapatīnaṃ vā gahapatānīnaṃ vā
pac-cekacīvaracetāpanā
upakkhatā honti imehi mayaṃ paccekacīvaracetāpanehi
paccekacīvarāni
cetāpetvā Itthannāmaṃ bhikkhuṃ cīvarehi acchādessāmā'ti. Tatra
ce so
bhikkhu pubbe appavārito upasaṅkami-tvā cīvare vikappaṃ
āpajjeyya sādhu
vata maṃ ayasmanto imehi paccekacīvaracetāpanehi evarūpaṃ vā
evarūpaṃ vā
cīvaraṃ cetāpetvā acchādetha ubho va santā ekenāti
kalyānakamyataṃ
upādāya nissag-giyaṃ pācittiyaṃ.
10. Bhikkhuṃ pan'eva uddissa rājā vā rāja-bhoggo
vā brāhmaṇo vā gahapatiko vā dūtena cīva-racetāpanaṃ pahineyya
iminā
cīvaracetāpanena cīvaraṃ cetāpetvā Itthannāmaṃ bhikkhuṃ cīvarena
acchādehī' ti. So ce dūto taṃ bhikkhuṃ upasaṅka-mitvā evaṃ
vadeyya idaṃ
kho bhante āyasmantaṃ uddissa cīvaracetāpanaṃ ābhataṃ
paṭigganhātu
āyasmā cīvaracetāpanan'ti. Tena bhikkhunā so dū-to evam-assa
vacanīyo na
kho mayaṃ āvuso cīva-racetāpanaṃ paṭigganhāma cīvarañca kho
mayaṃ
paṭiggaṇhāma kālena kappiyan' ti. So ce dūto taṃ bhikkhuṃ evaṃ
vadeyya
atthi pan'āyasmato koci veyyāvaccakaro'ti. Cīvaratthikena
bhikkhave
bhik-khunā veyyāvaccakaro niddisitabbo ārāmiko vā upā-sako vā
eso kho
āvuso bhikkhūnaṃ veyyāvaccaka-ro'ti. So ce dūto taṃ
veyyāvaccakaraṃ
saññāpetvā taṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadeyya yaṃ kho
bhante āyasmā
veyyāvaccakaraṃ niddisi sañ-ñatto so mayā upasaṅkamatu āyasmā
kālena
cīvare-na taṃ acchādessatī'ti cīvaratthikena bhikkhave bhikkhunā
veyyāvaccakaro upasaṅkamitvā dvittik-khattuṃ codetabbo sāretabbo
attho
me āvuso cīva-renā'ti. Dvittikkhattuṃ codayamāno sārayamāno taṃ
cīvaraṃ
abhinipphādeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce abhinipphādeyya
catukkhattuṃ
pañcakkhattuṃ chak-khattuparamaṃ tuṇhībhūtena uddissa ṭhātabbaṃ.
Catukkhattuṃ pañcakkhattuṃ chakkhattuparamaṃ tuṇhīhūto uddissa
tiṭṭhamāno taṃ cīvaraṃ abhinip-phādeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce
abhinipphādeyya tato ce uttariṃ vāyamamāno taṃ cīvaraṃ
abhinip-phādeyya
nissaggiyaṃ pācittiyaṃ. No ce abhinip-phādeyya yat'assa
cīvaracetāpanaṃ
ābhataṃ tattha sāmaṃ vā gantabbaṃ dūto vā pāhetabbo yaṃ kho
tumhe
āyasmanto bhikkhuṃ udissa cīvaracetāpanaṃ pahinittha na taṃ
tassa
bhikkhuno kiñci atthaṃ anubhoti yuñjant' āyasmanto sakaṃ mā vo
sakaṃ
vinassā' ti. Ayaṃ tattha samīci.
Cīvaravaggo
paṭhamo
11. Yo pana bhikkhu kosiyamissakaṃ santha-taṃ
karāpeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
12. Yo pana bhikkhu suddhakāḷakānaṃ
eḷa-kalomānaṃ santhataṃ kārāpeyya nissaggiyaṃ pācit-tiyaṃ.
13. Navaṃ pana bhikkhunā santhataṃ kāra-yamānena
dve bhāgā suddhakāḷakānaṃ eḷakalomā-naṃ ādātabbā tatiyaṃ
odātānaṃ
catutthaṃ gocari-yānaṃ. Anādā ce bhikkhu dve bhāge
suddhakāḷa-kānaṃ
eḷakalomānaṃ tatiyaṃ odātānaṃ catutthaṃ gocariyānaṃ navaṃ
santhataṃ
kārāpeyya nissaggi-yaṃ pācittiyaṃ.
14. Navaṃ pana bhikkhunā santhataṃ kārā-petvā
chabbassāni dhāretabbaṃ. Orena ce channaṃ vassānaṃ taṃ santhataṃ
vissajjetvā vā avissajjetvā vā aññaṃ navaṃ santhataṃ kārāpeyya
aññatra
bhikkhusammatiyā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
15. Nisīdanasanthataṃ pana bhikkhunā
kāra-yamānena purāṇasanthatassa sāmantā sugatavidat-thi ādātabbā
dubbaṇṇakaraṇāya. Anādā ce bhikkhu purāṇasanthatassa sāmantā
sugatavidatthiṃ navaṃ nisīdanasanthataṃ kārāpeyya nissaggiyaṃ
pācit-tiyaṃ.
16. bhikkhuno paneva addhānamaggappaṭi-pannassa
eḷakalomāni uppajjeyyuṃ ākaṅkhamānena bhikkhunā paṭiggahetabbāni
paṭiggahetvā tiyojana-paramaṃ sahatthā hāretabbāni asante
hārake. Tato
ce uttariṃ hareyya asantepi hārake nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
17. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhu-niyā
eḷakalomāni dhovāpeyya vā rajāpeyya vā vija-tāpeyya vā
nissaggiyaṃ
pācittiyaṃ.
18. Yo pana bhikkhu jātarūparajataṃ uggaṇ-heyya
vā uggaṇhāpeyya vā upanikkhittaṃ vā sādi-yeyya nissaggiyaṃ
pācittiyaṃ.
19. Yo pana bhikkhu nānappakārakaṃ
rūpi-yasaṃvoharaṃ samāpajjeyya nissaggiyaṃ pācitti-yaṃ.
20. Yo pana bhikkhu nānappakārakaṃ kaya-vikkayaṃ
samāpajjeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Kosiyavaggo
dutiyo.
21. Dasāhaparamaṃ atirekapatto dhāretabbo taṃ
atikkāmayato nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
22. Yo pana bhikkhu ūnapañcabandhanena pattena
aññaṃ navaṃ pattaṃ cetāpeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ. Tena
bhikkhunā so
patto bhikkhupari-sāya nissajjitabbo yo ca tassā bhikkhuparisāya
pattapariyanto so ca tassa bhikkhuno padātabbo ayante bhikkhu
patto yāva
bhedanāya dhāretabbo' ti. Ayaṃ tattha sāmīci.
23. Yāni kho pana tāni gilānānaṃ bhik-khūnaṃ
patisāyanīyāni bhesajjāni seyyathīdaṃ sappi navanītaṃ telaṃ
madhu
phāṇitaṃ tāni paṭiggahetvā sattāhaparamaṃ sannidhikārakaṃ
paribhuñjitabbāni taṃ atikkāmayato nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
24. Māso seso gimhānanti bhikkhunā
vassi-kasātikacīvaraṃ pariyesitabbaṃ aḍḍdhamāso seso gimhānanti
katvā
nivāsetabbaṃ. Orena ce māso seso gimhānanti vassikasātikacīvaraṃ
pariyeseyya oren' aḍḍdhamāso seso gimhānanti katvā nivāseyya
nis-saggiyaṃ pācittiyaṃ.
25. Yo pana bhikkhu bhikkhussa sāmaṃ cīva-raṃ
datvā kupito anattamāno acchindeyya vā acchin-dāpeyya vā
nissaggiyaṃ
pācittiyaṃ.
26. Yo pana bhikkhu sāmaṃ suttaṃ viññā-petvā
tantavāyehi cīvaraṃ vāyāpeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
27. Bhikkhum pan'eva uddissa aññātako ga-hapati
vā gahapatānī vā tantavāyehi cīvaraṃ vāyā-peyya. Tatra ce so
bhikkhu
pubbe appavārito tanta-vāye upasaṅkamitvā cīvare vikappaṃ
āpajjeyya idaṃ
kho āvuso cīvaraṃ maṃ uddissa vīyati āyatañ ca ka-rotha
vitthatañca
appitañca suvītañca suppavāyi-tañca suvilekhitañca
suvitacchitañca
karotha appeva nāma mayampi āyasmantānaṃ kiñci mattaṃ
anup-padajjeyyāmā'ti. Evañca so bhikkhu vatvā kiñci mat-taṃ
anuppadajjeyya antamaso piṇḍapātamattampi nissaggiyaṃ
pācittiyaṃ.
28. Dasāhānāgataṃ kattikatemāsipuṇṇamaṃ
bhikkhuno paneva accekacīvaraṃ uppajjeyya acce-kaṃ maññamānena
bhikkhunā
paṭiggahetabbaṃ pa-ṭiggahetvā yāvacīvarakālasamayaṃ
nikkhipitabbaṃ. Tato
ce uttariṃ nikkhipeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
29. Upavassaṃ kho pana kattikapuṇṇamaṃ yāni kho
pana tāni āraññakāni senāsanāni sāsaṅ-kasammatāni sappaṭibhayāni
tathārūpesu bhikkhu senāsanesu viharanto ākaṅkhamāno tiṇṇaṃ
cīvarā-naṃ
aññataraṃ cīvaraṃ antaraghare nikkhipeyya siyā ca tassa
bhikkhuno
koci-d-eva paccayo tena cīvarena vippavāsāya chārattaparamantena
bhikkhu-nā tena cīvarena vippavasitabbaṃ tato ce uttariṃ
vippavaseyya
aññatra bhikkhusammatiyā nissaggi-yaṃ pācittiyaṃ.
30. Yo pana bhikkhu jānaṃ saṅghikaṃ lā-bhaṃ
pariṇataṃ attano pariṇāmeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Pattavaggo tatiyo.
Uddiṭṭhā kho
āyasmanto tiṃsa nissaggiyā pācittiyā dhammā.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ
dhārayāmi.
Nissaggiyā pācittiyā
niṭṭhitā.
*
Bạch chư Tôn giả, đây
là ba mươi pháp ưng xả đối trị được thuyết giới.
PHẨM 1: PHẨM Y
1. Khi y đã làm xong, hạn Kaṭhina đã xả Tỳ-kheo
chỉ được cất giữ y dư lâu lắm là mười ngày, quá hạn ấy phạm ưng
xả đối
trị.
2. khi y đã làm xong, hạn Kaṭhina đã xả nếu
Tỳ-kheo xa lìa tam y, dù chỉ một đêm, phạm ưng xả đối trị, ngoại
trừ
Tỳ-kheo được cho phép.
3. Khi y đã làm xong, hạn Kaṭhina đã xả có vải y
ngoại thời phát sanh cho vị Tỳ khưu, Tỳ-kheo cần thì được nhận,
nhận
xong phải nhanh chóng may mặc, nếu không đủ vải thì y ấy Tỳ-kheo
chỉ nên
giữ lại lâu lắm là một tháng để đợi bù vào chỗ thiếu; nếu giữ
lại quá
hạn ấy dù có mong tìm, cũng phạm ưng xả đối trị.
4. Tỳ-kheo nào khiến Tỳ-kheo ni không phải thân
quyến, giặt hoặc nhuộm hoặc vắt xả y cũ, phạm ưng xả đối trị.
5. Tỳ-kheo nào thọ nhận y từ tay tỳ-kheo ni
không phải thân quyến, phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ trao đổi.
6. Tỳ-kheo nào xin y nơi nam gia chủ, hoặc nữ
gia chủ không phải thân quyến, phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ có
trường
hợp. Ở đây có trường hợp là Tỳ-kheo y bị cướp đoạt hoặc y bị hư
hoại,
đây là trường hợp trong điều này vậy.
7. Nếu có nam gia chủ hay nữ gia chủ không phải
thân quyến xin được dâng tặng nhiều y đến Tỳ-kheo ấy, Tỳ-kheo
chỉ nên
vui nhận nhiều lắm là bộ nội ngoại y thôi, nếu thích hơn số ấy,
phạm ưng
xả đối trị.
8. Có nam gia chủ hay nữ gia chủ không phải thân
quyến để dành tiền sắm y cho vị Tỳ khưu, nghĩ rằng: "Ta sẽ mua
sắm y với
tiền sắm y này rồi dâng y cho vị Tỳ-kheo tên ấy mặc" Trong
việc
này nếu vị Tỳ-kheo ấy chưa được yêu cầu trước mà đi đến kèo nài
việc y
như sau: "tốt lắm, Ðạo hữu hãy sắm y như vầy, dâng cho tôi mặc".
Vì muốn
đẹp, phạm ưng xả đối trị.
9. Có hai nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải
thân quyến để dành tiền sắm y cổ phần dâng cho vị Tỳ khưu, nghĩ
rằng:
"Chúng ta sẽ lấy cổ phần tiền sắm y này mà mua y cổ phần rồi
dâng
vị Tỳ-kheo tên ấy mặc". Trong việc này, nếu vị Tỳ-kheo ấy chưa
được yêu
cầu trước mà đi đến kéo nài việc y như sau: "Tốt lắm, các đạo
hữu hãy
lấy các cổ phần tiền sắm y nầy mà mua y như vầy, như vầy, dâng
cho tôi
mặc, hai người chung một" Vì muốn đẹp, phạm ưng xả đối trị
10. Ðức vua, quan lại, bà-la-môn hoặc gia chủ
gởi theo sứ giả số tiền sắm y, nói rằng: "Ngươi hãy lấy số tiền
sắm y
này mua y rồi dâng cho vị Tỳ-kheo tên ấy mặc". Nếu vị sứ giả ấy
đi đến
vị Tỳ-kheo nọ và nói như sau: "Bạch Tôn giả, số tiền sắm y này
được để
dành cho Ngài, xin Ngài hãy nhận lãnh số tiền sắm y" vị Tỳ-kheo
nọ nên
bảo sứ giả rằng: "Này đạo đạo hữu, chúng tôi không thọ nhận tiền
sắm y,
chúng tôi chỉ nhận lãnh y hợp thời thôi"Nếu vị sứ giả ấy nói với
vị
Tỳ-kheo nọ rằng: "Có ai là người phục dịch cho Tôn giả chăng?"
