Thiền học
Căn bản thiền tập
Tác giả: Thích Thông Huệ
15/02/2553 10:20 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

DỪNG BƯỚC ĐI HOANG

Một nhà thơ đã viết:

Hỡi Thượng Đế, xin cúi đầu trả lại

Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang”.

Mang số phận kẻ tha hương, một ngày nhìn lại nỗi cô đơn trống vắng của mình, nhà thơ muốn tìm an ủi nơi Thượng Đế. Chỉ mới ý thức mình chịu một kiếp đi hoang mà ông đã thấy đau khổ cùng cực, thì nếu ngẫm lại lời Đức Phật dạy về thân phận con người, chúng ta có những ý nghĩ gì?

Tất cả chúng sanh đều như gã cùng tử trong Kinh Pháp Hoa. Cha là trưởng giả nhưng con lại lang thang làm kẻ không nhà, chịu nhiều tai ương thống khổ. Mọi người chúng ta, ai cũng có một quê hương thanh bình an lạc, một gia tài đồ sộ tự do sử dụng; nhưng lại quên đi, để rồi trong vô lượng kiếp đắm chìm trong luân hồi sinh tử. Đây là số phận đau thương của con người.

Chư Phật - Bồ tát đã yên ổn nơi quê hương muôn thuở, nhìn chúng sanh còn lặn hụp trong biển khổ trầm luân, nên khởi lòng đại từ đại bi, phát đại nguyện ra tay tế độ. Chúng ta bây giờ có duyên cùng Phật pháp, được thấm nhuần ơn pháp vũ của các Ngài, cũng nên lên đường trở về quê hương. Muốn thế, trước tiên chúng ta phải biết rõ đường hướng, sau đó trang bị đầy đủ tư lương; để cuộc hành trình, dù xa diệu vợi, nhưng cũng có ngày đưa chúng ta đến đích cuối cùng.

I. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ CỦA CHÁNH NIỆM

Trong chữ Hán, Niệm (       ) gồm hai phần: trên là chữ hiện tại (      ), dưới là chữ         (tâm: lòng dạ, tư tưởng), nguyên nghĩa là đặt tâm vào giờ phút hiện tại. Muốn khẳng định nghĩa này người xưa thêm vào chữ chánh, tức chánh niệm, để phân biệt với thất niệm là tâm dong ruổi theo trần cảnh ngoại duyên.

Như vậy, nội dung thứ nhất của chánh niệm là an trú tâm vào thời điểm tại đây và bây giờ, để nhận rõ những sự vật hiện tượng xảy ra xung quanh ta. Đây là sự thấy biết không qua phân tích, suy luận, so sánh - là hành vi của ý thức, thấu suốt tất cả các pháp trong tận cùng uyên nguyên của chúng. Vì không qua lăng kính phân biệt nhị nguyên, nên sự soi sáng các pháp bằng chánh niệm là cái thấy biết như thật, đúng ý nghĩa của “Như thị tri, như thị kiến” trong Kinh Pháp Hoa, của “Tuệ tri” trong Kinh Niệm Xứ, của “Cái Biết” theo chư vị Tổ Sư Thiền ngày xưa và Thiền phái Trúc Lâm ngày nay.

Nội dung thứ hai của chánh niệm, là sự dừng lại để trở về. Con người chúng ta thường nhớ nghĩ về quá khứ và mơ mộng đến tương lai. Dù kỷ niệm buồn đau hay vui sướng, chúng ta đều mãi nâng niu ôm ấp nó. Chúng ta cũng hy vọng về một ngày mai tươi sáng hơn hôm nay, và ấp ủ hy vọng ấy như một nguồn an ủi trong cuộc sống. Tâm chúng ta luôn luôn chạy theo những gì đã qua hoặc chưa đến mà quên mất giờ phút hiện tại đang là, không biết rằng mảnh đất thực tại mới là nơi có thể an trú vững chãi. Thực tập chánh niệm là dừng tâm dong ruổi lại, không chạy đuổi theo những bóng dáng không thật ấy nữa mà xoay về chính mình. Mục đích là nhận diện rõ những tâm hành sinh diệt, cùng những biến đổi từ thô đến tế của các bộ phận trong cơ thể. Đây là tinh thần phản quan tự kỷ, giúp chúng ta có một cái nhìn đúng đắn về thân và tâm mình, chỉ là duyên sinh giả hợp, không thực có, không thường còn. Chúng ta sẽ thao thức muốn biết đâu là con người thật xưa nay của mình, đâu là quê hương muôn đời bí mật mà từ lâu mình quên lãng.

