VII
NIỀM VUI ÐẦU XUÂN
Hôm nay là ngày Tết Nguyên Ðán, Quý Tăng Ni và chư Phật Tử đến đây chúc mừng năm mới và cầu tuổi thọ cho tôi. Vì tôi có một chút niềm vui nên muốn nói chuyện nhiều với chư Tăng Ni và Phật Tử. Vậy quý vị đứng dậy Tổ chứng minh cho, rồi ngồi xuống để tôi tiếp tục nói chuyện nhân buổi đầu xuân.
Sở dĩ tôi nói có một chút niềm vui là vì một hôm, tôi đang ngồi nghĩ ngơi, bỗng dưng tôi nhớ lại câu chuyện thiền sư Huệ Hải đến hỏi đạo với Mã Tổ. Khi Huệ Hải đến, Mã Tổ hỏi: Ông đến đây cầu việc gì? Ngài Huệ Hải thưa: Con đến đây để cầu Phật Pháp. Mã tổ bảo: Kho báu nhà mình không đoái hoài, bỏ nhà chạy tìm cái gì. Ngài Huệ Hải thưa: Cái gì là kho báu của tôi. Mã Tổ nói: Chính là cái người hỏi ta đó, đó là kho báu của người, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài. Ngay câu này ngài liền nhận ra kho báu của mình vui mừng lễ tạ. Về sau khi giáo hóa đồ đệ, ngài bảo: Từ khi ta đến Mã Tổ nhận được kho báu nhà mình đến giờ sử dụng tự tại, không bao giờ thiếu thốn. Khi ấy bỗng dưng tôi tự hỏi: Mình thiếu thốn cái gì? Rồi tôi cười.
Tôi lại nhớ đến hai thí dụ trong kinh Pháp Hoa: Thí dụ, chàng Cùng Tử và thí dụ Hệ Châu. Các đệ tử lớn của Ðức Phật, sau khi ngộ được tri kiến Phật mới trình lên thí dụ chàng Cùng Tử thuở nhỏ đã bỏ cha trốn đi lang thang xứ người, sống chật vật nghèo khổ, khi tuổi đã lơn, chàng nhớ đến cố hương trở về tìm cha mẹ. Khi gặp lại cha sống trong cảnh giàu sang quyền quý, chàng Cùng Tử không dám nhìn cha, vì không nhận ra ông trưởng giả đầy thế lực là cha mình. Nên chàng Cùng Tử hoảng sợ bỏ chạy, khiến ông trưởng giả phải khó nhọc sai người đi dụ dỗ, sau cùng chàng Cùng Tử chịu trở về với tư cách làm thuê cho ông trưởng giả, chứ không dám nhận mình là con ông. Lần lần về sau, nhờ sự khôn ngoan khéo léo của ông trưởng giả, nên sau cùng đến giờ sắp chết, ông gọi người con trai đến và hội cả thân tộc lại tuyên bố rằng: người nầy thật là con ta, ta thật là cha nó..., và trao cả sự nghiệp cho chàng Cùng Tử. Từ đó chàng Cùng Tử mới thấy thật mình là con ông trưởng giả và thừa hưởng sự nghiệp của ông cha mình.
Qua thí dụ trên chúng nhận thấy chàng Cùng Tử đi lang thang, khi trở về không dám nhận cha mình là ông trưởng giả và không dám tự nhận mình là con ông, nên hoảng sợ bỏ chạy và khi được dụ dỗ mới trở lại. Nếu chàng Cùng Tử ấy khi trở về liền nhận cha mình là ông trưởng giả, cũng như tự nhận mình là con ông, thì chắc khỏi bận tâm người cha phải dụ dỗ...
Ðến thí dụ thứ hai là thí dụ Hệ Châu. Ðây là một hình ảnh một người nghèo khổ đói rét về thăm bạn thân, rồi say rượu nằm ngủ. Người bạn thương cho anh một hột châu quý và cột trong chéo áo của anh, nhưng vì say nên anh không hay biết. Người bạn bận việc phải đi. Anh chàng say khi tỉnh dậy liền đi lang thang xứ nầy xứ khác, ăn mày đói khổ. Một hôm, người bạn thân gặp anh đang sống cảnh khốn cùng, mới nói: Ngày xưa tôi tặng anh một hạt châu quý, giá trị vô lượng, cột vô chéo áo của anh, nếu anh đem ra dùng thì sẽ thành một triệu phú, đâu phải sống lang thang đói rét đến hôm nay. Người bạn mới chỉ thẳng hạt châu cho anh, khi nhận ra hạt châu, anh chàng đói rét kia liền hết thiếu thốn nghèo khổ, trong thí dụ trên, người nghèo khổ được ban tặng cho một hạt châu quý, cột trong chéo áo (vì ở Ấn Ðộ dùng y quấn lên mình, không có may túi trên y, nên cột hạt châu trên chéo áo). Vì anh chàng say sưa không hay biết, quên mình có hạt châu trong chéo áo, nên phải sống lang thang vất vả, khi người bạn chỉ, anh nhớ lại rõ ràng mình có hạt châu quý, ngay luc ấy anh không còn lang thang nghèo đói nữa. Hình ảnh ấy cho chúng ta thấy chỉ cần một phen nhớ mình có hạt châu thì hết nghèo, nếu quên mình có hạt châu thì thấy mình là kẻ ăn mày, nhớ mình có hạt châu liền hết ăn mày.
