Thiền trong đời thường
Tác giả: Thích Thông Huệ
15/02/2553 10:19 (GMT+7) Kích cỡ chữ:
Chương
3: CHỨNG NGHIỆM THIỀN
Tất cả thiền sinh, ai cũng phải ít
nhiều bơi lội trong công phu. Dù có lúc ta bị tán tâm, quay cuồng theo
các cảnh, nhưng nhờ kịp thời tỉnh thức nên lấy lại sự tự chủ tự do. Cũng
có những khi thân thể khoẻ mạnh, khí lực sung mãn, điều kiện xung quanh
thuận lợi, sự tọa thiền quyết liệt giúp ta đi sâu vào công phu, ta cảm
thấy tươi mát, bình an và tự tin vô cùng. Như vậy, có thiền tập là có sự
cảm nhận trên chính bản thân mình một trạng thái vô nhiễm của tâm, khi
tâm ta an nhiên bất động trong phút giây hiện tại.
Có thể nói, nếu xa rời Thiền, ta không
thể hiểu bản chất của đạo Phật, vì Thiền là tinh
túy, là cốt tủy của đạo Phật. Nhưng nếu không có chứng nghiệm thì cũng
không có Thiền. Chính nhờ chứng nghiệm khi hành thiền, ta mới có sự bình
an vững chãi trước mọi cảnh huống, mới có thể vượt qua những chướng
ngại đến từ bên ngoài và trong thân tâm, mới có cơ hội phát minh việc
lớn.
Trong chương nầy, chúng ta sẽ triển
khai những khía cạnh và mức độ chứng nghiệm Thiền, để có cơ sở soi rọi
lại bản thân mình, từ đó có niềm tin vững chắc trên đường tu. Dĩ nhiên,
kết quả công phu và sự cảm nhận của mỗi người là những kinh nghiệm tự
nội, không ai giống ai; hơn nữa, sự giác ngộ không phải đến một cách thứ
lớp, tiệm tiến, mà là một trạng thái đột biến, bất ngờ. Tuy vậy, trong
lộ trình công phu, bước sau phải khác bước trước. Và vì tiến trình tu
tập có rất nhiều gian lao thử thách, và cả những hầm hố cạm bẫy, nếu
không dựa vào kinh nghiệm của nguời đi trước như những bảng chỉ dẫn bên
đường, chúng ta có thể phạm những lỗi lầm đáng tiếc. I.
CHỨNG NGHIỆM THIỀN LÀ KẾT QUẢ CỦA TRỰC GIÁC
Pascal, một nhà
triết học lừng lẫy người Pháp đã nói: “Con người chỉ là một cây sậy,
yếu ớt nhất trong thiên nhiên, nhưng là cây sậy biết tư duy” (L’homme
n’est qu’un roseau, le plus faible de la
nature, mais c’est un roseau
pensant). Thật vậy, khả năng của con người thích nghi với môi
trường với hoàn cảnh kém xa so với loài vật, nhưng lại đứng trên ngôi vị
chúa tể muôn loài là nhờ đâu? – Chỉ nhờ bộ óc biết lý luận, phân tích,
tư duy. Trí óc là phương tiện tối cần trong thế giới hữu vi để tồn tại
và phát triển, để ổn định trật tự xã hội, để thăng hoa về đạo đức. Đối
với người tu, bước đầu cũng phải vận dụng trí óc để nghe và hiểu đúng
chánh pháp. Trí hữu sư là trí tuệ nhờ thầy dạy và trò vận dụng tư duy mà
có, là bước căn bản khi mới vào đạo để khỏi sa vào tà kiến, mê tín.
Mặt khác, người
tu Phật như người chèo thuyền ngược dòng. Chỉ nói việc tọa thiền, những
hành giả sơ cơ chưa quen với tư thế tĩnh tọa, nếu không vận dụng ý chí
để làm chủ thân tâm, làm sao có thể vượt qua những cảm giác đau tê của
thân và những vọng niệm lẫy lừng của tâm trong suốt 1-2 giờ bất động? Và
những ma chướng cám dỗ của ngũ dục, nếu không kiên định chiến đấu liên
tục với chúng, làm sao có thể chiến thắng?
Như thế, ý thức
và ý chí đều là những điều kiện quan yếu của người tu lúc nhập môn.
Nhưng đó có phải là điều kiện duy nhất để được giác ngộ giải thoát
không?
Ta đã biết,
Thiền không lệ thuộc vào một tư thế, một hình thức lễ nghi nào. Thiền là
trạng thái của tâm thanh tịnh mà luôn tỉnh sáng, là sự thể nhập toàn
triệt vào thực tại sinh động. Đối với người mới vào đạo, tọa thiền là tư
thế tối ưu giúp tâm dễ an định, nhờ ý chí hỗ trợ để kéo dài thời gian
tĩnh tọa. Nhưng khi nỗ lực bằng sự tác ý, vô tình ta lại nuôi dưỡng ngã
tướng vì thấy có cái ta trong dụng công; cái ta ấy cũng trải
dài, lớn dần theo thời gian công phu. Đây là điều rất tế nhị mà nếu
không khéo chú ý, ta khó thể nhận ra.
Ngài Đạo Nhất
lúc còn là thiền sinh ở núi Hoành Nhạc, hằng ngày tọa thiền rất tinh
tấn. Thiền sư Nam Nhạc biết là bậc pháp khí nên một hôm đến gần hỏi :
- Đại đức ngồi thiền để làm gì ?
Ngài Đạo Nhất thưa:
- Ngồi thiền để làm Phật.