Nầy chư Tỳ khưu, vị Tỳ-kheo có nhu cầu y thì nên
chỉ ra người phục dịch hoặc người hộ tự hoặc một cận sự nam: này
đạo
hữu, đó là người phục dịch của chư Tỳ khưu". Nếu vị sứ giả ấy
giao việc
cho người phục dịch kia rồi, bèn đến vị Tỳ-kheo nọ mà nói như
sau: "Bạch
Tôn giả, người phục dịch mà Ngài đã chỉ ra, người ấy được tôi
giao việc
rồi, Tôn giả hãy đến họ và họ sẽ dâng y hợp thời cho Ngài mặc".
Nầy chư Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo có nhu cầu y nên đến
người phục dịch mà thông báo gợi ý đôi ba lần rằng: "Ðạo hữu,
tôi cần
y". Khi thông báo gợi ý đôi ba lần, có được y ấy, như thế là
tốt; bằng
không thành thì phải đứng im lặng trước mặt họ bốn năm lần;
nhiều lắm là
sáu lần; khi đứng im lặng trước họ bốn, năm, sáu lần mà
có được y
ấy như thế là tốt, nếu không thành mà cố gắng vượt quá hạn ấy,
thành tựu
y, phạm ưng xả đối trị. Nếu vẫn không thành thì từ đâu đưa tiền
sắm y,
phải tự mình đến đấy hoặc phái người đi, nói rằng: "các đạo hữu,
tiền
sắm y mà các ông đã gởi để dâng vị Tỳ-kheo, tiền đó không thành
tựu lợi
ích gì cho vị Tỳ-kheo ấy; các ông hãy đòi lại vật sở hữu, đừng
bỏ phí
vật sở hữu của các ông". Ðây là cách làm đúng trong trường hợp
này.
PHẨM 2: PHẨM TƠ TẰM
11. Vị Tỳ-kheo nào khiến làm ngọa cụ trộn lẫn tơ
tằm, phạm ưng xả đối trị.
12.Vị Tỳ-kheo nào khiến làm ngọa cụ toàn bằng
lông cừu màu đen, phạm ưng xả đối trị.
13. Khi vị Tỳ-kheo khiến làm ngọa cụ mới phải
lấy lông cừu hai phần màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ
tư màu
đỏ. Nếu vị Tỳ-kheo khiến làm ngọa cụ mới mà không lấy lông cừu
hai phần
đen, phần thứ ba trắng, phần thứ tư đỏ, phạm ưng xả đối trị.
14. Khi đã cho làm ngọa cụ mới, vị Tỳ-kheo phải
giữ xài đến sáu năm. Nếu dưới sáu năm mà bỏ ngọa cụ ấy, hoặc
không bỏ,
rồi khiến làm ngọa cụ mới khác, phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ
vị
Tỳ-kheo được cho phép.
15. Khi vị Tỳ-kheo khiến làm tọa cụ phải lấy một
mảnh vuông của tấm tọa cụ cũ, cỡ gang tay Ðức Phật, để làm hoại
sắc. Nếu
vị Tỳ kheo khiến làm tọa cụ mới mà không lấy một mảnh vuông của
tấm tọa
cụ cũ, cỡ gang tay Ðức Phật, để hoại sắc, phạm ưng xả đối trị.
16. Khi vị Tỳ-kheo đi đường xa có phát sanh lông
cừu, nếu cần thì nhận; khi nhận rồi, không có người mang giúp,
thì chỉ
nên tự mình mang đi xa lắm là ba do tuần
[10]
nếu không có người mang giúp mà tự mang đi quá giới hạn ấy, phạm
ưng xả
đối trị.
17. Vị Tỳ-kheo nào sai Tỳ-kheo ni không phải
thân nhân, giặt hoặc nhuộm hoặc chải lông cừu, phạm ưng xả đối
trị.
18. Vị Tỳ-kheo nào nhận lấy vàng và bạc, hoặc
sai nhận lấy, hoặc vui thích của để dành cho, phạm ưng xả đối
trị.
19. Vị Tỳ-kheo nào dự việc mậu dịch tài sản bằng
mọi hình thức phạm ưng xả đối trị.
20. Vị Tỳ-kheo nào dự việc thương mãi bằng mọi
hình thức, phạm ưng xả đối trị.
PHẨM 3: PHẨM BÌNH BÁT
21. Bình bát dư chỉ nên giữ lâu lắm là mười
ngày, vượt quá hạn ấy, phạm ưng xả đối trị.
22. Vị Tỳ-kheo nào có bình bát nứt bể chưa tới
năm dấu mà sắm tìm bình bát mới khác, phạm ưng xả đối trị. Bình
bát ấy
cần được vị Tỳ-kheo đó xả bỏ giữa hội chúng Tỳ-kheo; bình bát
nào là bát
cuối cùng của hội chúng tỳ-kheo ấy, bát đó nên giao cho vị
Tỳ-kheo đó,
bảo rằng; Này Tỳ-kheo, đây là bình bát của Ngài, cần phải giữ
cho đến
khi bể thôi". Ðây là cách hợp thức trong việc này.
23. Các thứ thuốc cần dùng mà để cho các vị
Tỳ-kheo bệnh, như là bơ đặc, bơ tươi, dầu mè, mật ong, nước
đường; sau
khi thọ nhận chỉ nên cất giữ thọ dùng lâu lắm là bảy ngày, quá
hạn ấy,
phạm ưng xả đối trị.
24. Còn một tháng cuối mùa nóng, Tỳ-kheo nên tìm
kiếm y tắm mưa; nửa tháng cuối mùa nóng, mới nên may mặc. Nếu
chưa đến
tháng cuối mùa nóng mà tìm kiếm y tắm mưa, chưa đến nửa tháng
cuối mùa
nóng mà may mặc, phạm ưng xả đối trị.
25. Tỳ-kheo nào chính mình đã cho y đến vị
Tỳ-kheo rồi giận hờn bất bình mà cướp lại, hoặc sai cướp lại,
phạm ưng
xả đối trị.
26. Tỳ-kheo nào chính mình xin chỉ vải rồi biểu
thợ dệt, dệt thành y, phạm ưng xả đối trị.
27. Có nam gia chủ hay nữ gia chủ không phải
quyến thuộc, biểu thợ dệt y để dâng vị Tỳ khưu. Trường hợp này
nếu vị
Tỳ-kheo ấy khi không được yêu cầu trước mà đi đến các thợ dệt,
kèo nài
việc y, rằng: "Ðạo hữu, y này được dệt cho tôi, vậy ông
hãy làm
khổ dài, khổ rộng, làm cho khít khao, đều đặn, dẻ dặt, mịn màng,
mướt
láng; chúng tôi sẽ ban thưởng cho các đạo hữu thêm chút ít cái
chi nhé!"
vị Tỳ-kheo ấy nói như vậy rồi ban thưởng cho chút gì đó, thậm
chí chỉ là
vật thực, cũng phạm ưng xả đối trị.
28. Còn mười ngày nữa sẽ đến ngày rằm tháng
Kattikatemāsikā
[11]
(tháng 9 âl), có biệt thí y
[12]
phát sanh đến vị Tỳ khưu; vị Tỳ-kheo nghĩ là y biệt thí thì được
nhận,
khi nhận rồi chỉ nên cất giữ trong hạn kỳ y
[13],
nếu quá hạn ấy, phạm ưng xả đối trị.
29. Ðến ngày rằm tháng 9 âl (kattikapuṇ-ṇamī)
mãn an cư, như ở rừng, chỗ bị khả nghi, có nguy hiểm vị Tỳ-kheo
trú ngụ
những trú xứ như vậy, nếu muốn gởi lại trong xóm một y nào trong
tam y,
vì có duyên cớ chi cho vị Tỳ-kheo ấy xa lìa y đó; thì vị Tỳ-kheo
chỉ nên
xa lìa y đó lâu lắm là sáu đêm, quá hạn ấy, phạm ưng xả
đối trị,
ngoại trừ vị Tỳ-kheo được cho phép.
30. vị Tỳ-kheo nào biết rõ lợi lộc đã hiến thuộc
về Tăng lại sang đoạt về mình, phạm ưng xả đối trị.
Bạch chư Tôn giả, ba
mươi pháp ưng xả đối trị đã được tổng thuyết. Ở đây, tôi xin hỏi
các Tôn
giả, các ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi
các Tôn
giả, các ngài được thanh tịnh chăng? Lần thứ ba, tôi xin hỏi các
Tôn
giả, các ngài được thanh tịnh chăng?
Chư Tôn giả trong đây
thanh tịnh, do đó im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc này như vậy.
DỨT
PHÁP
ƯNG XẢ ÐỐI TRỊ.
-ooOoo-
THUYẾT GIỚI ƯNG ÐỐI
TRỊ
(Pācittiye
vitthāruddeso)
Ime kho pan'
āyasmanto dvenavuti pācittiyā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Sampajānamusāvāde pācittiyaṃ.
2. Omasavāde pācittiyaṃ.
3. bhikkhupesuññe pācittiyaṃ.
4. Yo pana bhikkhu anupasampannaṃ padaso dhammaṃ
vāceyya pācittiyaṃ.
5. Yo pana bhikkhu anupasampannena
utta-ridvirattatirattaṃ saha seyyaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
6. Yo pana bhikkhu mātugāmena saha sey-yaṃ
kappeyya pācittiyaṃ.
7. Yo pana bhikkhu mātugāmassa
uttarichap-pañcavācāhi dhammaṃ deseyya aññatra viññunā
purisaviggahena
pācittiyaṃ.
8. Yo pana bhikkhu anupasampannassa
utta-rimanussadhammaṃ āroceyya bhūtasmiṃ pācitti-yaṃ.
9. Yo pana bhikkhu bhikkhussa duṭṭhullaṃ āpattiṃ
anupasampannassa āroceyya aññatra bhik-khusammatiyā pācittiyaṃ.
10. Yo pana bhikkhu paṭhaviṃ khaṇeyya vā
khaṇāpeyya vā pācittiyaṃ.
Musāvādavaggo
paṭhamo.
11. Bhūtagāmapātabyatāya pācittiyaṃ.
12. Aññavādake vihesake pācittiyaṃ.
13. Ujjhāpanake khīyanake pācittiyaṃ.
14. Yo pana bhikkhu saṅghikaṃ mañcaṃ vā pīṭhaṃ
vā bhisiṃ vā kocchaṃ vā ajjhokāse santha-ritvā vā santharāpetvā
vā taṃ
pakkamanto n'eva uddhareyya na uddharāpeyya anāpucchaṃ vā
gac-cheyya
pācittiyaṃ.
15. Yo pana bhikkhu saṅghike vihāre seyyaṃ
santharitvā vā santharāpetvā vā taṃ pakkamanto n'eva uddhareyya
na
uddharāpeyya anāpucchaṃ vā gaccheyya pācittiyaṃ.
16. Yo pana bhikkhu saṅghike vihāre jānaṃ
pubbūpagataṃ bhikkhuṃ anupakhajja seyyaṃ kap-peyya yassa
sambādho
bhavissati so pakkamissatī'ti etadeva paccayaṃ karitvā anaññaṃ
pācittiyaṃ.
17. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ kupito anat-tamano
saṅghikā vihārā nikkaḍḍheyya vā nikkaḍ-ḍhāpeyya vā pācittiyaṃ.
18. Yo pana bhikkhu saṅghike vihāre
upari-vehāsakuṭiyā āhaccapādakaṃ mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā
abhinisīdeyya vā
abhinipajjeyya vā pācittiyaṃ.
19. Mahallakaṃ pana bhikkhunā vihāraṃ
kārayamānena yāva dvārakosā aggalaṭṭhapanāya
ālo-kasandhiparikammāya
dvitticchadanassa pariyāyaṃ appaharite ṭhitena adhiṭṭhātabbaṃ.
Tato ce
uttariṃ appaharitepi ṭhito adhiṭṭhaheyya pācittiyaṃ.
20. Yo pana bhikkhu jānaṃ sappāṇakaṃ uda-kaṃ
tiṇaṃ vā mattikaṃ vā siñceyya vā siñcāpeyya vā pācittiyaṃ.
Bhūtagāmavaggo
dutiyo.
21. Yo pana bhikkhu asammato bhikkhuniyo
ovadeyya pācittiyaṃ.
22. Sammatopi ce bhikkhu atthaṅgate suriye
bhikkhuniyo ovadeyya pācittiyaṃ.
23. Yo pana bhikkhu bhikkhunūpassayaṃ
upasaṅkamitvā bhikkhuniyo ovadeyya aññatra sama-yā pācittiyaṃ.
Tatth'
āyaṃ samayo gilānā hoti bhik-khunī ayaṃ tattha samayo.
24. Yo pana bhikkhu evaṃ vadeyya āmisahe-tu
bhikkhū bhikkhuniyo ovadantī'ti pācittiyaṃ.
25. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuni-yā
cīvaraṃ dadeyya aññatra parivaṭṭakā pācittiyaṃ.
26. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā
cīvaraṃ sibbeyya vā sibbāpeyya vā pācittiyaṃ.