Như vậy cái giàu sang của chàng Cùng Tử và của anh chàng say đối với cái nghèo khổ của hai người ấy cách khoảng bao lâu, giữa tỉnh và mê. Ví như anh chàng Cùng Tử khi gặp lại cha nhận ngay cha mình là ông trưởng giả, lúc ấy chưa thay đổi y phục của kẻ Cùng Tử, nhưng còn thay mình là Cùng Tử hay không? Và anh chàng có sẳn hạt châu trong chéo áo vừa nhớ lại mình có hạt châu, lúc ấy khi còn nón lá, mặc áo rách, nhưng anh còn thấy cái nghèo chăng? Cái nghèo của chú say kia, lỗi tại chỗ nào? Chỉ tại quên mình là con ông trưởng giả. Chỉ tại quên mình là người có hạt châu.
Kinh Pháp Hoa rất cao siêu, thuộc về đại thừa đốn ngộ. Ðốn nghĩa là nhanh: Nhớ mình là con ông trưởng giả, nhớ mình có hạt châu, liền thấy mình giàu. Quên mình là con ông trưởng giả, quên mình có hạt châu, là kẻ ăn mày bần cùng. Chỉ trong tích tắc đồng hồ, bỏ nghèo thành giầu, chỉ trong tích tắc chuyển mê thành ngộ. Ðó là chỗ cao siêu đốn ngộ của kinh Pháp Hoa. Ðó cũng là chỗ nhận ra kho báu nhà mình của thiền sư Huệ Hải. Chỉ ngay trong câu hỏi của Mã Tổ, trong khoảng tích tắc đồng hồ, ngài Huệ Hải liền nhận ra kho báu nhà mình vốn tự đầy đủ, chưa từng thiếu thốn, không phải đi lang thang cầu pháp nơi đây nơi khác. Chỉ một phen nhận ra một cách mau chóng kho báu nhà mình liền trở thành người giàu có suốt đời không thiếu thốn: Ðó gọi là đốn ngộ, còn quên gọi là mê. Mê lộ quên đường, chỉ vì quên kho báu của mình, nên chúng ta lang thang trong luân hồi sinh tử, không biết bao nhiêu kiếp cho đến ngày nay tuy đôi lúc tỉnh giác trở về với đạo nhưng vẫn còn thấy mình nghèo thiếu, nên đi học hỏi nơi nầy nơi kia, tìm cầu bên ngoài, nếu nhớ lại thì hết đói khát thiếu thốn. Ðó là tinh thần đốn ngộ thiền tông. Trong bài kệ của Lục Tổ rất phù hợp với tinh thần đốn ngộ của kinh điển đại thừa.
Pháp đốn ngộ này không có thời gian, như câu chuyện nàng Long Nữ thành Phật trong kinh Pháp Hoa. Nàng Long Nữ là con gái của vua rồng mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí huệ thấu rỏ các pháp. Ðược ngài Văn Thù Sư Lợi hóa đô, trong khoảng giây lát, nàng chứng được quả vô thượng bồ đề, ngài Xá Lợi Phất không tin việc nầy. Vô lý một người phụ nữ, thuộc loại súc sanh mà được thành Phật, việc nầy rất khó tin. Nàng Long Nữ có một hạt châu quý báu, đem dâng Ðức Phật. Phật liền nhận lấy. Long Nữ nói với tôn giả Xá Lợi Phất: Tôi dâng châu báu, Ðức Thế Tôn nhận lấy, việc nầy trong khoảng bao lâu? Ðáp: Trong chốc lát. Long Nữ nói: Tôi thành Phật cũng nhanh như vậy.
Thật vậy, nếu chúng ta nhận mình là con ông trưởng giả thì trong chớp mắt mình không còn là gã Cùng Tử lang thang đói rét nữa. Nếu chúng ta biết mình có hạt châu trong áo, dù có ai chê cười mình la kẻ ăn mày nghèo khổ, mình vẫn cười, không hổ thẹn, vì mình biết là cự phú mai kia mà. Nhận rõ như vậy, chúng ta không còn lo sợ thiếu thốn, nghĩ như vậy chúng tôi cảm thấy vui vì năm nay chúng tôi và quý vị đều là người giàu nhứt, là những cự phú nay mai.
Kinh điển đại thừa thường hay nói mê và ngộ nhanh như trở bàn tay, vì sao? Vì mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Hạt châu có sẵn trong túi áo; chỉ cần nhớ lại mình có hạt châu là thành kẻ giàu. Cái nhớ lại chỉ trong khoảnh khắc, không thể nói với thời gian được. Tuy chúng ta chưa bán được hạt châu để sắm xe cộ, nhà cửa... nhưng chúng ta chắc chắn là không phảikẻ nghèo khổ. Cũng như một phen ngộ rồi chúng ta là Phật trong tương lai, không nghi ngờ gì nữa. Ngộ rồi, chúng ta không phải còn là kẻ chúng sanh, ăn mày lang thang nữa. Trong nhà thiền nói mê là chúng sanh, ngộ là Phật: Chỉ mê và ngộ thôi, cũng như chỉ nhớ và quên thôi, nhớ và quên còn mau hơn cả cái tích tắc đồng hồ, không thể tính thời gian được, đó gọi là đốn ngộ, nghĩa là ngộ nhanh không thể lường được. Mê thì Phật làm chúng sanh, quên mình có hạt châu, thấy mình là kẻ ăn mày: ngộ thì chúng sanh làm Phật. Chính kẻ ăn mày nhận hạt châu trong túi áo, thấy mình là tay cự phú.