Câu trả lời rất hay, biểu lộ ý chí xuất
trần. Theo gương Đức Phật tọa thiền liên tục 49 ngày đêm dưới cội
Tất-bát-la và trở thành bậc giác ngộ, chúng ta đều mong có ngày, nhờ nỗ
lực tọa thiền, chúng ta cũng được thành tựu đạo quả. Tuy nhiên, chúng ta
chỉ biết thời điểm cuối cùng lúc sao Mai vừa mọc, đánh dấu sự thành
công của Đức Bổn sư ; còn quá trình tu tập trước đó, tâm thức ngài diễn
biến thế nào, thì ai hiểu thấu? Thiền sư Nam Nhạc
muốn cảnh tỉnh nên đem gạch đến mài trước cửa am Ngài Đạo Nhất. Và đây
là đoạn đối đáp rất lý thú và nghĩa lý rất sâu xa:
Đạo Nhất thấy lạ hỏi:
- Thầy mài gạch để làm gì?
Sư đáp:
- Mài để làm gương.
- Mài gạch đâu có thể thành gương được?
- Ngồi thiền đâu có thể thành Phật
được?
- Vậy làm thế nào mới phải?
- Như trâu kéo xe, nếu xe không đi,
đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?
Chấp vào việc tọa thiền cho là cứu
cánh, cũng ví như người muốn mài gạch thành gương hay nấu cát thành cơm.
Trâu và xe dụ cho tâm và thân, chúng ta tu là trị ngay con trâu tâm,
trị ở mọi nơi mọi lúc chứ không chỉ ở lúc tọa thiền. Lời dạy sau đây của
Thiền sư càng làm rõ hơn ý ấy.
- Người học ngồi thiền hay học ngồi Phật ? Nếu học
ngồi thiền, thiền không phải ngồi nằm. Nếu học ngồi Phật, Phật không có
tướng nhất định, đối pháp không trụ, chẳng nên thủ xả. Ngươi nếu ngồi
Phật tức là giết Phật, nếu chấp tướng ngồi chẳng đạt ý kia ([1]).
Nói như thế, không phải chúng ta bài bác việc tọa
thiền. Đạo Phật là Trung đạo, không chấp bên nầy cũng không thiên bên
kia. Chúng ta cần khéo hiểu lời dạy của các Ngài để có cái nhìn toàn
diện về mọi vấn đề, ngoài đời cũng như trong đạo.
Ở mức độ cao, Thiền là trí tuệ Bát–nhã,
là hành vi của trực giác. Trực giác Bát-Nhã phóng xuất khi vắng bặt
những suy luận tư duy. Trí hữu sư do vay mượn kiến thức bên ngoài kết
hợp với ý thức bên trong, trở nên chướng ngại nếu hành giả chấp chặt vào
đó. Đức Phật gọi là Sở tri chướng. Thiền không đồng hoá với
mặc tọa, cũng không phụ thuộc vào yếu tố tri thức là những kỷ niệm trải
dài theo tiến trình nhân quả. Đưa tay vào lửa liền biết nóng, tự nhiên
rút tay lại; nghe gọi liền thưa, không cần suy nghĩ … Hàng ngày, có bao
nhiêu điều ta không cần suy luận mà vẫn thấy nghe hay biết. Khả năng ấy
do đâu mà có? Mọi động dụng thi vi đều không rời cái BIẾT. Biết là biết
tức thì, suy nghĩ liền trái. Cái biết hiện hữu ở mọi chúng sanh, không
phân biệt giống loài. Biết ấy chính là TÂM. Nhớ câu chuyện gió và phướn
trong Kinh Pháp Bảo Đàn: Gió và phướn động là việc của duyên, còn cái
biết có sự lay động là Tâm. Do tâm động nên tranh cãi, tâm không động
thì có gì dính dáng?
Các pháp biểu hiện bằng muôn màu muôn vẻ, biến đổi không dừng.
Đó là thực tại sống động. Thiền giả chứng nghiệm vào thực tại sống động
ấy, nhận ra sát-na bất động vĩnh hằng. Sự minh triết nhờ công phu thiền
tập là trí tuệ phát sinh qua chứng nghiệm tự thân, là kết quả của trực
giác. Nhà Phật gọi là Trí vô sư, trí tuệ không nhờ Thầy mà có,
là trí tuệ chân chính, là cái Biết đích thực đến tận cùng bản thể của
muôn pháp.
([1]) Thiền sư Trung Hoa. 1995: 24 - 25. HT Thích Thanh
Từ.
II.
TRỰC TIẾP THỂ NHẬP VÀO THỰC TẠI SỐNG ĐỘNG
Có vị khách hỏi:
- Thế nào là Niết-bàn thường trụ?
Sư đáp:
- Lá rụng theo dòng nước,trăng sáng
trên đỉnh đồi.
Lời đáp rất nên
thơ và diễn tả cảnh tức thì, nhưng nếu người nghe phóng tâm chạy theo
cảnh thì đã lầm qua. Nếu Thiền sư trả lời bằng cách mô tả một cảnh giới
vi diệu của Niết-bàn, thì cũng chẳng thấu đến bản chất thật sự mà còn
làm người nghe thêm kiến giải. Bởi vì Niết-bàn thường trụ không phải một
nơi chốn xa vời nào đó để ta hướng đến, mà chính là thực tại hiện tiền
sống động, khi tâm ta hoàn toàn thanh tịnh hằng tri. Thiền không là mong
cầu tìm kiếm, vì thực tại nhiệm mầu ấy chỉ hiện hữu khi ta bặt dứt mọi ý
niệm phân biệt hai bên, như mặt hồ lặng sóng thì bóng trăng hiện sáng
ngời. Khi hành giả luôn thắp sáng chánh niệm, tỉnh giác trong đương xứ,
vị ấy thấy mọi vật mọi cảnh đều là thực tại hiện tiền.