27. Yo pana bhikkhu bhikkhuniyā saddhiṃ
saṃvidhāya ekaddhānamaggaṃ paṭipajjeyya antama-so gāmantarampi
aññatra
samayā pācittiyaṃ. Tatth' āyaṃ samayo satthagamaniyo hoti maggo
sāsaṅka-sammato sappaṭibhayo. Ayaṃ tattha samayo.
28. Yo pana bhikkhu bhikkhuniyā saddhiṃ
saṃvidhāya ekanāvaṃ abhirūheyya uddhagāminiṃ vā adhogāminiṃ vā
aññatra
tiriyantaraṇāya pācit-tiyaṃ.
29. Yo pana bhikkhu jānaṃ bhikkhunīpari-pācitaṃ
piṇḍapātaṃ bhuñjeyya aññatra pubbe gihisa-mārambhā pācittiyaṃ.
30. Yo pana bhikkhu
bhikkhuniyā saddhiṃ eko ekāya raho nisajjaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
Ovādavaggo tatiyo.
31. Agilānena bhikkhunā eko āvasathapiṇḍo
bhuñjitabbo tato ce uttariṃ bhuñjeyya pācittiyaṃ.
32. Gaṇabhojane aññatra samayā pācittiyaṃ.
Tatth' āyaṃ samayo gilānasamayo cīvaradānasamayo
cīvarakārasamayo
addhānagamanasamayo nāvābhi-rūhanasamayo mahāsamayo
samaṇabhattasamayo.
Ayaṃ tattha samayo.
33. Paramparabhojane aññatra samayā pācit-tiyaṃ.
Tatth' āyaṃ samayo gilānasamayo cīvara-dānasamayo
cīvarakārasamayo. Ayaṃ
tattha samayo.
34. Bhikkhu pan'eva kulaṃ upagataṃ pūvehi vā
manthehi vā abhihaṭṭhuṃ pavāreyya. Ākaṅkha-mānena bhikkhunā
dvittipattapūrā paṭiggahetabbā. Tato ce uttariṃ paṭiggaṇheyya
pācittiyaṃ. Dvittipat-tapūre paṭiggahetvā tato nīharitvā
bhikkhūhi
sad-dhiṃ saṃvibhajitabbaṃ. Ayaṃ tattha sāmīci.
35. Yo pana bhikkhu bhuttāvī pavārito
ana-tirittaṃ khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā khādeyya vā bhuñjeyya
vā
pācittiyaṃ.
36. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ bhuttāviṃ pavāritaṃ
anatirittena khādanīyena vā bhojanīyena vā abhihaṭṭhuṃ pavāreyya
handa
bhikkhu khāda vā bhuñja vā'ti jānaṃ āsādanāpekkho bhuttasmiṃ
pācit-tiyaṃ.
37. Yo pana bhikkhu vikāle khādanīyaṃ vā
bhojnīyaṃ vā khādeyya vā bhuñjeyya vā pācittiyaṃ.
38. Yo pana bhikkhu sannidhikārakaṃ khā-danīyaṃ
vā bhojanīyaṃ vā khādeyya vā bhuñjeyya vā pācittiyaṃ.
39. Yāni kho pana tāni paṇītabhojanāni
sey-yathīdaṃ sappi navanītaṃ telaṃ madhu phāṇitaṃ maccho maṃsaṃ
khīraṃ
dadhi. Yo pana bhikkhu evarūpāni paṇītabhojanāni agilāno attano
atthāya
viññāpetvā bhuñjeyya pācittiyaṃ.
40. Yo pana bhikkhu adinnaṃ mukhadvāraṃ āhareyya
aññatra udakadantapoṇā pācittiyaṃ.
Bhojanavaggo
catuttho.
41. Yo pana bhikkhu acelakassa vā
paribbā-jakassa vā paribbājikāya vā sahatthā khādanīyaṃ vā
bhojanīyaṃ vā
dadeyya pācittiyaṃ.
42. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ evaṃ vadey-ya eh'
āvuso gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisis-sāmā'ti tassa dāpetvā
vā
adāpetvā vā uyyojeyya gac-ch' āvuso na me tayā saddhiṃ kathā vā
nisajjā
vā phāsu hoti ekakassa me kathā vā nisajjā vā phāsu hotī'ti.
etadeva
paccayaṃ karitvā anaññaṃ pācit-tiyaṃ.
43. Yo pana bhikkhu sabhojane kule anupa-khajja
nisajjaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
44. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ raho
paṭicchanne āsane nisajjaṃ kappeyya pācitti-yaṃ.
45. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ eko ekāya
raho nisajjaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
46. Yo pana bhikkhu nimantito sabhatto sa-māno
santaṃ bhikkhuṃ anāpucchā purebhattaṃ vā pacchābhattaṃ vā kulesu
cārittaṃ āpajjeyya aññatra samayā pācittiyaṃ. Tatth' āyaṃ samayo
cīvaradāna-samayo cīvarakārasamayo, ayaṃ tattha samayo.
47. Agilānena bhikkhunā
cātummāsappacca-yappavāraṇā sāditabbā aññatra punappavāraṇāya
aññatra
niccappavāraṇāya tato ce uttariṃ sādiyeyya pācittiyaṃ.
48. Yo pana bhikkhu uyyuttaṃ senaṃ dassa-nāya
gaccheyya aññatra tathārūpappaccayā pācitti-yaṃ.
49. Siyā ca tassa bhikkhuno koci deva pac-cayo
senaṃ gamanāya dvirattatirattaṃ tena bhik-khunā senāya
vasitabbaṃ. Tato
ce uttariṃ vaseyya pācittiyaṃ.
50. Dvirattatirattañce bhikkhu senāya vasa-māno
uyyodhikaṃ vā balaggaṃ vā senabyūhaṃ vā anīkadassanaṃ vā
gaccheyya
pācittiyaṃ.
Acelakavaggo
pañcamo.
51. Surāmerayapāṇe pācittiyaṃ.
52. Aṅgulippatodake pācittiyaṃ.
53. Udake hassadhamme pācittiyaṃ.
54. Anādariye pācittiyaṃ.
55. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ bhiṃsāpeyya
pācittiyaṃ.
56. Yo pana bhikkhu agilāno visīvanāpekkho jotiṃ
samādaheyya vā samādahāpeyya vā aññatra tathārūpappaccayā
pācittiyaṃ.
57. Yo pana bhikkhu oren'aḍḍhamāsaṃ nahā-yeyya
aññatra samayā pācittiyaṃ. Tatth'āyaṃ sama-yo diyaḍḍho māso seso
gimhānanti vassānassa paṭha-mo māso iccete aḍḍhateyyamāso
uṇhasamayo
pari-ḷāhasamayo gilānasamayo kammasamayo addhā-nagamanasamayo
vātavuṭṭhisamayo. Ayaṃ tattha samayo.
58. Navaṃ pana bhikkhunā cīvaralābhena tiṇṇaṃ
dubbaṇṇakaraṇānaṃ aññataraṃ dubbaṇṇa-karaṇaṃ ādātabbaṃ nīlaṃ vā
kaddamaṃ
vā kāḷasā-maṃ vā. Anādā ce bhikkhu tiṇṇaṃ dubbaṇṇakara-ṇānaṃ
aññataraṃ
dubbaṇṇakaraṇaṃ navaṃ cīvaraṃ paribhuñjeyya pācittiyaṃ.
59. Yo pana bhikkhu bhikkhussa vā bhikkhu-niyā
vā sikkhamānāya vā sāmaṇerassa vā sāmaṇe-riyā vā sāmaṃ cīvaraṃ
vikappetvā appaccuddhāra-kaṃ paribhuñjeyya pācittiyaṃ.
60. Yo pana bhikkhu bhikkhussa pattaṃ vā cīvaraṃ
vā nisīdanaṃ vā sūcigharaṃ vā kāyaban-dhanaṃ vā apanidheyya vā
apanidhāpeyya vā anta-maso hassāpekkhopi pācittiyaṃ.
Surāpāṇavaggo chaṭṭho
61. Yo pana bhikkhu sañcicca pāṇaṃ jīvitā
voropeyya pācittiyaṃ.
62. Yo pana bhikkhu jānaṃ sappāṇakaṃ udakaṃ
paribhuñjeyya pācittiyaṃ.
63. Yo pana bhikkhu jānaṃ yathādhammaṃ
nihatādhikaranaṃ punakkammāya ukkoteyya pācit-tiyaṃ.
64. Yo pana bhikkhu bhikkhussa jānaṃ duṭṭhullaṃ
āpattiṃ paṭicchādeyya pācittiyaṃ.
65. Yo pana bhikkhu jānaṃ ūnavīsativassaṃ
puggalaṃ upasampādeyya so ca puggalo anupasam-panno te ca
bhikkhū
gārayhā idaṃ tasmiṃ pācitti-yaṃ.
66. Yo pana bhikkhu jānaṃ theyyasatthena saddhiṃ
saṃvidhāya ekaddhāmaggaṃ paṭipajjeyya antamaso gāmantarampi
pācittiyaṃ.
67. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ
saṃvidhāya ekaddhānamaggaṃ paṭipajjeyya anta-maso gāmantarampi
pācittiyaṃ.
68. Yo pana bhikkhu evaṃ vadeyya tathā' haṃ
bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā ye' me antarāyikā dhammā
vuttā
bhagavatā te paṭise-vato n' ālaṃ antarāyāyā' ti. So bhikkhu
bhikkhūhi
evam-assa vacanīyo mā āyasmā evaṃ avaca mā bhagavantaṃ
abbhācikkhi na hi
sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ na hi bhagavā evaṃ vadeyya
aneka-pariyāyena
āvuso antarāyikā dhammā vuttā bhaga-vatā alañca pana te
paṭisevato
antarāyāyā'ti. Evañca so bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno Tath' eva
paggaṇ-heyya so bhikkhu bhikkhūhi yāvatatiyaṃ samanu-bhāsitabbo
tassa
paṭinissaggāya yāvatatiyañce sama-nubhāsiyamāno taṃ
paṭinissajjeyya
iccetaṃ kusalaṃ no ce paṭinissajjeyya pācittiyaṃ.
69. Yo pana bhikkhu jānaṃ tathāvādinā bhik-khunā
akaṭānudhammena taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissaṭ-ṭhena saddhiṃ
sambhuñjeyya vā
saṃvaseyya vā saha vā seyyaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
70. Samaṇuddeso pi ce evaṃ vadeyya tathā' haṃ
bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā ye' me antarāyikā dhammā
vuttā
bhagavatā te paṭise-vato n' ālaṃ antarāyāyā' ti. So samaṇuddeso
bhik-khūhi evamassa vacanīyo mā āvuso samanuddesa evaṃ avaca mā
bhagavantaṃ abbhācikkhi na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ na hi
bhagavā
evaṃ vadeyya anekapariyāyena āvuso samaṇuddesa anta-rāyikā
dhammā vuttā
bhagavatā alañca pana te paṭi-sevato antarāyāyā'ti. Evañca so
samaṇuddeso bhik-khūhi vuccamāno Tath'eva paggaṇheyya so
sama-ṇuddeso
bhikkhūhi evam-assa vacanīyo ajjatagge te āvuso samaṇuddesa na
c'eva so
bhagavā satthā apadisitabbo yampi c' aññe samaṇuddesā labhanti
bhikkhūhi
saddhiṃ dvirattatirattaṃ sahaseyyaṃ sā'pi te natthi cara pire
vinassā'
ti. Yo pana bhikkhu jānaṃ tathānāsitaṃ samaṇuddesaṃ upalāpeyya
vā
upaṭṭhāpeyya vā sambhuñjeyya vā saha vā seyyaṃ kappeyya
pācittiyaṃ.
Sappāṇakavaggo
sattano.
71. Yo pana bhikkhu
bhikkhūhi sahadham-mikaṃ vuccamāno evaṃ vadeyya na tā v'ā haṃ
āvu-so
etasmiṃ sikkhāpade sikkhissāmi yāva n' aññaṃ bhikkhuṃ byattaṃ
vinayadharaṃ paripucchāmī' ti pācittiyaṃ. Sikkhamānena bhikkhave
bhikkhunā aññatabbaṃ paripucchitabbaṃ paripañhitabbaṃ. Ayaṃ
tattha
sāmīci.
72. Yo pana bhikkhu pāṭimokkhe uddis-sa-māne
evaṃ vadeyya kimpan' imehi khuddānukhud-dakehi sikkhāpadehi
uddiṭṭhehi
yāvadeva kukkuc-cāya vihesāya vilekhāya saṃvattantī' ti.
Sikkhāpa-davivaṇṇanake pācittiyaṃ.
73. Yo pana bhikkhu anvaḍḍhamāsaṃ pāṭi-mokkhe
uddissamāne evaṃ vadeyya idān'eva kho ahaṃ jānāmi ayampi kira
dhammo
suttāgato sutta-pariyāpanno anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ āgacchatī' ti.
Tañce
bhikkhuṃ aññe bhikkhū jāneyyuṃ nisinna-pubbaṃ iminā bhikkhunā
dvittikkhattuṃ pāṭimok-khe uddissamāne ko pana vādo bhiyyo'ti na
ca
tassa bhikkhuno aññāṇakena mutti atthi yañca tattha āpattiṃ
āpanno tañca
yathādhammo kāretabbo uttariñc' assa moho āropetabbo tassa te
āvuso
alā-bhā tassa te dulladdhaṃ yaṃ tvaṃ paṭimokkhe ud-dissamāne na
sādhukaṃ
aṭṭhikatvā manasikarosī' ti. Idaṃ tasmiṃ mohanake pācittiyaṃ.
74. Yo pana bhikkhu bhikkhussa kupito
anat-tamano pahāraṃ dadeyya pācittiyaṃ.
75. Yo pana bhikkhu bhikkhussa kupito anattamano
talasattikaṃ uggireyya pācittiyaṃ.
76. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ amūlakena
saṅghādisesena anuddhaṃseyya pācittiyaṃ.