Nhưng thử hỏi tại sao chúng ta không giác ngộ mà cứ mãi si mê như vậy? Ðó là câu hỏi mà người tu hành thường thắc mắc. Lỗi tại đâu mà chúng ta không ngộ, mà cứ si mê như vậy? Ðó là câu hỏi mà người tu hành thường thắc mắc. Lỗi tại đâu mà chúng ta không ngộ, mà cứ mê hoài? Sau đây là câu chuyện của Ngài Sa Di Di Cao. Ngài Sa Di Di Cao đến với thiền sư Dược Sơn. Ngài Dược Sơn hỏi, ta nghe nó ở Trường An ồn ào lắm nhỉ? Ngài Sa Di Cao trả lời: Xứ con an ổn. Qua câu trả lời chúng ta thấy ngài Sa di Cao là kẻ giàu phải không? và tại sao giàu? Ngài Dược Sơn hỏi tiếp: Người do học kinh mà được hay do thưa hỏi mà được? Ngài Sa di thưa: Không do học kinh cũng không do thưa hỏi. Ngài Dược Sơn bảo: Những người khác không học kinh không thưa hỏi tại sao lại không được? Ngài Sa di thưa: Không phải họ không có, tại vì họ không chịu nhận thôi. Chính vì những người khác không chịu nhận cái ấy sẵn có nơi mình, nên lắm kẻ nghèo lang thang, chỉ một phen nhận ra, từ đó về sau đi đứng nằm ngồi không bao giờ quên, không bao giờ thấy mình là kẻ nghèo đói thiếu thốn nữa.
Khi nghe hỏi: Trường An ồn náo phải không? Ngài Sa di Cao trả lời: Xứ con an ổn. Vậy xứ của ngài là xứ nào? Vì Trường an là kinh đô ồn náo, xứ của ngài Sa di có phải trong đồng hoang, rừng vắng chăng: Nếu ai chỉ được chỗ ấy là biết xứ ngài. Ðể chỉ người dám chỉ không tôi xin dẫn câu chuyện của ngài Qui Chơn. Ngài Qui Chơn đến với Tổ Qui Sơn. Tổ hỏi: Người tên gì? Dạ con tên Qui Chơn. Tổ hỏi: Qui Chơn ở chỗ nào? Ngài trả lời không được, rồi từ giả Tổ xuống núi. Gặp Ngài Ngưỡng Sơn đang chăn trâu. Ngài Ngưỡng Sơn hỏi: Sao Thượng Tọa lên núi xuống mau quá vậy? Ngài Qui Chơn đáp: Tại vì cơ duyên không hợp. Hỏi: Vậy Hòa Thượng hỏi gì? Ðáp: Hòa Thượng hỏi tôi tên gì, tôi nói: Qui Chơn, rồi Hòa Thượng hỏi Qui Chơn ở đâu, tôi trả lời không được nên xuống núi. Ngài Ngưỡng Sơn nói: Thôi Thượng Tọa lên thưa: con nói được, Hòa Thượng hỏi ở đâu. Thượng Tọa chỉ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Ngài Qui Chơn trở lại lên thưa: Con trả lời được và khi Tổ hỏi Qui Chơn ở đâu, ngài liền chỉ mắt, tai v.v... Tổ Qui Sơn liền bảo: Kẻ nói dối, nói rỗng. Cái đó là của thiện tri thức năm trăm người. Vì cái chơn thật, chỗ an ổn của ngài Sa di Cao là chỗ đó, chỗ đó lúc nào cũng an ổn. Sở dĩ chúng ta không an ổn là tại trong tâm ta lăng xăng. Còn ở mắt tai đâu có lăng xăng. Tai nghe tiếng, mắt thấy sắc tâm liền duyên theo sắc. Nên chúng ta mới lăng xăng giao động. Còn ở tai, ở mắt có bao giờ nó lăng xăng đâu. Sống với không động tịnh nên bao giờ ngài Sa di Cao được luôn luôn an ổn. Như vậy, khi nhận ra kho báu nhà mình thì sự sung sướng nhất suốt đời, không còn nghèo khổ, nếu không nhận ra được thì nghe ai nói nơi nào có Phật, chúng ta liền chạy tìm cầu không ngờ mình đã vác Phật đi cầu Phật.