Shiki có bài thơ ngắn:
Ta nhìn sâu xa
Dưa nằm trong cỏ
Hé mấy nụ hoa.
(Nhật Chiêu dịch)
Cái “nhìn sâu
xa” chính là cái nhìn thẩm thấu vào mọi sự vật hiện tượng. Đây là cái
nhìn của Thiền, thấy biết các pháp nhưng không khởi niệm. Lúc này, một
trái dưa trong đám cỏ, vài nụ hoa hé nở cũng đều là thực tại nhiệm mầu.
Bằng cái nhìn sâu xa ấy, Thiền giả nhận ra sự bất động vĩnh hằng trong
một hiện hữu sống động, sự tịch tĩnh muôn đời trong cái linh hoạt muôn
màu muôn vẻ của thế giới.
Có vị tăng hỏi:
- Thường nghe nói chư Phật và giáo
pháp vi diệu đều từ kinh nầy lưu xuất. Vậy kinh nầy là kinh nào?
Sư đáp:
- Luôn ở bên ông, đừng tra hỏi, đừng lý
luận, cũng đừng nói năng, thì sẽ nắm bắt được.
- Làm sao nhận ra và nắm bắt được?
- Phải nghe bằng hai con mắt .
Thật là ngôn phong của các Thiền sư!
Lời đáp của các Ngài không phải cho ta hiểu, mà để ta sống ngay vào giây
phút hiện tại. Những câu hoạt ngữ như thế là tuyệt đường lý luận, tuyệt
đường so sánh, là lìa tướng ngôn thuyết lìa tướng tâm duyên. Hàng ngày,
ta đi đứng nói năng hoạt động, đó là ai? Chỉ nên thầm nhận biết, đừng
tư duy lý luận, đừng mong tìm kiếm, vì có niệm sở thủ sở đắc là đã xa
rời Đạo. Người tu thường mong mau kiến tánh, vì nghe nói kiến tánh là
điều kiện vào cửa nhà Thiền. Ý thức muốn tìm thấy tánh mà không hiểu
tánh ấy chính là mình, chỉ có thể tự tri tự nhận. Như khi ta nhìn rõ
cảnh vật, ta tự biết mình có mắt sáng, chứ không thể thấy lại cặp mắt
của mình. Cái Biết cũng vậy, nó tự thầm nhận đang thấy nghe hay biết mà
không có ý thức “ta đang biết”. Trạng thái nầy không thể diễn
tả bằng lời cho người khác hiểu, mà chỉ trực tiếp kinh qua, trực tiếp
chiêm nghiệm, hành giả mới tự mình khám phá. Điều nầy nói lên sự khác
biệt rõ ràng giữa một bên là sự thể nhập trạng thái của tâm, và bên kia
là khái niệm về trạng thái đó. Ví như một cơn đau, chỉ có người bệnh mới
biết rõ cường độ, tính chất, vị trí chính xác của nó; còn người ngoài
cuộc chỉ có những khái niệm về cơn đau ấy nhờ tưởng tượng, suy luận mà
thôi.
Một số người
nghĩ rằng, trạng thái chết lịm ý thức hay si định là một bước tiến quan
trọng trong công phu, nên hết sức tránh duyên để mong sớm đạt được.
Trạng thái nầy thật ra không dễ dàng mà có, nhưng lại không phù hợp với
yếu lý nhà Thiền. Pháp giới luôn hiện hữu với muôn vàn hình tướng, luôn
sống động biến đổi không ngừng. Đây là sự hữu, sự tướng bên
ngoài. Và nơi hiện hữu bề mặt ấy, lại tiềm ẩn sự vô là cái bất
động thường trụ, là bản chất của pháp giới. Sự hữu là hiện tượng sanh
diệt, sự vô là bản chất bất sanh. Hiện tượng và bản chất, cả hai không
thể tách rời nhau, đứng ngoài nhau. Các pháp hiện diện là biểu tướng sự
hữu, nhưng nếu ta chạy theo sự hữu, tức duyên theo trần cảnh, thì còn
trôi lăn trong luân hồi; còn chỉ chú tâm vào sự vô thì trở nên khô cằn
bất động, không giúp ích được gì cho ai.Thiền sư kiến tánh không phải
kiến chiếu vào sự vắng lặng khô chết, mà nhận rõ cái hằng hữu của sự vô
ngay từ cái sinh động vô thường của sự hữu. Thiền là trạng thái tịch
tĩnh nơi sự hữu chứ không phải tịch lặng ở sự vô. Hoa đào nở là sự hữu,
Ngài Linh Vân ngộ đạo; Tôn giả Ca-Diếp mỉm cười khi cành sen giơ lên,
đây là cái sống động nhiệm mầu nơi sự hữu. Thế giới nầy dù hoại diệt,
cái sống động nhiệm mầu ấy vẫn miên trường; con người mất đi chỉ là kết
thúc tạm thời một giai đoạn sống, còn tánh Biết thường hằng thì không
đến không đi, không bao giờ biến đổi.
Tánh Biết hay Phật tánh, Bản lai diện
mục…, tất cả chúng sanh đều sẵn đủ. Con người không biết mình có gia tài
quý báu ấy nên cứ mãi làm kẻ bần cùng, lang thang trong cuộc tử sinh.
Cũng có người chạy quanh bốn phía tìm cái bóng hứa hẹn nào xa xôi; nhưng
hễ còn niệm tìm kiếm, còn tâm khao khát mong được hạnh phúc, ta còn xa
rời thực tại, và hạnh phúc đích thực vẫn ở ngoài tầm tay. Thiền tập là
dừng lại, sống trọn vẹn với phút giây hiện tại, không theo đuổi truy cầu
quá khứ tương lai.