77. Yo pana bhikkhu bhikkhussa sañcicca
kukkuccaṃ upadaheyya iti' ssa muhuttampi aphāsu bhavissatī' ti.
Etadeva
paccayaṃ karitvā anaññaṃ pācittiyaṃ.
78.Yo pana bhikkhu bhikkhūnaṃ bhaṇḍa-najātānaṃ
kalahajātānaṃ vivādāpannānaṃ upas-sutiṃ tiṭṭheyya yaṃ ime
bhanissanti
taṃ sossāmī' ti. Etadeva paccayaṃ karitvā anaññaṃ pācittiyaṃ.
79. Yo pana bhikkhu dhammikānaṃ kam-mānaṃ
chandaṃ datvā pacchā khīyanadhammaṃ apajjeyya pācittiyaṃ.
80. Yo pana bhikkhu saṅghe vinicchayaka-thāya
vattamānāya chandaṃ adatvā utthāy' āsanā pakkameyya pācittiyaṃ.
81. Yo pana bhikkhu samaggena saṅghena cīvaraṃ
datvā pacchā khīyanadhammaṃ āpajjeyya yathā santhutaṃ bhikkhū
saṅghikaṃ
lābhaṃ pari-ṇāmentī' ti pācittiyaṃ.
82. Yo pana bhikkhu jānaṃ saṅghikaṃ lā-bhaṃ
pariṇataṃ puggalassa pariṇāmeyya pācittiyaṃ.
Sahadhammikavaggo aṭṭhamo
83. Yo pana bhikkhu rañño khattiyassa
mud-dhābhisittassa anikkhantarājake aniggataratanake pubbe
appaṭisaṃvidito indakhīlaṃ atikkāmeyya pā-cittiyaṃ.
84. Yo pana bhikkhu ratanaṃ vā ratana-sammataṃ
vā aññatra ajjhārāmā vā ajjhāvasathā vā uggaṇheyya vā
uggaṇhāpeyya vā
pācittiyaṃ. Rata-naṃ vā pana bhikkhunā ratanasammataṃ vā
ajjhā-rāme vā
ajjhāvasathe vā uggahetvā vā uggahāpetvā vā nikkhipitabbaṃ yassa
bhavissati so harissatī' ti. Ayaṃ tattha sāmīci.
85. Yo pana bhikkhu santaṃ bhikkhuṃ anā-pucchā
vikāle gāmaṃ paviseyya aññatra tathārūpā accāyikā karaṇīyā
pācittiyaṃ.
86. Yo pana bhikkhu aṭṭhimayaṃ vā danta-mayaṃ vā
visānamayaṃ vā sūcigharaṃ kārāpeyya bhedanakaṃ pācittiyaṃ.
87. Navaṃ pana bhikkhunā mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā
kārayamānena aṭṭhaṅgulapādakaṃ kāre-tabbaṃ sugataṅgulena aññatra
heṭṭhimāya aṭaniyā taṃ atikkāmayato chedanakaṃ pācittiyaṃ.
88. Yo pana bhikkhu mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā
tūlonaddhaṃ kārāpeyya uddālanakaṃ pācittiyaṃ.
89. Nisīdanaṃ pana bhikkhunā kārayamāne-na
pamāṇikaṃ kāretabbaṃ tatridaṃ pamāṇaṃ dī-ghaso dve vidatthiyo
sugatavidatthiyā tiriyaṃ diyad-dhaṃ dasā vidatthī taṃ
atikkāmayato
chedakaṃ pā-cittiyaṃ.
90. Kaṇḍuppaṭicchādiṃ pana bhikkhunā
kārayamānena pamāṇikā kāretabbā tatridaṃ pamā-naṃ dīghaso
catasso
vidatthiyo sugatavidatthiyā tiri-yaṃ dve vidatthiyo taṃ
atikkāmayato
chedanakaṃ pācittiyaṃ.
91. Vassikasāṭikaṃ pana bhikkhunā kāraya-mānena
pamānikā kāretabbā tatridaṃ pamānaṃ dīghaso cha vidatthiyo
sugatavidatthiyā tiriyaṃ aḍ-ḍhateyyā taṃ atikkāmayato chedanakaṃ
pācittiyaṃ.
92. Yo pana bhikkhu sugatacīvarappamānaṃ cīvaraṃ
kārāpeyya atirekaṃ vā chedanakaṃ pācit-tiyaṃ. Tatridaṃ sugatassa
sugatacīvarappamānaṃ dīghaso nava vidatthiyo sugatavidatthiyā
tiriyaṃ
cha vidatthiyo. Idaṃ sugatassa sugatacīvarappamāṇaṃ.
Ratanavaggo
navamo.
Udditthā kho
āyasmanto dvenavuti pācittiyā dhammā, Tatth' āyasmante pucchāmi
kacci'ttha parisuddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha
pari-suddhā?
Tatiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth'
āyasmanto tasmā tuṇhī evametaṃ dhārayāmi.
Pācittiyā niṭṭhitā.
*
Bạch chư Tôn giả, đây là chín mươi hai pháp ưng
đối trị được tổng thuyết như sau:
PHẨM 1: PHẨM NÓI DỐI
1. Biết rõ lại nói dối, phạm ưng đối trị.
2. Chửi mắng vị khác, phạm ưng đối trị.
3. Nói đâm thọc Tỳ-kheo, phạm ưng đối trị.
4. Vị Tỳ-kheo nào dạy pháp thể thơ kệ cho người
chưa thọ cụ túc giới (đọc chung) phạm ưng đối trị.
5. Vị Tỳ-kheo nào ngủ chung với người chưa thọ
cụ túc giới quá hai ba đêm, phạm ưng đối trị.
6. Vị Tỳ-kheo nào ngủ chung với phụ nữ (một
nhà), phạm ưng đối trị.
7. Vị Tỳ-kheo nào nói pháp cho người nữ quá năm
sáu lời, phạm ưng đối trị, ngoại trừ được người nam tỉnh táo
chứng kiến.
8. Vị Tỳ-kheo nào tiết lộ pháp cao nhân đã thực
chứng với người chưa thọ cụ túc giới, phạm ưng đối trị.
9. Vị Tỳ-kheo nào tiết lộ tội lỗi của Tỳ-kheo
với người chưa thọ cụ túc giới, phạm ưng đối trị ngoại trừ vị
Tỳ-kheo
được phép.
10. Vị Tỳ-kheo nào đào bới đất hoặc sai đào bới,
phạm ưng đối trị.
PHẨM 2: PHẨM THẢO MỘC
11. Phá hại thảo mộc, phạm ưng đối trị.
12. Nói tráo
trở gây khó khăn, phạm ưng đối trị.
13. kích bác chỉ trích, phạm ưng đối trị.
14. Vị Tỳ-kheo nào lấy giường của Tăng hoặc ghế
hoặc nệm hoặc gối trải ra nơi trống hay sai trải ra rồi khi đi
khỏi
không thu dọn cũng không nhờ thu dọn hoặc đi không từ giã, phạm
ưng đối
trị.
15. Vị Tỳ-kheo nào trải dọn chỗ nằm, hoặc sai
trải dọn, trong tịnh thất của Tăng rồi khi rời khỏi chỗ ấy không
thu dọn
cũng không nhờ thu dọn hoặc đi không cáo từ phạm ưng đối trị.
16. Vị Tỳ-kheo nào biết trong tịnh thất của Tăng
có vị Tỳ-kheo đã đến trước, vẫn chen vào trải dọn chỗ ngủ nghĩ
rằng ai
bực bội thì đi ra; chỉ có nguyên nhân đó không việc gì khác cũng
phạm
tội ưng đối trị.
17. Vị Tỳ-kheo nào sân giận bất bình với Tỳ-kheo
rồi kéo lôi hoặc sai kéo lôi ra khỏi tịnh thất của tăng, phạm
ưng đối
trị.
18. Vị Tỳ-kheo nào ngồi hoặc nằm trên giường ghế
kê tạm ở gác lửng trong tịnh xá của tăng, phạm ưng đối trị.
19. Khi vị tỳ-kheo cho làm tịnh thất lớn, cần
phải đứng ở khoảng cách cửa cái để mở then gài, để sơn phết cửa
sổ; đứng
tại chỗ không phải ruộng rẩy để lợp mái, chỉ lợp hai ba lớp. Nếu
thực
hiện vượt quá cách đó, dù đứng tại chỗ không phải ruộng rẫy,
cũng phạm
ưng đối trị.
20. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ nước có sinh vật lại
đổ hoặc sai đổ trên cỏ hay mặt đất, phạm ưng đối trị.
PHẨM 3: PHẨM GIÁO ÐẠO
21. Vị Tỳ-kheo nào chưa được cho phép mà giáo
đạo các Tỳ-kheo ni, phạm ưng đối trị.
22. Vị Tỳ-kheo mặc dù đã được cho phép nhưng
giáo đạo các Tỳ-kheo ni lúc mặt trời đã lặn, phạm ưng đối trị.
23. Vị Tỳ-kheo nào đi đến cư xá ni chúng mà giáo
đạo chư Tỳ-kheo ni, phạm ưng đối trị, ngoại trừ có trường hợp.
Trường
hợp ở đây là có Tỳ-kheo ni bị bệnh.
24. Vị Tỳ-kheo nào nói như sau "chư Tỳ-kheo
giáo đạo Tỳ-kheo ni vì
nhân lợi lộc"
phạm ưng đối trị.
25. Vị Tỳ-kheo nào cho y đến Tỳ-kheo ni không
phải quyến thuộc, phạm ưng đối trị, ngoại trừ trao đổi.
26. Vị Tỳ-kheo nào may hoặc nhờ may y cho
Tỳ-kheo ni không phải quyến thuộc, phạm ưng đối trị.
27. Vị Tỳ-kheo nào rủ
nhau với vị Tỳ-kheo ni hành trình chung một đường dài, thậm chí
dù chỉ
qua một khoảng xóm, phạm ưng đối trị, ngoại trừ có trường hợp.
Trường
hợp ở đây là con đường cần đi thành đoàn, có điều nghi ngờ, có
sự nguy
hiểm.
28. Vị Tỳ-kheo nào rủ nhau với Tỳ-kheo ni ngồi
chung một thuyền, đi xuôi hoặc đi ngược dòng, phạm ưng đối trị,
trừ khi
băng đò ngang.
29. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ vẫn ăn thực phẩm do
Tỳ-kheo ni sắp đặt, phạm ưng đối trị, trừ khi người cư sĩ khởi
xướng
trước.
30. Vị Tỳ-kheo nào cùng với Tỳ-kheo ni, một với
một, ngồi chỗ vắng vẻ, phạm ưng đối trị.
PHẨM 4: PHẨM VẬT THỰC
31. Với Tỳ-kheo vô bệnh, thức ăn tại bố thí
đường chỉ nên dùng một lần, nếu thọ dụng hơn hạn ấy, phạm ưng
đối trị.
32. Thọ thực chung nhóm, phạm ưng đối trị, ngoại
trừ có trường hợp. Ở đây có trường hợp là lúc bị bệnh, lúc lễ
dâng y,
lúc bận làm y, lúc đi đường xa, lúc đi thuyền, lúc đại hội, lúc
tu sĩ
thí thực. Ðây là trường hợp trong điều học này.
33. Thọ thực hậu thỉnh phạm ưng đối trị, ngoại
trừ có trường hợp. Ở đây trường hợp này là lúc bị bệnh, lúc lễ
dâng y,
lúc bận làm y. Ðây là trường hợp trong điều học này.
34. Vị Tỳ-kheo đi đến tư gia, có người yêu cầu
để cúng dường bánh hoặc lương khô. Nếu vị Tỳ-kheo muốn thì chỉ
nên thọ
nhận hai-ba bát đầy. Nếu thọ nhận quá hạn ấy phạm ưng đối trị.
Sau khi
thọ nhận hai ba bát đầy, đem khỏi nơi ấy cần phải phân chia với
các vị
Tỳ khưu. Ðây là cách làm đúng trong điều học này.
35. Vị Tỳ-kheo nào đã ăn xong, đã ngăn thực, lại
ăn hoặc thưởng thức vật thực loại cứng hay loại mềm phi tàn
thực, phạm
ưng đối trị.
36. Vị Tỳ-kheo nào nài ép dâng cho Tỳ-kheo đã ăn
xong và ngăn vật thực rồi, bằng thức ăn loại cứng hay loại mềm
phi tàn
thực, bảo rằng: "Này Tỳ-kheo hãy ăn, hãy thọ dùng" biết rõ nhưng
muốn
chỉ trích; khi vị đó ăn xong, vị này phạm ưng đối trị.
37. Vị Tỳ-kheo nào nhai ăn hoặc thọ dùng vật
thực loại cứng hay loại mềm trong phi thời, phạm ưng đối trị.
38. Vị Tỳ-kheo nào nhai ăn hoặc thọ dùng vật
thực loại cứng hay loại mềm đã dự trử, phạm ưng đối trị.
39. Những thức ăn thượng vị nào như là bơ tươi,
bơ đặc, dầu mè, mật ong, đường, cá, thịt, sữa tươi, sữa đông; vị
Tỳ-kheo
nào vô bệnh vì lợi mình mà xin những thức ăn thượng vị như vậy
rồi thọ
dùng, phạm ưng đối trị.
40. Vị Tỳ-kheo nào đưa vào miệng thứ vật thực
chưa được cho, phạm ưng đối trị ngoại trừ nước lả và tăm xỉa
răng.
PHẨM 5: PHẨM LÕA THỂ
41. Vị Tỳ-kheo nào tự tay cho thức ăn loại cứng
hoặc loại mềm đến tu sĩ lỏa thể hay nam du sĩ hay nữ du sĩ, phạm
ưng đối
trị.
