Một
dip nào đó trong đời, ta gặp người tự cho mình đã ngộ đạo, chỉ bảo và
khuyến khích ta tu hành. Ta rất kính phục biết ơn, thầm tôn kính người
ấy là Thiện tri thức của mình. Cũng có khi nghe băng sách hay đọc kinh
Phật, ta chợt hiểu ra một điều gì đó thật lạ lùng, thật mới mẻ, như có
một chân trời mở rộng trước mắt mình. Ta nghĩ mình đã nhận được lẽ thật
tuyệt đối. Những ý nghĩ ấy thật sự đã đúng chưa?
Trong
chương nầy, chúng ta sẽ khảo sát nhiều khía cạnh liên quan đến vấn đề
Đốn ngộ, một vấn đề trọng đại của người tu, nhất là tu Thiền; mục đích
giúp chúng ta nhận định đúng đắn về đường lối tu hành và tinh thần Đốn
ngộ, tránh sự đánh giá sai lạc về mình và về người.
I. MỘT VÀI
NGỘ NHẬN THƯỜNG CÓ.
1. Lầm lẫn
giữa Ngộ và khái niệm về Ngộ:
Thiền
sư Trí Nhàn lúc còn ở với Tổ Bá Trượng, tánh thức rất thông minh lanh
lợi, nhưng tham thiền không ngộ. Khi Tổ tịch rồi, Sư đến tham vấn Qui
Sơn. Qui Sơn bảo:
-Ta nghe ông ở chỗ
Tiên sư Bá Trượng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm. Đó là do ông
thông minh lanh lợi, do ý hiểu thức tưởng, là cội gốc của sanh tử. “Khi
cha mẹ chưa sanh”, ông thử nói một câu xem !
Sư
bị câu hỏi nầy hoàn toàn mờ mịt. Về liêu, Sư đem hết sách vở đã học qua
hằng ngày, xem lại từ đầu để tìm một câu đáp cũng không thể được. Sư
tự than: “Bánh vẽ không thể no bụng đói”([1]).
Không tìm được
lời giải trong sách, Sư đốt tất cả, về làm một ôngTăng thường, làm
ruộng nuôi thân. Sau nầy, Sư ngộ đạo nhân lúc cuốc đất, hòn sỏi văng vào
thân tre vang lên một tiếng cốc.
Chân lý tuyệt
đối ở đâu, trong thân tre hay trong hòn sỏi ? Ngày xưa, Sư nhờ suy nghĩ
tư lường nên đối đáp tài tình trước Tổ Bá Trượng, nhưng tư biện chỉ là
sản phẩm của ý thức. Dùng ý thức tư duy về Đạo, về sự chứng ngộ, thì đó
cũng là khái niệm mà thôi.
Nhà Thiền
thường dùng hai từ “hoạt ngữ” và “tử
ngữ”. Những lời giảng khúc chiết rành mạch dễ làm người nghe hiểu
ý, phù hợp với phương pháp sư phạm. Nhưng càng hiểu, người nghe càng sa
vào mê cung của lý luận khái niệm, càng lạc vào
rừng rậm của tưởng tượng tư duy; và như thế, càng xa với thực tại hiện
tiền. Những lời giảng ấy là Tử ngữ, từ ngữ chết. Các Thiền sư ngày xưa,
khi môn đệ hỏi về yếu chỉ, thường dùng những câu trả lời vô nghĩa hay
hành động quái lạ, khiến môn đệ bặt lối suy tư. Nhân thì ngay đó liền
nhận ra vốn quý ngàn đời, chưa nhận thì ôm một mối nghi, thao thức mãi
không thôi. Đó cũng là điều kiện để tâm chuyên chú một vấn đề duy nhất.
Lối trả lời như thế gọi là Hoạt ngữ, ngôn ngữ sống. Bởi vì, Ngộ không
phải là kết quả của suy nghĩ biện biệt thuộc phạm trù ý thức, mà là sự
đột biến trong tâm hành giả, sự chuyển hóa tận gốc rễ, sự thấy biết các
pháp bằng trực giác. Ngộ không phải do kiến thức vay mượn bên ngoài mà
do công phu thiền tập, khi vọng niệm vắng lặng, tâm hoàn toàn thanh tịnh
và tỉnh giác ngay đương xứ. Trạng thái ngộ đạo không nhờ học rộng hiểu
nhiều, đôi khi kiến thức bác lãm lại làm chướng ngại cho sự thấy biết
như thật, vì thiên kiến thiên chấp của thức tưởng khiến ta không thể nắm
bắt thực tại một cách toàn vẹn. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát cho cư
sĩ Huệ Năng, người có trực giác Bát-nhã siêu tuyệt mà không truyền cho
Thượng tọa Thần Tú, người có trình độ Phật học uyên thâm, cũng vì lý do
nầy.
Mặt khác, sản
phẩm của thức còn là sự chấp ngã, nên nếu thấy mình có sở thủ sở đắc
nghĩa là chưa thực sự ngộ đạo. Người ngộ đạo không bao giờ tự cho mình
chứng ngộ, không bao giờ khoe khoang những gì mình thấy biết, hoặc chấp
vào những trạng thái mình cảm nhận lúc công phu. Có lúc ta đọc trong
kinh sách, thấy mô tả về trạng thái mênh mông phi thời gian, không hình
tướng và không thể nhiễm nhơ, là thể tánh chân thật sẵn đủ ở mỗi chúng
sanh. Ta nghĩ mình hiểu rõ điều nầy, và từ hiểu là có thể nhận ra thể
tánh. Nhưng thể tánh không phải là một khái niệm để tưởng tượng hay thủ
đắc, vì nó chính là ta. Thể tánh cũng không phải một nơi chốn để trở về,
một vật bên ngoài để nắm giữ, nên không thể suy lý về nó mà phải trực
nhận nó ngay thực tại hiên tiền.
Hành vi của
thức cũng thể hiện bằng sự khiên cưỡng để có định. Sự khiên cưỡng nầy
lúc đầu cần thiết khi mới tập tu, vì con trâu tâm còn hoang dã, ta phải
kềm cặp, quở mắng nó, không cho buông lung ăn lúa mạ của người. Khi tọa
thiền, ta gắng nhận biết vọng để buông và không theo; lúc làm việc ta
gắng lôi kéo tâm trở về hiện tại theo tinh thần Chánh niệm. Tất cả công
phu đều đòi hỏi phải tác ý, phải gắng gượng. Nhưng khi đã thuần thục,
một lúc nào đó ta vượt qua ranh giới giữa gắng gượng và tự nhiên, ta ở
vào trạng thái rỗng rang mênh mông, vọng niệm tự lặng mà vẫn rõ ràng
thấy nghe hay biết. Đây là trạng thái tự định tự hue của thể
tánh, trạng thái “Tri kiến vô kiến” theo tinh thần của kinh
Lăng Nghiêm. Tổ Lâm Tế dạy “Phật pháp không có chỗ để dụng công”,
cốt để cảnh tỉnh môn đệ đừng mong đợi có cái thấy siêu tột của Đốn ngộ
bằng lối dụng công theo kiểu “đá đè cỏ”.
2.
Lầm lẫn giữa Định và Ngộ:
Sau một thời
gian tọa thiền tích cực, nhất là khi sử dụng pháp Chỉ như phương tiện
điều phục tâm, ta thấy mọi vọng niệm vắng bặt, tâm vô cùng thanh tịnh.