Tuy nhiên, sống
trọn vẹn trong giây phút hiện tại không phải là duyên theo cảnh rồi sanh
tâm phân biệt. Nhà Phật gọi đó là phan duyên, tức đuổi theo các duyên,
bệnh trầm kha của chúng sanh, nguồn gốc của luân hồi. Hành giả tu Thiền
không trốn tránh các duyên, nhưng khi đối cảnh phải quét sạch mọi tạo
tác, mọi dính mắc trên cảnh. Ta có thể thấy nghe hay biết tất cả mà
không có ý niệm khen chê tốt xấu: đó là sống với tâm bình thường. III.
SỐNG HỒN NHIÊN VÀ TÙY DUYÊN HOÁ ĐỘ
Đời sống thiền tập giúp hành giả thoát
khỏi ý niệm phân biệt hai bên. Giai đoạn đầu, tọa thiền theo dõi hơi thở
hay tri vọng, mọi việc xảy ra xung quanh ta vẫn biết nhưng không vận
dụng tư duy, dần dần ta có sự bình an khi tĩnh tọa. Tiến thêm một bước,
trong cuộc sống thường ngày, nhờ chánh niệm tỉnh giác trước mọi biến
chuyển của thân tâm cảnh để nhận diện và chuyển hoá, ta có thể đối phó
với mọi tình huống mà không mất sự bình ổn tự chủ. Nhà Thiền dùng bát
phong làm thước đo định lực của người tu, chứ không đánh giá kết
quả hành trì dựa vào sự diễn đạt khéo léo, lời thuyết giảng lưu loát
hoặc những cảnh giới thấy được lúc tọa thiền.
Khi công phu đến chỗ thâm sâu, như cây
có gốc rễ vững vàng trước giông bão, người tu có một sức sống riêng, một
phong thái riêng, biểu hiện sự tự tại trước mọi hoàn cảnh. Các Ngài
không thấy đạo phải thủ đắc và đời phải xa lìa, vì không có cái phi tục ở
ngoài phàm tục, cái xuất thế ở ngoài thế gian, cái thường hằng ở ngoài
sinh diệt. Cuộc sống là một dòng chảy bất tận, và Thiền không phải xa
rời cuộc sống hay chận đứng dòng sống sinh động để tìm sự bất động vĩnh
hằng. Thiền tập là bơi lội vào dòng sống luân lưu
không dừng nghỉ ấy, vào thế gian pháp sinh diệt ấy mà nhận ra Phật pháp
nhiệm mầu. Phiền não tứcBồ- đề là như thế.
Nhà Thiền có câu:
Tùy duyên tiêu nghiệp cũ
Hồn
nhiên mặc áo xiêm.
Hay:
Ở đời vui đạo khéo tùy duyên
Đói
đến thì ăn, mệt ngủ liền.
Những bậc đạt đạo thường không theo một
khuôn mẫu nhất định nào trong phong cách sinh hoạt. Mỗi vị biểu hiện
một vẻ rất riêng, nhưng hồn nhiên đói ăn mệt ngủ. Người đời thường lầm
tưởng, phải ra vẻ nghiêm trang đạo mạo mới đúng phong thái Thiền sư, lâu
ngày sự miễn cưỡng cường điệu ấy trở thành một loại kiết sử, trói buộc
họ vào khuôn khổ cứng nhắc. Ngược lại, có người chủ trương phá chấp
triệt để, trở thành buông lung phóng túng. Đó là hai cực đoan không hợp
lẽ đạo.
Sự hồn nhiên của những bậc đạt đạo, trước hết
là vô tâm khi tiếp duyên xúc cảnh. Vô tâm không phải là không biết, mà
là thấu hiểu tất cả mọi điều nhưng không khởi niệm phân biệt hai bên. Do
lìa nhị biên nên không vướng bận ngã nhơn, các Ngài vẫn sinh hoạt giữa
lòng cuộc đời, vẫn sống bình thường như mọi người, nhưng trong cái bình
thường ấy lại hàm chứa sự phi thường, vì buông xả được tất cả phiền não
chấp trước. Hơn thế nữa, tính hồn nhiên còn là tự
chủ, kham nhẫn và lòng can đảm vô song- đó là cái Dũng của Thánh
nhân. Các Ngài đã chiến thắng chính mình, nên trước những thử thách
gian nan hay cám dỗ ngũ dục, trước những chướng ngại bệnh tật của thân
tâm, trước cả niềm vui xuất thế do các tầng Thiền định đưa đến, các Ngài
vẫn an nhiên tự tại. Thiền sư Linh Hựu khi về núi Qui, chỉ một thân một
bóng, ăn trái rừng uống nước suối mỗi ngày. Gặp thú dữ, Ngài chỉ bình
thản nói một câu: “Nếu ta có duyên với núi nầy, các ngươi nên tránh
đi chỗ khác; nếu ta không có duyên ở đây thì các ngươi cứ ăn thịt ta
đi!” ([1])
dữ bỏ đi. Tự chủ trước hiểm nguy, kham nhẫn trước khó khổ, can đảm
chiến đấu với hoàn cảnh ngặt nghèo bên ngoài cùng nỗi cô liêu cay đắng
bên trong, để cuối cùng trở thành vị Đại Thiện tri thức cho 1.500 đồ
chúng, đó có phải là cái Dũng của Thánh nhân? Không có cái Dũng phi phàm
ấy, Thiền sư Linh Hựu khó thể sống hồn nhiên suốt bảy năm trên ngọn núi
không một bóng người.
Vua Kế Tân mang gươm đến trước Tổ Sư
Tử, hỏi:
- Thầy đã được không tướng chưa?
- Đã được.
- Đã được, thì còn sợ sống chết không?