42. Vị Tỳ-kheo nào nói với Tỳ-kheo khác như sau:
"này hiền giả hãy đi, chúng ta sẽ vào làng hay thị trấn để khất
thực;
nhưng rồi khi đã bố thí cho vị ấy hoặc chưa bố thí lại xua đuổi
về: hãy
đi đi này hiền giả nói chuyện với ông hay ngồi lại với ông, tôi
không
thoải mái, thà tôi nói chuyện một mình hay ngồi một mình mà an
vui hơn".
Chỉ có nguyên nhân ấy không chi khác, phạm ưng đối trị.
43. Vị Tỳ-kheo nào xen vào ngồi trong gia đình
đôi vợ chồng, phạm ưng đối trị.
44. Vị Tỳ-kheo nào ngồi trong chỗ che dừng kín
đáo với người phụ nữ, phạm ưng đối trị.
45. Vị Tỳ-kheo nào ngồi khuất vắng với người phụ
nữ, một với một, phạm ưng đối trị.
46. Vị Tỳ-kheo nào được mời thỉnh nhận đi thọ
thực, nếu chưa từ giã vị Tỳ-kheo đang có mặt lại đi thăm viếng
các gia
đình khác trước hoặc sau thời ngọ trai, phạm ưng đối trị., ngoại
trừ có
trường hợp. Trường hợp ở đây là lúc lễ dâng y, lúc đang làm y.
Ðây là
trường hợp trong điều học này.
47. Với vị Tỳ-kheo vô bệnh chỉ nên vui nhận vật
dụng yêu cầu thời hạn bốn tháng, nếu vui nhận quá thời hạn ấy,
phạm ưng
đối trị, ngoại trừ có lời yêu cầu tiếp tục hay được yêu cầu vĩnh
viễn.
48. Vị Tỳ-kheo nào đi xem quân đội diễn tập,
phạm ưng đối trị. Ngoại trừ có duyên cớ thích đáng.
49. Ðối với vị Tỳ-kheo có duyên cớ chi phải đến
gia binh thì vị Tỳ-kheo ấy chỉ nên ngụ lại trong gia binh hai ba
đêm.
Nếu ngụ quá hạn ấy, phạm ưng đối trị.
50. Nếu vị Tỳ-kheo khi đang cư ngụ tại gia binh
hai ba đêm mà đi đến chỗ tập trận, chỗ đóng quân, chỗ tập hợp
quân hoặc
chỗ duyệt binh, phạm ưng đối trị.
PHẨM 6: PHẨM UỐNG RƯỢU
51. Uống rượu ngâm, rượu cất, phạm ưng đối trị.
52. Chơi thọc cù lét, phạm ưng đối trị.
53. Giỡn nước, phạm ưng đối trị.
54. Thái độ bất cần, phạm ưng đối trị.
55. Vị Tỳ-kheo nào hù nhát Tỳ-kheo, phạm ưng đối
trị.
56. Vị Tỳ-kheo nào vô bệnh, đốt lửa muốn sưởi ấm
hoặc sai đốt lửa, phạm ưng đối trị, ngoại trừ có duyên cớ hợp
lẽ.
57. Vị Tỳ-kheo nào chưa tới nửa tháng mà tắm,
phạm ưng đối trị. ngoại trừ có trường hợp. Ở đây có trường hợp
là còn
một tháng rưỡi cuối mùa nóng, tháng đầu của mùa mưa, đó là hai
tháng
rưỡi thời gian oi bức; trường hợp thời tiết nực nội; trường hợp
bệnh
hoạn; trường hợp làm việc nhọc; trường hợp đi đường xa; trường
hợp mưa
gió. Ðây là duyên cớ trong điều học này.
58. Vị Tỳ-kheo nhận được y mới phải lấy một
trong ba màu tối để làm hoại sắc, là màu xanh, màu bùn hay màu
đen. Nếu
vị Tỳ-kheo không lấy một trong ba màu tối làm hoại sắc mà sử
dụng y mới,
phạm ưng đối trị.
59. Vị Tỳ-kheo nào tự mình ký gởi y cho Tỳ-kheo
hoặc Tỳ-kheo ni hoặc học nữ hoặc sa-di hoặc sa-di ni, chưa rút
lời mà sử
dụng, phạm ưng đối trị.
60. Vị Tỳ-kheo nào cất giấu hoặc bảo cất giấu
bình bát của Tỳ khưu, hoặc y hoặc tọa cụ hoặc ống đựng kim hoặc
dây
lưng. Dù chỉ để vui cười. phạm ưng đối trị.
PHẨM 7: PHẨM CÓ SINH VẬT
61. Vị Tỳ-kheo nào cố ý đoạt mạng sống sinh vật,
phạm ưng đối trị.
62. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ nước có sinh vật mà
vẫn sử dụng, phạm ưng đối trị
63. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ vụ kiện tụng đã được
xử theo pháp vẫn khơi dậy để xử lại, phạm ưng đối trị.
64. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ lại che giấu tội xấu
xa của Tỳ khưu, phạm ưng đối trị.
65. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ người chưa đủ hai
mươi tuổi mà truyền cụ túc giới, phạm ưng đối trị; người ấy
không đắc cụ
túc giới và chư Tỳ-kheo ấy đáng bị quở trách.
66. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ mà rủ nhau hành trình
chung đường dài cùng với bọn lậu thương, dù chỉ đi qua một
khoảng xóm
cũng phạm ưng đối trị.
67. Vị Tỳ-kheo nào rủ nhau hành trình chung
đường dài với người phụ nữ, dù chỉ qua một khoảng xóm cũng phạm
ưng đối
trị.
68. Vị Tỳ-kheo nào nói như sau: "theo tôi hiểu
biết pháp do Ðức Thế Tôn đã thuyết thì những pháp mà Ðức Thế Tôn
bảo là
pháp tai hại, những pháp ấy thật không đủ gây tai hại cho người
hành
theo đâu". Vị Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo khuyên bảo như
vầy: "Tôn
giả chớ có nói như vậy, chớ có xuyên tạc Ðức Thế Tôn, sự xuyên
tạc Ðức
Thế Tôn chắc chắn là không tốt; bởi lẽ đức Thế Tôn không hề nói
như vậy,
này hiền giả các pháp tai hại được đức Thế Tôn dùng nhiều phương
tiện
tuyên bố hại thì những pháp ấy hẳn đúng là gây tai hại cho người
hành
theo". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy mà
vẫn cố
chấp như cũ thì vị Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo can gián ba
lần cho
bỏ lời ấy; nếu khi được can gián ba lần mà bỏ thì là điều tốt,
bằng nếu
không bỏ, phạm ưng đối trị.
69. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ vẫn ăn chung hoặc ở
chung hoặc ngủ chung với Tỳ-kheo người nói quấy không hành theo
pháp,
không bỏ tà kiến ấy, phạm ưng đối trị.
70. Nếu có vị sa-di nói như sau: "theo tôi hiểu
pháp Ðức Thế Tôn đã thuyết, thì những pháp mà Ðức Thế Tôn tuyên
bố là
tai hại, những pháp ấy thật sự không đủ để làm tai hại cho người
thực
hành đâu". Vị sa-di ấy cần được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như sau:
"Này ông
sa-di, ngươi chớ có nói như vậy, chớ xuyên tạc Ðức Thế Tôn, vì
sự xuyên
tạc Ðức Thế Tôn là không tốt, chắc chắn Ðức Thế Tôn không tuyên
bố như
vậy; này ông sa-di những pháp tai hại đã được Ðức Thế Tôn dùng
nhiều
phương tiện tuyên bố thì những pháp ấy hẳn đúng là gây tai hại
cho người
thực hành" Vị sa-di ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy vẫn
cố chấp
thì vị sa-di ấy cần được chư Tỳ-kheo nói rằng: " kể từ hôm nay
này ông
sa-di, Ðức Thế Tôn không cần ngươi bái làm bậc Ðạo Sư nữa; lợi
đắc nào
mà các vị sa-di khác có được như quyền đồng cư với chư Tỳ-kheo
hai ba
đêm, lợi đắc ấy ngươi không có, hỡi kẻ xấu hãy đi mất đi". Vị
Tỳ-kheo
nào biết rõ vị sa-di đã bị tẩn xuất như thế lại dụ dỗ hoặc sai
phục dịch
hoặc ăn chung hoặc ngủ chung, phạm ưng đối trị .
PHẨM 8: PHẨM THEO PHÁP
71. Vị Tỳ-kheo nào
khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo đúng pháp lại nói như sau: "Nầy
chư hiền
cho đến khi nào tôi chưa hỏi vị Tỳ-kheo khác thông thạo trì luật
thì đến
chừng ấy tôi vẫn chưa chịu học tập điều học đó đâu" nói vậy phạm
ưng đối
trị. Này chư Tỳ khưu, với vị Tỳ-kheo cầu học cần phải tìm hiểu,
cần phải
học hỏi, cần phải nghi vấn. Ðây là điều hợp lý trong pháp này.
72. Vị Tỳ-kheo nào khi giới bổn đang được thuyết
tụng lại nói như sau: "có ích gì với những điều học nhỏ nhặt
tiểu tiết
này, chỉ là dẫn đến sự hối tiếc, ray rứt bận tâm thôi". Vì thái
độ chê
bai học giới, phạm ưng đối trị.
73. Vị Tỳ-kheo nào khi giới bổn được thuyết tụng
mỗi nửa tháng một lần, lại nói như sau: "tới nay tôi mới biết là
pháp
này được tổng thuyết mỗi nửa tháng lại có liên quan đến kinh
luật, hệ
thuộc kinh luật". Các vị Tỳ-kheo khác vẫn biết rõ đối với
Tỳ-kheo này đã
từng ngồi nghe thuyết tụng giới bổn đôi ba lần, huống chi là
nhiều hơn
nữa. Ðối với Tỳ-kheo ấy không thoát tội do sự thiếu hiểu biết,
vị đó có
phạm tội gì thì cần được trị phạt theo pháp tội ấy; thêm nữa cần
phải
giải tỏa sự u mê của vị ấy, rằng: "này hiền giả thật bất lợi cho
ông,
thật thiệt hại cho ông về việc này, việc mà ông không chú tâm
khéo tác ý
khi giới bổn đang được thuyết tụng". Trong vụ này vì việc giả
khờ, phạm
ưng đối trị.
74. Vị Tỳ-kheo nào sân giận bất bình vị Tỳ-kheo
khác rồi đánh đập, phạm ưng đối trị.
75. Vị Tỳ-kheo nào sân giận bất bình vị Tỳ-kheo
khác rồi giá tay dọa, phạm ưng đối trị.
76. Vị Tỳ-kheo nào vu cáo vị Tỳ-kheo với tội
tăng tàng vô căn cớ, phạm ưng đối trị.
77. Vị Tỳ-kheo nào cố tình gây áy náy cho Tỳ
khưu, nghĩ rằng: "làm cho vị ấy chỉ bất an một chút thôi". Chỉ
có duyên
cớ đó không chi khác, phạm ưng đối trị.
78. Vị Tỳ-kheo nào trong khi các Tỳ-kheo xung
đột cãi vã tranh luận, lại đứng rình rập, nghĩ rằng: "Những vị
này nói
gì ta sẽ nghe điều ấy". Chỉ có duyên cớ đó không chi khác, phạm
ưng đối
trị.
79. Vị Tỳ-kheo nào khi đã đưa lời thỏa thuận
trong vụ tăng sự đúng pháp, về sau lại hiềm trách, phạm ưng đối
trị.
80. Vị Tỳ-kheo nào giữa cuộc xét xử đang tiến
hành trong tăng, chưa đưa lời thỏa hiệp mà đứng dậy khỏi chỗ
ngồi bỏ đi,
phạm ưng đối trị.
81. Vị Tỳ-kheo nào khi Tăng hòa hợp giao y rồi
mà về sau lại hiềm trách rằng: "Chư Tỳ-kheo theo pháp vị thân mà
cưỡng
đoạt lợi lộc của Tăng", phạm ưng đối trị.
82. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ lợi lộc được dâng
hiến thuộc về tăng, lại cưỡng đoạt cho một cá nhân, phạm ưng đối
trị.
PHẨM 9: PHẨM CHÂU BÁU
83. Vị Tỳ-kheo nào chưa báo tin trước mà đi vào
hậu cung của vua Sát-đế-lỵ đã được tôn vương, khi vua và hoàng
hậu chưa
ngự ra ngoài, phạm ưng đối trị.
84. Vị Tỳ-kheo nào nhặt lấy hoặc sai nhặt lấy
báu vật hay vật được định là của báu, phạm ưng đối trị. ngoại
trừ trong
chùa hoặc nơi cư ngụ, khi vị Tỳ-kheo nhặt được hoặc bảo người
nhặt báu
vật hay vật được định là của báu, trong vòng chùa hoặc chỗ cư
ngụ thì
nên giữ lại nghĩ rằng là của ai người ấy sẽ mang đi. Ðây là cách
làm tốt
trong điều này.
85. Vị Tỳ-kheo nào chưa từ giã Tỳ-kheo hiện
diện, mà đi vào xóm lúc phi thời, phạm ưng đối trị, trừ phi có
việc cấp
thiết chính đáng .
86. Vị Tỳ-kheo nào sai làm ống đựng kim bằng
xương hoặc bằng nanh hoặc bằng sừng, phạm ưng đối trị, vật phải
đập bể.
87. Giường hay ghế mới mà vị Tỳ-kheo sai làm ra,
cần phải cho làm chân cao tám ngón, tính theo ngón tay Ðức Phật
[14],
đo từ thanh diềm dưới, vượt quá mức ấy phạm ưng đối trị, vật
phải cắt
bỏ.
88. Vị Tỳ-kheo nào sai làm giường hay ghế lót
nệm gòn, phạm ưng đối trị, nệm phải xé bỏ.
89. Tọa cụ mà Tỳ-kheo nhờ làm, phải cho làm theo
kích cỡ, kích thước ở đây là chiều dài hai gang tay, chiều rộng
một gang
rưỡi, bìa 1 gang, tính theo gang Ðức Phật
[15],
làm vượt quá cỡ ấy phạm ưng đối trị, vật phải cắt bỏ .
