1. Tự do ngay nơi thân năm
uẩn:
Con người ngày nay quen sống trong tiện
nghi vật chất nên mất nhiều thời giờ, công sức tạo dựng cho mình và gia
đình một đời sống đầy đủ. Nhưng sự ước muốn không cùng tận, đã có càng
mong có nhiều hơn, ít ai thỏa mãn với hoàn cảnh hiện tại của mình. Từ đó
bị ràng buộc vào vòng danh lợi như bị cuốn vào guồng máy lớn, không bao
giờ thoát khỏi.
Chính đời sống thiền tập giúp ta quán
chiếu tính chất hư giả của thân ngũ uẩn. Vì thân do tứ đại kết hợp, đủ
duyên thành thân, hết duyên thì tan rã; dù là một kẻ bần cùng mạt hạng
hay một quốc vương hùng mạnh nhất thế giới, rốt cuộc cũng chỉ là một
thây chết như nhau. Vì tâm suy nghĩ lăng xăng
cũng nương vào pháp trần mà sinh, nhìn lại thì không thấy đâu, sinh sinh
diệt diệt không ngừng thì làm sao thật có? Thân tâm không thật thì
những sở hữu cũng không thật, có gì tồn tại bên mình suốt đời suốt kiếp
mà cố chấp để sinh ra xung đột oán thù? Quán chiếu sâu sắc như thế,
chúng ta từng bước cởi bỏ những ràng buộc của ngã và ngã sở, có tinh
thần thiểu dục tri túc. Thiểu dục là ít ham muốn, Tri túc
là biết đủ. Do ít ham muốn nên biết đủ, và vì biết đâu là đủ nên ít ham
muốn. Có người cho rằng, phải hạn định một mức sống tối thiểu nào đó
hoặc gò ép mình vào một khuôn khổ mới gọi là tri túc. Thật ra, tri túc
là thỏa mãn với cuộc sống hiện tại của mình, ta
có hoàn cảnh phước nghiệp nào thì thỏa lòng ở đó. Tri túc như vậy chủ
yếu ở ngay nơi tâm chứ không định gá nơi cảnh, vì nếu y nơi cảnh sẽ
không bao giờ ta bằng lòng với hiện tại.
Nhà Thiền chủ trương, tự do đích thực
nghĩa là siêu việt mọi nhận thức lưỡng phân. “Thiền” cũng là một từ ngữ
khác của tự do, bởi vì người đạt Thiền là người đạt tới tâm thái tự do,
tức đã vượt thoát mọi ràng buộc, mọi mâu thuẫn, mọi khuôn sáo trong cuộc
sống. Có lần Đức Phật đã dõng dạc tuyên bố: “Này các tỳ kheo! Ngay
nơi thân năm uẩn gồm có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức nầy, Như –Lai tuyên
bố thế giới, sự tập khởi của thế giới, sự đoạn diệt của thế giới, và con
đường đưa đến sự đoạn diệt của thế giới!”. Theo đây, cơ thể năm
uẩn của chúng ta là một toà thiên nhiên đẹp đẽ mầu nhiệm nhất, vì trong
tự thân của mỗi người đã có sẵn tiềm năng vô tận; và chúng ta có thể
vươn tới chân trời tự do thánh thiện bằng chính đôi chân vững chãi của
mình. Có thể nói, trở về với tâm thái tự do là cuộc đấu tranh vĩ đại
cuối cùng của đời người, và an thân lập mệnh nơi tâm thái tự do ấy chính
là sống Thiền.
Nhiều khi Thiền gia nói đến sự từ
khước, nhưng đó không có nghĩa là từ khước thế gian, mà từ khước
mọi đắm say thế gian. Có khi Thiền gia nói đến sự xa lìa, không
phải xa lìa mọi hiện trạng cuộc sống, mà xa lìa mọi bám víu vào cuộc
sống. Tinh thần từ khước và xa lìa phải được thực hiện ngay trong tâm
hành giả, bất cứ lúc nào và ở đâu trong sinh hoạt đời thường.
Mọi sự khốn khổ của con người đều do
nhận thức chủ quan sai lạc đối với các pháp. Khi tiếp xúc với mọi vật,
lập tức ta có sự phân biệt giữa mình là chủ thể nhận thức hay năng
duyên, với sự vật là đối tượng nhận thức hay sở duyên. Không
những thế, ta còn áp đặt cái thấy biết phiến diện của mình trên đối
tượng, mà không nhận ra bản chất thật của nó. Duy thức học
nêu rõ ba loại đối tượng nhận thức do thức Alaya biểu hiện ra.
Một là thế giới tánh cảnh tức bản chất thật của vạn pháp, là
thực tại tự thân của thế giới, mà tri giác của chúng ta không thể đạt
đến. Thứ hai là Đới chất cảnh, cảnh tượng do con người tạo ra.
Cảnh này mang một ít tính chất của Thế giới tánh cảnh, được vẽ vời thêm
từ nhận định chủ quan của mỗi người. Thứ ba là Độc ảnh cảnh,
những hình ảnh khơi lại trong trí nhớ hay thấy trong giấc mơ.
Qua phân tích này, rõ ràng thế giới
chúng ta đang sống, đang nhận thức, đang hiểu biết đây chỉ là những biểu
hiện từ tâm, khi sáu căn duyên với sáu trần. Nói khác đi, tất cả mọi sự
vật hiện tượng đều là sản phẩm của thập bát giới (sáu căn, sáu
trần và sáu thức). Chúng ta không thật có cũng chẳng thật không. Không
thật có vì chúng do các duyên hợp lại mà thành, không có tự thể cố định.