Dù chúng ta theo pháp môn nào, chánh niệm vẫn là nền tảng trong việc tu hành. Trong pháp môn Tịnh Độ, tâm hành giả gắn chặt vào Lục tự Di-Đà đến nhất tâm bất loạn; Mật tông trì câu chú đến Tam mật tương ưng; nhà Thiền áp dụng cách miên mật theo dõi hơi thở hay vọng niệm dấy khởi... Các pháp môn tuy có những phương tiện tu tập khác nhau và không sử dụng cùng một từ ngữ, nhưng tựu trung đều là tinh thần của chánh niệm. Có thể nói, chánh niệm là con đường đúng đắn để trở về cố hương, còn thất niệm là sống kiếp cùng tử không nhà.

- Phật dạy:

Quá khứ không truy tìm

Tương lai không ước vọng

An trú trong hiện tại

Do vậy sắc thù diệu.

Nếu không truy tìm về quá khứ hay ước vọng về tương lai, tỉnh thức và an trú trong hiện tại, chúng ta không bị trần cảnh chi phối. Sắc diện trở nên tươi nhuận vì đời sống nội tâm sung mãn. An lạc là kết quả đầu tiên khi thực hiện chánh niệm. Vì sao được như thế? - Khi ý thức không phiêu lưu vào thế giới của điên đảo mộng tưởng, dừng tâm lại để nhận định rõ thực tại, chúng ta sẽ thấy mình vô cùng hạnh phúc vì có thể thưởng thức mọi điều hay đẹp của thiên nhiên, vì hoàn cảnh của mình còn tốt hơn bao nhiêu người khác, vì chúng ta là chủ nhân của toàn thể vũ trụ bao la. Chúng ta sẽ rất hồn nhiên đi trong cuộc đời, vượt lên trên tất cả mọi điều thăng trầm, vinh nhục, đắc thất. Chúng ta sẽ thấy giải thoát là tự nhiên và có sẵn ngay trong thế giới phàm tục này; và mọi hành động, mọi cử chỉ của chúng ta đều là những nghi lễ thiêng liêng trong tôn giáo. Chúng ta sẽ có rất nhiều thời giờ để tu, vì chánh niệm có thể thực hiện trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh, vào bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu.

Nhiều người cho rằng, tu Thiền là phải làm ra vẻ đạo mạo khác người, mọi lời nói hành động đều phải chứng tỏ cho mọi người biết mình là thiền giả. Không cần phải giả trang tăng tướng như thế. Có an lạc nội tâm, tự nhiên chúng ta có được phong cách bình thường và lặng lẽ của một người đi trong dòng đời mà không bị sóng đời xô đẩy. Bình thường không phải là tầm thường, đây là sự hồn nhiên và khéo tùy duyên tương ưng với tự tánh. Có an lạc nội tâm, chúng ta sẽ thấy mỗi phút giây là một viên ngọc quí. Trong đời tu, có bao nhiêu phút giây an trú trong thực tại là chúng ta có được bấy nhiêu viên ngọc quí. Như thế, có phải ngay trong hiện đời, chúng ta đã nhiều lần bước từng bước trên đất thất bảo không? Những hình ảnh lung linh huyền diệu trong các kinh điển Đại thừa như nước tám công đức, đất bảy báu, cây bằng vàng ròng..., đã hiển hiện trong thực tế, và Tịnh Độ cũng chính là cõi Ta Bà.