90. Băng rịt ghẻ mà Tỳ-kheo nhờ làm, phải cho
làm theo kích cỡ, kích thước ở đây là dài 4 gang, rộng 2 gang,
tính theo
gang Ðức Phật; quá cỡ ấy phạm ưng đối trị, vật phải cắt bỏ.
91. Choàng tắm mưa mà Tỳ-kheo nhờ làm, phải cho
làm theo kích cỡ, kích thước ở đây là dài 6 gang, rộng 2 gang
rưởi, theo
gang Ðức Phật, quá kích cỡ ấy phạm ưng đối trị, vật phải cắt bỏ.
92. Vị Tỳ-kheo nào nhờ làm y bằng cỡ y của Ðức
Phật hoặc rộng hơn, phạm ưng đối trị, y phải cắt bỏ. Ở đây, kích
thước y
của Ðức Phật là chiều dài 9 gang chiều ngang 6 gang, theo gang
tay Ðức
Phật, đây là kích thước tấm y của Ðức Thiện Thệ.
Bạch chư Tôn giả, chín mươi hai pháp ưng đối trị
đã được tổng thuyết.
Ở đây tôi xin hỏi chư Tôn giả, các Ngài được
thanh tịnh chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi các Ngài được thanh
tịnh
chăng? lần thứ ba, tôi xin hỏi các Ngài được thanh tịnh chăng?
chư Tôn
giả trong đây được thanh tịnh, do đó im lặng, tôi xin ghi nhận
sự việc
ấy như vậy.
DỨT THUYẾT
GIỚI ƯNG ÐỐI TRỊ.
-ooOoo-
THUYẾT
GIỚI ƯNG PHÁT LỘ
(Pātidesanīye vitthāruddeso)
Ime kho pan'
āyasmanto cattāro pāṭidesanīyā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā
antaragharaṃ paviṭṭhāya hatthato khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā
sahatthā
paṭiggahetvā khādeyya vā bhuñjeyya vā paṭidesetabbaṃ tena
bhikkhunā
gāray-haṃ āvuso dhammaṃ āpajjiṃ asappāyaṃ pāṭidesa-nīyaṃ taṃ
paṭidesemī'
ti.
2. Bhikkhū pan'eva kulesu nimantitā bhuñ-janti.
Tatra ce bhikkhunī vosāsamānarūpā ṭhitā hoti idha sūpaṃ detha
idha
odanaṃ dethā ' ti. Tehi bhik-khūhi sā bhikkhunī apasādetabbā
apasakka
tāva bhagini yāva bhikkhū bhuñjantī' ti. Ekassapi ce bhikkhuno
nappaṭibhāseyya taṃ bhikkhuniṃ apa-sādetuṃ apasakka tāva bhagini
yāva
bhikkhū bhuñ-jantī'ti paṭidesetabbaṃ tehi bhikkhūhi gārayhaṃ
āvuso
dhammā āpajjimhā asappāyaṃ pāṭidesanīyaṃ taṃ paṭidesemā' ti.
3. Yāni kho pana tāni sekkhasammatāni kulāni. Yo
pana bhikkhu tathārūpesu sekkhasamma-tesu kulesu pubbe
animantito
agilāno khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā sahatthā paṭiggahetvā
khādeyya vā
bhuñjeyya vā paṭidesetabbaṃ tena bhikkhunā gāray-haṃ āvuso
dhammaṃ
āpajjiṃ asappāyaṃ paṭidesa-nīyaṃ taṃ paṭidesemī'ti.
4. Yāni kho pana tāni āraññakāni senāsanāni
sāsaṅkasammatāni sappaṭibhayāni. Yo pana bhik-khu tathārūpesu
senāsanesu
viharanto pubbe appaṭi-saṃviditaṃ khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā
ajjhārāme
sahatthā paṭiggahetvā agilāno khādeyya vā bhuñ-jeyya vā
paṭidesetabbaṃ
tena bhikkhunā gārayhaṃ āvuso dhammaṃ āpajjiṃ asappāyaṃ
pāṭidesanīyaṃ
taṃ paṭidesemī ' ti.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto cattāro pāṭi-desa-nīyā
dhammā.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ
dhārayāmi.
Pāṭidesanīyā
niṭṭhitā.
*
Bạch chư Tôn giả, đây là bốn pháp ưng phát lộ
được tổng thuyết như sau:
1. Vị Tỳ-kheo nào ăn hoặc dùng vật thực loại
cứng hay loại mềm nhận từ tay vị Tỳ-kheo ni không phải thân
quyến vừa
mới đi vào xóm, vị Tỳ-kheo ấy cần phải phát lộ rằng: "Thưa hiền
giả, tôi
đã phạm điều ưng phát lộ, không thích hợp, đáng quở trách, tôi
xin sám
hối điều ấy".
2. Các vị Tỳ-kheo được thỉnh mời, đang thọ thực
tại những tư gia. Nếu tại đấy có vị Tỳ-kheo ni đứng chiêu đãi,
bảo rằng:
"Hãy cho canh ở đây, hãy cho cơm ở đây". Vị Tỳ-kheo ni ấy cần
được chư
Tỳ-kheo này đuổi ra: "Sư tỷ hãy tránh đi cho đến khi nào chư
Tỳ-kheo thọ
thực xong". Nếu không có một vị Tỳ-kheo nào lên tiếng đuổi
Tỳ-kheo ni ấy
đi ra để chư Tỳ-kheo thọ thực thì chư Tỳ-kheo này đáng phải phát
lộ như
sau: "Này hiền giả, chúng tôi đã phạm điều ưng phát lộ, không
thích hợp,
đáng bị quở trách, chúng tôi xin sám hối điều ấy."
3. Có những gia đình được thừa nhận là bậc thánh
hữu học. Vị Tỳ-kheo nào vô bệnh, chưa được thỉnh mời trước mà tự
tay thọ
nhận rồi ăn hoặc dùng vật thực loại cứng hay loại mềm tại những
gia đình
thánh hữu học ấy, thì vị Tỳ-kheo ấy cần phải phát lộ như sau:
"này hiền
giả, tôi đã phạm điều ưng phát lộ, không thích hợp, đáng bị quở
trách,
tôi xin sám hối điều ấy."
4. Có những trú xứ ở rừng mà được cho rằng đáng
khả nghi, có sự nguy hiểm. Vị Tỳ-kheo nào cư ngụ tại những trú
xứ như
thế vô bệnh lại tự tay thọ nhận rồi ăn hoặc dùng những thức ăn
loại
cứng, loại mềm, không thông báo trước, với vị Tỳ-kheo ấy cần
phải phát
lộ như sau: "này hiền giả, tôi đã phạm điều ưng phát lộ, không
thích
đáng, đáng bị quở trách, tôi xin sám hối điều ấy."
Bạch chư Tôn giả, bốn pháp ưng phát lộ đã được
tổng thuyết. Ở đây tôi xin hỏi chư Tôn giả, các Ngài có được
thanh tịnh
chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi các Ngài có được thanh tịnh
chăng? lần
thứ ba, tôi xin hỏi, các Ngài có được thanh tịnh chăng? Chư Tôn
giả
trong đây được thanh tịnh bởi thế mới im lặng. Tôi xin ghi nhận
sự việc
đó là vậy.
DỨT
PHẦN
ƯNG PHÁT LỘ
-ooOoo-
THUYẾT GIỚI ƯNG HỌC
PHÁP
(Sekhiyadhamme vitthāruddeso)
Ime kho pan' āyasmanto (pañcasattati) se-khiyā
dhammā uddesaṃ āgacchanti .
1. Parimaṇḍalaṃ nivāsissāmī' ti sikkhā
kara-ṇīyā.
2. Parimaṇḍalaṃ pārupissāmī ' ti sikkhā
ka-raṇīyā.
3. Suppaṭicchanno antaraghare gamissāmī' ti
sikkhā karaṇīyā.
4. Suppaṭicchanno antaraghare nisīdissāmī' ti
sikkhā karaṇīyā.
5. Susaṃvuto antaraghare gamissāmī ' ti sik-khā
karaṇīyā.
6. Susaṃvuto antaraghare nisīdissāmī'ti sik-khā
karaṇīyā.
7. Okkhittacakkhu antaraghare gamissāmī ' ti
sikkhā karaṇīyā.
8. Okkhittacakkhu antaghare nisīdissāmī'ti
sikkhā karaṇīyā.
9. Na ukkhittakāya antaraghare gamissāmī ' ti
sikkhā karaṇīyā.
10. Na ukkhittakāya antaraghare nisīdis-sāmī'ti
sikkhā karaṇīyā.
Parimaṇḍalavaggo paṭhamo
11. Na ujjagghikāya antaraghare gamissāmī ' ti
sikkhā karaṇīyā.
12. Na ujjagghikāya antaraghare nisīdissā-mī'ti
sikkhā karaṇīyā.
13. Appasaddo antaraghare gamissāmī'ti sikkhā
karaṇīyā.
14. Appasaddo antaraghare nisīdissāmī'ti sikkhā
karaṇīyā.
15. Na kāyappacālakaṃ antaraghare gamis-sāmī'ti
sikkhā karaṇīyā.
16. Na kāyappacālakaṃ antaraghare
nisī-dissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
17. Na bāhuppacālakaṃ antaraghare ga-missāmī '
ti sikkhā karaṇīyā.
18. Na bāhuppacālakaṃ antaraghare
ni-sīdissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
19. Na sīsappacālakaṃ antaraghare ga-mis-sāmī'ti
sikkhā karaṇīyā.
20. Na sīsappacālakaṃ antaraghare
nisī-dissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
Ujjagghikavaggo dutiyo.
21. Na khambhakato antaraghare gamissāmī' ti
sikkhā karaṇīyā.
22. Na khambhakato antaraghare nisīdis-sāmī'ti
sikkhā karaṇīyā.
23. Na Oguṇṭhito antaraghare gamissāmī'ti sikkhā
karaṇīyā.
24. Na Oguṇṭhito antaraghare nisīdissāmī'ti
sikkhā karaṇīyā.
25. Na ukkuṭikāya antaraghare gamissāmī'ti
sikkhā karaṇīyā.
26. Na pallatthikāya antaraghare nisīdis-sāmī'ti
sikkhā karaṇīyā.
Chabbīsati sāruppā
27. Sakkaccaṃ piṇḍapātaṃ paṭiggahessāmī' ti
sikkhā karaṇīyā.
28. Pattasaññī piṇḍapātaṃ paṭiggahessāmī' ti
sikkhā karaṇīyā.
29. Samasūpakaṃ piṇḍapātaṃ paṭiggahes-sāmī'ti
sikkhā karaṇīyā.
30. Samatittikaṃ piṇḍapātaṃ paṭiggahes-sāmī'ti
sikkhā karaṇīyā.
Khambhakatavaggo tatiyo.
31. Sakkaccaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā
karaṇīyā.
32. Pattasaññī piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā
karaṇīyā.
33. Sapadānaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā
karaṇīyā.
34. Samasūpakaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā
karaṇīyā.
35. Na thūpato omadditvā piṇḍapātaṃ
bhuñ-jissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
36. Na sūpaṃ vā byañjanaṃ vā odanena
pa-ṭicchādessāmī'ti bhuyyokamyataṃ upādāyā'ti sik-khā karaṇīyā.
37. Na sūpaṃ vā odanaṃ vā agilāno attano atthāya
viññāpetvā bhuñjissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
38. Na ujjhānasaññī paresaṃ pattaṃ olokes-sāmī'
ti sikkhā karaṇīyā.
39. N'ātimahantaṃ kabalaṃ karissāmī'ti sikkhā
karaṇīyā.
40. Parimaṇḍalaṃ ālopaṃ karissāmī'ti sik-khā
karaṇīyā.
Sakkaccavaggo catuttho
41. Na anāhaṭe kabale mukhadvāraṃ vi-varissāmī'
ti sikkhā karaṇīyā.
42. Na bhuñjamāno sabbaṃ hatthaṃ mukhe
pakkhipissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
43. Na sakabalena mukhena byāharissāmī'ti sikkhā
karaṇīyā.
44. Na piṇḍukkhepakaṃ bhuñjissāmī'ti sik-khā
karaṇīyā.
45. Na kabalāvacchedakaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā
karaṇīyā.
46. Na avagaṇḍakārakaṃ bhuñjissāmī'ti sik-khā
karaṇīyā.
47. Na hatthaniddhūnakaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā
karaṇīyā.
48. Na sitthāvakārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā
karaṇīyā.
49. Na jivhānicchārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā
karaṇīyā.
50. Na capucapukārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā
karaṇīyā.
Kabalavaggo pañcamo.
51. Na surusurukārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā
karaṇīyā.
52. Na hatthanillehakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā
karaṇīyā.
53. Na pattanillehakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā
karaṇīyā.
54. Na oṭṭhanillehakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā
karaṇīyā.
55. Na sāmisena hatthena pānīyathālakaṃ
paṭiggahessāmī' ti sikkhā karaṇīyā.
56. Na sasitthakaṃ pattadhovanaṃ an-taraghare
chaḍḍessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
Samattiṃsa bhojanappaṭisaṃyuttā.
57. Na chattapāṇissa agilānassa dhammaṃ
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
58. Na daṇḍapāṇissa agilānassa dhammaṃ desessāmī
' ti sikkhā karaṇīyā.
59. Na satthapāṇissa agilānassa dhammaṃ
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
60. Na āvudhapāṇissa agilānassa dhammaṃ
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
Surusuruvaggo chaṭṭho.
61. Na pādukārūḷhassa agilānassa dhammaṃ
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
62. Na upāhanārūḷhassa agilānassa dham-maṃ
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
63. Na yānagatassa agilānassa dhammaṃ desessāmī
' ti sikkhā karaṇīyā.