Chúng chẳng thật không vì con người có thể nhận
biết và sử dụng chúng. Vì thế, tánh của các pháp là không, nhờ
nhân duyên tụ hội nên tạm có. Chính vì liễu hội bản chất Không của các
pháp nên các bậc ngộ đạo luôn nhấn mạnh sự từ khước và xả ly. Tuy từ
khước nhưng các Ngài thương yêu cuộc đời hơn ai hết; tuy xả ly mà các
Ngài luôn hòa mình với cuộc sống, làm lợi ích cho mọi người. Chính do
không ham muốn ngũ dục, không dính mắc với trần cảnh, không chấp ngã,
chấp pháp, nên các Ngài hoàn toàn tự do nơi thân năm uẩn.
2. Không miễn cưỡng mong
cầu:
Chúng ta tu Thiền thường xem giác ngộ
giải thoát như một mục tiêu để theo đuổi, để hướng về. Nhưng nếu có một
mục tiêu nhắm đến, thì mục tiêu ấy đã ở ngoài mình, đã được đặt ở thì
tương lai, có phân chia người đến nơi đến tức có ngã có pháp rõ ràng.
Như thế không còn là Thiền nữa, vì Thiền không bị hạn cuộc, không bị
định vị, không bị phân chia năng sở; và đời sống Thiền là mênh mông bát
ngát.
Chúng ta thường cố gò bó mình vào một
khuôn khổ đạo đức. Đây là điều cần thiết cho những bước đầu của đời tu,
nhưng sự chủ ý khiên cưỡng ấy khiến trong ta có niệm gắng gượng làm mất
sự hồn nhiên tự tại của Thiền. Khi thiền hành dưới hàng cây râm mát, tai
nghe tiếng rì rào qua đám lá, tiếng chim ríu rít trên cành, ta biết
mình đang đi đang nghe một cách tự nhiên an lạc mà không khởi một ý niệm
nào, không cần nghĩ mình sẽ đi đâu; thì ngay dưới những bước chân thảnh
thơi ấy, mảnh đất Ta- bà đã trở thành Tịnh độ, mục đích giải thoát và
phương tiện thiền hành đã không hai không khác.
Thường độc hành thường độc bộ
Đạt giả đồng du Niết-bàn lộ.
Thiền sư Vĩnh Gia đã diễn tả sự cô liêu
của một người đạt đạo. Các Ngài vẫn ở trong trần thế, vẫn tiếp xúc với
muôn pháp để làm mọi việc giúp người giúp đời nhưng không vướng bận một
pháp nào, không dính mắc một việc gì. Tâm hồn các Ngài rộng mở thênh
thang, tất cả các pháp đều biểu hiện một cách vi diệu, nên bước độc hành
trên đất khổ đau cũng là dạo chơi ở cõi Niết-bàn!
Thường chúng ta
tưởng tượng có một cõi Niết-bàn ở một thế giới xa xôi lý tưởng, gắng
công tu hành để khi rời khỏi thân nầy có thể trở về đó như đứa con lưu
lạc lâu ngày trở về quê mẹ. Con người luôn luôn cảm thấy bất an, trống
vắng, thiếu thốn một cái gì, mà suốt đời mãi đi tìm để bù đắp vào. Cũng
có lúc ta thấy mình đầy tội lỗi, đâm ra chán chường thất vọng, muốn có
một nguồn an ủi nương tựa. Phật-Trời và các vị thần linh chính là nguồn
an ủi ấy; ta tìm đến các Người như tìm một dòng suối trong mát để gột
rửa hết cáu bẩn từ thể xác đến tâm hồn. Rồi khi hồi tỉnh, ta lại thấy
mình đủ trong sạch, đủ sức lực để quay về lăn lộn nơi trần thế, lại
chuốc lấy nhơ bẩn lên người. Cứ thế, con người qua lại giữa Bồ-tát và Dạ
xoa như bị lôi kéo giữa hai thế lực hướng thượng và hướng hạ, mà không
thể chủ động quyết định số phận cho mình .
Thật ra, chúng ta bất an chính vì chúng
ta mãi tìm cầu một sự an lạc từ bên ngoài, mãi hy vọng nơi một thế lực
siêu nhiên ban cho mình sự giải thoát. Ta không hiểu rằng, Niết-bàn
chính là trạng thái thanh tịnh của tâm khi vắng bặt mọi phiền não. Ví
như bệnh ghẻ làm ngứa ngáy khó chịu khiến ta phải gãi. Lúc đầu gãi rất
đã ngứa, nhưng sau đó thì đau rát nếu cứ gãi hoài. Cảm thọ ngứa- đã
ngứa –đau rát ta thấy rất rõ, trong đó “đã ngứa” là cảm
giác khoái lạc thích thú vô cùng. Sự hưởng thụ ngũ dục cũng thế, cái
khoái lạc do ngũ dục chỉ có trong nhất thời, sau đó là những tác hại về
tinh thần và thể chất nếu hưởng thụ quá mức. Ăn ngon mặc đẹp là ước muốn
của mọi người, nhưng ăn quá độ làm bệnh tật phát sinh, mặc quá sang thì
phải ra sức làm việc, kể cả việc ác cũng không từ. Mặt khác, vì có ghẻ
ngứa nên mới gãi, nhưng ta nên chấp nhận có ghẻ để gãi hay muốn da mình
lành lặn? Dĩ nhiên, ai cũng muốn mình không có ghẻ, nhưng khi da ở tình
trạng bình thường thì đâu có cảm giác gì? Ta không còn để ý đến da nữa,
nhưng thật sự đó mới là trạng thái bình ổn, là hạnh phúc chân thật.
Niết-bàn cũng là trạng thái lặng lẽ tịch tịnh như
thế, khi tâm ta vắng bặt mọi vọng tưởng miễn cưỡng mong cầu.
3. Chuyển nghiệp và dừng
nghiệp:
Nghiệp là thói quen huân tập trong thời
gian dài, xuất phát từ thân miệng ý. Ý khởi tư tưởng, dẫn đầu cho miệng
nói thân làm, nên ý là chủ tạo nghiệp. Nghiệp trở lại chi phối hoàn
cảnh chánh báo và y báo của mỗi đương sự, theo đúng tiến trình nhân quả
không sai một mảy may. Không một đấng quyền năng nào có thể sửa đổi tiến
trình ấy; ngay cả Đức Phật, bậc thầy tối cao của Trời người vẫn không
thể ban phước hay giáng hoạ cho ai. Chinh vì thế, mỗi người là chủ nhân
của nghiệp và cũng là đối tượng thọ nhận những kết quả do nghiệp mình
gây ra.