Ta có cảm giác vui sướng lạ lùng và muốn níu giữ mãi trong trạng thái
nầy; lâu dần ta đâm ra sợ cảnh sợ duyên.
Thiền mặc tọa
là phương pháp giúp hành giả bước đầu còn đa tâm, là phương tiện cần
thiết để ta điều phục sự biếng trễ của thân tâm và để rèn luyện ý chí.
Nhưng nếu mãi đắm mình trong sự khinh an, lâu ngày dễ đưa đến tình trạng
khô cằn chết lịm. Nước chết không chứa được rồng. “Nước chết”
là sự khô chết của ý thức; “rồng” là sự thấy biết siêu thế của bản tánh
thường tri. Các Thiền sư xuất cách như Lục Tổ,
Đức Sơn, Lâm Tế rất chống đối lối tu mặc tọa, vì thiền không phải là sự
yên ổn tịch mặc mà là sự sống động và thấu triệt tận thể tánh của muôn
pháp.
Một điều cần
phải giản trạch : Sơ Tổ Trúc Lâm Yên Tử, Ngài Điều Ngự Giác Hoàng chủ
trương: “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền”. Vậy, Ngài đồng hoá
Thiền với Vô tâm chăng? Vô tâm là khi tiếp duyên xúc sự không khởi niệm
phân biệt hai bên. Không còn vọng tưởng, tức ý nghiệp dừng, hành giả
liễu thoát sanh tử. Đây là trạng thái định rất cao, không phải dễ dàng
đạt được. Nhưng vô tâm chưa phải là cứu cánh, vì cứu cánh của Thiền là
Ngộ, tức nhận ra bộ mặt thật xưa nay của chính mình. Tam Tổ Tăng Xán dạy
trong Tín Tâm Minh: “Bất thức huyền chỉ, đồ
lao niệm tịnh”. Tu mà không biết yếu chỉ huyền diệu, mãi tìm chỗ
yên vắng của tâm thì luống nhọc công thôi. Ví như chai nước đục, để yên
một thời gian cho bụi đất lắng xuống, nước thấy như trong; nhưng nếu lắc
chai, nước đục trở lại. Người tu nơi lặng lẽ thấy yên ổn thanh tịnh,
nhưng lúc gặp chướng duyên có thể bị khuấy động ghê gớm. Cực tĩnh
sinh động là như thế.
Một vị tăng
hỏi Tuệ Trung Thượng sĩ:
- Cổ đức
nói “Không tâm là đạo”,có đúng chăng?
Thượng sĩ đáp:
- Không
tâm chẳng phải đạo
Không đạo cũng
không tâm.
Nếu nói “Không tâm là đạo” thì tất cả
cây cỏ đều là đạo cả sao? Bằng ngược lại nói “Không tâm chẳng phải là
đạo” thì nói có không làm gì? Nghe tôi nói kệ đây:
Vốn không tâm không đạo
Có đạo chẳng không tâm
Tâm đạo vốn hư tịch
Chỗ nào mà đuổi tầm?
Vị tăng chợt
nhận ra ý chỉ, lễ bái rồi lui ([2])
“Không tâm
chẳng phải đạo” là lời Thượng Sĩ cảnh tỉnh những hành giả chấp vào trạng
thái trống vắng vọng tưởng, cho đó là ngộ đạo. Thật sự, có vọng hay
không vọng chỉ là khách, là cái tôi đối tượng; còn cái biết
xuyên suốt mọi tình huống, không lúc nào vắng thiếu mới là chủ, là cái
tôi chủ thể. Cái biết xuyên suốt ấy, cái “tâm đạo vốn hư tịch” mà
Lục Tổ gọi là Bản lai vô nhất vật, tuy không hình tướng mà trùm
khắp và chiếu soi, thì có chỗ cho ta truy đuổi tìm cầu sao?
Ngài Uất-Đầu
Lam-Phất là một trong những vị thầy dạy Thiền cho Thái tử Sĩ-Đạt-Ta, lúc
Thái tử xuất gia tìm đạo. Ngài chứng được tầng thiền định cuối cùng của
cõi Vô sắc là Phi tưởng Phi phi tưởng, đạt ngũ thông. Câu chuyện đời tu
của Ngài được Đức Phật kể lại như sau: Ở những kiếp lâu xa về trước,
Ngài đã đạt được quả vị nầy. Nhà vua đương thời rất kính trọng Ngài, mời
Ngài hàng ngày về cung dùng bữa. Lần nào đến cung vua, Ngài cũng vận
thần thông bay từ nơi ở qua kinh thành cho dân
chúng chiêm ngưỡng lễ bái. Một hôm, nhà vua đi vắng, bảo công chúa thay
mặt vua đón Ngài với đầy đủ lễ nghi. Tiếp xúc với công chúa, bỗng dưng
Ngài khởi niệm dục nhiễm, liền mất thần thông, phải xin chiếc kiệu trở
về núi. Thời gian sau, Ngài kiên trì tu tập, gần đạt mục đích thì lũ
chim cá làm ồn náo, không thể định tâm. Ngài nổi sân, nguyền sẽ tiêu
diệt hết bọn chúng. Trong thời Đức Phật, Ngài đã đắc ngũ thông trở lại, ở
tầng trời Phi tưởng Phi phi tưởng; nhưng theo lời Đức Phật, sau khi
hưởng hết phước, Ngài sẽ bị đoạ làm loài chồn bay do lời nguyền trước
đó. Điều nầy cho thấy, dù đạt định sâu nhất của ngoại đạo cũng vẫn còn
lên xuống trong tam giới, và một mống niệm bất thiện khởi lên cũng đủ
khiến sa vào đường ác. Do vậy, mục đích cuối cùng của đạo Phật là trí
tuệ Bát-nhã, là giác ngộ tột cùng, là giải thoát sanh
tử, chứ không phải chận đứng hoàn toàn mọi hoạt
động của tâm để đạt định.
3. Mong cầu ngộ từ bên
ngoài:
Ngạn ngữ Tây
phương có câu: “Nếu cứ theo dấu chân người khác, anh không bao giờ
có thể đi xa được”.
Thiền sư Quảng Nghiêm trước khi tịch,
cũng đã làm bài kệ:
Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh.
Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.
Nghĩa:
Lìa tịch diệt mới bàn tịch diệt
Sanh vô sanh mới nói vô sanh.
Làm trai có chí xông trời thẳm
Chớ dẫm Như Lai bước viễn hành.
Con người
chúng ta thường yếu đuối, dễ chán nản, làm việc gì cũng mong có người
giúp đỡ chở che. Từ việc đời đến việc đạo, ít có ai tự mình tiến thân,
tự mình cất bước bằng chính đôi chân của mình. Sự ngộ đạo cũng được mong
cầu có đấng quyền năng nào đó ban cho; hoặc có người tu hành chỉ mong về một cõi thanh tịnh bình an là mãn nguyện
rồi.
