Bất cứ con đường nào cũng có chông gai
trở ngại, nhất là đường tu. Người tu chúng ta thường mắc vào hai bệnh: Một
là sợ sự xáo động cám dỗ của trần cảnh nên muốn tìm nơi yên vắng,
và chấp thủ vào trạng thái tịch mặc trong công phu. Hai là nhờ
duyên lành, gặp thầy bạn tốt dạy yếu lý của Đạo và những kinh nghiệm
hành trì, nhưng lại chấp vào những kiến thức vay mượn ấy làm trí tuệ của
mình. Thật ra, trạng thái yên định của tâm khiến ta thấy vô cùng an
lạc, nhất là khi quá mệt mỏi chán ngán với sự đua chen lừa lọc ở trường
đời. Con đường của Bồ-tát là chấp nhận sóng gió của đời thường, trong
cái động tìm sự bình an, trong khổ đau tìm hạnh phúc. Bình an hạnh phúc
ấy mới thật sự có ý nghĩa tuyệt đối, là Niết-bàn Bảo sở.
Trong thế giới
hiện thực chúng ta đang sống, thiện và ác, tốt và xấu là hai phạm trù
đối lập nhau, nhưng sự có mặt của cả hai mới làm nên cuộc đời. Ngay
trong bản thân chúng ta cũng có hai yếu tố Thánh-phàm, luôn là một
trường xung đột giữa hai thế lực hướng thượng và hướng hạ. Người tu chán
chỗ ồn náo, lánh vào cảnh giới an lạc trong Thiền định; đó là một khích
lệ lớn trên đường xa vạn dặm, nhưng chỉ là nơi nghỉ tạm chứ chưa phải
đích đến cuối cùng. Nội dung tâm chứng của một hành giả không phải biểu
hiện bằng trạng thái định sâu mà là sự tự tại an nhiên trước mọi hoàn
cảnh thuận nghịch đời thường.
Vay mượn tri
thức là bước đầu cần thiết để chúng ta có sự hiểu biết cơ bản về phương
pháp hành trì. Nhưng tri thức ấy không dính dáng đến chứng nghiệm tự
thân, không giúp ta giải thoát. Khi nghe giảng về sự huyễn mộng của cuộc
đời, ta rất tâm đắc rất cảm khái ; và ngay lúc
ấy có thể từ bỏ tất cả tài sản danh vọng, sống đời thanh đạm như Đức
Phật ngày xưa. Nhưng sau buổi giảng về nhà gặp chuyện tranh chấp mất
mát, ta cũng sân si phiền não không kém một ai. Cho nên, nếu không có
công phu thật sự, thì dù lý thuyết giỏi, kiến giải hay đến bậc nào, cũng
chỉ là vay mượn của người khác. Người trí thức buổi đầu vào đạo thường
tiến rất nhanh, hiểu pháp rất kỹ; nhưng công phu một thời gian thường
vấp vào Sở tri chướng, chướng ngại do chấp chặt vào sự hiểu
biết của mình. Nhờ có trí hữu sư, ta không bị dẫn lôi vào tà kiến mê
tín, nhưng nếu mãn nguyện vào sở học mà không quán xuyến đời sống nội
tâm thì càng học nhiều, ngã chấp càng dữ dội. Đây là điều cần cảnh giác.
Có thể nói, bí
quyết của sự thành công trên đường đạo là tinh thần Bi - Trí – Dũng.
Bi là tình thương bình đẳng vô điều kiện đối với mọi người mọi vật ;
Trí là nhận thức khách quan và thấu triệt bản chất muôn pháp ; Dũng là
chiến thắng những cám dỗ của tiền trần và những đòi hỏi quá đáng của
thân tâm. Chúng ta là phàm phu, không phải dễ dàng gì đạt được mẫu mực
của Phật – Tổ, nhưng cần xem tinh thần nầy như kim chỉ nam trong cuộc
sống. Chúng ta không phải không phạm sai lầm, quan trọng là thấy được
lỗi mình và dốc lòng chừa bỏ, đồng thời thông cảm những lỗi lầm của
người. Ngạn ngữ có câu “Nước trong quá không có cá, người xét nét
quá không có bạn”. Cá không thể ở chỗ nước quá trong, người cầu
toàn quá không ai dám gần. Huynh đệ đồng tu, nếu có gì không ổn mà cùng
chịu nhún nhường, thông cảm lẫn nhau thì chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ
hóa không. Người làm ta đau khổ nhất chính là ta chứ không phải ai khác,
bởi vì khổ là do kiết sử, ràng buộc của nghiệp lực. Chính ta là người
tạo nghiệp nhân, và cũng chính ta phải gánh chịu hậu quả, còn người khác
và hoàn cảnh bên ngoài chỉ là trợ duyên cho tiến trình nhân quả ấy. Nếu
ta không chánh niệm tỉnh giác trên từng động dụng của thân- tâm-cảnh,
tự kiểm lại bản thân để hoàn thiện mình, thì phải chịu bất an mãi không
thôi. Chúng ta như con thuyền lênh đênh trên biển đời, vây quanh có biết
bao cám dỗ của ngũ dục lục trần, phải tự mình chèo chống, tự mình đối
mặt với hiểm nguy để tìm về bến bờ hạnh phúc chân thật.