Những gì ta nghĩ, nói hay làm đều gieo
những hạt giống vào mảnh đất tâm thức, mà Duy thức học gọi là Lạc tạ
ảnh tử. Tùy hạt giống ta gieo là thiện hay ác mà quả trổ ra là
hạnh phúc hay đau khổ, khi đủ thời tiết nhân duyên. Nhiều khi ta không
định nói hay làm một điều gì đó, nhưng như có ma lực thúc đẩy ta phải
thực hiện, dù sau đó nhớ lại, ta cảm thấy ân hận vô cùng. Đó là sức mạnh
của thói quen ta huân tập từ trước, mà nguồn gốc là những hạt giống rơi
rớt trong mảnh đất tâm ta. Chính những thói quen đã tạo nên phong cách
riêng của từng người, và chúng ta khổ chỉ vì do mình tập nhiễm những
thói quen xấu, lại còn vung vãi những hạt giống không lành mạnh ấy cho
những người xung quanh.
Bước đầu thiền tập là nhìn lại mình,
suy xét những gì mình đã tạo từ thân miệng ý, sửa đổi những điều xấu ác,
huân tập nghiệp thiện lành. Đây là ý nghĩa của sự chuyển nghiệp, từ
nghiệp ác thành nghiệp thiện. Người tu thiền chú trọng nhất nơi tâm ý,
giai đoạn đầu chưa sạch vọng tưởng nhưng biết buông bỏ những ý nghĩ bất
thiện, ý luôn nghĩ điều lành, miệng nói lời lành, thân làm việc lành.
Những phước đức hữu vi này không giúp ta thoát khỏi sanh tử, nhưng tạo
điều kiện thuận lợi cho đời tu của ta. Khi gặp nghịch cảnh chướng duyên, người có phước báo cũng dễ dàng qua khỏi. Do
vậy, dù theo pháp môn nào, người con Phật cũng nhớ phước-huệ song tu,
như con chim có đủ hai cánh mới bay cao bay xa được.
Tiến thêm một bước, nhờ công phu thiền
định, chúng ta dần dần buông bỏ tập khí, kiến chấp; tuy sống trong hoàn
cảnh cũ nhưng đã có niềm vui thanh thản. Tuy vẫn tiếp duyên xúc cảnh
nhưng tâm không dính mắc, không khởi vọng niệm. Ý không khởi niệm tức
không còn tạo nghiệp. Đây là tinh thần dừng nghiệp, yếu chỉ của
sự giải thoát sinh tử.
Hiểu theo lý thuyết thì việc tu hành có
vẻ đơn giản dễ làm, nhưng khi hành trì ta mới thấy thiên nan vạn nan.
Trải qua vô lượng kiếp, chúng ta đã huân tập bao nhiêu thói quen xấu, ý
thức lại suy tính nghĩ tưởng có lúc nào yên, ví như mây đen cứ cuồn cuộn
che phủ cả bầu trời. Bài Trữ từ tự răn của Tuệ Trung Thượng Sĩ
có câu:
Còn
mảy tình tam đồ báo ứng
Tơ hào niệm lục đạo tiếp nhân.
Còn một mảy may tình cảm là còn chịu
báo ứng trong ba cõi, còn tơ hào niệm là nhân trầm luân trong sáu nẻo
luân hồi. Ngài nói thế để cảnh tỉnh những người quá vội vàng, mới hiểu
Thiền qua khái niệm, biết mình có tánh giác sẵn đủ, đã vội cho mình
chứng đắc, có thể sánh vai cùng chư Phật Bồ-Tát. Chúng ta thận trọng
trong nhận thức trong công phu, nhưng vẫn tinh chuyên hành trì với lòng
tin vững chắc vào Tam bảo tự tâm và Tam bảo tha lực. Những giờ phút
thiền tập là những lúc ta có thể tiếp xúc với Niết-bàn, khi ý thức vắng
mặt, tâm tĩnh lặng mà thường rõ biết. Có những lúc vì tập khí lôi dẫn,
ta thấy mình yếu đuối khốn khổ, mất lòng tin vào mình và vào pháp tu.
Nhưng những cơn khủng hoảng ấy cũng qua đi, ta lại trở về với niềm an
lạc thanh lương nếu cứ kiên trì tu tập. Đây là giai đoạn sơ cơ, tâm ta
còn lại qua liên miên với lục đạo; lúc hiền thiện như nhơn thiên, lúc
sân hận như A-tu-la, khi độc ác tham lam hay si mê u tối như chúng sanh
trong ba đường ác. Nhưng khi đạt đến quả Dự lưu (Tu-đà hoàn) là bước đầu
vào dòng Thánh, người tu thuận dòng chảy vào biển chân như, là địa vị
kiến đạo kiến tánh bất thối chuyển. Các Ngài đã có chỗ định vị, có nơi
nương tựa vững chắc làm kế chung thân, cho dù bao phen lên xuống trong
cuộc đời, cho dù có khi vấp ngã, cũng vẫn có thể đứng dậy, tiếp tục cuộc hành trình thiên lý.