Nhà Thiền
không chủ trương dựa vào tha lực giúp hành giả giác ngộ. Đành rằng cuộc
đời nhiều cạm bẫy, đường tu quá gian nan, nhưng chính mỗi người phải tự
mình phấn đấu, phải tự thân tu tập trước khi nhờ tha lực của chư Phật
chư Bồ-tát. Các Ngài rất từ bi, tùy cảm tùy ứng giúp đỡ tất cả chúng
sanh, nhưng tâm ta phải thế nào mới có thể tương ứng với tâm của các
Ngài. Khi năng lễ sở lễ đều ở trong không tánh, thì dù không
cầu khấn, các Ngài vẫn hiện diện, sự cảm ứng
tương giao vẫn bất khả tư nghì; còn nếu phiền não tham sân si đầy dẫy,
thì có vái lạy cầu xin bao nhiêu cũng không có kết quả. Hơn thế nữa, lời
dạy của Như Lai chỉ là thuyền bè đưa người qua sông, dấu chân của Như
Lai chỉ là những bảng ghi dấu trên đường; còn việc bước xuống thuyền hay
cất bước, đi đến đích hay không là việc riêng của mỗi người. Tu hành là
gột rửa nhiễm nhơ trong tâm, phục hồi chánh kiến, nghĩa là sự thấy biết
như thật về mọi sự mọi vật. Tâm bớt nhơ nhiễm bao nhiêu thì Phật pháp
hiển hiện bấy nhiêu. Có thể nói, giáo lý chân thật là từ tâm lưu xuất,
Phật pháp là Tâm pháp của mỗi chúng sanh. Pháp ấy có sẵn, đầy đủ hoàn
hảo, không thể tìm thấy qua chữ nghĩa bên ngoài, dù là chữ nghĩa của
Phật của Tổ.
Thiền tông còn
được gọi là Phật tâm tông vì chủ trương ngay nơi tâm mà tu,
ngộ, chứng và thành đạo. Nói thế không phải không chú trọng tha lực,
nhưng vẫn đặt tự lực vào vai trò chủ yếu. Nếu ta không tự phấn đấu, tự
chuyển hoá thân tâm thì không một thế lực nào thúc
đẩy được ta tu tiến. Dĩ nhiên, lúc đầu học đạo, ta cần thầy dạy bảo,
hướng dẫn ta đường lối tu hành và những kinh nghiệm trong công phu. Khi
gặp trở ngại chướng duyên, ta phải chí thành sám hối trước Tam Bảo về
những tội lỗi mình đã gây ra trong kiếp này và vô lượng kiếp trước. Hằng
ngày ta vẫn cung kính lễ lạy Thánh tượng Đức Bổn Sư, nhớ ơn Ngài đã chỉ
cho ta con đường thoát ly sanh tử, nhớ gương sáng tìm đạo độ sanh của
Ngài và nguyện nối bước theo Ngài. Nhưng đến khi nhận ra tự tánh hằng
tri, thì trí tuệ vô sư mới là vị thầy đích thực của riêng mình. Lama
Yeshe gọi những vị thầy hữu hình và kinh sách trợ duyên ở bước đầu tu
tập là “vị thầy tương đối”; còn vị thầy trí tuệ của chính tự
thân là “vị thầy tuyệt đối hay tối hậu”, luôn luôn hiện hữu,
luôn luôn ân cần. Nương vào vị thầy tuyệt đối ấy mới thực sự học và tu
đạo.
4. Phân ranh giữa bờ mê và
bờ giác:
Nhà Phật có từ
Ba-la-mật, Trung Hoa dịch là Đáo bỉ ngạn (Qua bờ kia). Khi nghe cụm từ
này, chúng ta có khái niệm phân ranh giữa bên nầy là bờ mê, bên kia là
bờ giác; mê và ngộ là hai trạng thái, hai cảnh giới cách nhau trời vực.
Một ví dụ về ba giai đoạn theo tinh thần Bát-nhã: Văn tự Bát-nhã ví như
người từ bờ bên nầy bước lên thuyền; Quán chiếu Bát-nhã là tự chèo
thuyền vượt sông; Thực tướng Bát-Nhã là đến bờ bên kia. Hình ảnh sống
động ấy càng làm ta có sự phân biệt rõ ràng giữa mê và ngộ, xem giác ngộ
là mục tiêu xa xôi ở một thời điểm hứa hẹn nào đó.
Thật ra, Ngộ
không phải là một diễn biến từ từ mang đầy tính tri thức, theo tiến
trình từ nhân đến quả. Ngộ cũng không là một mục đích cho mình nhắm đến,
một cảnh giới cho mình thủ đắc. Bởi vì tánh giác chính là Mình,
do quên tánh giác nên mê, nhớ lại tánh giác là ngộ, nên ngay phương
tiện đã là cứu cánh, giở chân là đã đến nhà. Nếu phân biệt phương tiện
và cứu cánh là đem tâm chờ ngộ; nếu có mục tiêu hướng đến là có ngã
hướng về ngã sở. Tế nhị hơn, nếu nghĩ mình đã ngộ thì cái ngộ
ấy là cảnh giới do bản ngã thêu dệt, để cái ngã ấy sở đắc; tất cả đều là
hành vi của thức.
Thiền sinh tu
theo pháp môn Tri vọng, đôi khi thắc mắc sao công phu một thời gian dài
mà vọng còn mãi, có lúc càng lẫy lừng hơn trước. Có người khát khao được
thấy tánh, và khi tọa thiền được đôi chút khinh an, lầm chấp sự khinh
an ấy là kiến tánh. Trong Kinh Niệm Xứ, Đức Phật dạy tuệ tri trên 16
loại tâm hành sanh diệt. Ngài chỉ dạy ta “Biết” chứ không dạy
cách diệt trừ. Lúc định ta biết, lúc loạn cũng biết chứ không bỏ loạn
tìm định. Có vọng hay không vọng là hai mặt đắp đổi cho nhau, đều là
khách thể; còn chủ thể là cái Biết thường hằng xuyên suốt mọi biến động
của tâm. Nhận ra cái Biết thường hằng ngay khi vọng khởi, ấy là siêu
vượt cả loạn và định. Ngay sóng sanh diệt nhận ra bản chất nước bất sanh
thì ngay mê là giác, không phải tìm bờ giác ở đâu xa.
II. TINH THẦN ĐỐN NGỘ.
“Đốn” là ngay
tức khắc, rất nhanh chóng; “Ngộ” là nhận ra. Đốn ngộ hiểu theo nghĩa
thông thường là nhận ra thể tánh chân thật của mình một cách nhanh chóng
thẳng tắt, không qua thứ lớp tu tập. Đây là sự đột biến trong tâm hành
giả, là sự chuyển hoá tận gốc rễ . Nhưng đây cũng là kinh nghiệm tự nội,
là trạng thái vô ngôn sâu thẳm của riêng mỗi người, không thể trang
trải trên tầng hiển ngôn rườm rà, hoa mỹ. Do vậy, đề cập đến tinh thần
Đốn ngộ cũng chỉ là gượng nói, còn muốn biết nóng hay lạnh thế nào, chỉ
tự mình uống mới rõ.
1. Ngộ là kết quả của sự
thao thức miên trường nhưng không mong cầu nóng vội:
Nhà Thiền có
câu “Mê nghe kinh trọn kiếp, ngộ chỉ một sát-na”. Trọn kiếp
nghe kinh, nghiên tầm văn cú, dù thuộc làu ba tạng kinh điển cũng chỉ
dừng lại ở văn và tư, tức nghe và suy gẫm. Người ấy trở thành học giả,
thành người đạo đức, nhưng chỉ có sự hiểu biết trên bình diện chữ nghĩa
chứ không thể thâm nhập vào đạo lý diệu mầu. Những gì không có chiều sâu
thường không bền vững, đến khi gặp hoàn cảnh bức bách, e người ấy không
có sự trầm tĩnh ứng phó kịp thời.