Kinh Pháp Hoa kể về một kẻ cùng tử bỏ cha đi hoang, nhưng người cha lúc nào cũng thương nhớ đứa con hư của mình. Chúng sinh quên Phật, nhưng Phật không bao giờ bỏ chúng sinh. Chúng ta quên mất tự tánh bản lai do chạy theo trần cảnh, sống bằng thức giác, nhưng bản tâm thanh tịnh ấy vẫn hằng hữu nơi mỗi người. Theo trần cảnh quên bản tâm (bối giác hiệp trần) là chúng sinh, đắm chìm trong sinh tử; nếu quay lưng với trần cảnh sống lại với bản tâm (bối trần hiệp giác) là đồng với chư Phật. “Thủy lưu quy đại hải, Nguyệt lạc bất ly thiên”. Nước chảy mãi, cuối cùng cũng về biển cả; trăng dù lặn cũng không ra khỏi bầu trời. Sóng không rời khỏi biển chân như, cũng như trăng không ra được bầu trời tự tánh; như bóng theo hình, như vang theo tiếng. Tự tánh vốn thanh tịnh nhưng bị khách trần làm ô nhiễm, như gương vốn trong và sáng, do bụi bặm bám đầy nên không soi tỏ được mọi vật. Lâu nay chúng ta cứ buông lung tâm ý và nhìn sự vật bằng ý thức phân biệt nhị nguyên, nên không thấy được sự thật tuyệt đối hằng hữu của chính mình và của vạn pháp. Giờ đây, lắng sâu tâm thức, theo dõi từng hành động của thân và từng chuyển biến sinh diệt nơi tâm, vào một thời khắc nào đó, tự nhiên cánh cửa bí mật trong lòng muôn pháp sẽ mở toang. Chúng ta sẽ thấy một cách thấu thể mọi sự mọi vật trong tận cùng nguồn cội của chúng. Chúng ta sẽ biết rõ bộ mặt thật xưa nay của chính mình. Nó không có hình tướng nên không bao giờ sinh diệt, lúc trải rộng thì trùm khắp vũ trụ vô biên, khi thu lại chỉ trên đầu ngọn cỏ. Nó không biết nhưng không có gì là chẳng biết (Bát Nhã vô tri nhi vô bất tri).

Mọi pháp như dòng sông, trôi chảy mãi không ngừng, nhưng chứng ngộ là chứng vào sát-na bất động. Thời điểm chứng ngộ chỉ trong một sát-na nhưng có tính cách vĩnh hằng, nên gọi là “Một niệm muôn năm”. Nhà Thiền có từ “Sát na tam-muội”. Tam muội là chánh định, chánh định này cũng vĩnh viễn ở trong “sát-na-bất-động-hiện-tại” ấy; và Chánh niệm là phương tiện thù thắng nhất để chúng ta có thể nhảy thẳng vào rồi an thân lập mệnh nơi Sát-na bất động đó. Kinh Phổ Diệu diễn tả sự chứng ngộ của Đức Phật khi sao Mai vừa mọc, một ngày của hơn hai ngàn năm trăm năm trước: “Bỗng nhiên trong một niệm bừng lên, Bồ tát phóng chiếu trí giác vào toàn thể thế gian và chứng đắc giác ngộ tối thượng”.

II. MỘT SỐ ĐIỀU KIỆN TRONG CÔNG PHU

Trước tiên, chúng ta cần hiểu rõ sự quan trọng của một cuộc sống có kỷ cương, có phép tắc, có giới luật, nhất là đối với người xuất gia. Nếu không có kỷ luật tu hành, chúng ta khó khắc phục được dục vọng phiền não. Bởi vì, vọng tưởng ý dục như con trâu điên, có thể dụ dỗ, lôi kéo ta vào đường ma lối quỷ. Nhiều người muốn thực hiện sự trở về, nhưng tập khí ngàn đời cứ đưa đẩy họ vào đường luân lạc, vì không khéo tổ chức một cuộc sống khuôn khổ, nề nếp. Vì thế, lúc sắp nhập Niết-bàn, Đức Phật đã dạy các vị đệ tử phải lấy giới luật làm Thầy. Trong tranh chăn trâu của nhà Thiền, giới luật cũng được tượng trưng bằng sợi dây buộc mũi.

Một số người hiểu Thiền một cách sai lạc, cho rằng lời dạy “Tùy duyên tiêu nghiệp cũ, Hồn nhiên mặc áo xiêm” hoặc “Đói ăn mệt ngủ” của các Thiền sư có nghĩa là, Thiền chủ trương tự do thoải mái, không cần theo phép tắc lễ nghi. Thật ra, tự do không phải là buông lung phóng dật, muốn làm gì thì làm. Tự do không thể tách rời kỷ cương, đạo lý - dù trong đời sống thường nhật hay trong nhà đạo. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu không gìn giữ giới luật, dù đạt được Thiền định, cũng rơi vào lưới ma”. Đối với các vị Tổ sư, do đã nhận ra và hằng sống với Phật tánh của chính mình, nên cái “hồn nhiên”, cái “tùy duyên” ấy phát xuất từ tự tánh và biểu hiện ra hành động. Các Ngài sống một cách tự do tự tại, ngược-xuôi thuận-nghịch gì cũng đều hợp đạo lý. Còn chúng ta, khi chưa hoàn toàn sống được với bản tâm thì không bao giờ quên những giới luật phải gìn giữ, không bao giờ được đồng hóa sự phóng khoáng tự tại của những bậc đã chứng ngộ với sự phóng túng tự do của kẻ phàm phu tục tử.