4. Tinh thần vong ngã:
Con người làm bất cứ việc gì, dù lớn
hay nhỏ, đều có ý thức mình là người làm hoặc làm
việc ấy cho mình. Ngay trong sự tu hành, tuy cái ngã thô được nhận diện
và buông bỏ, nhưng cái ngã tế vẫn thầm ẩn hiện, mà nếu ta không chánh
niệm tỉnh giác, không miên mật hành trì thì khó kiểm soát nổi. Có thể
nói, ý thức chấp ngã là một bệnh thâm căn cố đế, khó điều trị và lại dễ
tái phát. Vì sao như thế? Bởi vì, chúng ta mê lầm cho thân tâm nầy là
thật có, là mình.Vì thấy thân thật nên làm mọi việc cốt phụng sự thân,
cốt thỏa mãn những đòi hỏi dù quá đáng của nó; ai khen nó thì ưa thích,
ai chê là sinh bực bội thù ghét. Vì thấy tâm thật nên luôn cho ý kiến
của mình là hay là đúng, không chấp nhận ai nói ngược làm ngược với ý
mình. Người tu thì cho pháp tu của mình là cao nhất, vị Giáo chủ của
mình vĩ đại nhất, không biết tôn trọng pháp tu khác, tôn giáo khác. Đây
là nguồn gốc của những cuộc tranh cãi bất đồng và những cuộc chiến tranh
mang những tên hoa mỹ như Thánh chiến, Thập tự chinh…
Khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa, vua
Lương Võ Đế thỉnh Ngài về Kim Lăng (kinh đô nhà Lương). Gặp Ngài , Vua
hỏi:
- Trẫm từ lên ngôi đến nay thường
cất chùa, chép kinh, độ Tăng ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì
không?
Ngài đáp:
- Đều không có công đức.
- Tại sao không có công đức?
- Bởi vì những việc ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi
trời cõi người, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.
- Thế nào là công đức chơn thật?
- Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không
lặng, công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu([1])
Người tu làm nhiều
Phật sự, nếu không thận trọng rất dễ phát sinh ngã chấp. Càng đóng góp
nhiều cho Tam bảo, sự chấp ngã càng lớn, càng thấy mình quan trọng hơn,
có ích hơn người khác. Nhưng phước báo nhơn thiên chỉ là hữu vi sinh
diệt, như bóng như vang, như mũi tên bắn hết đà rơi xuống. Do chấp vào
kết quả của việc làm, chấp vào ta - người nên không dính dáng với
công đức của tự tánh là vô vi vô tác, không phải là công đức chân thật
và không giúp ta thoát khỏi trần lao sinh tử.
Trên đây là những cái chấp ngã thô phù
dễ thấy, người tu nhờ quán chiếu sự duyên sinh giả hợp của thân tâm, có
thể từng bước hoá giải. Đến cái chấp ngã tế vi thì khó nhận biết và khó
giải trừ vô cùng, mà nhà Phật gọi là hết phàm tình vẫn còn Thánh
giải, hết ngã phàm lại còn ngã Thánh. Đó là chấp vào sự chứng đắc
trong công phu của người đã có một trình độ tâm chứng nào đó. Thấy ta
đạt đạo là còn ý niệm sở đắc; còn sở đắc là còn nguyên tứ tướng Ngã-Nhơn-Chúng
sanh-Thọ giả. Ngay cả hy vọng cao nhất “Thành Phật” cũng
còn bóng dáng cái ngã, làm chướng ngại rất nhiều trên đường đạo. Trong
kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng: “Nếu có pháp Như Lai được vô
thượng chánh đẳng chánh giác thì Đức Phật Nhiên Đăng ắt không thọ ký cho
ta”. Đây là tinh thần vong ngã, điều quan yếu của đạo Phật. Tu thế
nào không có mục đích mà vẫn đến chỗ cuối cùng? - Điều này có nghĩa,
hành giả không tác ý khi dụng công, không thấy thật có mình là
người tu, thật có pháp để tu, thật có quả để chứng
đắc. Có thể nói, đạo Phật là đạo duy nhất xương minh thuyết vô ngã, và
người tu đạo Phật dùng đạo đức vô ngã làm thước đo định lực của chính
mình.
Tinh thần vong ngã trước tiên biểu hiện
ở cách đối nhân xử thế hàng ngày. Đối xử với người khác một cách chân
thành bao dung, giúp đỡ người nhưng không có vẻ ban ơn cầu báo; làm mọi
việc lớn nhỏ đều tỉ mỉ chu đáo, hoàn thành tốt những công tác được giao
mà không mong lợi dưỡng; trước cảnh thuận hay nghịch đều bình tĩnh giải
quyết êm đẹp, không vướng mắc, không tranh đua … Đây là phong cách của
người có chứng nghiệm Thiền. Đối với đời trọn vẹn thì trong đạo mới hoàn
toàn. Không ai sống tệ bạc với người đời, xa lạ với đồng loại, quay
lưng với nỗi khổ của thế gian mà là người tu đắc đạo được.
Con người là sinh vật mang tính xã hội
rất cao, có sự liên đới trách nhiệm, có đời sống tập quần. Như một bộ
phận trong cơ thể, tuy có chức năng riêng nhưng vẫn liên hệ chặt chẽ và
hỗ tương với những bộ phận khác; mỗi người là một phần tử trong xã hội,
chịu ảnh hưởng của mọi người trong tập thể và ngược lại, cũng ảnh hưởng
đến toàn bộ loài người. Đối với môi trường thiên nhiên cũng thế, không
có một hành vi nào tàn hại môi trường mà không chi phối đến sức khoẻ con
người. Vô số thiên tai bệnh họa xảy ra trong thời gian gần đây đều là
hậu quả của những nạn phá rừng, những tác động trực tiếp và gián tiếp
của con người làm ô nhiễm môi trường sinh thái. Khi quán chiếu về sự
tương tức tương nhập của các pháp trong vũ trụ, chúng ta thấy rõ tất cả
chúng sanh hữu tình và vô tình đều ràng buộc lẫn nhau, đều liên quan mật
thiết với nhau và hơn nữa, ĐỀU LÀ NHAU. Thiên nhiên này chính là ta, vũ
trụ vạn hữu là thân ta chứ không ai khác, và tàn phá thiên nhiên cũng
chính là tàn phá ngay bản thân mình.