Người tu đạo
Phật có thể không là học giả, nhưng nhất định phải là hành
giả. Các Thiền sư ngày xưa không giảng giải dài dòng, mà thường
dùng những phương tiện thiện xảo tùy cơ, khiến môn đệ bặt đường suy
nghĩ. Các Ngài tạo cho môn đệ một nỗi thao thức miên viễn, ray rứt trăn
trở với khối nghi mãi không thôi. Đúng thời tiết nhân duyên, Thiền sư
chỉ cần điểm nhẹ, khối nghi bùng vỡ, thiền sinh đại ngộ.
Sự thao thức
đối với thiền sinh như vậy rất quan trọng và cần thiết. Mỗi người có thể
có một nghi vấn riêng, hoặc tự mình đặt ra, hoặc do người khác gieo
vào. Chẳng hạn ta có thể đặt câu hỏi: “Mặt mũi đích thực của ta là
gì ?” hay “Tại sao Đức Phật bảo chúng sanh đều có Phật tánh mà
ta phải sống kiếp cùng tử lang thang?”. Ta phải ôm câu hỏi nầy mọi
nơi mọi lúc, và phải tự lực tìm câu giải đáp. Đại nghi thì đại ngộ, và
nghi thì miên trường nhưng lúc ngộ chỉ trong chớp
nhoáng, khi trực giác phát sinh. Chúng ta đã khảo sát kỹ vấn đề nầy
trong chương “Khối nghi và thuật khai tâm” ở trước.
Tuy nhiên,
thao thức vì mối nghi không đồng hoá với sự mong cầu kết quả. Chúng ta
làm việc gì cũng đều có hy vọng, có mong mỏi việc làm đạt kết quả mau
chóng, tốt đẹp. Việc tu hành cũng vậy, nhất là đối với những người lớn
tuổi, thấy quỹ thời gian của mình không còn bao nhiêu, càng nóng vội
mong mau đến đích; ai chỉ bảo pháp tu thẳng tắt,
chóng ngộ, chóng chứng, hiện đời thành Phật là tu theo. Do không có
chánh kiến nên người ấy dễ bị lừa gạt, có khi sa vào đường ma lối quỷ.
Thật sự, trên
đời không có đường xa nào mà không có gian nan trở ngại. Đường đời còn
thế, huống chi đường tu. Thành Phật tác Tổ đâu phải chuyện đơn giản dễ
dàng mà muốn đạt kết quả trong phút chốc. “Chiến đấu không gian khổ
thì chiến thắng không vinh quang”. Chiến đấu với chính bản thân
mình lại là cuộc chiến trường kỳ và gian khổ nhất; nhưng nếu thành công,
cuộc chiến ấy mới có ý nghĩa đích thực. Đốn ngộ tuy xảy ra trong một
sát-na, nhưng trước khi có sát-na ấy, người tu phải có những điều kiện
gì, phải công phu như thế nào, phải chuẩn bị tâm thức ra sao. Đó là
những điều chúng ta cần nắm vững trước khi tiến hành việc lớn của đời
mình.
Bài kệ của Tú
tài Trương Chuyết có hai câu:
Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh
Thú hướng chân như tổng thị tà.
Lúc chưa biết
tu, chúng ta dung túng phiền não, ai đối xử không tốt với mình thì mình
nhớ mãi không nguôi. Khi biết tu, chúng ta lại thấy phiền não là khổ, muốn đoạn trừ phiền não để được an vui. Ta
không biết rằng, chính tâm dẹp trừ lại làm ta mất bình an, càng thêm
bệnh. Cảnh giới không phiền não mà ta muốn hướng đến chỉ do ý thức vẽ
vời ra, chứ không phải cảnh vốn tự tịnh tự an của thể tánh, nên thú
hướng “chân như” ấy chính là tà. Người tu chúng ta cần nhận định rõ để
khỏi lầm lẫn giữa trạng thái không phiền não do ý thức tưởng tượng ra,
và cảnh giới vốn tự bình an khi đạt đạo.
Một ví dụ về
kho chứa vật dụmg lâu ngày. Khi dọn dẹp ta vứt bỏ những vật không đáng
giá, nhưng còn giữ lại những món có giá trị cao. Tiếp tục dọn dẹp, ta
vứt tất cả các thứ, kho trở thành trống rỗng, nhưng vẫn còn giữ lại cái
kho trống ấy. Đây là tâm trạng của người tu chúng ta, lúc đầu bỏ ác tìm
thiện, rồi vượt qua cả thiện lẫn ác, mọi ý niệm đều vắng bặt. Tuy nhiên,
ta lại chấp chặt vào trạng thái trống vắng của tâm mà không biết đó là
cái sở thủ vi tế. Lại nữa, có tâm thủ xả là muốn bỏ cảnh phiền não tìm
chốn bình an, tức đem tâm nầy lựa chọn tâm kia, đưa đến sự xung đột nội
tâm không dừng nghỉ . Ta cũng không biết rằng, khi ta hướng tâm đến chân
như tức xem chân như là một thực tại khách quan, tồn tại ngoài mình;
thật ra chân như chính là mình, càng nghĩ càng tìm nó lại càng xa thẳm.
Tất cả đều vì chúng ta thấy các pháp đều thật có nên dụng công hữu vi
hữu tướng, khổ nhọc nhiều mà kết quả chẳng bao nhiêu. Khéo nhận ra mọi
cảnh giới phiền não hay bình an đều như hoa đốm, không thật sanh cũng
chẳng thật diệt; khéo an trú nơi bản tâm vô nhất vật thì công phu nhẹ
nhàng mà thành tựu viên mãn.
2. Ngộ là Bát-Nhã:
Bát-Nhã là cái
biết của trí, là hành vi của trực giác không qua trung gian suy luận,
không vận dụng thức tâm phân biệt chủ quan. Bát-Nhã quán triệt muôn pháp
trong tận cùng bản chất thâm sâu của chúng, dung nhiếp giữa người và
cảnh, giữa chủ thể và đối tượng.
Con người
chúng ta khi tiếp duyên xúc cảnh, luôn có ý thức xen vào khiến sự nhận
định của mình mang đầy tính cực đoan phiến diện. Ta luôn thấy các pháp
theo một khuôn mẫu ước lệ, và đặt tên cho chúng bằng sự tưởng tượng vẽ
vời của mình, càng lúc càng xa với thực tại. Thật ra, các pháp tự chúng
không đẹp-xấu, hay-dở… mà vô ngại dung thông nhau. Nếu thấy các pháp nơi
đầu nguồn cội, nơi trước khi có ý niệm phân ranh, rõ ràng chúng bình
đẳng trong Không tánh. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Phóng nhi tắc bao la
thế giới, thâu nhi tắc tế nhập vi trần”, buông ra thì cùng khắp
pháp giới mà thu lại chỉ trong một hạt bụi. Khi không còn tâm phân biệt
thì ý niệm lớn nhỏ không tồn tại, lớn như núi Tu-di hay nhỏ như hạt cải
đều bình đẳng không khác. Thất của Ngài Duy-Ma chỉ vuông vức một trượng
nhưng chứa hết vô vàn toà sư tử, đây là một hình ảnh huyền diệu diễn tả
một cách sống động tinh thần dung nhiếp của vạn pháp. Vấn đề nầy không
thể dùng ý thức suy lường, mà phải nhờ cái biết thấu thể thực tướng của
các pháp. “Cái biết thấu thể” ấy là Bát-Nhã, là cảnh giới bất
khả tư nghì của những bậc ngộ đạo mà kinh Lăng Già
gọi là “Cảnh giới Thánh trí tự chứng”.