- Đã lìa sống chết thì đâu có sợ?
- Chẳng sợ, có thể cho ta cái đầu
chăng?
Ngài đã trả lời rất hồn nhiên:
- Thân chẳng phải cái của ta,huống nữa là
đầu.([2])
Kinh Pháp Hoa có ví dụ về Hoá thành và
Bảo sở. Đường tu xa vời hiểm trở dễ gây sự chán nản thối chí, nên cần có
những nơi nghỉ ngơi tạm thời gọi là Hoá thành. Khi hành giả đã phục hồi
sức lực, phải tiếp tục tiến bước, đến Bảo sở mới là mục tiêu cuối cùng.
Hoá thành là những tầng Thiền định từ thấp lên cao, khi công phu còn có
sự dụng công tác ý, còn có bóng dáng của Thọ và
Tưởng. Thọ là cảm giác, Tưởng là tư tưởng. Những cảm giác khinh an hỷ
lạc hoặc những linh ảnh cảnh giới lúc tọa thiền đều thuộc các tầng Thiền
định giới hạn. Người tu theo tinh thần Đại thừa biết buông xả những cảm
thọ ở thân tâm, khéo vượt qua mọi vọng tưởng chấp trước, khéo công phu
đúng ý nghĩa Vô sở đắc Vô sở cầu, mới có thể đến Bảo sở. Tuệ Trung
Thượng Sĩ có lần dạy vua Trần Nhân Tông:
Trì giới cùng nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phúc.
Muốn biết không tội phúc
Không trì giới nhẫn nhục.
Lời dạy có vẻ lạ lùng kỳ quái khiến
người nghe phải giựt mình, nhưng đây là lối công phá tột cùng của
Bát-nhã và là yếu lý của Đạo. Thường thì khi làm
một công hạnh gì, ta thích người khác biết đến. Người đang trì giới còn
thấy ta là người trì, có giới luật để trì. Người nhẫn nhục cũng thấy ta
đang thực hiện nhẫn nhục, có sự việc phải nhẫn và có đối tượng cho sự
nhẫn nhục của ta. Càng trì nhẫn, càng thấy ta hơn người, sự chấp ngã
càng sâu nặng nên chuốc tội chứ chẳng chuốc phúc. Người tu siêu việt cả
tội phúc thì làm tất cả việc gì cũng không thấy thật có ta là người làm,
có công hạnh để làm và có đối tượng cho việc làm ấy. Đây là ý nghĩa của
của Tam luân không tịch. Đến mức độ nầy, các Ngài không thấy
mình trì giới nhưng không có giới nào không giữ, chứ không phải buông
lung phá giới. Chỗ nầy là điểm rất quan trọng và tế nhị, nếu không khéo
hiểu và khéo hành, ta dễ sa vào đường tà, uổng một đời tu. Vì thế,
Thượng Sĩ phải dặn thêm “Chớ bảo cho người không ra gì
biết”. Lời dạy của Ngài là chân lý, nhưng vì quá cao siêu
nên nếu đến tai người còn nông cạn khiến họ hiểu lầm sanh phóng túng lơi
lỏng, càng chuốc thêm tội lỗi .
Bài kệ thứ hai
làm rõ thêm lời dạy của Ngài:
Như
khi người leo cây
Trong
an tự cầu nguy.
Như
người không leo cây
Trăng
gió có làm gì?([3])
Người đang ở
dưới đất yên ổn, tự nhiên leo lên cây làm gì để mang hoạ vào thân? Không
leo cây nghĩa là không tác ý miễn cưỡng, là hồn nhiên khi sống khi
tu. Vì không còn ý thức chấp ngã, các Ngài làm mọi việc một cách tự
nhiên như hơi thở ra vào. Không còn khởi niệm phân biệt tội phúc thì vấn
đề trì-nhẫn cần gì phải đặt ra? Cho nên, các vị Thiền sư có cuộc sống
phóng khoáng thuận hạnh nghịch hạnh tùy duyên, ta không thể dùng kiến
giải của phàm phu mong hiểu thấu hành tung của các Ngài.
Đối với hàng
môn đệ, các Ngài cũng tùy đương cơ mà có phương tiện giáo hoá thích hợp.
Bởi vì, Thiền không phải là một hệ thống lý luận sư phạm, một triết
thuyết có biện chứng, mà là nội dung tâm chứng, là cảm hứng tùy duyên.
Do vậy, sự thuyết pháp hay lối dạy của các Ngài không theo đề mục bài
bản soạn sẵn, mà là lối tác động trực tiếp vào tâm thức người nghe,
khiến đương cơ lãnh hội trong chớp nhoáng.
Một môn nhân
hỏi Thiền sư:
- Sau khi chết đi về đâu?
Sư đáp:
- Nằm dài lưng sát đất, ngực hướng
thẳng lên trời.
Câu trả lời
không theo phương pháp biện chứng, không giảng giải dài dòng để người
nghe sa vào mê cung chữ nghĩa.Thiền sư nói về vấn đề trọng đại ấy một
cách thẳng tắt, thực tế ngay trước mắt. Nhận thì ngay đó liền nhận,
không thì thôi, bặt đường suy nghĩ.
Tăng hỏi Thiền
sư Huyền Sa:
- Thế nào
là đại ý Phật Pháp?
Ngài trả lời:
- Rất ít
người nghe tôi thuyết
-Xin Hòa
thượng trực tiếp dạy cho con
- Ông có điếc
không?
Tăng mờ mịt
không hiểu.
Ngay câu đáp
đầu tiên“Rất ít người nghe tôi thuyết”, Ngài Huyền Sa đã dạy
rồi, nhưng do vị tăng mãi chạy theo tiếng mà quên xoay lại Tánh nghe,
nên bị Ngài bảo là điếc. Chúng ta cũng như thế, hàng ngày tiếp xúc với
trần cảnh mà quên Tánh biết thường hằng, nên không thấy tất cả
các pháp đang diễn bày Phật pháp.