Khi công phu tích cực, ý thức chấp ngã
tạm dừng, tâm như mặt hồ lặng sóng mênh mông, ta cảm nhận một niềm an
lạc vô biên vô tận. Tâm thanh tịnh phát sinh sự minh triết; sự minh
triết lại là điều kiện để tình thương chân thật nẩy mầm.Hư không không
hình tướng nên rỗng rang thênh thang;tâm người tu lúc nào cũng thênh
thang như thế, dung nhiếp tất cả muôn loài. Ta muốn trải lòng ra hòa
điệu với mọi chúng sanh, tình thương của ta không còn nhuốm màu vị kỷ
chiếm hữu mà trở nên bình đẳng không hạn cuộc, như ánh nắng mặt trời
chan hòa khắp thái dương hệ
Chúng ta học
đạo là muốn tìm sự bình an vĩnh cửu, một hạnh phúc chân thật, một trạng
thái siêu việt của tâm linh. Mục đích ấy không dễ dàng đạt được, phải
đánh đổi bằng tất cả tâm trí sức lực, thậm chí toàn bộ cuộc đời mình.
Nhưng nếu khi nào ta còn quan niệm “đi tìm”, thì bình an hạnh phúc có
được cũng chỉ là tạm bợ phù du. Chỉ khi nào không còn dấu vết của ngã
chấp dù thô hay tế, hạnh phúc chân thật ấy, bình an vĩnh cửu ấy,
Niết-bàn Bảo Sở ấy mới hiện bày. Mặt khác, không phải đợi đến đích cuối
cùng ta mới có an lạc hạnh phúc, mà trong công phu thiền tập, khi tâm
vắng bặt mọi vọng tưởng đảo điên, ta cũng được đôi lần cảm nhận. Vài
giọt nước cam lồ là phần thưởng cao quý khuyến khích ta hăng say dấn
bước trên đường đạo, vượt qua mọi thử thách cam go. Đến khi sạch bụi
phiền não, ngã chấp pháp chấp đều không, gương
tâm sẽ phô bày toàn bộ tính trong sáng và chiếu soi vốn có, như
hai câu kệ của Thiền sư Vĩnh Gia:
Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện
Tâm
pháp song vong tánh tức chân
Nghĩa:
Khi nào bụi hết gương trong lại
Tâm
pháp đều quên tánh tức chân.
II. NỘI DUNG THIỀN TẬP.
1. Lộ trình tâm linh:
Trong Bát Chánh đạo, đi đầu là Chánh
kiến. Người tu trước tiên phải nắm vững phương pháp hành trì, như người
đi đường trước khi khởi hành phải nghiên cứu lộ trình và nơi đến. Nếu
không có kiến giải chơn chánh, tu hành theo chánh pháp, thì dù cực khổ
công phu đến mấy cũng không đạt được mục đích cuối cùng, đôi khi lầm lạc
vào đường tà lối rẽ. Dĩ nhiên, mỗi người có căn cơ, trình độ, sở thích
khác nhau, nên sự chọn lựa pháp tu là do tâm ý của riêng mình. Kinh
nghiệm tu tập cũng mang tính cách cá nhân, như mỗi bông hoa có một dáng
vẻ, một hương thơm khác nhau, nhưng đều chung sức tỏa sắc khoe hương cho
vườn hoa tập thể.
Thiền sinh theo dõi từng vận hành của tâm niệm, thấy chúng khởi
lên và diệt đi, không còn dấu vết. Biết rõ chúng là hư dối không thật,
ta không theo chúng, tự nhiên tâm liền an. Nhận diện tiến trình sinh
diệt của vọng niệm là bước đầu của con đường thiền tập; trong đó, nhận
ra bộ mặt của vọng là điều kiện đầu tiên tối cần để chiến đấu và chiến
thắng giặc phiền não. Một vị tướng tài muốn trăm
trận trăm thắng, phải biết rõ ta và địch. Giặc phiền não có tâm vương
tâm sở, trận chiến ngay tự thân là trận chiến ác liệt nhất, nếu ta không
nhận diện được giặc thì làm sao có chiến tích lẫy lừng? Đây lại là cuộc
trường chinh gian khổ, vì tập khí phiền não tích tụ biết bao đời kiếp,
không phải một ngày hai ngày là xong việc. Pháp
môn tri vọng là lối chăn trâu trong nhà Thiền, có nhiều mức đô từ thấp
đến cao([2])
.
Chánh niệm là công
phu ở mọi nơi mọi lúc. Thiền sinh duy trì sự tỉnh giác thường xuyên,
luôn đặt tâm vào giờ phút hiện tại, nhận rõ sự động dụng của thân, sự
biến đổi của tâm và sự vô thường của cảnh. Chỉ cần biết rõ tất cả mà
không khởi niệm hay cưỡng chế mọi sự việc theo ý mình. Chánh niệm tự
động soi sáng và chuyển hoá mọi cảm thọ ở thân và những phiền não cấu
nhiễm trong tâm, như ánh nắng chiếu vào nước đá, tự nhiên nước đá tan
chảy dù ánh sáng không cố ý mong cầu.
Kiến tánh là kiến chiếu vào tận thể
tánh của chính mình. Hành giả nhận ra con người thật,
con người nguyên thủy trước khi cha mẹ sinh ra. Kiến tánh là trở về cái
uyên nguyên của vũ trụ nhân sinh; cái không thể
dùng ý thức tưởng tượng nhưng luôn luôn hiện hữu; cái không hình tướng
nhưng trùm khắp và không sanh không diệt; cái tịch lặng muôn đời nhưng
chiếu soi tận cùng pháp giới. Trở về thể tánh chơn thật ấy, hành giả đã
có chỗ y cứ chung thân, đời tu không còn lui sụt nữa.