Khi nhớ lại những câu chuyện vừa kể trên, chúng tôi nhận thấy pháp môn tu thiền của chúng ta theo hai cách thức: tạm dùng danh từ là “tu toàn phần” và “tu cục bộ”. Ðó là điều quan trọng chúng tôi cần phải nói rõ với quý vị hôm nay. Thê nào là tu toàn phần? Chúng tôi dẫn lời của ngài Ðại An nói với môn đệ. Tất cả các người đều có hòn ngọc quý thường phóng quang ra sáu cửa... gọi là phóng quan tam muội. Như vậy nếu chúng ta trong các động tác hằng ngày đi đứng nằm ngồi nói nín trông nghe... đều nhớ được hòn ngọc quý của chính mình thường phóng quang ra sáu cửa (không nhớ những trần cảnh bên ngoài) đó gọi là tu toàn phần. Tu toàn phần là đồng với ánh sáng do hòn ngọc quý phóng ra, không lệ thuộc vào sáu trần, ánh sáng ấy không phải động, không phải tịnh vì vượt ra ngoài vòng đối đãi động tịnh. Trong quyển “yếu chỉ thiền tông” chúng tôi gọi lối tu toàn phần nầy là lối tu nhớ ông chủ. Nghĩa là mọi hoạt động đi đứng nằm ngồi, chúng ta hằng nhớ ánh sáng của hòn ngọc quý phóng ra sáu cửa, không bao giờ quên việc ấy. Trong nhà tu thiền gọi đó là trưởng dưỡng thánh thai (hay là nuôi lớn thánh thai của chính mình).
Tổ Lâm Tế có nói:
Tùy duyên tiêu cựu nghiệp: Tùy duyên tiêu nghiệp cũ.
Nhận vận y xiêm: Hồn nhiên mặc áo xiêm.
Chúng ta vẫn sống bình thường như bao nhiêu người, nhưng nghiệp cũ lần lần lặng bớt. Ăn cơm mặc áo đều hồn nhiên, không có những suy nghĩ lăng xăng chen vào. Ðó gọi là sống với ông chủ. Sống được như vậy là người nhớ, người tỉnh. Còn những ai sống chạy theo sáu trần, phân biệt sáu trần là người quên, người mê, tỉnh với mê chỉ là sống được với ông chủ, hay chạy theo sáu trần.
Ðó là lối tu toàn phần, nói một cách tổng quát nếu muốn thực hành, chúng ta phải tu hành như thế nào? Vọng tưởng chúng ta còn quá nhiều, tâm ý cứ mãi lăng xăng, không hằng sống được với ông chủ. Chúng ta muốn tu toàn phần phải làm sao? Như khi chúng ta đang đi, bổng nhớ lại chuyện năm trước. Chúng tôi chỉ cần nhắc lại một câu: đi chỉ là đi. Những ý tưởng lăng xăng liền dừng lại, khi chúng ta đang ngồi chơi vọng niệm vừa khởi, chúng ta liền nhắc: bổ củi chỉ là bổ củi. Nấu cơm chỉ là nấu cơm, nghĩa là nhắc lại những việc mình đang làm, tự nhiên những ý nghĩ lăng xăng sẽ dứt hết.
Thật ra người tu toàn phần phải gan dạ cô cùng, vì không thấy ngồi thiền coi như là không biếng nhác bê trễ. Nhưng đúng ra, các Tổ khi xưa ít khi ngồi thiền vì các Ngài sống trong hành động cũng là nhớ, cũng là tỉnh, cần gì ngồi thiền. Nhưng riêng chúng tôi vẫn ngồi thiền, vì ngồi thiền có lợi tránh được sương gió bệnh hoạn. Nhất là vào buổi khuya đầu hôm khi khí trời lành lạnh. Ngồi thiền phải như thế nào? Chúng ta ngồi đúng phương pháp, đàng hoàng, mắt nhìn xuống vừa tầm, hơi thở điều hòa. Tâm trí lặng lẽ, tỉnh táo, vừa dấy niệm liền nhắc, ngồi thiền chỉ là ngồi thiền thì tự nhiên sẽ thảnh thơi. Ngồi thiền chỉ chừng ấy việc thôi. Không thêm cái gì khác nữa, pháp tu này thật là nhàn hạ.
Xin nhắc lại, ngoài giờ ngồi thiền, trong các hoạt động đi đứng nằm ngồi, chúng ta chỉ hằng nhớ, đi cầu chỉ là đi cầu, đi tắm chỉ là đi tắm... không thêm cái gì khác nữa. Tu như vậy cả ngày chúng ta thấy thảnh thơi nhàn nhã. Chủ yếu của việc tu nầy chỉ nhớ đừng quên. Nhớ lại là mình giàu, quên đi thành kẻ nghèo. Chỉ chừng ấy việc để ứng dụng tu trong mỗi trường hợp. Còn thế nào là tu cục bộ. Tu cục bộ tức là tu từng bộ phận. Chúng tôi xin dẫn ra đây một thí dụ để nhận rõ. Trong kinh Lăng Nghiêm, Ðức Phật chủ yếu dạy Ngài A Nan ngộ đạo. Ðến phần Ðức Phật giải thích về phần thất đại. Ngài A Nan liền ngộ và phát thệ nguyện. Sau đó Ngài A Nan thừa cùng Ðức Phật : Con cũng như kẻ nghèo nàn bỗng dưng được nhà vua tặng cho một ngôi nhà lầu đẹp, bây giờ con không biết phải làm sao mà vòa, cúi xin Thế Tôn chỉ cho con cửa vào trong ngôi nhà ấy. Ðức Phật liền nói pháp môn tu hành của 25 vị thánh và cuối cùng Phật bảo ngài Văn Thù tuyển chọn pháp nào hợp với căn cơ chúng sanh cõi này. Ngài chọn pháp môn “Phản văn tự tánh” của Bồ Tát Quán Thế Âm, làm cửa vào. Ðây là một phương tiện rất phù hợp với chúng sanh ở cõi ta bà nầy và ngài Văn Thù dùng pháp môn nầy mà chỉ dạy cho ngài A Nan tu. Như vậy việc chủ yếu là sau ngộ đạo rồi phải tu. Ở đây là tu một bộ phận, nghĩa là trong sáu bộ phận chỉ lấy tánh nghe để trở về. Vì vậy mà chúng tôi tạm gọi là tu cục bộ.