([1]) Thiền sư Trung Hoa tập I. 1995: 289. HT Thích
Thanh Từ.
([2]) Sử 33 vị Tổ Thiền tông Ấn - Hoa. 1972: 134 - 135.
HT Thích Thanh Từ.
([3]) Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục
giảng giải. 1996: 10 - 103. HT Thích Thanh Từ.
IV.
GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT
Ý nghĩa của sự tu hành, cũng là mục
tiêu tối hậu mà người tu luôn nhắm đến, là Giác ngộ và Giải
thoát. Giác ngộ là thầm nhận ra và sống với Phật tâm sẵn đủ của
chính mình, Giải thoát là vượt thoát mọi ràng buộc của phiền
não và sanh tử. Bậc Giác ngộ thấy rõ muôn loài chúng sanh đều bình đẳng ở
Phật tánh, cũng như muôn ngàn đợt sóng, dù có hình dạng khác nhau nhưng
cùng bản chất nước. Thân năm uẩn có sanh có diệt, nhưng sanh diệt thế
nào cũng không ngoài thể tánh thường hằng. Các
Ngài vẫn ở trong trần lao, làm mọi việc lợi ích cho chúng sanh nhưng
không bị trần cảnh chi phối, không bị trói buộc bởi kiết sử và những hệ
luỵ của cuộc đời. Hơn thế nữa, các Ngài đã thoát khỏi vòng kềm tỏa của
nghiệp lực, tự tại trước sanh tử. Đây chính là sự tự do đích thực mà Đức
Phật đã thể nhập và muốn truyền trao cho chúng sanh muôn loài.
Tổ Quy Sơn có
nói trong một bài Minh:
Thử tông nan đắc kỳ diệu
Thiết tu tử tế dụng tâm
Khả trung đốn ngộ chánh nhơn
Tiện thị xuất trần giai tiệm.
Chỗ kỳ diệu
của tôn chỉ nhà Thiền rất khó nắm bắt, nếu dựa vào thức tình phân biệt
của phàm phu. Hành giả phải khẩn thiết chín chắn mà dụng tâm. Khéo công
phu thì trong ấy chợt nhận ra chánh nhơn tu hành. Đây là thềm bậc đưa
hành giả thoát khỏi trần lao, vì tu nhơn vô sanh mới được quả không sanh
diệt. Vậy thế nào là tôn chỉ nhà Thiền ?
Bài Tín Tâm
Minh của Tam Tổ Tăng Xán viết: “Quy căn đắc chỉ, Tùy chiếu thất
tông”. Trở về nguồn cội mới đạt yếu chỉ, phóng chạy ra ngoài thì
mất bổn tông. Yếu lý của sự tu hành là trở về nguồn cội, tức xoay lại
soi sáng chính mình, tự tri ngay nơi thân tâm
mình mà nhận ra bộ mặt thật xưa nay. Về nguồn là đời sống nội tu tự
tỉnh, tự sống với chân thân, tự bào mòn tập khí, tự buông xả mọi vọng
tưởng chấp trước đảo điên. Nắm vững yếu chỉ thì dù tung hoành ngang dọc, hành giả cũng không ra khỏi quỹ đạo tu hành. Nếu
không rõ yếu chỉ, mãi cầu giác ngộ ngoài tâm thì dù công phu tinh cần
đến mấy cũng không có kết quả như ý; đôi khi còn
ngược lại, vì cố ý tạo tác là có ngã tướng. Công phu càng nhiều, ngã
chấp càng lớn, càng tăng trưởng tham vọng chứng đắc, càng làm hại cho
pháp thân huệ mạng của mình.
Một vị tăng
hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ:
- Thân nầy
từ đâu đến, lúc chết đi về đâu?
Ngài trả lời :
- Trên trời dù có đôi vành chuyển
Biển cả ngại
gì hòn bọt con.
Hai câu kệ rất
nên thơ mà trả lời một cách sâu sắc vấn nạn lớn nhất của đời người. Ai
cũng muốn biết thực chất của vấn đề sống chết, có luân hồi hay không,
chết là hết tất cả hay còn lại những gì? Những bậc đạt đạo đều thấy rõ,
dù trên trời đôi vành nhật nguyệt lặn mọc không dừng, cũng chẳng ảnh
hưởng gì đến hư không. Biển cả là tự thể, hòn bọt chỉ là biểu tướng;
biển cả mênh mông có ngại gì hòn bọt con sinh diệt? Thân năm uẩn như hòn
bọt con, dù sanh ra hay chết đi cũng không ảnh hưởng đến Pháp thân
thường trụ. Vạn pháp quy tâm, tâm là nguồn cội phát sinh muôn
pháp, là bản thể của vũ trụ vạn loại. Trở về bản tâm là đầy đủ trọn vẹn,
không thiếu thốn điều gì. Nhà Phật dù có thiên
kinh vạn quyển, tám mươi bốn ngàn pháp môn, cũng chỉ có một mục đích duy
nhất là chỉ cho mọi người nhận ra bản tâm.
Lục Tổ bảo: “Chỉ
luận kiến tánh, không luận thiền định giải thoát”. Thiền tông chỉ
cốt cho hành giả trực nhận bản tâm; và đến khi nhận ra tâm thanh tịnh
thường nhiên, hành giả mới thật tu nhơn vô sanh, mới bước chân vào cửa
nhà Thiền. Có thể nói, khai ngộ là lẽ sống, là cứu cánh của Thiền; không
có khai ngộ thì không phải Thiền.Tuy nhiên, khi nào ta còn ý thức về
giác ngộ như một đối tượng, thì giác ngộ vẫn còn xa thẳm. Sự ràng buộc
về giác ngộ là một căn bịnh nan y của Thiền giả, vì khơi dậy những khát
vọng thầm kín, những nỗi ray rứt trăn trở, làm che lấp cái thấy biết
như thật về tất cả các pháp.