64. Na sayanagatassa agilānassa dhammaṃ
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
65. Na pallaṭṭhikāya nisinnassa agilānassa
dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
66. Na veṭhitasīsassa agilānassa dhammaṃ
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
67. Na oguṇṭhitasīsassa agilānassa dham-maṃ
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
68. Na chamāyaṃ nisīditvā āsane nisinnassa
agilānassa dhammaṃ
desessāmī ' ti
sikkhā karaṇīyā.
69. Na nīce āsane nisīditvā ucce āsane
nisin-nassa agilānassa dhammaṃ desessāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
70. Na ṭhito nisinnassa agilānassa dham-maṃ
desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
71. Na pacchato gacchanto purato gacchan-tassa
agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā ka-raṇīyā.
72. Na uppathena gacchanto pathena gac-chantassa
agilānassa dhammaṃ desessāmī' ti sik-khā karaṇīyā.
Soḷasa dhammadesanāpaṭisaṃyuttā.
73. Na ṭhito agilāno uccāraṃ vā passāvaṃ vā
karissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
74. Na harite agilāno uccāraṃ vā pas-sāvaṃ vā
kheḷaṃ vā karissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
75. Na udake agilānassa uccāraṃ vā pas-sāvaṃ vā
kheḷaṃ vā karissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
Tayo pakiṇṇakā niṭṭhitā.
Pādukāvaggo
sattamo.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto (pañcasattati) sekhi-yā
dhammā.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ
dhārayāmi.
Sekhiyā niṭṭhitā.
*
Bạch chư Tôn giả, đây là bảy mươi lăm ưng học
pháp được tổng thuyết như sau:
PHẨM 1: PHẨM TỀ CHỈNH
1. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ vận y tề
chỉnh.
2. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ choàng y tề
chỉnh.
3. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ mặc kín đáo đi
giữa xóm nhà.
4. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ mặc kín đáo
ngồi giữa xóm nhà.
5. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ khéo thu thúc
đi giữa xóm nhà.
6. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ khéo thu thúc
ngồi giữa xóm nhà.
7. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ đi vào xóm nhà
mắt nhìn xuống.
8. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ ngồi trong xóm
nhà mắt nhìn xuống.
9. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ đi trong xóm
nhà không vén y lên.
10. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ ngồi trong
xóm nhà không vén y lên
PHẨM 2: PHẨM CƯỜI GIÒN
11. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ đi giữa xóm
nhà không cười giòn.
12. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ ngồi trong
xóm nhà không cười giòn.
13. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ nhỏ tiếng khi
đi giữa xóm nhà.
14. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ nhỏ tiếng khi
ngồi giữa xóm nhà.
15. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không uốn éo
người khi đi giữa xóm nhà.
16. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không uốn éo
người khi ngồi giữa xóm nhà.
17. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không múa tay
chân khi đi giữa xóm nhà.
18. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không múa tay
chân khi ngồi giữa xóm nhà.
19. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không lắc đầu
khi đi giữa xóm nhà.
20. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không lắc đầu
khi ngồi giữa xóm nhà.
PHẨM 3: PHẨM CHỐNG NẠNH
21. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không chống
nạnh khi đi giữa xóm nhà.
22. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không chống
nạnh khi ngồi giữa xóm nhà.
23. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không trùm
đầu khi đi giữa xóm nhà.
24. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không trùm
đầu khi ngồi giữa xóm nhà.
25. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đi nhón
gót giữa xóm nhà.
26. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ngồi bó
gối giữa xóm nhà.
Dứt hai mươi sáu điều hảo tướng.
27. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực
phẩm một cách nghiêm trang.
28. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực
phẩm, tưởng nhìn ngay bát.
29. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực
phẩm canh cơm bằng nhau.
30. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực
phẩm vừa đủ dùng.
PHẨM 4: PHẨM NGHIÊM TRANG
31. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực một
cách nghiêm trang.
32. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực chỉ
tưởng nhìn trong bát.
33. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực cho
đều.
34. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực cơm
canh vừa nhau.
35. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực
không đùa cơm vun lên.
36. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không lấy cơm
che lấp canh hoặc thức ăn vì ý muốn được nhiều thêm.
37. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không
xin canh hoặc cơm cho chính mình ăn.
38. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không nhìn
ngó bát của vị khác có ý tìm lỗi.
39. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không làm vắt
cơm quá lớn.
40. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ vắt vật thực
tròn đều.
PHẨM 5: PHẨM VẮT CƠM
41. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không há
miệng khi vắt cơm chưa đưa tới.
42. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đút
trọn các ngón tay vào miệng khi đang ăn.
43. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không nói
chuyện khi miệng còn vật thực.
44. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn bằng
cách tung hứng vắt cơm.
45. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn bằng
cách cắn vỡ vắt cơm.
46. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn độn
cơm phình má.
47. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn rảy
búng ngón tay.
48. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn làm
rơi đổ cơm.
49. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn thè
lưỡi ra.
50. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn chép
miệng thành tiếng.
PHẨM 6: PHẨM HÚP THÀNH TIẾNG
51. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn húp
thành tiếng.
52. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn liếm
tay.
53. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn liếm
bát.
54. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn liếm
môi.
55. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không cầm đồ
đựng nước với tay dính vật thực.
56. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đổ nước
rửa bát có cặn thức ăn ra ngoài đất trống.
Dứt ba mươi hai điều liên quan vật thực.
57. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết
pháp đến người vô bệnh tay cầm dù.
58. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết
pháp đến người vô bệnh tay cầm gậy.
59. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết
pháp đến người vô bệnh tay cầm dao.
60. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết
pháp đến người vô bệnh tay cầm vũ khí.
PHẨM 7: PHẨM DÉP GIÀY
61. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết
pháp đến người vô bệnh mang dép.
62. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết
pháp đến người mang giày.
63. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết
pháp đến người vô bệnh đi trên xe thuyền.
64. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết
pháp đến người vô bệnh mà nằm.
65. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết
pháp đến người vô bệnh ngồi bó gối.
66. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết
pháp đến người vô bệnh đầu đội khăn nón.
67. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết
pháp đến người vô bệnh đầu trùm kín.
68. Ðiều cần phải học tập là khi ngồi trên đất
trệt ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh ngồi trên chỗ
trãi.
69. Ðiều cần phải học tập là khi ngồi trên chỗ
thấp ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh ngồi trên chỗ
cao.
70. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đứng
thuyết pháp đến người vô bệnh ngồi.
71. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đi phía
sau thuyết pháp đến người vô bệnh đang đi phía trước.
72. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đi phía
lề đường thuyết pháp đến người vô bệnh đi chính giữa đường.
Dứt mười sáu điều
liên quan việc thuyết pháp.
73. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không
đứng đại tiện hoặc tiểu tiện.
74. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không
đứng đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên thảo mộc xanh
tươi.
75. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không
đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trong nước sạch.
Dứt ba điều linh tinh
Bạch chư Tôn giả, bảy
mươi lăm điều ưng học pháp đã được tổng thuyết. Ở đây tôi xin
hỏi các
Tôn giả, các Ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ hai, tôi xin
hỏi các
Ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ ba, tôi xin hỏi các Ngài
được thanh
tịnh chăng? Các Tôn giả trong đây được thanh tịnh bởi thế mới im
lặng,
tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.
DỨT THUYẾT
GIỚI ƯNG HỌC PHÁP.
-ooOoo-
THUYẾT
GIỚI ÐIỀU DIỆT TRANH.
(Adhikaraṇasamathe vitthār'uddeso)
Ime kho pan'āyasmanto
satta adhikara-ṇasamathā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
Uppannuppannānaṃ adhikaraṇānaṃ sama-thāya
vūpasamāya sammukhāvinayo daàtabbo sativi-nayo dātabbo
amūḷhavinayo
dātabbo paṭiññāya kāre-tabbaṃ yebhuyyasikā tassa pāpiyasikā
tiṇavatthā-rako' ti.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto satta adhikaraṇa-samathā
dhammā.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci' ttha
pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi
pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh' etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ
dhārayāmi.
Adhikaraṇasamathā niṭṭhitā.
*
Bạch chư Tôn giả, đây là bảy pháp diệt tranh
được tổng thuyết như sau:
Ðể lắng yên, hòa giải những vụ tố tụng đã khởi
dậy, cần được đưa ra luật xử hiện diện, cần được đưa ra luật
thừa nhận
kẻ chánh niệm, cần được đưa ra luật thừa nhận kẻ bất si, cần
được xử trị
theo lời thú tội, giải quyết theo phần đông ý kiến, giải quyết
theo mức
tội phạm của đương sự, giải quyết nhượng bộ như cỏ che phủ.
Bạch chư Tôn giả, bảy pháp diệt tranh đã được
tổng thuyết. Ở đây tôi xin hỏi các Tôn giả, các Ngài được thanh
tịnh
chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi, các Ngài được thanh tịnh chăng?
lần thứ
ba, tôi xin hỏi các Ngài được thanh tịnh chăng? Các Tôn giả
trong đây
được thanh tịnh nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc đó như
vậy.
DỨT PHÁP DIỆT TRANH.
-ooOoo-
TỤNG PHẦN KẾT
Uddiṭṭhaṃ kho
āyasmanto nidānaṃ.
Uddiṭṭhā cattāro
pārājikā dhammā.
Uddiṭṭhā terasa
saṅghādisesā dhammā.
Uddiṭṭhā dve aniyatā
dhammā.
Uddiṭṭhā tiṃsa
nissaggiyā pācittiyā dhammā.
Uddiṭṭhā dvenavuti
pācittiyā dhammā.
Uddiṭṭhā cattāro
pāṭidesaniyā dhammā.
Uddiṭṭhā
(pañcasattati) sekhiyā dhammā.
Uddiṭṭhā satta
adhikaraṇasamathā dhammā.
Ettakaṃ tassa
bhagavato suttāgataṃ suttapa-riyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ
āgacchati.
Tattha sabbeh'eva samaggehi sammodamānehi avi-vadamānehi
sikkhitabban'
ti.
Viṭṭhāruddeso
niṭṭhito
*
Bhikkhuppātimokkhaṃ
niṭṭhitaṃ.
Bạch chư Tôn giả,
duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết;
mười ba
pháp tăng tàng đã được thuyết; hai pháp bất định đã được thuyết;
ba mươi
pháp ưng xả đối trị đã được thuyết; chín mươi hai pháp ưng đối
trị đã
được thuyết; bốn pháp ưng phát lộ đã được thuyết; bảy mươi lăm
ưng học
pháp đã được thuyết; bảy pháp diệt tranh đã được thuyết. Bao
nhiêu đó là
giới, kinh điển pháp của Ðức Thế Tôn, phải tụng đọc mỗi nửa
tháng. Nơi
đây cần được tất cả chúng ta học tập với sự hòa hợp hoan hỷ vô
tranh.
DỨT PHẦN THUYẾT TỔNG GIỚI
DỨT GIỚI BỔN TỲ KHƯU.
-ooOoo-
CÁCH TỤNG GIỚI BỔN
TÓM TẮT
(SAṄKHEPA)
Trong ngày bố-tát, nếu
lúc sắp tụng giới bổn, có xảy ra một trong mười trở ngại (antarāyika)
thì chư tăng có thể tụng giới bổn tóm tắt, không phạm tội tác
ác. Mười
trở ngại ấy như sau:
1. Trở ngại vì
vua đến (rājantarāyika).
2. Trở ngại vì trộm cướp (corantarāyika).
3. Trở ngại vì hỏa hoạn (aggi-antarāyika).
4. Trở ngại vì nước lụt (udakantarāyika).
5. Trở ngại vì đông người (manussantarā-yika).
6. Trở ngại vì phi nhơn (amanussantarāyika)
7. Trở ngại vì thú dữ (vālantarāyika)
8. Trở ngại vì rắn rít (siriṃsapantarāyika)
9. Trở ngại vì thiệt mạng (jīvitantarāyika)
10. Trở ngại vì nguy phạm hạnh (brahma-cariyantarāyika).
CÓ BỐN CÁCH TỤNG GIỚI BỔN TÓM TẮT:
I- Tụng giới bỏ bớt phần Vitthāruddeso,
sau đó tụng phần kết thúc như vầy:
Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ, uddiṭṭhā
cattāro pārājikā dhammā, uddiṭṭhā terasa saṅghā-disesā dhammā,
uddiṭṭhā
dve aniyatā dhammā. Sutā kho pan' āyasmantehi tiṃsa
nissaggiyāpācittiyā
dhammā, dvenavuti pācittiyā dhammā cattāro pāṭi-desanīyā dhammā
(pañcasattati) sekhiyā dhammā satta adhikaraṇasamathā dhammā.
Ettakaṃ
tassa bhagavato suttāgataṃ suttapariyāpannaṃ anvaḍ-ḍhamāsaṃ
uddesaṃ
āgacchati. Tattha sabbeh' eva samaggehi sammodamānehi
avivadamānehi
sikkhi-tabban'ti.
Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
*
Bạch chư Tôn giả,
duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết;
mười ba
pháp tăng tàng đã được thuyết; hai pháp bất định đã được thuyết.
Còn lại
các Tôn giả đã được nghe rồi như là ba mươi pháp ưng xả đối trị,
chín
mươi hai pháp ưng đối trị, bốn pháp ưng phát lộ, (bảy mươi lăm)
ưng học
pháp, bảy pháp diệt tranh. Bao nhiêu đó là kinh giới pháp điển
của Ðức
Thế Tôn, phải tụng đọc mỗi nửa tháng. Ở đây tất cả chúng ta cần
học tập
với sự hòa hợp hoan hỷ vô tranh.
Dứt giới bổn tỳ-kheo.