2. Thiền tập trong mọi
hoàn cảnh:
Trước tiên, chúng ta nên nhận định rằng
Thiền không phải chỉ là toạ, nên tu Thiền không chỉ
ở lúc ngồi. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu khi tâm ta còn lăng xăng đa
sự, toạ thiền là công phu cần thiết và cơ bản giúp ta dễ định tâm hơn
cả. Một số người dùng lời dạy của Lục Tổ, hoặc chủ trương Thiền là phải
sống trong từng giây phút để bài bác việc tọa thiền. Đây là một điều lầm
lẫn lớn lao. Đức Phật mỗi sáng sớm trước khi đi giáo hoá, Ngài đều tọa
thiền, sau đó xét căn cơ trình độ của những người hữu duyên Ngài sẽ gặp,
để chỉ dạy phương pháp tu thích hợp. Một số vị Tổ sư không chủ trương
tọa thiền để đối trị sự cố chấp của môn đệ, cho
tọa thiền là cứu cánh. Những phương tiện giáo hoá của các Ngài lập bày
chỉ vì đương cơ và chỉ thích hợp với đương thời; ngày nay chúng ta lại
áp dụng vào mọi nơi mọi lúc, e có khi không hợp lẽ.
Lúc tọa thiền mà có âm thanh hay tiếng
động ồn ào bên ngoài, ta vẫn biết nhưng không duyên theo tiếng hoặc sanh
tâm bực bội. Những cảnh tượng quấy rầy lúc đầu
làm trở ngại, nhưng đó cũng là cơ hội để ta tu
trong nghịch duyên. Tuy thế, không nên cố ý tạo nghịch duyên như tự mình
mở nhạc hoặc băng thuyết pháp lúc đang tọa thiền, vì thiền không chủ ý
chủ tâm. Trường hợp này thường gặp trong gia đình các Phật tử đông
người, không có không gian riêng cho mình tu tập. Ta có thể khắc phục
hoàn cảnh bằng cách chọn giờ yên tĩnh hoặc một nơi thích hợp cho công
phu thiền tọa, kết hợp với thiền hành.
Tọa thiền là công phu trong lúc tĩnh;
tiến thêm một bước là tập tu trong khi động, theo tinh thần của Chánh
niệm hay làm việc gì chỉ biết việc đó. Trong ngày, lúc
thuận tiện ta có thể thiền hành trong phòng, trên sân thượng, trên đường
vắng hay ngoài bãi biễn …, vừa đi vừa hít thở không khí trong lành,
chánh niệm trên từng bước chân, Thiền hành là lối công phu có tính cách
tự do, không theo nguyên tắc cố định. Đơn giản là ta đi bách bộ một cách
chậm rãi, không có đích đến. Lúc đi ta biết mình đang đi, cái biết này
chỉ mới trên bề mặt ý thức nhưng là khởi đầu cần thiết. Tâm tĩnh lặng,
ta thấy an lạc hạnh phúc nơi từng bước chân. Đến khi đi chỉ biết là đi
mà không còn ngã tướng, thì tuy chân vẫn bước mà ý niệm đi biến mất. Đi
trong trạng thái vong ngã thì tức khắc ta đi vào bản thể của chính mình.
Đi thẳng vào bản thể hoàn toàn trái ngược với sự đi quanh của ngã
tướng; điều này khó nói cho người khác hiểu, chỉ nhờ công phu mới tự
mình thầm nhận.
Trong một nhóm tu hành, ta có thể tổ
chức những bữa cơm nhiếp tâm. Duy trì chánh niệm trên từng động tác,
nghĩa là đang gắp, nhai, nuốt …ta đều biết rõ nhưng không chia nhỏ những
động tác ấy. Ví dụ, trong trí ta cứ thầm nhủ theo từng cử chỉ “gắp-gắp
lên miệng - bỏ vào miệng – nhai – nhai - nuốt…” thì những động tác
ấy không thể nào tự nhiên được. Các món ăn đặt trên bàn, ta có thể gắp
một cách từ tốn tự nhiên, vị chua cay ngọt mặn thế nào ta đều biết.
Không phải khi ăn không cần biết ngon dở, vì như thế trở thành vô tri,
dần dần quên mất sự sống. Ta có quyền thấy nghe hay biết tất cả, nhưng
điều quan trọng là không sanh tâm khen chê ưa ghét, như thế sẽ không xa
rời cuộc sống, mới có cơ hội phát sinh Tri kiến Như thật.
Mặt khác, trong những công việc hàng
ngày, chỉ cần tỉnh thức chú tâm vào mọi động tác, vào công việc làm. Khi
ta quét nhà, chính sự quét nhà là niềm an lạc, nếu ta không xen vào
những tư tưởng phức tạp của ý thức. Khi ta nấu cơm, rửa chén, cuốc đất …
cũng vậy. Nấu cơm để nấu cơm, rửa chén là để rửa chén. Chỉ chú tâm vào
việc đang làm, việc làm ấy sẽ được chu toàn, năng suất cao, kết quả tốt;
và đặc biệt, nơi hành động đã là mục đích, nơi phương tiện đã là cứu
cánh. Như thế, Thiền là sự sống trong mọi sinh hoạt bình thường.
Các huynh đệ đồng tu thường có những
buổi pháp đàm, trao đổi những kiến giải và kinh nghiệm trong công phu.
Những cuộc trao đổi như thế rất hữu ích, với điều kiện phải có tinh thần
hòa ái hoan hỉ, mục đích giúp
nhau cùng tu tiến chứ không phải tranh luận hơn thua. Nếu không theo
tinh thần Tam hòa([3]),
dễ gây mất sự đoàn kết nội bộ. Khổng Tử nói: “Tam nhơn
đồng hành tất hữu ngã sư”, ba người cùng đi ắt có người làm thầy
ta. Ta có thể học được tất cả mọi người, kể cả những người nhỏ tuổi hơn,
yếu kém hơn ta. Có người thường thích phát biểu trước tập thể để chứng
tỏ mình tu hay hơn, hiểu biết hơn người khác; có người bảo thủ, luôn cho ý kiến của mình là đúng, không chấp nhận những ý
kiến trái ngược… Tất cả đều là hành tung của bản ngã. Người có ngã chấp
quá lớn không thể tiếp thu gì thêm, như ly nước đã đầy, không rót được
thêm vào. Từ đó, đường tu dần dần đi xuống mà không hay biết. Thiền tông
nói lên được cái tinh hoa của đạo Phật nên rất thành tựu về mặt truyền
pháp, nhưng do chỉ dạy quá thẳng tắt nên nhiều người tưởng hiểu lý Thiền
là xong việc, lấy sự hiểu bằng ý thức làm lẽ sống mà không tinh cần
công phu, cuối cùng từ hay chuyển sang dở. Thiền sinh chúng ta nên cảnh
giác đối với bệnh khẩu đầu thiền, một bệnh phổ biến của những
người nói nhiều làm ít. Tu là phải thúc liễm thân tâm, thận trọng trong
từng lời nói và tỉnh giác trong từng hành động, lại cần nói ít hơn những
điều mình đã thấy. Người có công phu thiền tập tự nhiên sẽ có một phong
cách đặc biệt, trầm tĩnh đúng mực từ lời nói đến
việc làm.