Mặt khác, đạo Phật là một tôn giáo nhưng không nặng về thần quyền, mà trả lại cho con người những giá trị vốn có; con người là chủ nhân của vũ trụ và của chính mình. Vì vậy, đạo Phật là đạo tự lực và có tinh thần nhân bản rất cao. Thông thường, gặp chuyện đau khổ hay bất như ý, chúng ta hay đổ lỗi cho người khác, mà quên nhìn lại xem mình có lỗi không. Phật dạy, từ vô lượng kiếp, do thân miệng ý của chúng ta đã tạo biết bao nhiêu nghiệp thiện ác, rồi theo nghiệp thọ sanh, lẩn quẩn mãi trong vòng sinh tử. Những điều gọi là may mắn hay rủi ro, những người gọi là ân hay oán đến với mình, đều chiêu cảm từ nhân mình đã gieo thuở trước. Có nhân, cộng thêm những duyên hỗ trợ, nhất định phải có quả. Lý Nhân-Quả là một chân lý muôn đời, nên người hiểu đạo luôn có tinh thần trách nhiệm và tự lực, không cầu nguyện ơn trên nào ban phước, cũng không bao giờ đổ lỗi cho ai.

Điều kiện thứ ba, không thể thiếu trong việc tu hành, nhất là trong công phu thiền tập, là sự nhiệt tâm tinh cần và ý chí xung thiên. Người tu chúng ta phải luôn thao thức với nỗi hoài nghi: “Tất cả chúng sanh đều có bản tâm thanh tịnh thường nhiên, đó cũng là thực tướng của vũ trụ vạn hữu. Chúng ta làm sao thấu triệt được thực tướng ấy?”. Luôn canh cánh bên lòng câu hỏi ấy để đêm ngày tinh tấn tu hành, không nề khó khăn gian khổ, mới mong có ngày ta tìm được câu trả lời. Thiền sư Linh-Vân mất 30 năm mới ngộ được tự tánh, khi thấy hoa đào nở; Quốc sư Đức Thiều ở núi Thiên Thai, tham vấn qua 54 vị thiện tri thức mà pháp duyên chưa hợp, đến hội Pháp Nhãn, nhờ “giọt nước nguồn Tào” mới hoát nhiên đại ngộ; Thiền sư Huệ Lăng Trường Khánh tới lui trong hội của Ngài Tuyết Phong đến 20 năm, ngồi rách 7 cái bồ đoàn, đến khi cuốn rèm mới tự nhiên tỏ ngộ lý Thiền. Người xưa căn cơ bén nhạy, tu hành thanh tịnh mà còn phải mất bao nhiêu công sức và thời gian như thế. Chúng ta ngày nay đang trong thời mạt pháp, chịu nhiều cám dỗ của những thú vui trần tục, quay cuồng theo nếp sống thác loạn thiên về vật chất, thì nếu không có tâm kiên cố và trường viễn, liệu có thể nào đặt chân đến cửa nhà Thiền?

III. ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG    

Chánh niệm có thể áp dụng cho tất cả mọi người, ở mọi nơi mọi lúc, khi tĩnh cũng như khi động. Trong bốn oai nghi (đi, đứng, nằm, ngồi), ngoài việc tọa thiền sẽ được đề cập trong phần riêng, chúng ta có thể chánh niệm trên các hình tướng của thân hoặc những vọng tưởng sinh diệt của tâm. Tất cả đều là tinh thần của chữ BIẾT. Biết mà không phân biệt đẹp-xấu, hay-dở, hơn-thua...; đó là cái biết bằng trực giác không qua trung gian suy luận. Ví như tấm gương sáng, có thể phản chiếu tất cả sự vật để trước nó, nhưng không lưu ảnh một vật nào; ánh sáng chánh niệm cũng soi rọi vào tất cả các pháp, từ thô đến tế, từ ngoài vào trong, rõ ràng thường biết nhưng hoàn toàn khách quan, không phân tích so sánh.