II- Tụng giới bỏ bớt
phần Aniyatuddeso và Vitthāruddeso, sau đó tụng
phần kết
thúc như vầy:
Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ, uddiṭṭhā
cattāro pārājikā dhammā, uddiṭṭhā terasa saṅghādi-sesā dhammā.
Sutā kho
pan' āyasmantehi dve aniya-tā dhammā tiṃsa nissaggiyā pācittiyā
dhammā,
dve-navuti pācittiyā dhammā cattāro pāṭidesanīyā dham-mā,
(pañcasattati)
sekhiyā dhammā, satta adhikara-ṇasamathā dhammā. Ettakaṃ tassa
bhagavato
sut-tāgataṃ suttapariyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ udde-saṃ āgacchati.
Tattha
sabbeh' eva samaggehi sam-modamānehi avivadamānehi
sikkhitabban'ti.
Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
*
Bạch chư Tôn giả,
duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết;
mười ba
pháp tăng tàng đã được thuyết; Còn lại đã được chư Tôn giả nghe
rồi như
là hai pháp bất định, ba mươi pháp ưng xả đối trị, chín mươi hai
pháp
ưng đối trị, bốn pháp ưng phát lộ, (bảy mươi lăm) ưng học pháp,
bảy pháp
diệt tranh. bao nhiêu đó là kinh giới pháp điển của Ðức Thế Tôn,
phải
đọc tụng mỗi nửa tháng. Ở đây tất cả chúng ta cần phải học tập
với sự
hòa hợp hoan hỷ vô tranh.
Dứt giới bổn tỳ-kheo.
III- Chỉ tụng giới
hai phần là Nidānuddeso, và Pārājikuddeso rồi tụng
phần
kết như sau:
Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ, uddiṭṭhā
cattāro pārājikā dhammā. Sutā kho pan' āyasmantehi terasa
saṅghādisesā
dhammā dve aniyatā dhammā tiṃsa nissaggiyā pācittiyā dhammā
dvenavuti
pā-cittiyā dhammā cattāro pāṭidesanīyā dhammā (pañcasattati)
sekhiyā
dhammā satta adhikaraṇasa-mathā dhammā. Ettakaṃ tassa bhagavato
suttāga-taṃ suttapariyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ āgacchati.
Tattha
sabbeh' eva samaggehi sammo-damānehi avivadamānehi
sikkhitabban'ti.
Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
*
Bạch chư Tôn giả,
duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết.
Còn lại
đã được chư Tôn giả nghe rồi như là mười ba pháp tăng tàng, hai
pháp bất
định, ba mươi pháp ưng xả đối trị, chín mươi hai pháp ưng đối
trị, bốn
pháp ưng phát lộ, (bảy mươi lăm) ưng học pháp, bảy pháp diệt
tranh. Bao
nhiêu đó là kinh giới điển pháp của Ðức Thế Tôn, phải tụng đọc
mỗi nửa
tháng. Ở đây cần được tất cả chúng ta học tập với sự hòa hợp,
hoan hỷ,
vô tranh.
Dứt giới bổn tỳ-kheo.
IV- Chỉ tụng giới một
phần là Nidānuddeso, rồi tụng phần kết như sau:
Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto. Sutā kho pan'
āyasmantehi cattāro pārājikā dhammā, terasa saṅ-ghādisesā dhammā
dve
aniyatā dhammā tiṃsa nis-saggiyā pācittiyā dhammā dvenavuti
pācittiyā
dhammā cattāro pāṭidesanīyā dhammā (pañcasat-tati) sekhiyā
dhammā satta
adhikaraṇasamathā dhammā. Ettakaṃ tassa bhagavato suttāgataṃ
sut-tapariyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ āgac-chati. Tattha
sabbeh' eva
samaggehi sammodamā-nehi avivadamānehi sikkhitabban'ti.
Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
*
Bạch chư Tôn giả,
duyên khởi đã được thuyết. Còn lại đã được chư Tôn giả nghe rồi
như là
bốn pháp triệt khai, mười ba pháp tăng tàng, hai pháp bất định,
ba mươi
pháp ưng xả đối trị, chín mươi hai pháp ưng đối trị, bốn pháp
ưng phát
lộ, (bảy mươi lăm) ưng học pháp, bảy pháp diệt tranh. Bao nhiêu
đó là
kinh giới điển pháp của Ðức Thế Tôn, phải tụng đọc mỗi nửa
tháng. Ở đây
cần được tất cả chúng ta học tập với sự hòa hợp, hoan hỷ, vô
tranh.
Dứt giới bổn
tỳ-kheo.
Ðến đây đã kết
thúc cách thức Tăng bố-tát (saṅgha-uposatha).
-ooOoo-
CÁCH THỨC GAṆA-UPOSATHA
Làm lễ bố-tát chỉ có hai
hoặc ba vị Tỳ-kheo thì không tụng pāṭimokkha mà chỉ làm
bằng cách
phát lộ sự thanh tịnh. Cách bố-tát nầy vì vậy cũng được gọi là
Parisuddhi-uposatha (thanh tịnh bố-tát).
Nếu chúng có ba vị thì phải tuyên ngôn trước khi
mỗi vị phát lộ thanh tịnh, như sau:
Suṇantu me āyasmantā ajjuposatho paṇṇa-raso
[16].
Yad' āyasmantānaṃ pattakallaṃ mayaṃ añ-ñamaññaṃ
parisuddhi-uposathaṃ
kareyyāma.
Thưa các Tôn giả, xin hãy nghe tôi, hôm nay là
ngày bố-tát rằm. Nếu đã hợp thời với các Tôn giả, chúng ta phải
làm
thanh tịnh bố-tát lẫn nhau.
Sau khi tuyên ngôn, mỗi vị sẽ tuần tự hạ lạp phát
lộ thanh tịnh, như sau:
Vị lớn hạ nhất hãy nói ba lần:
Parisuddho ahaṃ āvuso parisuddho' ti maṃ
dhāretha. Dutiyampi parisuddho ... pe ... Tatiyampi parisuddho
.. pe ..
Các hiền giả tôi thanh tịnh, xin các vị nhận
biết tôi là người được thanh tịnh. Lần thứ hai ... Lần thứ ba
...
Các vị nhỏ hạ nói sādhu, rồi phát lộ 3 lần
như vầy:
Ukāsa parisuddho ahaṃ bhante parisuddho' ti maṃ
dhāretha. Dutiyampi parisuddho ...pe... Tatiyampi parisuddho
...pe...
Thưa các Ngài, tôi thanh tịnh, xin các Ngài nhận
biết tôi là người được thanh tịnh. Lần thứ hai ... Lần thứ ba...
Một vị phát lộ xong các vị khác đều nói Sādhu.
Nếu gana-uposatha chỉ có hai vị Tỳ-kheo thì
không cần tuyên ngôn, chỉ tự mỗi vị phát lộ thanh tịnh cho biết
nhau là
được.
Vị lớn hạ phát lộ:
Parisuddho ahaṃ āvuso parisuddho' ti maṃ
dhārehi. Dutiyampi parisuddho ... pe ... Tatiyampi parisuddho ..
pe ..
Nầy Hiền giả, tôi thanh tịnh; ông hãy nhận biết
là tôi thanh tịnh. Lần thứ nhì ... lần thứ ba ...
Vị nhỏ hạ phát lộ:
Parisuddho ahaṃ bhante parisuddho' ti maṃ
dhāretha
[17].
Dutiyampi parisuddho ... pe ... Tatiyampi parisuddho .. pe ..
Bạch Ngài, tôi thanh tịnh, xin Ngài nhận biết là
tôi thanh tịnh. Lần thứ nhì ... Lần thứ ba ...
DỨT GAṆA-UPOSATHA
-ooOoo-
CÁCH THỨC
PUGGALA-UPOSATHA
Puggala-uposatha
tức là Ðơn thân bố-tát.
Khi vị
Tỳ-kheo tại trú xứ vào ngày bố-tát không có các vị khác đến cùng
làm lễ
bố-tát thì một cũng phải làm lễ bố-tát bằng cách chú nguyện
rằng:
Ajja me uposatho, Hôm
nay là ngày bố-tát của ta.
Hoặc nguyện khác:
Ajja me uposatho
paṇṇaraso' ti adhiṭṭhāmi, ta chú nguyện rằng hôm nay ngày rằm là
ngày
bố-tát của ta.
DỨT
PUGGALA-UPOSATHA
DỨT LỄ BỐ TÁT
-ooOoo-
[1] Những vị Tỳ-kheo ngụ
trong
chùa cùng một ranh Sīmā, khi Tăng tụ họp làm tăng sự mà
vị
Tỳ-kheo nào bị bệnh hay hữu sự không thể vào tăng hội để dự
tăng sự
thì vị ấy phải nhắn gởi lời thoả hiệp (chanda) với một
vị khác
nhờ trình Tăng thì Tăng sự mới tiến hành tốt đẹp; nếu là tăng
sự
bố-tát (uposatha) thì ngoài việc gởi lời thoả hiệp (chanda),
vị Tỳ-kheo ấy phải tỏ sự thanh tịnh (parisuddhi) của
mình
để nhờ trình tăng.
[2] Nếu trong ngày Bố-tát
ấy
không có vị nào gởi lời Chandapāri- suddhi thì nói "idha
natthi", còn nếu có vị Tỳ-kheo bệnh gởi lời thì phải nói "idha
atthi" và để cho vị nào trách nhiệm nhận lời đứng ra trình
tăng.
[3] Việc kể mùa tiết xác
định
thời điểm bố-tát (utukkhānaṃ), vị Tỳ-kheo đáp luật phải
rành rẽ
cách tính, như thông thường mỗi mùa có 8 kỳ bố-tát, riêng mùa
mưa
(vāssāna utu) thì có 7 kỳ bố-tát và 1 kỳ tự tứ (satta
ca
uposathā ekā ca pavāraṇā); gặp năm nhuần, mùa có tháng
nhuần thì
có 10 kỳ bố-tát (dasa uposathā), phải kể: nay là mùa
gì, trong
mùa có mấy kỳ bố-tát, hiện đang kỳ bố-tát, đã trải qua mất kỳ
hay chưa
trải qua (natthi uposatho atikkanto); sẽ còn mấy
kỳ hay
đã đủ (aṭṭha uposathā paripuṇṇā).
[4] Tùy theo số Tỳ-kheo
tăng hội
mà nói như hiện có 5 vị thì nói gaṇanā pañca bhikkhū honti.
Hiện có 8 vị thì nói gaṇanā aṭṭha bhikkhū honti .v.v...
[5] Theo lịch Ấn Độ thời
xưa,
tính một tháng có hai thời kỳ: Sukkhapakkha (thời sáng
trăng)
được 15 ngày, và kāḷapakkha (thời tối trăng) được 15
ngày hoặc
14 ngày (tháng đủ, tháng thiếu). Ngày cuối của mỗi thời (pakkha)
gọi là paṇṇarasī (nhằm ngày rằm và 30 âl), ngày
cuối của hạ
huyền (kālapakkha) tháng thiếu gọi là catuddasī (nhằm
ngày 29 âl tháng thiếu). ngày paṇṇarasī và ngày catuddasī
nhất định là ngày bố-tát; còn ngày samaggī, tức là
ngày hòa
hợp, nghĩa là chư tỳ-kheo trước có bất hòa nhưng nay hòa hợp
lại, thì
ngày hòa hợp bất luận là ngày nào trong tháng cũng đều phải
làm bố-tát
để thanh tịnh Tăng. Nên nói có 3 ngày làm bố-tát là vậy.
[6] Nếu lễ bố-tát hôm ấy
là ngày
nào thì phải nói rõ.
[7] Hai mươi mốt hạng
người không
nên cho vào tăng sự bố-tát là: người thế tục, Tỳ-kheo ni, học
nữ,
sa-di, sadi ni, người xả giới, người phạm tội cực nặng, người
bị treo
tội vì nghi, người bị treo tội vì không hối cải, người bị treo
tội vì
không bỏ ác kiến, người lại cái, người giả tu, người ngoại
giáo, loài
súc sanh, người giết mẹ, người giết cha, người giết vị
A-La-Hán, người
dâm Tỳ-kheo ni, người chia rẽ tăng, người trích máu Phật,
người lưỡng
tính.
[8] Thay đổi tên này lễ
bố-tát:
paṇṇaraso hoặc catuddaso hoặc samaggo.
[9] Về đơn vị đo lường, 1
gang
tay Ðức Phật khó xác định là bao nhiêu; có nhiều sách giải
thích khác
nhau, chỉ biết rằng 1 gang của Ðức Phật bằn g 3 gang người
thường (20
cm x 3 = 60 cm). Như vậy có thể tịnh thất 4,20 m x 7,20 m.
[10] Một do tuần (yojana)
bằng 16 km; tuy nhiên có vài sách giải thích khác nhau về đơn
vị đo
nầy.
[11] Tháng Kattika
có hai:
1) pubbakattika hay còn gọi là kattikate-māsikā
(tháng 9
âl) và 2) pacchimakattika hay còn gọi là kattikacātumāsika
(tháng 10 âl) .
[12] Biệt thí y
(accekacīvaraṃ) là y đặc biệt, ngoại lệ.
[13] Hạn kỳ cho phép giữ
y, là 1
tháng cuối mùa mưa, nếu có quả báo Kaṭhina thì thêm
thời hạn 4
tháng mùa lạnh.
[14] Lối 5 dm (5
tấc
tây). Theo chú giải, 1 ngón tay của Ðức Phật bằng 3 ngón tay
người
thường.
[15] Ðã dẫn chú thích
trong điều
6 của giới Tăng tàng (saṅghādisesa).
[16] Ngày rằm hay 30 âl
đều nói
là paṇṇaraso nếu là
ngày 29
âl của tháng thiếu thì nói là catuddaso .
[17] Vì cung kính nên
dùng động
từ số nhiều, dù chỉ nói với một vị trưởng lão.
-ooOoo-