Các bậc hiền sĩ ngày xưa thường chủ
trương Thà chết vinh hơn sống nhục. Danh dự nhiều khi quý giá
hơn tài sản, tính mạng. Nhưng làm sao trong vinh dự được tôn xưng mà ta
không ngã mạn cống cao, thì có lúc nào đó bị người khinh chê, ta sẽ
không quá buồn khổ. Gặp lửa nóng ta biết ngay mà tránh, còn nước mát lại
dễ làm mất cảnh giác, chết đuối lúc nào không hay. Nghịch cảnh như lửa
nóng, người tu dễ thức tỉnh nhớ xoay lại mình, còn cảnh ấm êm thuận thảo
đôi lúc gây kiêu ngạo. Cho nên nhà Thiền không sợ thất bại, mà lại ngại
sự thành công; vì chính thất bại là nghịch duyên cần thiết để hành giả
có thêm kinh nghiệm tự thân, biết mình còn xấu dở mà tinh cần tu học.
Có một điều tế nhị chúng ta cần lưu ý:
Một hôm nào đó ta gặp một người dáng vẻ tu hành mẫu mực, sống trong cảnh
bần hàn và luôn chê bai xem thường danh lợi. Tiếp xúc với người ấy đôi
lần, ta rất ngưỡng mộ và muốn tôn làm thầy dạy đạo. Nhưng cần tỉnh táo
sáng suốt nhận định rõ vấn đề. Ngụ ngôn Pháp kể chuyện con cáo chê chùm
nho xanh, không đáng để nó bỏ công hái. Nhưng thật ra, vì chùm nho trên
cây cao quá, cáo ta năm lần bảy lượt nhảy lên mà không với tới, nên mới
ra bộ chê bai. Đó chỉ là tâm lý phản ứng trước một thứ mà mình không thể
có dù thâm tâm rất muốn. Trong đời, chúng ta có thể gặp rất nhiều hình
ảnh “con cáo và chùm nho” như thế.
Cổ đức nói:
Phiền não khởi giai do đa sự
Thị phi sanh dĩ thị đa ngôn.
Con người chúng ta không nhiều thì ít
đều có những ham muốn đam mê. Chính sự ham muốn tạo thành kiết sử, trói
buộc và sai khiến ta phải tìm mọi cách thỏa mãn; đạt được lại muốn nhiều
hơn, không đạt khởi sanh sân hận. Nhu cầu bản thân càng cao thì phải ôm
đồm nhiều việc, phiền não càng lẫy lừng. Con người trở thành nạn nhân
cho chính dục vọng của mình, ngày càng bất an, thần kinh căng thẳng đưa
đến những hậu quả khó lường. Lại nữa, khi ngồi với nhau, thường thì
chúng ta hết bàn sự phải quấy lại đến chuyện đông tây kim cổ. Nhưng bàn
chuyện người thì có ích gì cho mình, càng nói nhiều càng lắm thị phi.
Chúng ta có mâu thuẫn là muốn bình an nhưng lại thích luận bàn thế sự,
lại thấy rõ cái dở của người mà không biết tìm khuyết điểm nơi mình.
Chúng ta tu là chấp nhận những điểm yếu của mình một cách thẳng thắn, và
sửa đổi để ngày càng hoàn thiện. Ta nhận định mọi người mọi vật bằng
cặp mắt khách quan, không thần tượng hoá người nào, không lý tưởng hoá
vật gì. Trên đời không có cái gì tuyệt đối, không chỉ có thầy mình là
hay nhất, không chỉ có pháp tu của mình là đúng nhất. Những cái nhìn
thiển cận biên kiến là tư tưởng cục bộ chủ quan, làm đóng khuôn và che
mờ thực tại. Đạo Phật là đạo trí tuệ, người con Phật phải có chánh kiến,
nhìn mọi vấn đề một cách toàn diện và bao dung được mọi tư tưởng lập
trường khác biệt. Từ đó, ta có thể hòa đồng với mọi người và chịu đựng
mọi hoàn cảnh mà vẫn giữ bản chất, phong thái riêng của mình.
Thiền sư Vạn Hạnh có bài kệ nổi tiếng:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu vô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Nghĩa:
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cỏ xuân tươi, thu nhuốm hồng.
Mặc cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi
Thịnh suy như cỏ hạt sương đông.
Khi biết vạn pháp đều không thật, đều
vô thường, thì sự thăng trầm thịnh suy của cuộc sống đối với các Ngài
như hạt sương trên đầu ngọn cỏ. Chúng ta chưa được tự tại như các Ngài,
nhưng nhờ công phu thiền tập, ít nhiều cũng có sự trầm tĩnh. Trước khi
quyết định một việc gì, ta suy nghĩ chín chắn, xử thế có lý có tình và
có lập trường vững chắc. Ta không từ nan việc gì trong khả năng mà có
ích cho đời, làm nhưng không dính mắc vướng bận.
Đời sống của ta sẽ có ý nghĩa dù thọ mạng ngắn hay dài; ta hiến dâng
nhiều bao nhiêu thì sự an lạc hạnh phúc đến với ta tương đương như thế.