Một vị Tăng
hỏi Quốc sư Huệ Trung:
- Làm sao
được thành Phật ?
Sư
đáp:
- Phật và
chúng sanh đồng thời dẹp đi, ngay đó giải thoát.
- Làm thế nào
được tương ưng?
- Không
nghĩ thiện ác, tự thấy Phật tánh.
Qua lời dạy
trên, mọi ý niệm lưỡng phân đồng thời bị quét sạch, nhà Thiền gọi là “nhổ
đinh tháo chốt”. Hành giả bặt mọi vọng tưởng, chặt đứt sắn bìm,
trực nhận chân lý.
Có người hỏi
Tuệ Trung Thượng Sĩ :
- Cổ nhân
nói tức tâm tứcPhật, vì sao không thấy Phật hiện tiền?
Ngài đáp :
- Mổ trai
tìm ngọc tuy khó gặp
Xẻ cá kiếm
châu nhọc công thôi.
Bắt con trai
mổ tìm ngọc, tuy không phải dễ gặp nhưng nếu kiên trì cũng có ngày tìm
thấy, vì ngọc vốn có trong con trai. Còn người xẻ cá mong tìm châu, biết
bao giờ thấy được? Người tu cũng thế, đã nắm được yếu chỉ tu hành thì
cứ bền lòng vững tiến; khi đủ thời tiết nhân duyên sẽ có kết quả không
nghi. Còn người tu theo thức tưởng phân biệt, hướng ngoại cầu huyền,
cũng như xẻ cá đòi thấy ngọc thì cũng như chơi trò đuổi bóng, chỉ nhọc
công thôi. Đức Phật bảo Hãy đến để mà thấy. “Thấy” tức là kiến
tánh, là nhận ra bộ mặt thật xưa nay của chính mình. Giờ phút chứng
nghiệm sâu sắc về bộ mặt thật ấy là giờ phút giác ngộ. Và chỉ
có những vị đã giác ngộ mới hiểu rõ thế nào là giải thoát.
Giải thoát
thật sự là ở đâu? Theo quan niệm thông thường, giải thoát là cởi bỏ sự
trói buộc của gông cùm xiềng xích nơi thân hay những mối lo lắng ràng
buộc nơi tâm. Đạo Phật chú trọng đến tâm ý, quan niệm giải thoát là làm
chủ được tâm, không dính mắc khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Vì không
dính mắc nên không tạo nghiệp - kể cả nghiệp thiện và ác, nên thoát
khỏi vòng kềm tỏa của phiền não và luân hồi. Kinh tạng Pali đề cập đến
hai loại giải thoát, tùy đạo lực của hành giả. Thời giải thoát
là sự giải thoát có hạn cuộc về thời gian, không gian. Ví như khi tọa
thiền thấy khinh an, lúc ấy hành giả được giải thoát khỏi những kiết sử;
nhưng khi xả thiền, những lo toan hệ lụy của cuộc sống lại ùa đến bủa
vây. Đó là chỉ giải thoát trong lúc tọa thiền. Các vị Thiền sư đạt đạo,
dù vẫn tiếp duyên, vẫn sinh hoạt như người thường, nhưng các Ngài luôn
sống với tâm không, nên tự tại thong dong ở mọi nơi mọi lúc. Ấy là
Phi thời giải thoát.
Mặt khác, khi
nói đến giải thoát, ta thường tưởng tượng một cảnh giới hoàn toàn tịch
lặng, không còn dấu vết của phiền não và vọng tình. Bởi vì chúng ta phân
biệt hai bên rất minh bạch: Trắng là trắng, đen là đen, không thể lẫn
lộn. Nhà Phật không chủ trương như thế. Do trắng mới có đen và ngược
lại, cho nên trắng và đen là hai mặt tương tác tương hỗ với nhau; chúng
không chống trái nhau mà lại làm thành cho nhau. Đây là ý nghĩa sâu xa
của cái nhìn bất nhị, mà nếu quán triệt được, hành giả sẽ thấy
thực tại luôn toàn vẹn không thể phân chia. Phàm
phu chạy theo vọng tưởng nên bị phiền não chi phối, đó là mê.
Nhị thừa lại lầm cho rằng phiền não có thật, là đối tượng cần
trừ diệt. Chỉ có Bồ-tát theo Trung Đạo, lúc cần thiết thì ở trong cõi
miền tịch lặng của Thánh nhân; khi muốn độ sanh thì thị hiện đến các
cõi, hòa quang đồng trần hành Bồ-tát hạnh. Nước sâu vén áo, nước cạn
nhón gót đi qua; nước đục giặc khố, nước trong giặc mũ, tùy duyên mà các
Ngài du hí làm lợi lạc quần sanh.
Nhà Thiền luôn
cảnh tỉnh “Trạm trạm hắc ám thâm khanh”, trạng thái lặng lẽ là
hố sâu đen ngòm ; hay “Vô tâm du cách nhất trùng quan”, vô tâm
vẫn còn cách một lớp rào. Nếu cho cảnh giới lặng lẽ là lý tưởng, trạng
thái vô tâm là cứu cánh rồi muốn ở mãi trong ấy, hoàn toàn cách ly với
thế gian, thì đã có sở thủ sở đắc. Từ đó nẩy sinh ý thức
chấp có ta là người chứng (Ngã), có trạng thái yên tĩnh là sở
chứng (Ngã sở). Dẹp sạch Ngã phàm nhưng lại sa vào Ngã thánh,
nên nhà Thiền gọi là Si định, là nước chết, là hang động của quỷ.