Một đệ tử lớn
của Đức Phật, Ngài Tu-Bồ-Đề, sau khi khai ngộ lý Không nơi pháp hội Kim
Cang Bát-Nhã, được tôn xưng là bậc Giải Không đệ nhất. Một hôm,
Ngài tọa thiền trong thạch động, chư thiên mưa hoa cúng dường. Ngài hỏi
:
- Các ông là ai ? Vì sao đến đây
mưa hoa khen ngợi tôi ?
Vị thủ lãnh chư thiên chắp tay thưa :
- Tôi là Thiên Đế Thích, mấy vị kia đều
là thiện nhơn.
- Vì sao các
vị ân cần khen ngợi tôi như thế ?
- Chúng tôi kính trọng tôn giả nhập
Không tam muội khéo thuyết Bát-Nhã.
- Tôi chưa từng nói một chữ Bát-Nhã, cớ
sao các ông khen ngợi ?
- Tôn giả không nói, chúng tôi không
nghe. Không nói không nghe là chơn Bát-Nhã.([3])
Không có người
nói, không có đối tượng nói, không có pháp để nói, nhưng không phải phủ
định tất cả, mà thấu suốt thực tướng của chúng. Cái thấy lìa ngã chấp
và pháp chấp, nhìn mọi sự mọi vật trên thực tướng vô tướng mới
là Bát-Nhã chân chánh, là cái thấy biết của bậc ngộ đạo.
Ngài Bá Trượng
lúc còn tham học với Mã Tổ Đạo Nhất, theo hầu làm thị giả. Mỗi lần dâng
trai phạn, Tổ đều chỉ vào cái bánh hỏi : “Đây là gì ?”. Suốt
ba năm trường, Ngài vẫn mờ mịt không hiểu. Một hôm, thầy trò đi dạo,
thấy đàn vịt trời bay qua. Tổ hỏi:
- Đó là cái gì?
Ngài thưa:
- Bầy vịt trời.
- Bay đi đâu?
- Bay qua mất rồi.
Mã Tổ nắm mũi Ngài véo mạnh, Ngài đau
quá kêu lên. Tổ bảo:
- Sao lại nói bay qua mất?
Ngài Bá Trượng nhân đây đại ngộ.
Mã Tổ là bậc
Thiện tri thức, thấy môn đệ dụng công ròng rã, hôm nay đã chín muồi, nên
mới dùng thủ thuật thiện xảo. Tác động trực tiếp của Tổ khởi nguồn cho
trí Bát-Nhã của Ngài Bá Trượng phóng xuất. Lúc đầu thấy có đàn vịt, lát
sau thấy không có đàn vịt, cái thấy biết luôn luôn hiện diện, có vắng
thiếu bao giờ? Cho nên khi bị véo mũi, vẫn biết đau, biết la thất thanh.
Và đây là đoạn lý thú:
Hôm sau, Mã Tổ
vừa lên toà, chúng nhóm họp xong, Sư bước ra cuốn chiếu. Mã Tổ xuống
toà, Sư theo sau đến phương trượng. Mã Tổ hỏi : “Ta chưa nói câu
nào, tại sao ngươi cuốn chiếu?”.
Sư thưa:
- Hôm qua bị Hòa thượng
kéo chót mũi đau.
- Hôm qua
ngươi để tâm chỗ nào?
- Chót mũi
ngày nay lại chẳng đau.
- Ngươi hiểu
sâu việc hôm qua.
Sư
làm lễ, lui ra.([4])
Mới đọc qua,
ta thật ngỡ ngàng vì thầy trò đối đáp không ăn
nhập vào đâu cả. Nhưng đó là ngôn phong của những người đã sáng mắt.
Ngài Bá Trượng cuốn chiếu không cho Tổ giảng
pháp, ý thưa với Tổ không cần nói thêm, vì Ngài đã nhận ra lẽ thật . Tổ
về phương trượng, Ngài theo sau và thưa: “Hôm qua bị Hòa thượng kéo
chót mũi đau”, hôm qua bị Tổ lừa nhưng hôm nay Ngài không còn lầm
nữa. Tổ trắc nghiệm lại chỗ thấy biết của Ngài bằng câu hỏi: “Hôm
qua ngươi để tâm chỗ nào ?”; nếu trả lời theo câu hỏi tức chạy theo
đầu lưỡi của Thiền sư, lại bị lừa thêm lần nữa. Nhưng Ngài Bá Trượng
thât sự đã sống với cái biết hiện tiền, nên trả lời “Chót mũi ngày
nay lại chẳng đau”. Do vậy, Mã Tổ đã ấn chứng cho Ngài bằng câu đơn
giản “ Ngươi hiểu sâu việc hôm qua”.
Từ việc thấy
đàn vịt trời đến sự cuốn chiếu và câu đáp “Chót mũi ngày nay”,
đều diễn tả cái thường biết sống động hiện tiền, không phải nhờ tọa
thiền tập định. Điều nầy cho thấy, ngộ đạo là sự phóng xuất chớp nhoáng của trí tuệ Bát-nhã, có thể xảy ra trong
bất cứ khoảnh khắc nào, nơi chốn nào, hoàn cảnh nào, khi đủ thời tiết
nhân duyên. Ví như trái cây đã chín muồi, chỉ cần một cơn gió thoảng,
một cánh chim vụt qua, một đụng chạm nhẹ…, cũng làm trái rụng. Ngài Linh
Vân sau ba mươi năm “tầm kiếm khách”, chợt ngộ đạo khi thấy hoa đào nở;
Ngài Đức Sơn ngộ đạo khi Thiền sư Sùng Tín Long Đàm đưa cho cây nến rồi
thổi tắt; Banzan ngộ đạo khi đi ngang chợ, nghe người hàng thịt rao bán
hàng của mình … Thiền sư ngộ đạo là ngộ trong sự sống động của muôn
pháp, trong sự biến chuyển không dừng của dòng đời, trong vô thường sanh
diệt của thế gian, nên trí tuệ Bát-Nhã là cái thường biết đầy sinh lực.
Vì đầy sinh lực nên các Ngài thấy các pháp đều
là Phật pháp, nên Ta-bà là Tịnh độ, nên tất cả hoa lá chim muông đều cất
tiếng niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng!
3. Ngộ là nhận ra bản tâm
ngay tại đây và bây giờ:
Một chàng nông
dân thấy con thỏ chạy va vào gốc cây và chết. Chàng mừng rỡ, đem con
thỏ về nhà. Từ hôm sau, ngày nào chàng cũng đến ngay gốc cây ấy, đợi
những con thỏ khác chết theo cách như vậy. Một chàng khác đi thuyền làm
rơi kiếm xuống sông. Chàng khắc một dấu lên mạn thuyền để nhớ nơi mình
rơi kiếm, đợi thuyền cặp bến mới nhảy xuống nước lặn tìm.