Một số thiền sinh thường thắc mắc:
Trong cuộc sống, ai cũng phải tính toán lo toan cho bản thân, cho gia
đình. Người tu càng nhiều việc sắp xếp, tổ chức trong tự viện và những
việc Phật sự bên ngoài. Suốt ngày suy tính bận bịu như thế có trái với
tôn chỉ nhà Thiền là vô sự vô tâm?. Các bậc ngộ đạo cũng trăm công nghìn
việc, nhưng các Ngài sắp xếp việc nào ra việc ấy, tính xong rồi buông
xả, nên các Ngài làm tất cả mà cũng như không làm. Chúng ta học theo các
Ngài, cũng phải lo toan cho cuộc sống hàng ngày một cách chu đáo, làm
tròn mọi trách nhiệm đối với gia đình và xã hội, nhưng không dính mắc,
thì dù đa sự mà vẫn không phiền não.
3. Một vài ngộ nhận trong
công phu:
Có người cho rằng, tu hành là phải
tránh bớt duyên khi chưa triệt ngộ, nên chủ trương tự tu tự học khi đã
biết cách dụng công. Đây là một quan niệm hữu lý, có cơ sở, nhưng nếu ta
cố chấp lại sinh ra cực đoan. Ngày xưa, các vị Thiền sư khi kiến tánh,
thường vào núi rừng ẩn tu một thời gian gột sạch tập khí, sau đó mới vào
cuộc đời giáo hoá chúng nhân. Ngày nay, chúng ta không thể sống một
mình nơi hoang dã, uống nước suối ăn trái rừng qua ngày, chưa kể lúc ốm
đau hoặc chướng duyên làm trở ngại. Vì thế, phần đông chúng ta đều chấp
nhận cuộc sống chung cùng bạn lữ, tuy kết quả không nhanh chóng bằng
người xưa, nhưng được lợi là giúp mình giúp người. Mặt khác, nếu nắm
vững pháp tu, trong lúc động lại tiến nhanh hơn khi tĩnh. Cùng sống với
tập thể, một mặt ta giúp được người đi sau, mặt khác ta nương vào người
để củng cố lòng tin, ý chí, để được bảo vệ trước những cám dỗ của ngũ
dục. Nhiều người thích tu nơi vắng vẻ, một thời gian tưởng mình đã xong
việc, không ngờ khi trở về thế gian lại sanh phiền não, có trường hợp sa
ngã, uổng một đời tu. Đây không những là kinh nghiệm đối với người xuất
gia, mà còn cho những đạo tràng cư sĩ tại gia.
Có người hiểu lầm chỉ có tọa thiền mới
là tu, nên xem thời gian tọa thiền trong ngày là chuẩn mực đạo đức. Thật
ra, khi mới phát tâm, tọa thiền giúp ta dễ an định tâm, do các căn ít
tiếp xúc với trần cảnh. Nhưng trong các giai đoạn sau, khi công phu đã
thuần thục, ta cần tu trong mọi thời khắc, mọi nơi chốn, mọi oai nghi.
Các Thiền sư, khi trả lời câu hỏi “Thiền là gì?”, thường bảo “Dưới
gót chân ông” hoặc “Trong thân chỗ nào không có máu?”.
Lục Tổ chủ trương kiến tánh chứ không chủ trương tọa thiền, vì chưa kiến
tánh thì chưa bước chân vào cửa Thiền tông.
Một số thiền sinh quan niệm Thiền là
cắt đứt mọi hoạt động tâm lý. Đây là lối tu theo
kiểu đá đè cỏ, luôn phải chú tâm đè nén vọng tưởng nên hành giả rất sợ
cảnh sợ duyên, không có sự sáng tạo và sức sống riêng cho chính mình;
đến khi gặp chướng ngại không biết làm cách nào để tránh. Có người lại
hiểu Thiền qua sách vở, nghĩ Thiền dễ tu dễ chứng, chưa gì đã tự tôn
xưng, thỏng tay vào chợ. Thật là một lầm lẫn tai hại, sao khỏi đọa vào
khổ xứ ? Tất cả ngôn từ, dù cao siêu hoa mỹ đến đâu, cũng không diễn đạt
đến lẽ thật. Muốn ngộ lý Thiền, ta phải khéo thông qua ngôn ngữ mà thầm
lãnh hội thực tại phi ngôn. Thiền là đời sống tự mình kinh nghiệm, tự
thấu triệt ngay từ những điều bình dị đơn giản nhất.
Đức Phật bảo “Chúng sanh là Phật sẽ
thành”, ấy là muốn sách tấn hàng môn đệ, vì quả thật mỗi chúng
sanh đều có mầm mống giác ngộ. Không có nhân thành Phật, không thể nào
chúng ta tu đến quả vị cuối cùng. Nhưng nếu chúng ta hiểu đơn giản rằng,
chữ “sẽ thành” có nghĩa là một tương lai nào đó, thì vô hình
trung ta có sự vọng cầu mong mỏi. Như thế là không hợp lý đạo. Phật là Phật
tâm tại hiện tiền, chứ không phải là một Đấng Cứu thế bên ngoài
hay một quả vị Phật ở thời điểm nào xa xôi. Người tu thiền có tâm mong
cầu kết quả, có khi công phu thấy cảnh lạ lại khởi lòng vui mừng hay sợ
hãi, thường dễ phát sinh bệnh tật, điên cuồng. Đây là điều chúng ta cần
thận trọng ghi nhớ.
([1]) Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn - Hoa.
1972: 159 - 160. HT Thích Thanh Từ.
([2]) Pháp môn tri vọng đã được trình bày rõ trong
quyển “Thiền là gì?” cùng tác giả.
([3]) Tam hòa: Khẩu hòa vô tránh
(miệng hòa không tranh luận); Kiến hòa đồng giải (chỗ thấy
biết hòa hợp cùng giải bày); Ý hòa đồng duyệt (ý hòa cùng vui).