Nói thế, không
phải chúng ta bài bác sự lặng lẽ yên tĩnh, rồi mặc tình tạo tác theo
duyên. Đời sống ẩn dật là điều kiện cần cho những hành giả sơ cơ để củng
cố và phát triển định lực. Những lúc nhập thất, một mình sống trọn vẹn
với bản thân là những cơ hội để hành giả phát minh đại sự. Tuy nhiên,
cuộc sống không phải là sự bất động miên viễn, mà là sự lưu chuyển sinh
động không ngừng. Và trong dòng luân lưu sinh diệt ấy, lại luôn có một
trật tự ổn định mà nhà Phật gọi là Sát-na vĩnh cửu. Sát–na vĩnh
cửu chỉ có trong giây phút hiện tại, trong cái bây giờ tuyệt đối, khi
tâm hành giả hoàn toàn an định mà liễu liễu thường tri. Tất cả những
cảnh giới tâm chứng chưa đến mức nầy đều chỉ là Hoá thành chứ chưa phải
Bảo sở.
Như vậy, có
giác ngộ là có giải thoát. Giải thoát không thể tìm cầu bên ngoài, mà
chính là bản tánh của ta. Nếu giải thoát không phải bản tánh của ta thì
không thể nào ta giải thoát được. Vì thế, nếu ta có ý niệm đi tìm giải
thoát, thì mâu thuẫn sẽ phát sinh từ trong tâm thức, và ý niệm rong
tìm ấy sẽ là một ràng buộc mới. Thiền không chủ trương buông bỏ cái
nầy để được cái kia, vì cái nầy và cái kia vốn đồng
nguồn. Chỉ khi rời bỏ mọi tư tưởng nhị phân và
rong tìm, tự tỉnh phản quan những vận hành của thân tâm, thì một lúc nào
đó, ta sẽ có cơ hội trực nhận tự tánh thanh tịnh vốn có xưa nay, ta sẽ
rõ thế nào là tự do giải thoát.
Tứ Tổ Đạo Tín
khi còn là Sa-di, một hôm đến trước Tam Tổ Tăng Xán thưa:
- Xin
Hòa thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát
Tam Tổ hỏi:
- Ai trói buộc ngươi ?
Ngài Đạo Tín thưa:
- Không ai trói buộc.
- Đã không ai
trói buộc, cầu giải thoát làm gì ?
Ngài Đạo Tín
nhân đây đại ngộ.
Các vị Thiền
sư luôn muốn học nhơn dứt bặt suy tính phân biệt và ý niệm tìm cầu, tự
phản tỉnh và trực nhận chính mình. Có lúc các Ngài phải sử dụng nhiều
phương tiện quyền xảo tùy đương cơ, chỉ cốt giúp người khai ngộ. Nhiều
người đọc một đoạn kinh hay nghe thuyết pháp, tự nhiên cảm nhận một sự
rúng động lạ lùng, có lúc chảy nước mắt hay phát cười ra tiếng. Đây là
một biểu hiện khai tâm. Chủng tử Thiền có sẵn trong tàng thức, gặp duyên
thích hợp nên sống dậy, nẩy mầm. Chúng ta tu, ít nhất trong đời phải có
một lần tiểu ngộ, nếu chưa tỉnh ngộ hay đại ngộ. Tu 5-10 năm mà vẫn mịt
mù không rõ đường đi, có thể do ta tu sai đường hoặc không có duyên với
pháp môn Thiền. Muốn khế hợp lý thật, ta cần tinh tấn hành trì theo
đường lối của bậc Thiện tri thức hướng dẫn. Vị ấy chỉ dạy bảo cho chúng
ta đường hướng và phương pháp thích hợp, còn đi hay không và đi như thế
nào là việc riêng của mỗi người chúng ta.
Tóm lại, Thiền
là công phu, là chứng nghiệm ngay từ bản thân hành giả. Những gì người
khác trao truyền, kể cả lời dạy của Phật-Tổ, đều chỉ là những kinh
nghiệm bên ngoài, chỉ là những bảng hướng dẫn trên đường xe chạy. Muốn
thật sự bình an giải thoát, muốn nhận lại con người thật xưa nay, mỗi
người phải tự nỗ lực hành trì, tự phiêu lưu vào mảnh đất tâm của chính
mình.
Trong cuộc
sống thường nhật, chúng ta luôn luôn đối diện với ngoại cảnh, nhiều lúc
bị vọng tưởng dẫn lôi, quay cuồng theo các pháp. Nhưng nhờ biết thắp
sáng chánh niệm trên từng động thái của thân tâm, ta có thể kịp thời
nhận diện và chuyển hoá chúng. Tâm quá khứ đã qua, tâm hiện tại đang
trôi chảy, tâm vị lai chưa đến…, tất cả chỉ là những đợt sóng tâm thức
trên biển chân như. Đợt sóng tâm thức là vọng tưởng, dù sanh dù diệt
cũng không ngoài mặt biển chân tâm. Chứng nghiệm Thiền là nhận ra bản
chất toàn diện bất sanh bất diệt của tâm ngay trên từng đợt sóng vọng
tưởng sanh diệt. Nếu không hiểu rõ điều nầy, dù ta học Thiền nói Thiền
suốt kiếp cũng không tỏ ngộ lý Thiền. Bởi vì, sự chứng nghiệm Thiền
không phải là kết quả của việc học nói suông, mà phải trải qua quá trình
thúc liễm thân tâm, bằng ý chí kiên định và sự tinh tấn trường kỳ.
|