Chúng ta nghe
chuyện “Ôm cây đợi thỏ” và “Khắc dấu mạn thuyền”, cười cho hai chàng nầy
quá dại. Nhưng chúng ta liệu có khôn hơn hai chàng không ? Ai cũng nhớ
nghĩ về quá khứ và mơ màng chuyện tương lai, không biết rằng quá khứ đã
qua tương lai chưa đến, tất cả đều không thật. Chúng ta thích ôn lại,
sống lại những kỷ niệm xưa, nhất là những khi vui thú. Ngày hôm qua có
người khen, ngày nay muốn nghe khen nữa; hôm trước tọa thiền thấy an
lạc, hôm nay cũng mong có lại tâm trạng ấy; có khi biết những cơ hội ngộ
đạo của các Thiền sư, mình cũng muốn lập lại cơ hội ấy để được ngộ đạo
như các Ngài. Học trò gắng công học tập, chịu khổ nhọc gặm rễ đắng của
cây học vấn, hy vọng ngày mai nếm quả ngọt; người lao động cần mẫn làm
việc, dành dụm, dè xẻn mong ngày mai mình được hạnh phúc giàu sang;
người tu tam thường bất túc, tinh cần công phu mong ngày mai thành tựu
đạo quả … Tất cả đều mong đợi sự thành công ở một thời điểm xa vời thực
tại.
Chúng ta nghe
thêm hai câu chuyện sau đây:
Một người đánh
cá chỉ làm việc vào buổi sáng. Trưa và chiều tối anh ta về thuyền nghỉ
ngơi, hóng gió, ca hát có vẻ thong dong lắm.
Người bạn anh ta thấy lạ, hỏi sao không lo chí thú làm ăn. Người đánh cá
hỏi lại:
- Làm việc cả
ngày để chi?
- Để có tiền
nhiều.
- Tiền nhiều
để làm gì?
- Để mua thêm thuyền, đánh được nhiều
cá, trở thành người giàu có.
- Giàu có để
làm gì?
- Để về già hưởng phước, nhàn hạ, tha
hồ hóng mát, ca hát.
- Thì bây giờ tôi cũng đang hóng mát và
ca hát đấy thôi!
Câu chuyện thứ
hai có tựa là “Phỏng vấn Thượng Đế” (Interview with God ) đọc được trên
Internet. Một người nằm mơ thấy mình lên Thiên đường phỏng vấn Thượng
Đế:
- Thưa Ngài, điều gì ở loài người
làm Ngài ngạc nhiên nhất?
Thượng Đế trả
lời sau một giây suy nghĩ:
- À à… Đó là lúc nhỏ thì họ mong mau
lớn, khi lớn rồi lại mong cho nhỏ lại. Đó là họ phung phí sức khoẻ để
kiếm được nhiều tiền, rồi bỏ tiền ra để phục hồi sức khoẻ. Lúc nào họ
cũng lo lắng toan tính cho tương lai, để rồi chẳng sống trong tương lai
mà cũng không an nơi hiện tại !
Những câu
chuyện có vẻ đùa chơi, nhưng diễn tả đúng đắn bi kịch của kiếp người.
Con người thường khát khao hạnh phúc; và dù quan niệm về hạnh phúc có
khác nhau, nhưng tựu trung đều mang tâm trạng truy đuổi, rong tìm. Người
thế tục chủ trương hạnh phúc ở tài sản, danh vọng, gia đình êm ấm; hoặc
ở sức khoẻ, ở cảm thọ thẩm mỹ nghệ thuật. Người tu tìm hạnh phúc xuất
thế ở một cõi thanh tịnh an lạc, sau khi lìa bỏ thân nầy. Tất cả hy vọng
đều được đặt vào thì tương lai, nên con người như kẻ lữ hành, cứ cắm
cúi đi mà không biết bao giờ đến đích.
Thật ra, hạnh
phúc đang lung linh ngay thực tại muôn màu muôn vẻ, khi tâm ta an trú
trong sát-na bất động, chánh niệm tỉnh giác trên từng biến chuyển của
thân tâm cảnh. Các pháp luôn nhiệm mầu toàn hảo từ vô thủy đến vô chung;
và ngộ đạo là trạng thái đột biến của tâm khi nhận ra thực tướng toàn
vẹn toàn bích của các pháp, trong khoảnh khắc hiện tiền. Tại hội Linh
Sơn, Đức Phật đưa cành hoa lên, Ngài Ca-Diếp mỉm cười, khởi đầu thành
lập Thiền tông. Cành hoa đưa lên là một pháp sống động trong giây phút
hiện tại; nụ cười Ngài Ca-Diếp cũng là một pháp sống động trong thực tại
đang là. Cành hoa không đưa lên nữa, tâm hoa của Ngài Ca-Diếp vẫn nở
mãi không tàn. Nếu vắng bặt mọi ý niệm phân tích nhị nguyên, khéo nhận
ra thể tánh bất sanh trong dòng sanh diệt của vạn pháp, ta thấy Đức Phật
vẫn còn trên hội Linh Sơn cùng chư Thánh chúng. Cành hoa vẫn tươi, nụ
cười vẫn nở, có vắng mặt bao giờ ?
Như vậy, Ngộ
là quán triệt thực tướng các pháp ngay tại đây và bây giờ. Nhưng Ngộ từ
đâu đến? Ý nghĩa của lời dạy “Tức tâm tức Phật” ra sao?
Kinh Pháp Cú
có đoạn:
Tâm vi tế khó thấy
Truy đuổi theo dục trần
Người trí phòng hộ tâm
Phòng tâm thì an lạc.
Con người khi
tiếp xúc với trần cảnh, thường duyên theo trần khởi niệm phân biệt không
lúc nào yên. Tâm dong ruổi mọi nơi mọi lúc, cả khi ta đang tọa thiền.
Tâm lén lút ma mảnh, lại không có hình tướng rõ ràng, có lúc vi tế khó
thấy, dẫn lôi ta quay cuồng theo ngũ dục. Người tu là phòng hộ tâm không
để lang thang trăm nơi nghìn chốn, tức chăn không cho trâu tâm ăn lúa
mạ người. Tâm được phòng hộ kỹ, tất nhiên được an vui, cho nên tu ngay
tâm là tu tại gốc.
Nhà Thiền
thường dùng hình ảnh của ba mặt trăng: Mặt trăng thứ ba là thức tâm phân
biệt, là cái thấy biết theo duyên, có tính cách chủ quan phiến diện xa
rời thực tại. Mặt trăng thứ hai là tánh thấy nghe hay biết thường hằng
không biến đổi, thể hiện qua sáu căn, là cái biết không duyên. Mặt trăng
thứ nhất là bản tâm thanh tịnh, là nguồn cội của muôn pháp, là bộ mặt
thật xưa nay của chính mình. Có vị Thiền sư bảo, không bao giờ có mặt
trăng thứ hai, ý Ngài muốn phá tình chấp của chúng sanh ưa phân biệt
rạch ròi cái nầy cái khác. Thật sự, lúc còn là phàm phu hay khi ngộ đạo
cũng chỉ một tâm chứ không đâu khác. Sự chuyển hoá tận gốc rễ không phải
loại bỏ vọng tâm để có chơn tâm, mà siêu vượt cả chơn và vọng; không
phải loại bỏ ý thức, mà chuyển thức thành trí. Cũng một niệm mà đời ta
mê mờ, cũng một niệm mà đời ta sáng tỏ, ấy là sự chuyển y, rắn hoá rồng
không đổi vảy.
Thiền sinh tu
theo pháp môn Tri vọng, giai đoạn đầu phải nhận diện và theo dõi từng
tâm niệm, biết chúng hư dối, không theo.Vọng khởi liền biết, không bị
vọng dẫn lôi là đã tiến một bước dài. Sau một thời gian, dài hay ngắn
tùy căn cơ, thiền sinh tự mình khám phá Tánh Biết vọng, tức nhận ra mặt
trăng thứ hai theo cửa Ý căn, cửa Phổ Hiền. Lúc nầy, thiền sinh
thấy rõ:
Chợt sinh biết vọng sinh
Chợt diệt biết vọng diệt
Sinh diệt đợt sóng tâm
Biển tâm ngoài sinh diệt.