Từ trước đến nay các vị đều tu theo cách “Phản văn văn tự tánh” thường hay lầm, mà chính chúng tôi cũng bị lầm. Chúng ta cứ nghĩ, nghe lại tánh nghe, thì nghe làm sao? Chúng tôi kinh nghiệm nhiều lần, nếu ngồi lại nghe cái mình hay nghe một lúc sau lỗ tai bắt đầu nhức, có vị nghe trở vô trong, về sau bị ran ngực, thổ huyết thành bệnh. Tu lối phản văn như vậy là một lầm lẫn quá lớn. Phản văn nghĩa là gì? Từ trước đến giờ cái nghe của chúng ta theo âm thanh bên ngoài. Vì cái nghe duyên theo âm thanh bên ngoài. Nếu chúng ta không trôi theo vọng bên ngoài, mà chỉ nhớ đến tánh nghe, gọi là phản văn, tức là nhớ lại tánh nghe.
Tánh nghe như thế nào? Và ở đâu? Khi nghe nói lại tánh nghe, chúng ta nghĩ là tánh nghe tại lỗ tai, rồi chúng ta nghe một lúc lâu, lỗ tai bắt đầu nhức. Phải nhớ tánh nghe trùm khắp mười phương không kẹt ở lỗ tai nên không bị nhức, không sanh bệnh.
Phản văn tự tánh tức là nhớ tánh nghe của mình trùm khắp mười phương đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng như vậy, cho đến ngồi thiền cũng nhớ như vậy, không nhờ gì khác nữa, tánh nghe không có tướng mạo, vì không có tướng mạo nên nó không bị hạn chế hay ngăn cách. Nó trùm khắp mười phương, gọi đó là tu phản văn tự tánh.
Tu toàn phần hay tu cục bộ đều là lối tu chung của kinh và thiền. Trong kinh dạy Bồ Tát Quán Thế Âm đã tu phản văn mà chính tông Tào Ðộng hiện nay đã tu theo lối phản văn này. khi học kinh Lăng Nghiệm, chúng ta cố gắng nhận ra lối tu nầy, do đó mưói biết rõ ràng đường lối tu thiền đã được dạy trong kinh, nhưng muốn tu như vậy là phải ngộ trước rồi sau mới tu. Tu toàn phần hay tu cục bộ chủ yếu là ở một chữ nhớ. Nhớ thì mình là con ông trưởng giả, nhớ thì mình là người giàu có, còn quên thì mình là gã Cùng Tử, quên thì mình là kẻ ăn mày, chỉ nhớ và quên đó gọi là tinh thần đốn ngộ của thiền tông cũng là của đại thừa. Chỉ một chữ nhớ lại thôi là chuyển phàm thành thánh, còn quên là đem thánh vào phàm, đốn ngộ là như vậy.
Dù cho toàn phần hay cục bộ chúng ta phải đủ lòng tin. Ðủ lòng tin. Ðủ lòng tin như ngài Ðại Mai trong câu chuyện sau đây: Ngài Ðại Mai vau đi ngộ đạo với Mã Tổ liền lên núi Ðại Mai ở ẩn. Mã Tổ nghe ngài ở núi liền sai một vị tăng đi thăm dò, vị tăng hỏi: Hòa Thượng đến Mã Tổ được cái gì mà về ở núi nầy? Ngài đáp: Ta nghe Mã Tổ nói tức tâm tức Phật ta liền về ở núi (tức là Ngài nhận ra cái tức tâm tức Phật ấy). Tăng nói: Gần đây Mã Tổ đã dạy “phi tâm tức phi Phật”. Ngài bảo: Ông già mê hoặc người không có ngày thôi. Mặc ông nói phi tâm phi Phật, ta chỉ biết tức tâm tức Phật thôi. Vị tăng trở về thuật lại Mã Tổ nghe, Mã Tổ nghe, Mã Tổ nói: trái mai đã chín.
Tin như ngài Ðại Mai là xác tín. Nghĩa là tin một cách không lung lay, chính vị thầy đã dạy mình ngộ đạo; Cũng chính vị thầy ấy ngày sau dạy khác đi mà niềm tin của ngài vẫn vững chắc không bị lung lay, huống nữa là người nào khác.
Còn chúng ta ngày nay, vì không đủ niềm tin nên hôm nay nghe ai bảo pháp tu nầy hay, ngày mai nghe người khác bảo pháp tu kia hay, chúng ta liền hưởng ứng nghe theo, thật ra chúng ta có tin chi đâu, chúng ta phải nhận ra cho đúng. Không ai làm gì lay chuyển được, người ấy mới có thể tu toàn phần hay cục bộ. Muốn ứng dụng hai pháp tu nầy phải có lòng tin không lung lay như ngài Ðại Mai. Phải ngộ đạo rồi, tin như ngài A Nan nhận ra pháp thân trùm khắp mười phương.