Theo tôn chỉ
Thiền tông, Thiền phải hiện hữu ngay trong những sinh hoạt thường ngày.
Thiền là trở về mảnh đất hiện thực , nhằm biểu hiện sức sống vĩnh cửu
trong dòng biến thiên của vạn pháp. Cho nên, tu Thiền là phải sống, phải
bơi lội trong dòng biến thiên ấy; và bằng công phu tu tập của bản thân,
ta sẽ nhận ra một trật tự ổn định trong dòng chảy vô định, một sự bình
an trong cái cuồng loạn sục sôi của vũ trụ, một sự vĩnh hằng trong cái
vô thường của cuộc sống. Nhận rõ điều nầy, hoàn cảnh xung quanh, mọi vật
xung quanh sẽ trở thành những kỳ quan vĩ đại, và ta kinh ngạc biết
chừng nào khi thấy Niết–bàn Tịnh-độ cũng chỉ ở tại đây và bây giờ!
Như thế, Thiền
tập là con đường mà mỗi hành giả phải tự mình cất bước, nếu muốn tìm về
bản thể của chính mình, nếu muốn hưởng hạnh phúc đích thực. Người biết
đạo phải nương về cái vô nhất vật chứ không nương vào thân ngũ
uẩn sanh diệt hay trần cảnh vô thường; đồng thời nhận rõ đâu là phương
tiện đâu là cứu cánh, để không vội thỏa mãn ở Hoá thành. Khi công phu có
một ít kết quả, ta không khoa trương cho người khác biết, vì đó là điều
kiện nuôi lớn bản ngã. Ta cũng không hy vọng thấy điều gì kỳ diệu, vì
tâm mong cầu sở đắc là một ràng buộc mới, có thể dẫn ta vào đường tà lối
rẽ. Đạo là những gì rất bình thường, như hơi thở, như cơm ăn, chứ không
phải thần thông phù phép hay những hành động khác đời. Phô trương những
hình thái phong cách lạ thường chỉ là những phương tiện kinh doanh, cốt
để người khác nể phục và cung phụng tài vật.
Người tu chân chính trước tiên phải nhận định rõ và chọn lựa pháp tu
thích hợp, rồi tinh tấn hành trì bằng ý chí vững chắc và lòng kiên nhẫn
trường kỳ. Càng tu càng thấy an lạc, ngã chấp càng bị bào mòn, càng vững
vàng trầm tĩnh trước mọi thử thách khó khổ, ấy là tu có kết quả.
Tóm lại, điều
quan yếu trong công phu thiền tập là từ bỏ những đam mê đối với cuộc
sống, chứ không phải trốn chạy cuộc sống. Mọi sự vật hiện tượng trên thế
gian tuy có hình tướng nhưng chỉ là duyên sinh giả hợp, bản chất của
chúng là Không. Do tâm ta thiên biến vạn hóa nên thấy các pháp
thiên hình vạn trạng, còn pháp tánh thì bình đẳng không khác. Đây là
điều chúng ta nên tự chiêm nghiệm một cách sâu sắc ; và khi thấu triệt,
ta sẽ thấy rõ rằng, ngay trần lao mà tâm không dính mắc, thế mới là Sống
thiền. Chúng ta có toàn quyền quyết định số phận mình, con đường
mình phải đi, có toàn quyền đảm trách việc khám phá chính mình và toàn
thể vũ trụ. Vũ trụ mầu nhiệm sẵn sàng mở rộng cho người đã dứt bặt mọi
vọng tưởng đảo điên, sống bằng thể tánh thanh tịnh sẵn đủ.
Chúng ta được
nghe Phật pháp, không phải chỉ có duyên trong một kiếp nầy. Nghe mà hiểu
là duyên sâu hơn, nghe hiểu mà nhận và tu theo lại càng hiếm hoi hơn
nữa. Nhất là trong thời đại vật chất hiện nay, con người có khuynh hướng
đuổi theo khoái lạc thế tục, thì người biết tu hành theo chánh pháp là
người có chủng tử Bát-nhã đã nhiều đời. Chúng ta đang sống trong thời
mạt pháp, nhưng may mắn vẫn còn Phật pháp lưu truyền, vẫn có người tu và
chứng ngộ. Vì thế, ta phải trân quý từng giờ phút mong manh, tinh cần
công phu để một ngày thể nhập chân lý Thiền, hội ngộ cùng chư Phật.