Thế kỷ 21 được xem là thế kỷ của khoa
học, và nền kinh tế tri thức là một mắt xích chiến lược trong sự phát
triển bền vững. Bằng tri thức, con người tạo ra những tiện nghi cho đời
sống, kéo dài tuổi thọ và thâm chí tìm cách cướp quyền Tạo hoá. Bằng tri
thức, con người đã khám phá ra nhiều bí mật của tự nhiên và vũ trụ, đã
khai thác những tài nguyên nơi đại dương bao la và trong lòng đất bí ẩn;
đã tiến một bước dài trong việc quan sát các vùng thiên hà cách trái
đất hàng nghìn năm ánh sáng.
Tuy nhiên, những bước tiến đột phá của
khoa học và sự phát triển tột bực của nền văn minh nhân loại, đến nay
vẫn không thể tháo gỡ những bế tắc tinh thần và tình cảm cho con người,
không thể diệt trừ tận căn nguyên của tội ác, và nhất là không thể giúp
con người tiếp cận chân lý. Sự đối đầu về tư tưởng và quân sự do ý thức
hệ, đã chấm dứt vào thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, tưởng mở ra
cho nhân loại con đường thênh thang dẫn đến hòa bình phồn vinh, tưởng là
khúc dạo đầu của bản giao hưởng hạnh phúc và hy vọng. Nhưng thật sự
không phải thế. Hành tinh xanh của chúng ta vẫn còn bị đe dọa bởi bạo
lực, khủng bố và xung đột khu vực, có thể biến thành ngòi lửa chiến
tranh bất kỳ lúc nào. Những vấn nạn về bùng nổ dân số, nguồn tài nguyên
thiên nhiên cạn kiệt, môi trường ô nhiễm nghiêm trọng, thiên tai bệnh
họa ngày càng phức tạp…, tất cả đều là những thách thức lớn mang tính
quy mô toàn cầu.
Về mặt xã hội, sự khổng lồ của những
luồng thông tin cập nhật qua mạng internet, những trang web hoặc diễn
đàn (forum) cá nhân dễ dàng mở ra nhờ các phần mềm biếu không, càng
khiến mọi người thấy rõ mặt trái của lối sống hưởng thụ, được khoác lên
những hình thức hoa mỹ. Cũng vì choáng ngợp thông tin, am hiểu thời sự,
cộng thêm cuộc sống hối hả tranh đua, nên con người dễ bị căng thẳng
thần kinh tâm lý. Thuật ngữ chuyên môn gọi là Stress. Biểu hiện của
Stress là thay đổi tính tình, dễ cáu gắt bực bội hoặc trở nên chán
chường, mệt mỏi. Dần dần ý thức giảm linh hoạt, nhận thức rối loạn, ảnh
hưởng nặng đến tâm thức và cuối cùng là đột tử.
Đầu năm 2002, Tiến sĩ Wilcox thuộc Đại
học Harvard Hoa Kỳ đã báo cáo trong một nghiên cứu về tuổi thọ, tỷ lệ
người dân trên 100 tuổi cao nhất thế giới là ở quần đảo Okinawa Nhật
Bản; đặc biệt là số người mắc các bệnh tim mạch, ung thư và đột qụy thấp
nhất. Ông kết luận rằng, nguyên nhân do dân bản xứ sử dụng nhiều rau
quả và cá làm thực phẩm, vận động nhiều và có tinh thần lạc quan yêu
đời. Điều nầy phù hợp với hướng đi mới của các nhà y học trong lĩnh vực
điều trị và dự phòng, chủ trương bệnh tật là do mất cân bằng giữa các
dòng năng lực sống của cơ thể. Ý tưởng nầy đặt căn bản trên Sinh lực
luận, một quan điểm triết học cho rằng “năng lực sống” của con người
quyết định sức khoẻ và sự sống. Vì thế, khác với y học thường quy quan
tâm đến những nguyên nhân gây bệnh từ bên ngoài, các nhà nghiên cứu ngày
nay chú trọng việc khôi phục sự cân bằng từ bên trong, nghĩa là phát
huy khả năng tự điều trị cho chính mình. Trong đó, Thiền được xem là một
phương tiện điều trị hữu hiệu nhất.