(Thiên Chân)
Vọng sanh khởi
hay hoại diệt ta đều biết rõ; chỉ cần biết mà không trừ dẹp đè nén,
vọng tự biến mất và tâm tự an. Lại nữa, sóng dù nổi hay chìm, dù sanh
hay diệt cũng không ngoài biển. Sanh diệt chỉ là tướng trạng của sóng,
còn biển thì không sanh diệt bao giờ. Cũng vậy, vọng khởi hay vọng lặng
không thể rời tâm thể
thường hằng bất biến; đó là nền tảng của vạn pháp, là nguyên uỷ của vũ
trụ nhân sinh. Ngài Nam Nhạc dạy : “Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự
chiếu”(Đất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự chiếu). “Tâm Không”
chẳng phải không có tâm, mà là không tâm sanh diệt, không tâm phân biệt,
còn Tánh Biết vẫn hiện tiền. Nói thế không phải là lúc có vọng, mặt
trời không chiếu, chỉ vì bị che lấp nên tạm thời không thấy ánh sáng đó
thôi. Ngôn từ đôi khi làm ta rối rắm và sai lạc, nên khi đọc kinh sách
không nên chấp chặt vào chữ nghĩa, phải nên lãnh ý quên lời mới mong
thấu suốt nghĩa lý.
Như vậy, khi
hay biết mọi sự mọi vật mà có ý thức phân biệt xen vào, đó là vọng
tưởng. Khi vẫn hay biết tất cả mà không khởi niệm, ấy là sự thấy biết
như thật. Tất cả đều chỉ một tâm, nên cả ba mặt
trăng thật ra không hai không khác. Và vì giác ngộ ở ngay tâm, nên tức
tâm là Phật.
Một số trường
phái chủ trương rời bỏ tiểu ngã là thân
mình, trở về Đại ngã là pháp giới. Ấy ví như hòn bọt thấy mình có cùng bản chất nước với biển
cả, nên chấp nó chính là biển, nghĩa là bỏ cái nhỏ hòa nhập với cái lớn.
Như thế, vẫn còn tình trạng bỏ ngã phàm nhưng trụ ở ngã thánh; trừ được
ngã thô nhưng ngã tế chưa sạch. Hành giả bị một lớp sương mù kiêu mạn
che mờ tánh giác, chưa ra khỏi vòng đối đãi nhị nguyên tức chưa thoát
khỏi sự ràng buộc của ý thức. Đây là điều rất tế nhị, cần suy gẫm kỹ.
III. ĐỐN NGỘ TIỆM TU.
Vào thế kỷ thứ VI, Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa. Ngài
thấy người tu hầu như đều công phu theo lối Thiền mặc tọa và Tứ thiền
Bát định, nên không ai có sự chân ngộ. Tổ bắt đầu xiển dương Thiền Đốn
ngộ, và bài kệ nổi tiếng sau đây nói rõ chủ trương của Ngài:
Bất lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
Tạm dịch:
Không lập văn tự
Ngoài giáo riêng truyền
Chỉ thẳng tâm người
Kiến tánh thành Phật.
Không cần chữ nghĩa dài dòng rối rắm,
Thiền sư có thủ thuật truyền riêng ngoài giáo điển, giúp môn nhân lập
tức nhận ra bản tâm thanh tịnh của chính mình. Kiến tánh tức thành Phật.
Quả là một
tiếng sét giữa trời quang! Người theo học Thiền Đốn ngộ về sau rất đông,
nhưng người phản bác cũng không ít, nhất là khi Lục Tổ xiển dương tông
phái. Người phản bác nêu lập luận: Chư Phật phải cần khổ tu hành đến ba
a-tăng-kỳ kiếp mới thành tựu đạo quả, nay nói chỉ thấy tánh là thành
Phật, làm sao tin nổi? Ngài Đức Sơn Tuyên Giám, người chuyên giảng kinh
Kim Cang và trước tác bộ Thanh Long Sớ sao, hàng hậu bối sau Lục Tổ hơn
trăm năm, đã phẫn nộ muốn “Ruồng tận hang ổ, tiêu diệt hết bọn ma
phương Nam để đền ơn Phật Tổ”!
Trên thực tế,
ta thấy mọi việc thường xảy ra tuần tự, có thứ lớp. Ví như một cây từ
khi mọc đến lúc ra hoa trái phải mất một thời
gian, dài ngắn tùy loài; con người từ khi mới sanh đến tuổi trưởng thành
phải trải qua hai mươi năm… Tuy nhiên, cũng có những trường hợp đột
biến làm thay đổi trong giây phút. Trường hợp tế vi như đột biến gen
trong tế bào, tạo nên một giòng sinh vật khác; trường hợp rõ hơn như
người trúng số độc đắc, từ khốn cùng bỗng giàu lên nhanh chóng; tình
huống trọng đại như cả một vùng đang yên ổn thanh bình, bỗng bị hủy diệt
bởi vũ khí hạt nhân … Đặc biệt hơn, những cảnh trong mộng diễn biến với
đủ tình tiết, khi người tỉnh giấc cảnh biến mất ngay, không còn dấu
vết. Cũng vậy, có những hành giả bỗng nhiên có đột biến trong tâm, tự
nhiên thấu suốt vấn đề một cách nhanh chóng mà không qua thứ lớp tu tập.
Đó là những vị có trực giác bén nhạy, có chủng tử Bát-Nhã sâu dày.
Thiền Đốn ngộ lập cước trên cái thấy biết như thật về tất cả các pháp
khi chúng đang là, mà kinh Pháp Hoa gọi là “như thị tri, như thị
kiến”. Cái thấy biết ấy không qua trường lớp đào tạo, không qua thứ
lớp tu tập mà là sự phóng xuất chớp nhoáng của trực giác Bát-Nhã. Vào
thời điểm diệu kỳ không báo trước, đột ngột then máy huyền vi mở ra,
hành giả thấy rõ mình là ai trước khi cha mẹ sanh, trước cả lúc vũ trụ
hình thành. Đây là sự chấn động mãnh liệt, sự đổi đời triệt để khiến
phải khóc cười ra tiếng, như Lục Tổ đã từng la lên “Đâu ngờ tự tánh
vốn tự thanh tịnh, Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ …”
Nhưng nhận ra
bản tánh thanh tịnh mới chỉ là bước đầu vào cửa Thiền tông. Nói “Kiến
tánh thành Phật” nghĩa là đã có chánh nhân tu hành, nhưng tập khí
lâu đời đâu dễ dàng gột sạch? Tuy đường tu không còn lầm lạc, niềm tin
không còn thối chuyển, chỗ thấy không còn mai một, nhưng vẫn phải mất
bao nhiêu thời gian công sức bào mòn tập khí, sống thuần thục bằng tâm
thể bất sanh. Đây là bước lớn thứ hai trên đường đạo. Kinh Kim Cang nói :
“Tất cả Hiền Thánh chỉ do một pháp vô vi mà có sai khác”. Pháp
thân vô tướng chỉ có một, nhưng do sống trọn vẹn hay chưa mà có thứ bậc
sai khác : Tam Hiền là các quả vị Trụ-Hạnh-Hồi hướng ; thập Thánh là
mười quả của Thập Địa Bồ-tát. Nhà Thiền cũng có câu : “Ở trong Viên
Giác mà chưa từng viên giác là phàm phu. Muốn chứng Viên Giác mà chưa
tột Viên Giác là Bồ-tát. Đầy đủ Viên Giác và an trụ trong Viên Giác là
Như Lai”.