Trong lao tác, chánh niệm là làm việc gì chỉ biết việc ấy. Công việc ta làm trong chánh niệm sẽ kỹ lưỡng và có năng suất rất cao. Những tai nạn lao động xảy ra trong các nhà máy thường do công nhân không chú tâm vào việc làm, lúc thao tác trên máy móc mà tâm trí để tận đâu đâu. Đối với những việc làm đòi hỏi sự chính xác và tỉ mỉ, sự tập trung cao độ, thì chánh niệm là điều kiện thiết yếu. Nếu có dịp đến các phòng thư pháp, chúng ta có thể thấy rõ sức định tâm của người viết dường như tuôn trào lên ngọn bút, rồi thể hiện ra trang giấy.

Đối với những cơn đau ở thân, chánh niệm được áp dụng như thế nào? - Đau là phản ứng của cơ thể đối với một kích thích tác hại đến từ bên ngoài hoặc bên trong, là hệ thống báo động cảnh giác cho chúng ta biết có điều gì không ổn. Đây là phản ứng cần thiết để chúng ta tìm cách loại trừ nguyên nhân gây đau; nhưng nếu cơn đau tăng quá sức chịu đựng, có thể gây choáng và đe dọa mạng sống con người. Đau là một phạm trù rất rộng lớn và đa dạng, nhưng cơ chế chung là do một tổn thương trên cơ thể tác động vào các dây thần kinh cảm giác của những tế bào đặc biệt thuộc hệ thần kinh, gọi là Neurone. Các Neurone này có mặt khắp nơi trên da và các bộ phận trên cơ thể, khi bị kích thích, sẽ truyền tín hiệu đau dọc theo dây thần kinh tủy sống đưa lên não. Hệ thần kinh trung ương có vai trò quyết định trong tất cả các hoạt động sinh lý, trong đó có cơn đau. Cho nên, sự lo lắng, sợ sệt quá độ sẽ làm mất thăng bằng nơi hệ thần kinh cao cấp, làm gia tăng cảm giác đau đớn; ngược lại, sự thư giãn, chủ động chấp nhận và nhận diện rõ tiến trình xảy ra của cơn đau sẽ tạo ra những điểm hưng phấn mới trên vỏ não, lấn át được các điểm hưng phấn gây đau có trước. Đây là cơ chế tác dụng của chánh niệm đối với cơn đau.

Mặt khác, chánh niệm đến với cơn đau còn bằng hai tác dụng mà chỉ có các thiền sinh nhiều công phu tu tập mới nhận rõ. Một là tác dụng chuyển hóa, như ánh nắng mặt trời chiếu vào nước đá. Mặt trời tác động thế nào lên nước đá để biến nước từ thể rắn sang thể lỏng? - Mặt trời không làm gì cả, ánh nắng chiếu đến một cách tự nhiên, bất bạo động, và sức nóng trong nắng đã bao trùm cục nước đá, làm nước đá từ từ chuyển thể. Cũng vậy, chúng ta chỉ dùng ánh sáng chánh niệm soi rọi cơn đau từ lúc bắt đầu, tồn tại rồi biến mất; Chánh niệm sẽ bao trùm, nhận diện và cuối cùng chuyển hóa được cơn đau. Tác dụng thứ hai, đối với người đã nhận được bản tâm thanh tịnh của chính mình, tức là “cái biết đau”, chánh niệm soi rõ cơn đau thuộc về thân, không ảnh hưởng đến tánh Biết thường hằng. Đây là cái thấy của Ngài Trần Thái Tông lúc bệnh. Khi Tuệ Trung Thượng Sĩ gửi thư đến hỏi thăm, Ngài viết vào cuối trang hai câu kệ đáp lại:

Viêm viêm thử khí hãn thông thân,

Hà tằng hoán đắc nương sanh khố.

Dịch:

Hơi nóng hừng hực toát mồ hôi,

Chiếc khố mẹ sanh chưa từng ướt.

Đối với những phiền não, đau khổ tuyệt vọng ở tâm, chánh niệm có tác dụng chuyển hóa rõ rệt. Trong đời thường, ít nhất một lần chúng ta cảm nhận được niềm an ủi, khi đang buồn bực, đau khổ mà được đến gần bạn thân hay người mình thương yêu, tin cậy. Người ấy không cần nói gì, chỉ cần ngồi cạnh ta, nắm tay ta, ta đã thấy vơi đi, nguôi đi nỗi đau tưởng chừng khó chịu đựng nổi. Chánh niệm ở đây cũng có vai trò tương tự như thế. Điều này có vẻ khó hiểu và khó tin, nhưng nếu đã trải qua nhiều thời gian thực tập chánh niệm, chúng ta sẽ tự kinh nghiệm lấy. Ngoài ra, chúng ta đã từng biết, phiền não khổ đau cũng chỉ là những tâm hành sinh diệt, những vọng tưởng hư dối. Chánh niệm trên vọng tưởng là tinh thần của: “Quán tâm trên tâm” trong Kinh Niệm Xứ, của “Biết vọng không theo” trong Thiền Tông Việt Nam cuối thế kỷ 20. Biết đó là vọng, tự dưng vọng biến mất; ngay khi ấy, tâm liền an.