Quyển sách nầy
không nói về Thiền như một phương thuốc chữa trị hay phòng bệnh, vì mục
đích tối hậu của hành giả tu Thiền là Giác ngộ và Giải thoát. Tuy
nhiên, vì Phật pháp và thế gian pháp không thể tách rời, nên thiền sinh
không xa rời thế gian tìm cầu Phật pháp, cũng không trốn tránh thế gian
hưởng hạnh phúc riêng mình. Thiền trong đời thường là sự hòa hợp nhịp
nhàng giữa một khối óc minh triết và một trái tim nhân hậu, nghĩa là hòa
quyện giữa trí tuệ và từ bi. Con đường thiền tập là chánh niệm tỉnh
giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có
sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch, giải
quyết mọi vấn đề một cách tốt đẹp nhất. Một mặt, hành giả làm tròn trach
nhiệm đối với gia đình và cộng đồng, một mặt dốc toàn lực vào việc lớn
của đời mình, là nhận ra và hằng sống với tự tánh bản lai. Chỉ có thể
tánh thanh tịnh ấy mới vĩnh viễn thường còn, mới là hạnh phúc đích thực,
và luôn lung linh tỏa sáng trong sự biến động muôn màu muôn vẻ của cuộc
sống. Bằng những bước chân tự do và vong ngã, hành giả nhập vào dòng
sống luân lưu, thực hiện lợi ích cho mình và nhiêu ích cho mọi người mọi
vật. Có thể nói, tinh thần Thiền tông là sống với bản tâm thanh tịnh
trong cuộc sống đời thường, là đóng góp công sức mình vào hạnh phúc
chung của cộng đồng nhân loại.
Khoa học và văn minh càng phát triển,
thế giới càng trở nên nhỏ bé, con người càng tùy thuộc vào nhau một cách
sâu sắc và toàn diện. Việc xây dựng một thế giới hòa bình thịnh vượng
không phải trách nhiệm của riêng một tổ chức hay quốc gia nào, mà cần có
sự hợp tác chặt chẽ của toàn thể cộng đồng; trong đó, vai trò của cá
thể trong đời sống tập thể là yếu tố quan trọng và quyết định. Ý thức
vai trò ấy, những người con Phật chúng ta thấy trách nhiệm của mình vô
cùng lớn lao và cao quý. Cho nên, xin hãy thông cảm nhau bằng trái tim
trong sáng và từ bi để chung tay tịnh hoá cuộc đời. Khi tất cả mọi người
đều sống theo tinh thần Đạo Phật nhập thế, thì cõi Ta bà sẽ trở thành
Tịnh độ nhân gian.
Những điều bình thường nhất lại tiềm ẩn
ý nghĩa sâu mầu uyên áo nhất, khó diễn đạt bằng ngôn ngữ thế gian.
Chúng tôi không dám có tham vọng gởi đến quý độc giả một thông điệp hòa
bình, chỉ mong những điều trình bày sau đây đem lại vài lợi lạc nhỏ
trong phạm vi rộng lớn của cuộc sống thường nhật. Hy vọng quý vị tùy hỷ
và vui lòng chỉ bảo những thiếu sót trong quyển sách nầy. Trong tinh
thần cầu tiến, chúng tôi xin chân thành cảm tạ mọi đóng góp xây dựng của
các bậc Tôn túc cao minh và tất cả chư vị. Nếu quyển sách nầy có được
chút ít công đức nào, công đức ấy đều thuộc về pháp giới chúng sanh.
Nha Trang, mùa đông Nhâm
Ngọ 2002 - PL. 2546
Thiền thất Viên Giác
Thích Thông Huệ