Và đây là bài
kệ truyền tụng nổi tiếng:
Đốn ngộ tuy đồng Phật
Đa sanh tập khí thâm.
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.
Tạm dịch:
Đốn ngộ tuy bằng Phật
Nhiều đời tập khí vây.
Gió dừng, còn sóng dữ
Lý hiện, niệm còn đầy.
Bậc đốn ngộ
tuy có cái thấy biết đồng với chư Phật, nhưng nhiều đời tập khí sâu dầy,
vây phủ lôi cuốn tạo thành trở ngại chướng duyên. Ví như gió lặng mà
sóng vẫn còn dâng cao, vị ấy tuy nắm vững lý thật mà vọng tưởng vẫn còn
lừng lẫy, chấp ngã tế vi vẫn còn ngủ ngầm. Giai đoạn này, các vị Thiền
sư ngày xưa thường ẩn tu một thời gian dài để bảo nhậm, sau đó mới ra
hoằng hoá.
Kinh Lăng
Nghiêm có bài kệ của Ngài A Nan trình lên Đức Phật, sau khi thấy đạo.
Ngài thể hiện niềm tin kiên cố của mình “Thuấn–nhã–đa tánh khả tiêu
vong, Thước-ca-ra tâm vô động chuyển”, dù hư không tánh bị hoại
diệt thì tâm Bồ-đề của Ngài cũng không dời đổi. “Tâm Bồ Đề”
là bản tâm chân thật Ngài đã nhận ra. Tuy
vậy, vì tập khí nhiều đời nên những nghi hoặc nhỏ nhiệm chưa dứt. Ngài
cầu xin Đức Thế Tôn rũ lòng bi mẫn, giúp Ngài tận trừ chúng:
Đại hùng đại lực đại từ bi
Hy cánh thẩm trừ vi tế hoặc.
Khi Phật diệt
độ, Ngài A-Nan vẫn chưa sạch lậu hoặc, chưa chứng ngộ A-la-hán nên không
được dự Đại hội kết tập kinh điển do Ngài Ca-Diếp chủ trì. Phải qua một
đêm tích cực hạ thủ công phu, Ngài A-Nan mới chứng Thánh quả, vận thần
thông bay vào hang đá nơi đang diễn ra Đại hội. Với tài đa văn bậc nhất
và trí nhớ tuyệt vời, Ngài tuyên đọc những lời Phật đã dạy trong suốt
thời gian hành đạo, không sót một chữ, “Như nước trong vò đổ vào
bình không rơi ra một giọt”!
Theo quan niệm
của Phật giáo Phát triển, quả A-la-hán là chứng lục thông, giải thoát
sanh tử; nhưng so với quả vị Phật còn cách xa muôn trùng. Bậc A-la-hán
chỉ tương đồng với Phật trên bình diện đoạn đức, nhưng không
sánh được Phật ở trí đức và ân đức. Đoạn đức là đoạn trừ tân
gốc phiền não nghiệp chướng, sạch hết tập khí, vượt thoát luôn hồi. Tuy
nhiên, các Ngài thấy Ngã không nhưng chưa thấy Pháp không, còn chấp
Ta-bà khổ đáng chán, Niết-bàn an lạc đáng ưa, tức là còn thủ trước vào
Niết-bàn Hoá thành. Bồ-tát thì thấy Ngã-Pháp đều không thật, trần gian
và Tịnh độ đều là hoa đốm, không có phiền não đáng xa lìa và Bồ-đề đáng
thủ đắc. Do có trí đức nên các Ngài dạo chơi
trong sanh tử, bằng nguyện lực mà vào ra tam giới, miệt mài hành Bồ-tát
hạnh giáo hoá chúng sanh, vẹn toàn Ân đức. Khi tự giác giác tha viên
mãn, các Ngài chứng quả vị tột cùng. Điều đặc biệt là khi thành Phật,
các Ngài vẫn không ngừng trở lại các cõi độ sanh. Bồ-tát Văn Thù, Phổ
Hiền, Quan Âm là những vị Cổ Phật, nhưng vẫn thị hiện làm Bồ-tát hỗ trợ
công cuộc hoằng hoá của Đức Phật Thích Ca; sau nầy hai Ngài Văn Thù, Phổ
Hiền còn hoá thân thành hai thân phận hạ liệt Hàn Sơn-Thập Đắc, tùy
duyên cảnh tỉnh người đời. Những hình ảnh sáng ngời ấy quả khiến ta vô
cùng ngưỡng mộ và cảm khái!
Vì sao các
Ngài không xem Niết-bàn là chỗ an trú vĩnh viễn? - Bởi vì các Ngài đủ
đại trí nên không bị trầm luân trong sanh tử, và đủ đại bi nên phải thi
thiết phương tiện hoá độ chúng sanh vô minh. Nếu chỉ có đại bi thì cứu
người không xong, mà chính mình cũng bị nghiệp lực dẫn lôi vào vòng xoáy
luân hồi; nếu chỉ có đại trí thì không thể tận tình giáo hoá chúng sanh
cang cường nan điều phục. Đầy đủ đại trí và đại bi, các Ngài mới có thể
cứu mình cứu người. Trí đức và Ân đức vì thế cần phải đi đôi. Mặt khác,
do thoát vòng cương tỏa của phân biệt nhị biên, nên Niết-bàn và sanh tử
đều không hai không khác. Các Ngài làm mọi việc, đóng mọi vai trò mà
tâm hoàn toàn thanh tịnh. Ấy mới là Chân định, Thường định, Đại định.
x
x
x
Thiền sư
Khuông Việt có bài kệ :
Mộc trung nguyên hữu hoả
Hữu hoả , hoả hoàn sanh.
Nhược vị mộc vô hoả
Toản toại hà do manh ?
Tạm dịch :
Trong cây vốn có lửa,
Có lửa, lửa mới sanh.
Nếu bảo cây không lửa,
Cọ xát, lửa sao thành ?
Vì trong cây
có sẵn lửa nên khi hai cây cọ xát nhau, lửa mới phát ra.Thân vô thường
của chúng ta cũng vậy, vì có sẵn bản tánh chân thường tức chánh nhân
thành Phật, nên tu hành mới có ngày thành tựu Phật quả. Chư Phật thấy rõ
Phật nhân bình đẳng ở tất cả chúng sanh, nên thị hiện nơi đời với bản
hoài “Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Chúng ta có
phước duyên nhiều đời mới được nghe và tu theo chánh pháp, không mang
mặc cảm tự ti cho mình căn cơ thấp kém mà thối chí ngã lòng. Chúng ta
tin chắc trong thân ngũ uẩn sanh diệt của mình có thể tánh
bất sanh; và với niềm tin kim cương ấy, ta vững chãi bước trên lộ trình
tâm linh, vượt qua mọi gian nan thử thách, và có ngày đạt đến quả vị
tột cùng.
([1]) Ngũ Đăng Hội Nguyên tiết dẫn -
1996: 360. Thích Phước Hảo - Thích Thông Phương.
([2]) Giai thoại Thiền. 1996: 246. Viên-Đức
([3]) Thập đại đệ tử truyện. 1994: 143 - 144. Thích
Tinh Vân. Như Đức dịch
([4]) Thiền sư Trung Hoa. Tập một.
1995: 133-134. HT Thích Thanh Từ.