Nếu chúng ta chưa được như ngài A Nan và Ðại Mai chúng ta phải tu cách nào? Ðó là điều chúng tôi thấy cần chỉ cho quý vị, biết rõ. Bây giờ chúng tôi hệ thống hóa lại đường lối tu hành từ trước đến nay của thiền viện để quý vị biết rõ ý nghĩa tu hành của chúng tôi như thế nào.
Các tăng ni đến đây nhận sự hướng dẫn của chúng tôi, trước hết phải học ba năm. Học ba năm để làm gì? Chủ trương của tôi y theo đường lối chư Tổ dạy “Kiến tánh khởi tu” tức là nhận ra bản tánh của mình, rồi sau đó ứng dụng tu. Như phần trước chúng tôi đã nói: Nhận ra nơi mình có hòn ngọc quý phóng ánh sáng ra cửa. Nhận ra nơi mình có hòn ngọc quý phóng ra sáu cửa. Nhận được như vậy rồi mình mới tu toàn phần hay cục bộ, tức làn nhận ra được bản tánh bất sanh bất diệt của chính mình, rồi mới ứng dụng tu. Muốn nhận được bản tánh bất sanh bất diệt chúng ta phải làm sao? Khi xưa chư tổ cho đồ đệ đi tham vấn khắp nơi, gọi là đi tham thiền. Ðể một ngày nào phát minh phát ngộ. Nhưng ngày nay chúng ta không có phương tiện như vậy, nên chúng tôi dùng phương pháp giảng kinh, giảng luận và giảng sử các thiền sư. Khi nghe giảng lâu ngày, quý vị tự thầm nhận, thầm nhận là tự ngộ một cách nhẹ nhàng, nhận ra nơi mình có hòn ngọc quý hằng phóng quang ra sáu cửa. Khi nhận được như vậy gọi là kiến tánh. Kiến tánh là lóe thấy thôi chứ không phải là hằng sống. Lóe thấy rồi bắt đầu ứng dụng tu hằng nhớ, chúng ta có hòn ngọc quý luôn luôn: Hoặc tu toàn phần hoặc tu cục bộ. Vì vậy chúng tôi chủ trương phải học ba năm để quý vị nhận ra rồi ứng dụng tu.
Khi trước chúng tôi rất lạc quan, chúng tôi tin rằng sau khi học ba năm, quý vị đủ lòng tin, đủ lòng tin chúng ta có hòn ngọc quý... tin một cách chắc chắn không nghi ngờ gì nữa. Nhưng đến nay đã bảy năm, tám năm qua rồi mà quý vị còn chưa đủ lòng tin. Ðiều này làm cho tôi bị oan phần nào. Khi đang học ba năm, nếu chúng ta chưa nhận ra bản tình bất sanh bất diệt của chính mình, chúng ta phải tu bằng cách nào? Chúng tôi chỉ quý vị ứng dụng lối tu của Huệ Khả hỏi phương pháp an tâm:Tổ Huệ Khả hỏi phương pháp an tâm. Tổ Ðạt Ma bảo: Ðem tâm ra đây ta an cho. Ngài Huệ Khả xoay lại tìm, tìm một lúc không được. Tổ Ðạt Ma bảo: Ta đã an tâm cho ngươi rồi. Ngay nơi đó Tổ Huệ khả biết cách an tâm (đây là biết cách an tâm chứ chưa phải ngộ). Qua câu chuyện trên chúng ta lầm vọng tưởng là tâm. Chúng ta cho các vọng tưởng lăng xăng đó là tâm của mình. Các vọng tưởng ấy làm cho chúng ta xao xuyến âu lo mãi nên gọi đó là tâm bất an là vì cho vọng tưởng là tâm mình.
Ðể giải cái lầm trên, chúng ta phải nhớ các tưởng tượng lăng xăng đó là vọng tưởng chứ không phải là tâm. Vì vậy đầu tiên, chúng tôi chủ trương lối tu biết vọng. Thay vì ngày xưa cho đó là tâm, ngày nay chúng ta cho biết dó là vọng. Như vậy chúng ta tỉnh đi một chút trong cơn mê. Mê là vì cho vọng tưởng là tâm của mình. Còn tỉnh vì biết vọng tưởng không phải là tâm mình.
Tại sao chúng ta quả quyết như vậy? Vì chúng tôi thấy rõ 6 trần mà chúng ta đang chạy theo chỉ là bóng dáng của ngoại cảnh. Thí dụ: Ban sáng khi xuống chợ, chúng tôi thấy một người ăn mày đáng thương và chú ý đến họ. Chiều về, khi ngồi chơi, bỗng nhiên hình anh ăn mày chợt hiện ra khiến chúng tôi nghĩ về họ. Như vậy hình ảnh người ăn mày là sẵn nơi mình hay từ đâu đến? Ðó là cái bóng của bên ngoài hồi ban sáng. Duyên theo cái bóng ấy, chúng ta nghĩ thành ra suy nghĩ những gì chúng ta đã nghe, đã thấy là suy nghĩ theo cái bóng dáng ở bên ngoài, nó đâu phải là mình, cho đó là tâm mình là lầm lẫn mà tất cả chúng ta lâu nay đều lầm lẫn như vậy hết.
Chúng ta phải nhớ những suy nghĩ đều là duyên theo bóng dáng 6 trần là vọng, và dấy niệm suy nghĩ, liền biết đó là vọng.
Chúng ta phải nhớ những suy nghĩ duyên bóng dáng 6 trần là vọng, vừa dấy niệm suy nghĩ liền biết đó là vọng. Biết như vậy vừa tránh khỏi lầm, vừa dừng được vọng, tức là dựng động. Ðộng đã dừng gọi là tịnh, là định. Ðường lối tu như vậy rất là đơn giản, không có nhiều phiền phức. Ðó là đường lối của Tổ Sư để ứng dụng cho người chưa ngộ.
Khi chúng ta biết vọng mà vọng quá mạnh cứ chạy theo lung tung kéo lôi mình không dừng, chúng ta phải làm sao đây? Thí dụ: Chúng ta có một ít tiền để dành làm một việc mà chúng ta quên không nhớ cất ở đâu, chúng ta tìm mãi chưa ra. Ðến khi ngồi thiền cứ nhớ không biết tiền để ở đâu. Chính khi nhớ đó, biết là vọng mà dừng không được vì vọng quá mạnh lôi kéo mình hoài, để dừng được lại vọng này, chúng ta phải áp dụng lối tu mạnh hơn là: TÌM VỌNG tức là tìm lại xem vọng này xuất phát từ chỗ nào. Khi cái suy nghĩ, vọng tưởng quá lăng xăng, chúng ta phải tìm hiểu xem chúng xuất phát từ đâu; tìm một lúc mới thấy chúng không cội rễ, và chúng mất đi. Ðây cũng là trường hợp Tổ Huệ Khả tìm tâm mình ở đâu, khi tìm lại thì thấy nó không có, gọi là AN TÂM. Chúng tôi đã ứng dụng theo phương pháp an tâm của Tổ Huệ Khả ngay từ buổi ban đầu. Hai lối tu BIẾT VỌNG và TÌM VỌNG được ứng dụng hổ tương cho nhau trong lúc chúng tôi ngồi thiền. Ðây cũng là lối tu cục bộ, xoay trở lại tánh nghe biết của Ý. Sự diễn tiến của lối tu này cụ thể hóa bằng mười bức họa chăn trâu. Vì thế lối tu này cũng gọi là chăn trâu.
Ngoài giờ ngồi thiền chúng ta phải tu như thế nào? Chúng ta phải ứng dụng tinh thần “BÁT NHÔ trong hai pháp quán: “Một là quán thân ngũ uẩn không thiệt, hai là quán 6 trần không thiệt. Tất cả trần cảnh là tướng duyên hợp “huyễn hóa”, thân này cũng là duyên hợp như huyễn. Chúng ta phải hằng quán như vậy, thấy các pháp như huyễn để phá tan những chấp mê về thân, (ngũ uẩn) tâm và cảnh giới.
Pháp tu quán như huyễn đều được dạy trong các kinh điển Ðại thừa. Càng học kinh chúng ta càng thấy rõ ý nghĩa tu như vậy. Trong kinh của Phật dạy các Bồ Tát đem thân như huyễn cứu độ hữu tình như huyễn... Vì sao Phật dạy như vậy? Bởi vì chúng ta nhận xét: “Phàm những gì do duyên hợp đều như huyễn. Những hiểu biết của ta và những lời Phật dạy đều rất phù hợp, và có thể ứng dụng ngay trong cuộc sống. Càng học kinh, càng sáng tỏ việc tu. Vì vậy mà chúng tôi chủ trương đường lối tu ở đây là: “THIỀN GIÁO ÐỒNG HÀNH”. Giáo là kinh, Thiền là ứng dụng tu thiền, hai việc đồng hành, tức là học kinh để chúng ta biết rõ đường lối tu Thiền, tu Thiền để chúng ta sáng tỏ ý Kinh; THIỀN và GIÁO hổ tương cho nhau là như vậy.
Trong phần thực hành, chúng ta phải biết ứng dụng linh động 3 pháp tu: “BIẾT VỌNG, TÌM VỌNG và QUÁN CÁC PHÁP NHƯ HUYỄN”. Khi ngồi thiền chúng ta dùng phương pháp nhẹ là biết VỌNG TƯỞNG thường xuyên, phương pháp mạnh hơn TÌM VỌNG xem nó xuất phát từ đâu. Dùng lối tu biết vọng lâu ngày, nhất là lúc nhập thất đôi ba tháng, do tu chăm quá, chúng ta bị đau đầu, mặt mày buồn xo tánh tình dễ cau có, nhìn qua biết ngay người này đang cố gắng thái quá trong khi tu BIẾT VỌNG. Ðến giai đoạn này, chúng ta phải biết chuyển qua pháp Quán thân như huyễn, cảnh như huyễn, nhìn trời mây nước đều như huyễn sẽ thấy nhẹ nhàng thoải mái. Do nhìn ra ngoài biết các pháp như huyễn, như hóa, chúng ta bớt cố gắng kềm ở bên trong, tinh thần sẽ giản ra lần lần không còn kềm nữa, đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng biết các pháp như huyễn, tâm trí của chúng ta sẽ được thảnh thơi...
Nhìn ra ngoài cảnh mới biết như huyễn, đến một lúc tân bắt đầu loạn, bị ngoại canh lôi cuốn, chúng ta phải xoay vào bên trong, để biết đó là vọng tam sẽ an ổn trở lại. Ứng dụng linh động biết các pháp như huyễn, tu như vậy sẽ không bệnh hoạn, buồn bực và cáu kỉnh nữa. Ðó là kinh nghiệm của chúng tôi đã thấy rõ trong khi tu hành.
Ðối với người sơ cơ chưa nhận ra ông chủ, chúng tôi ứng dụng tình thần “BÁT NHÔ vào việc tu. Vì vậy, phần mở đầu chúng tôi dạy kinh Bát nhã và Kinh Kim Cang, để quý vị dùng trí huệ “Bát Nhã” làm cửa vào Thiền. Dùng trí huệ ấy mãi đến bao giờ khi nghe kinh Phật dạy, hoặc học sử các Thiền Sư, chúng ta tin chắc rằng nơi mình có HÒN NGỌC QUÝ, không còn nghi ngờ gì nữa. Sau khi nhận ra Ông chủ rồi, từ đó về sau, chúng ta sẽ tu hoặc là TOÀN PHẦN hoặc CỤC BỘ.
Theo tinh thần BÁT NHÃ, Phật dạy chúng ta phá tất cả chấp về THÂN và TÂM... mà chưa nhận ra cái chân thật. Ðó gọi là tinh thần GIẢ THUYÊN, một danh từ chuyên môn trong nhà Phật. Giả là ngăn, thuyên là nói, tức là dạy cách ngăn không cho chấp trước. Danh từ Hiện nay gọi là phủ định, nghĩa là dẹp hết không cho chúng ta chấp trước. Còn dùng lối tu TOÀN PHẦN hay CỤC BỘ là theo tinh thần BIỂU THUYÊN, tức là rõ ràng hay cũng gọi là KHẲNG ÐỊNH, nghĩa là chỉ thẳng nơi mình có Ông chủ, và quyết định rằng Ông chủ đó là MÌNH, không còn có nghi ngờ gì nữa.
Phần tu phá cái chấp trước thuộc hệ thống các kinh Bát Nhã. Phần tu chỉ thẳng cái chân thật nơi mình thuộc về hệ các bộ kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm... Nhận theo các lối tu giáo lý đức Phật được chia thành thời Bát Nhã gọi là TRUNG KỲ Phật giáo. Thời Pháp Hoa, Hoa Nghiêm gọi là HẬU KỲ Phật giáo.
Nhân đây chúng ta thấy rõ THIỀN và GIÁO không phải HAI. Bên kinh nói rộng, bên Thiền chỉ nói tắt, nên thấy đường lối như có khác. Bởi chỉ tắt nên quá CÔ ÐỘNG, vì nói rộng cho nên rất thênh thang, chúng ta phải học năm này qua năm khác. Nhưng thật ra cái thênh thang của GIÁO, các Ngài bên THIỀN cô động trong một câu hay hai câu thôi. Nếu một hai câu nhận ra thì biết rõ cái thênh thang này, cũng như nhờ học cái thênh thang này mà biết cái cô động kia. Hai bên THIỀN và GIÁO HỔ TƯƠNG NHAU.
Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa: “Nơi Thiền viện chúng tôi đây ứng dụng tu Thiền hai lối: Một là lối tu BIẾT VỌNG hai là TÌM VỌNG, đồng thời quán các pháp như huyễn, lối tu này của người sơ cơ chưa ngộ; Hai là tu TOÀN PHẦN hay CỤC BỘ của người đã nhận ra Ông chủ hay hòn ngọc quý hằng phóng quang ra 6 cửa, người này phải đủ lòng tin vững chắc, không lay chuyển là đường lối tu của Thiền viện đã rõ ràng, y cứ theo kinh điển làm bằng chứng, không phải do ý thức mình đặt suông ra.
Chúng tôi nhận thấy một cách chắc chắn không nghi ngờ. Tất cả quý vị cũng như chúng tôi, chúng ta sẵn có HÒN NGỌC QUÝ, hằng phóng quang ra 6 cửa. Nhận ra điều này, vì NHIỆT TÌNH của chúng tôi nói lên quá sớm, nên thiếu kinh nghiệm chín chắn. Nhờ một thời gian dài tịnh dưỡng, chúng tôi đủ thời giờ ngồi lại để chiêm nghiệm chín chắn hơn và ứng dụng rõ ràng điều đó. Vì vậy, chúng tôi cảm thấy vui, vui vì có HÒN NGỌC QUÝ mà mình dùng được nên trở thành giàu có. Chúng tôi giàu có và tin rằng mọi giác ngộ cũng đều giàu như vậy, nên năm nay, tôi lạc quan, muốn nói với quý vị nhiều.
Ðể kết thúc, không có gì hơn, chúng tôi chúc tất cả quý vị Tăng Ni và Phật tử sang năm mới sẽ thành người cự phách, là con của ông Trưởng Giả, là người có HÒN NGỌC QUÝ vô giá, mà cũng là người nhận kho báu nhà mình để từ đây về sau khỏi lang thang vất vả nữa.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
--- o0o ---