Thực tập chánh niệm và quán niệm trên thân, tâm, cảnh còn giúp chúng ta ứng phó với mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống thường nhật, đặc biệt với 8 gió lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc (hưởng lợi lộc, bị hao tốn, bị miệt thị, được khen ngợi, được tôn sùng, bị khinh rẻ, chịu khổ nhọc, được vui sướng). Bằng ánh sáng chánh niệm thấy biết một cách như thị về thân, chúng ta nhận rõ nó không có chủ tể, vì nó hoạt động, vận hành các bộ phận ngoài ý muốn của ta; nó là duyên sinh vì do nhiều tế bào hợp lại mà thành; nó luôn biến đổi trong từng giây phút. Do vậy, nó là Vô ngã. Ngã không có thật thì những sở hữu của Ngã (Ngã sở) càng không thật. Từ đó, những vọng chấp đắm luyến về thân-tâm-cảnh đều không còn. Ngay cả trong phút giây cận kề cái chết, chúng ta vẫn thấy an định, tỉnh táo, không tham đắm lưu luyến bất cứ thứ gì trên đời. Đây là tiền đề của sự giải thoát sanh tử.

Như vậy, chúng ta thấy rõ, bất cứ ở đâu và lúc nào, chúng ta cũng thực hiện được chánh niệm. Cách công phu này không hạn cuộc cho đối tượng xuất gia hay tại gia; không phân biệt giới tính, trình độ học vấn và địa vị xã hội; cũng không nhất định phải theo thời khóa, tình hình sức khỏe hoặc công việc hằng ngày. Kết quả công phu cũng không lệ thuộc thời gian lâu hay mau mà tùy vào hiệu quả khi dụng công. Một người tu suốt đời mà luôn thất niệm thì không bằng người chỉ tu vài năm mà thực tập chánh niệm tinh cần. Trong Kinh Niệm Xứ, Đức Phật hạn định thời gian đạt được Thánh quả cho những hành giả thực hiện chánh niệm và quán niệm trên bốn lĩnh vực Thân-Thọ-Tâm-Pháp, dài nhất là 7 năm nhưng ngắn nhất chỉ có 7 ngày. Hai mốc thời gian cách nhau quá xa, chứng tỏ thời gian ấy chỉ có tính cách ước lệ, và tùy thuộc từng người. Nếu chúng ta có nhiệt tâm tu hành, đầy đủ tri kiến như thật, nắm vững pháp tu và ứng dụng có kết quả, thì chỉ cần một thời gian ngắn là thấy cuộc đời mình đã biến chuyển, thăng hoa. Còn nếu không nhiệt thành với đạo, tu hành giải đãi, lúc tiến lúc lùi, thì biết đến bao giờ chúng ta mới xong được việc lớn?

Quê hương ta không ở một nơi nào xa xôi, cũng không xuất hiện vào một ngày mai vô định. Chúng ta không thể dùng ý thức để tưởng tượng, để nắm bắt, vì quê hương ấy không ở ngoài bản thân ta, không phải là đối tượng nhận thức của ta. Đó chính là con người thật muôn thuở của mình. Chỉ cần dừng lại bước chân chạy đuổi về tương lai hay truy tìm về quá khứ, nhận chân được thực tại vĩnh hằng chúng ta đã an ổn trên đất quê hương. Thiền sư Huyền Giác nói:

Bất ly đương xứ thường trạm nhiên

Mích tức tri quân bất khả kiến.

Trúc Thiên dịch:

Tìm kiếm đã hay không thấy được

Mà luôn trước mắt vẫn thường nhiên.

Không lìa chỗ ấy mà thường lặng lẽ; nếu cất công tìm kiếm thì không thể nào thấy được. Nhưng nếu không có công phu đi “tìm” thì cũng chẳng xong. Đây là một điều rất khó khăn và bí hiểm mà mỗi người chúng ta phải khéo thầm nhận lấy!

Các tin đã đăng: