[02]
Niệm Ngay Trong Hiện Tại
Nếu lơ đễnh, không niệm ngay những
hiện
tượng đang phát sanh và do đó không hiểu biết bản chất thật sự của
vạn
pháp là vô thường, khổ, vô ngã, ắt ô nhiễm có thể khởi sanh. Đó là
trường
hợp các ô nhiễm ngủ ngầm. Bởi vì những ô nhiễm nầy sanh khởi từ
những đối
tượng của sự hay biết (lục thức) nên gọi đó là "đối tượng ngủ
ngầm". Người
ta bám níu vào những gì, và tại sao bám níu? Người ta bám níu vào
những
vật hay những người mà họ đã có thấy, bởi vì họ đã thấy. Nếu hờ
hững,
không niệm ngay lúc nó khởi hiện thì, bằng cách nầy hay cách khác,
thủ sẽ
phát sanh. Ô nhiễm luôn luôn ngủ ngầm trong bất luận những gì ta
thấy,
nghe, hửi v.v....
Nếu có niệm, ta sẽ nhận thức rằng
những gì
ta thấy, những gì ta nghe, đều hoại diệt. Nó hoại diệt rất nhanh
chóng.
Một khi đã thấy như thật sự nó là vậy thì không có gì để ưa thích,
không
có gì để ghét bỏ, không có gì để bám níu vào, ắt không có sự bám
níu,
không có thủ.
Ta phải niệm ngay lúc thấy. Không
thể trì
hoãn. Đi mua đồ, có thể "mua chịu", rồi một lúc khác sẽ trả tiền.
Nhưng
hành thiền thì không thể "chú niệm chịu". Phải niệm ngay trong
hiện tại.
Chỉ có làm như vậy "thủ" mới không sanh khởi. Đúng theo ngôn ngữ
của kinh
điển ta phải niệm liền sau khi tiến trình nhãn căn chấm dứt và
trước khi
tiến trình ý căn kế đó bắt đầu.
Khi thấy một hình thể, tiến trình
tâm diễn
tiến như sau: Trước tiên ta thấy đối tượng phát hiện. Đó là tiến
trình
thấy. Rồi ta duyệt lại đối tượng đã được thấy. Đó là tiến trình
duyệt xét.
Rồi ta ráp những gì đang được thấy chung lại với nhau thành một
hình thể.
Đó là tiến trình hình thể. Sau cùng, ta có khái niệm về tên. Đó là
tiến
trình danh tánh. Với những sự vật mà trước kia chưa từng thấy và
do đó,
chưa từng được biết tên, tiến trình danh tánh nầy không phát sanh.
Trong
bốn tiến trình nầy, khi tiến trình đầu tiên, tiến trình thấy, khởi
phát
thì ta thấy hình thể hiện tại lúc nó phát hiện -- đó là thực tế.
Khi tiến
trình duyệt xét phát khởi, ta duyệt xét lại cái hình thể đã thấy
trong quá
khứ -- lại cũng thực tế. Vẫn chưa có khái niệm. Sự khác biệt là
thực tế
trong hiện tại và thực tế trong quá khứ. Trong giai đoạn thứ ba,
ta tiến
đến khái niệm về hình thể. Với giai đoạn thứ tư, ta khái niệm về
danh
tánh. Các tiến trình kế tiếp theo sau đó là những khái niệm khác
nhau. Đó
là tiến trình tâm thông thường phát sanh đến người không thực hành
Thiền
Minh Sát.
Có 14 chặp tư tưởng trong tiến
trình thấy.
Nếu không có nhãn thức, nhĩ thức hay ý thức phát sanh thì luồng hộ
kiếp
(bhavanga) tiếp tục trôi chảy. Những chặp tư tưởng hộ kiếp nầy
cùng một
loại với thức-tái-sanh. Đây là loại tâm của người đang ngủ mê. Khi
đối
tượng của một trong ngũ căn, như của nhãn căn chẳng hạn, phát
sanh, luồng
hộ kiếp chấm dứt và nhãn thức v.v.... phát sanh.
Vừa khi chặp tư tưởng hộ kiếp
(bhavanga)
chấm dứt, một chặp tư tưởng mới phát sanh, hướng về đối tượng theo
đường
nhãn căn. Khi chặp nầy chấm dứt, nhãn thức phát sanh. Chặp nhãn
thức vừa
dứt thì chặp tiếp thọ (sampaticchana) phát sanh. Rồi đến chặp suy
đạc
(santiràna). Sau đó đến chặp tư tưởng xác định (votthapana), phân
biệt và
lựa chọn xem đối tượng có tốt không. Kế đó, và tùy theo kết quả
của chặp
xác định, đến giai đoạn xung lực (javana), nhận định hành động có
đúng
không. Giai đoạn xung lực (javana) nầy gồm 7 sát-na trôi qua luôn
một
lượt. Khi 7 chặp nầy chấm dứt thì tiếp liền theo đó có hai chặp
ghi nhận
(đăng ký tâm, tadàlambana) phát sanh. Đến đây chấm dứt tiến trình
tâm. Sau
khi hai chặp ghi nhận chấm dứt, tâm vào trở lại luồng hộ kiếp. Từ
chặp
hướng tâm về đối tượng đến chặp ghi nhận có tất cả là 14 chặp tư
tưởng,
hay sát-na tâm. Tất cả biểu lộ sự thấy. Đó là tiến trình của nhãn
thức.
Đối với hành giả đã có hành Thiền Minh Sát đầy đủ, sau khi luồng
hộ kiếp
chấm dứt và nhãn thức tiếp theo, tuệ minh sát suy đạc sự thấy phát
sanh.
Ta phải cố gắng chú niệm tức khắc. Nếu có thể làm được như vậy,
trí thức
ta hay biết liền sự vật đúng như nó phải được thấy, ngay lúc nó
phát hiện.
Hành thiền như vậy gọi là "niệm trong hiện tại".
"Vị ấy phân biện sự vật
trong hiện tại,
đúng ngay lúc nó sanh khởi, nơi đây và trong hiện tại."
-- Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, iii,
227
"Sự hiểu biết trong khi
duyệt xét tình
trạng ảo huyền của những trạng thái hiện tại là Tuệ Thấu Hiểu sanh
và
diệt." -- Patisambhidà
Magga
Hai đoạn trên đây, được trích từ
những bài
kinh (sutta), rõ ràng cho thấy rằng chúng ta phải niệm những trạng
thái
hiện tại. Nếu không niệm hiện tại chặp tư tưởng suy đạc liền phát
sanh sau
khi luồng hộ kiếp chấm dứt. Chặp tâm nầy phát sanh và suy đạc,
duyệt xét
cái gì vừa được thấy. Lúc bấy giờ tiến trình tâm bao gồm: tâm suy
đạc 1,
xung lực 7, và ghi nhận 2, tất cả 10 chặp tư tưởng, hay
sát-na-tâm. Mỗi
khi ta nghĩ ngợi hoặc suy tư, 3 loại gồm 10 chặp tư tưởng ấy phát
sanh.
Nhưng đối với người hành thiền, hình như chỉ có một chặp tư tưởng
trôi qua
mà thôi. Điều nầy thích hợp với lời giải thích trong hai sách
Visuddhi
Magga và Patisambhidà Magga, liên quan đến Tuệ Diệt. Nếu niệm
trước khi
chặp tâm suy đạc phát hiện ta có thể tránh khỏi những khái niệm và
chỉ ở
trong thực tại -- vật được thấy. Tuy nhiên điều nầy không phải dễ,
đối với
một hành giả sơ cơ.
Nếu không niệm kịp thời, ngay lúc
chặp suy
đạc phát sanh, ta sẽ lọt vào tiến trình hình thể và tiến trình
danh tánh.
Chừng đó thủ bước vào. Nếu niệm sau khi thủ đã xen vào, nó sẽ
không tan
biến. Vì lẽ ấy Sư (Ngài Mahàsi) khuyên quý vị thiền sinh nên niệm
tức
khắc, trước khi những khái niệm sanh khởi.
Các tiến trình nghe, hửi, nếm, sờ
đụng,
phải được hiểu cùng một thế ấy. Với ý thức, tại ý căn, nếu không
niệm tức
khắc, những tiến trình kế tiếp sẽ phát sanh liền theo đó. Như vậy,
phải
niệm liền tức khắc để ngăn chận kịp thời, đừng cho nó phát sanh.
Đôi khi,
trong lúc ghi nhận, "phồng", "xẹp", "ngồi", "đụng", một ý nghĩ hay
một tư
tưởng có thể chen vào. Phải ghi nhận liền, khi nó khởi sanh. Ta
ghi nhận,
và nó liền chấm dứt. Đôi khi tâm vừa muốn phóng đi, ta niệm, và nó
lắng
xuống. Theo lời vài người quen hành thiền, "Nó giống như đứa trẻ
tinh
nghịch, giỡn phá. Khi nghe la, "Im!" thì tự nhiên ở yên."
Như vậy, khi ta kịp thời ghi nhận,
ngay
lúc thấy, nghe, sờ đụng, hoặc hay biết, ắt không có những chặp tư
tưởng
liên hệ nối tiếp, tạo duyên cho thủ phát sanh. "Ta chỉ cảm nhận
hình thể
của vật được thấy, tiếng động được nghe, cảm giác vật được sờ đụng
và ý
nghĩ về việc được hay biết."
Đoạn trên đây, trích từ kinh Malunkya Sutta, cho thấy rằng chỉ có
sự
thấy suông, tiếng động suông, cảm giác suông, ý nghĩ suông. Hãy
nhớ như
vậy, và chỉ có bản chất thật sự mà ta đã biết phát hiện, không có
bám níu.
Vị hành giả niệm bất luận gì phát sanh, ngay lúc nó phát sanh,
nhận thấy
rằng mọi sự vật đều phát sanh và hoại diệt. Cùng lúc, vị ấy nhận
thức rõ
ràng rằng mọi sự vật đều vô thường, khổ, vô ngã. Vị ấy tự mình
thấu hiểu
điều nầy -- không phải nhờ một vị thầy dạy. Chỉ có đó mới là hiểu
biết
thật sự.
Niệm Không Ngừng Nghỉ
Muốn đạt đến mức độ trí tuệ như
vậy cần
phải tận lực gia công. Không có gì bảo đảm rằng ta sẽ thành đạt
tuệ giác
trong một thời ngồi thiền. Có thể ngồi một triệu lần mới có được
một lần.
Vào thời Đức Phật có những vị chứng đắc Đạo và Quả sau khi nghe
một câu
kệ. Nhưng ta không thể trông đợi chuyện ấy xảy ra vào thời buổi
nầy. Vào
thủa ấy, vị thầy là chính Đức Phật. Ngài thấu hiểu tường tận căn
cơ của
người nghe. Còn người nghe là những vị toàn hảo, đã tạo đầy đủ ba
la mật.
Nhưng ngày nay, Pháp Sư là một người thường, chỉ giảng dạy chút ít
gì mà
mình đã học. Vị ấy không thấu hiểu rõ ràng căn cơ của người nghe.
Phần
người nghe, khó mà nói rằng họ là quý ông hay quý bà toàn hảo. Nếu
có đầy
đủ ba la mật họ đã được giải thoát vào thời Đức Phật rồi. Như vậy,
không
thể đảm bảo rằng ta sẽ chứng ngộ tuệ giác trong một thời hành
thiền. Sư
chỉ có thể nói rằng nếu chuyên cần đầy đủ ta sẽ có khả năng thành
đạt tuệ
giác.
Phải gia công như vậy trong thời
gian bao
lâu? -- Sự thấu đạt ba đặc tướng vô thường, khổ, vô ngã, bắt đầu
với tuệ
giác phát sanh do công trình trạch quán Giáo Pháp. Nó không đến
trong tức
khắc. Trước đó phải có tâm trong sạch (Tâm Tịnh), quan kiến trong
sạch
(Kiến Tịnh) và trong sạch vượt qua khỏi mọi nghi hoặc (Đoạn Nghi
Tịnh).
Theo trình độ của quý hành giả ngày nay, một vị đặc biệt đầy đủ
điều kiện
thuận lợi có thể chứng ngộ trong hai hoặc ba ngày. Phần lớn phải
cần đến
năm, sáu, hoặc bảy ngày. Nhưng tất cả đều phải gia công chuyên cần
một
cách tích cực. Những vị thiếu cố gắng đúng mức có thể không thành
công
trong mười lăm hoặc hai mươi ngày. Nơi đây Sư chỉ đề cập đến một
công
trình kiên trì và đều đặn từ buổi đầu.
Thiền Minh Sát là một pháp hành
liên tục,
không gián đoạn, mỗi khi thấy, nghe, hửi, nếm, sờ đụng, hoặc suy
nghĩ,
không bỏ sót điều gì. Tuy nhiên, vị hành giả sơ cơ không thể nào
ghi nhận
đầy đủ tất cả. Hãy bắt đầu ghi nhận một số càng nhiều càng tốt.
Theo dõi
di động của cái bụng phồng lên và xẹp xuống thì không khó. Chúng
ta đã có
đề cập đến vấn đề nầy. Hãy liên tục ghi nhận, "phồng", "xẹp",
"ngồi",
"đụng". Trong khi niệm như vậy nếu có những ý nghĩ phát sanh. Hãy
ghi
nhận, "suy nghĩ", "tính toán", "hiểu biết". Những ý nghĩ ấy là
chướng
ngại. Trừ phi loại trừ được nó ta không thể tiến đến tâm thanh
tịnh và
hiểu biết rõ ràng hiện tượng danh-sắc. Vậy, không nên dể duôi để
nó xen
vào. Hãy ghi nhận và loại trừ nó.
Nếu có những cảm giác khó chịu như
mệt
mỏi, nóng nảy, đau nhức, hoặc ngứa ngáy xảy ra trong thân, hãy chú
tâm vào
đó và ghi nhận, "mệt, mệt", "nóng, nóng" khi nó phát sanh. Nếu có ý
muốn
duỗi tay hay chân ra hoặc co vào, cũng phải ghi nhận, "muốn duỗi
ra",
"muốn co vào". Khi co vào hoặc duỗi ra, mỗi cử động đều phải được
ghi
nhận, "co vào, co vào", "duỗi ra, duỗi ra". Cùng thế ấy khi ngồi
dậy phải
ghi nhận từng cử động nhỏ. Khi đi phải ghi nhận từng bước. Khi
ngồi xuống,
hoặc nằm xuống đều phải ghi nhận.
Mỗi cử động, mỗi ý nghĩ, mỗi cảm
giác, tất
cả đều phải được ghi nhận. Nếu không có gì đặc biệt để ghi nhận,
hãy trở
về niệm, "phồng", "xẹp", "ngồi", "đụng". Ta phải niệm trong khi ăn
hay khi
tắm rửa. Trong lúc ấy, nếu có vật gì lạ mà ta thấy, hoặc tiếng
động lạ mà
ta nghe, cũng phải ghi nhận. Ngoài thời gian bốn, năm, hoặc sáu
tiếng để
ngủ, phải luôn luôn ghi nhận, không ngừng nghỉ. Phải cố gắng ghi
nhận ít
ra một việc trong thời gian một giây.
Nếu có thể gia công kiên trì ghi
nhận như
vậy trong hai hoặc ba ngày, ta sẽ thấy niệm và định trở nên vững
chắc. Nếu
hai, ba ngày không được thì năm, sáu. Chừng đó rất ít khi những tư
tưởng
buông lung phát hiện. Dầu có khởi sanh đi nữa ta có thể ghi nhận
ngay lúc
nó khởi phát. Và khi ta ghi nhận là nó chấm dứt. Đối tượng được
ghi nhận,
như sự di động phồng lên xẹp xuống, và cái tâm ghi nhận, hình như
diễn
tiến nhịp nhàng, đúng lúc. Ta dễ dàng nhận thức đó là dấu hiệu cho
biết
rằng niệm và định của ta trở nên khá kiên cố. Nói cách khác, ta đã
phát
triển tâm thanh tịnh (Tâm Tịnh).
Sự Vật Tan Rã
Kể từ đây mỗi lần ta ghi nhận, đối
tượng
được ghi nhận và cái tâm ghi nhận đối tượng phát hiện như hai sự
việc
riêng biệt. Ta sẽ biết rằng hình thể vật chất, chẳng hạn như sự di
động
phồng lên xẹp xuống, là một, và trạng thái tâm ghi nhận là một
khác.
Thông thường, hình thể vật chất và
cái tâm
hay biết nó, được thấy hình như là một. Kiến thức thâu thập do
sách vỡ hay
kinh điển nói rằng nó là hai, nhưng theo cảm giác cá nhân thì nó
chỉ là
một. Hãy thử di động ngón tay trỏ. Ta có thấy chăng cái tâm phát
ra ý muốn
di động ngón tay? Ta có thể phân biệt cái tâm và ngón tay di động
không?
Nếu thành thật, câu trả lời sẽ là, "không". Tuy nhiên, đối với vị
hành giả
đã phát triển vững chắc niệm và định, đối tượng của sự chú tâm và
sự hay
biết đối tượng ấy rõ ràng là hai sự việc, không khác nào viên gạch
chọi
vào tường với bức tường là hai việc riêng biệt.
Đức Phật dùng hình ảnh viên
ngọc và sợi chỉ xỏ viên ngọc (Dìgha Nikàya,
Trường A Hàm, i, 72). Giống như khi nhìn vào, ta biết sợi chỉ xỏ
ngang qua
hột ngọc: đây là viên ngọc, đây là sợi chỉ xỏ ngang qua viên ngọc.
Cùng
thế ấy, người hành thiền biết: đây là hình thể, đây là tâm hay
biết hình
thể. Tâm liên quan đến và tùy thuộc nơi hình thể.
Khi ghi nhận, "phồng", cử động
phồng lên
là một việc. Sự hay biết cử động ấy là một việc khác. Chỉ có hai
việc ấy
hiện hữu. Khi ghi nhận, "xẹp", cử động xẹp xuống là một, sự hay
biết cử
động ấy là một việc khác -- chỉ có hai việc ấy. Tuệ giác tự nó
phát sanh
rõ ràng đến ta. Lúc đi, ta dở chân lên, cử động dở chân lên là
một, sự hay
biết cử động dở chân là việc khác -- chỉ có hai việc ấy hiện hữu.
Khi bước
tới, đưa chân tới và hay biết cử động ấy là hai việc khác nhau.
Đặt chân
xuống và hay biết cái chân đặt xuống là hai việc riêng biệt. Hình
thể vật
chất và sự hay biết. Chỉ có hai việc. Không có gì khác. Đến khi
trạng thái
tâm định càng được cải tiến thêm ta sẽ nhận thức rằng cả hai,
những hiện
tượng vật chất và tâm linh mà ta không ngừng ghi nhận cũng luôn
luôn hoại
diệt, theo thời gian của nó. Khi ta ghi nhận, "phồng", hình thể
phồng lên
dần dần phát hiện rồi hoại diệt, chấm dứt. Khi niệm, "xẹp", hình
thể dần
dần xẹp xuống, rồi hoại diệt. Ta cũng nhận thức rằng cả hai, cử
động phồng
lên và sự hay biết cử động phồng lên, đều chấm dứt. Cử động xẹp
xuống và
sự hay biết cử động ấy, đều hoại diệt. Mỗi khi ghi nhận ta chỉ
thấy phát
sanh và hoại diệt. Khi ghi nhận, "co vào" mà không lẫn lộn sáp
nhập làm
một những cử động co vào liên tục nối tiếp, ta thấy, "co vào,
dứt", "co
vào, dứt", và như thế ấy, ý muốn co vào, hình thể co vào, và sự
hay biết
cử động co vào đến và đi, mỗi việc trong thời gian và nơi chốn của
nó. Và
khi ta ghi nhận, "mệt", "nóng", "đau", tất cả đều chấm dứt lúc mà
ta ghi
nhận. Ta thấy rõ điều nầy. Nó phát sanh rồi hoại diệt. Và như vậy
là vô
thường.
Vị hành giả tự mình lãnh hội lời
dạy của
Bản Chú Giải, "Nó là vô thường, trong ý nghĩa là 'không còn gì nữa
sau khi
trở thành'." Ta thâu thập kiến thức ấy, không phải nhờ đọc sách
hay nghe
một vị thầy giảng dạy, mà tự mình hiểu biết. Đó mới thật sự là
hiểu biết.
Nghe lời dạy và tin theo đó là đức tin. Ôn nhớ lại những gì mình
đã tin là
học. Không phải kiến thức. Ta phải tự bản thân kinh nghiệm và hiểu
biết.
Đó là điều quan trọng. Thiền Minh Sát là pháp hành giúp hành giả
tự mình
thấu hiểu. Chỉ có vậy mới thật là tuệ minh sát. Đề cập đến pháp
quán niệm
về đặc tướng vô thường Bản Chú Giải nói:
"... cái gì vô thường phải
được hiểu
biết."
"... trạng thái vô thường phải được hiểu biết."
"... sự phân biện trạng thái vô thường phải được hiểu biết."
-- Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Đạo, i,
281.
Tiếp theo những câu vắn tắt trên
đây có
lời giải thích, "Nơi đây, 'cái vô thường' là ngũ uẩn." Phải biết
rằng ngũ
uẩn là vô thường. Mặc dầu có thể ta chưa hiểu biết được do kinh
nghiệm bản
thân, nhưng hãy hiểu biết như vậy. Không phải chỉ thế thôi. Ta
cũng phải
biết rằng ngũ uẩn là khổ, và tất cả đều không có một tự ngã. Nếu
biết được
bấy nhiêu thì ta có thể hành Thiền Minh Sát. Kiến thức thâu đạt
nhờ pháp
học ấy được trình bày trong bài kinh Culatanhàsankhaya Sutta như
sau:
"Nầy Vua Trời, nếu một vị tỳ khưu
được
nghe rằng, 'tất cả mọi trạng thái đều không thích đáng để bám níu
vào', vị
ấy thấu hiểu tất cả chân lý."
"Thấu hiểu" có nghĩa là hành
thiền, quán
niệm danh và sắc, và hay biết. Đó là minh sát căn bản của Tuệ Phân
Tích
Danh-Sắc (nàmar|pa-pariccheda-nàna) và Tuệ Phân Biện Nhân Quả.
Vậy, nếu do
pháp học hiểu biết rằng danh và sắc là vô thường, khổ, và vô ngã.
ta có
thể bắt đầu hành thiền, phân tích danh và sắc. Từ đó có thể tiến
đến một
tuệ giác cao hơn, như Tuệ Quán Trạch.
"Hiểu biết tất cả những trạng thái
ấy,
hành giả nhận thức lý giải tất cả."
Như vậy, người bắt đầu hành Thiền
Minh Sát
ít nữa phải đã có nghe hoặc đã có học về bản chất vô thường, khổ
và vô ngã
của danh và sắc.
Đối với người Phật tử Miến
Điện, đó là những gì mà họ đã biết từ lúc
thiếu thời.
Ta nói rằng danh và sắc là vô
thường vì nó
sanh rồi diệt. Nếu có vật gì không phát sanh ắt ta không thể nói
là nó vô
thường. Có cái gì không bao giờ phát sanh chăng? Đó là một khái
niệm. Khái
niệm không bao giờ phát sanh, không bao giờ thật sự hiện hữu. Thử
lấy cái
tên (danh tánh) của một người. Người ta bắt đầu dùng một cái tên
từ ngày
nó được đặt cho đứa bé, nhưng chính nó thì không bao giờ được sanh
ra,
không bao giờ hiện hữu. Nếu có ai nghĩ rằng nó hiện hữu, hãy tìm
thử xem.
Khi đứa bé ra đời, cha mẹ em cho
em một
cái tên. Thí dụ như đứa bé có tên là "Bé Ngọc". Trước khi đặt tên,
không
ai biết Bé Ngọc là gì hết. Nhưng từ ngày em bé được đặt tên, mọi
người đều
gọi em là Bé Ngọc. Tuy nhiên, ta không thể nói rằng cái tên "Bé
Ngọc" bắt
đầu hiện hữu từ đó. Chính cái tên Bé Ngọc không bao giờ hiện hữu.
Thử tìm
nó xem nào.
Cái tên Bé Ngọc có nằm trong thân
của em
bé không? Trong đầu ư? Hay bên hông, trên mặt? Không. Không có ở
đâu hết.
Người ta chỉ đồng ý với nhau gọi em bé là Bé Ngọc, chỉ vậy thôi.
Nếu em bé
chết. Cái tên Bé Ngọc có chết với em không? Không. Ngày nào mà
người ta
chưa quên thì cái tên ấy vẫn còn. Vì lẽ ấy người ta nói, "một cái
tên hay
một biệt hiệu không bao giờ bị tiêu diệt". Chỉ khi nào người ta
quên đi
thì cái tên Bé Ngọc mới tan biến. Nhưng nó không bị tiêu diệt. Nếu
có ai
phục hồi, nó sẽ trở lại.
Hãy thử nhớ một số những tên của
Bồ Tát
trong nhiều kiếp sống, được ghi trong Túc Sanh Truyện (Jàtaka,
cũng được
gọi là kinh Bổn Sanh): Vessantara, Mahosadha, Mahajanaka, Vidhura,
Temiya,
Nemi ... những tên ấy được biết vào thời buổi mà câu chuyện được
kể lại,
nhưng rồi mất hẳn trong nhiều triệu năm, cho đến ngày chính Đức
Phật phục
hồi. Cách đây bốn A Tăng Kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, tên Đức
Phật
Dìpankara (Nhiên Đăng, cũng được gọi là Tích Đinh Quang hay Đinh
Quang) và
đạo sĩ Sumedha (Thiện Huệ) được phổ cập cùng khắp. Rồi sau đó,
trong nhiều
năm không còn ai biết nữa, bị mất luôn cho đến ngày Đức Phật phục
hồi và
trở lại được chúng ta biết. Danh hiệu của hai vị nầy sẽ còn được
biết trên
thế gian ngày nào mà Giáo Pháp của Đức Phật còn tồn tại. Một khi
Phật Giáo
không còn nữa trên thế gian, người ta sẽ quên luôn. Nhưng nếu vị
Phật
tương lai nhắc trở lại thì danh hiệu của hai Ngài trở lại được
biết. Như
vậy, khái niệm, danh tánh, chỉ là những quy ước, những gì người ta
đồng ý
với nhau gọi như vậy. Nó không bao giờ hiện hữu, không bao giờ có
trong
quá khứ, và trong tương lai cũng không bao giờ có. Nó không bao
giờ phát
sanh, và vì lẽ ấy không thể nói là nó hoại diệt. Cũng không thể
nói là nó
vô thường. Tất cả mọi khái niệm đều như thế ấy, không hiện hữu,
không phát
sanh, không hoại diệt, và do đó không vô thường.
Niết Bàn, mặc dầu là một thực tại,
không
thể nói là vô thường vì không bao giờ phát sanh hay hoại diệt.
Niết Bàn
được xem là thường còn bởi vì là Tịch Tịnh Trường Cửu.
Vô Thường
Ngoại trừ Niết Bàn, những thực tại
-- như
danh và sắc -- không bao giờ hiện hữu lúc ban sơ. Nó chỉ phát sanh
khi có
nguyên nhân tạo duyên để phát sanh. Sanh rồi diệt. Vì lẽ ấy ta nói
rằng
danh và sắc là vô thường. Hãy lấy sự thấy làm thí dụ. Lúc sơ khởi
không có
sự thấy. Nhưng nếu mắt còn tốt, có đối tượng phát hiện, có ánh
sáng, có sự
chú tâm hướng về đối tượng, nếu hội đủ bốn nhân duyên ấy tức có sự
thấy.
Một khi phát sanh, nó liền hoại diệt. Thấy rồi không còn thấy nữa.
Do đó
ta nói rằng sự thấy là vô thường. Một người thường không dễ gì
biết được
rằng cái thấy là vô thường. Sự nghe thì dễ hiểu hơn. Lúc ban đầu
không có
nghe gì hết. Nhưng nếu tai còn tốt, có tiếng động phát hiện, không
có gì
ngăn cản, sự chú tâm của ta hướng về đó, khi hội đủ bốn yếu tố ấy
ắt có sự
nghe. Nó phát sanh rồi hoại diệt. Nghe rồi không còn nghe gì hết.
Do đó ta
nói rằng sự nghe là vô thường.
Hiện thời quý vị đang nghe Sư nói.
Quý vị
nghe từng tiếng một, hết tiếng nầy đến tiếng khác. Một khi quý vị
đã nghe
một tiếng thì nó đi qua mất. Hãy nghe đây, "tiếng", "tiếng",
"tiếng". Khi
Sư nói "t...." quý vị nghe như vậy, rồi nó qua mất. Rồi Sư nói,
"...iếng".
Quý vị nghe như vậy rồi nó qua mất. Đó! nó đến rồi đi như vậy. Các
hiện
tượng tâm-vật-lý khác cũng vậy. Đến rồi đi. Nghe, thấy, hửi, nếm,
sờ đụng,
suy tư, co vào, duỗi ra, cử động ... tất cả đều đến và đi. Bởi vì
nó luôn
luôn đi mất nên ta nói rằng nó là vô thường.
Trong những hiện tượng nầy sự hoại
diệt
của tâm thức rất rõ rệt. Nếu trong khi niệm, "phồng", "xẹp" tâm
phóng,
hành giả ghi nhận, "phóng tâm, phóng tâm". Ngay lúc ta ghi nhận,
"phóng
tâm" thì cái tâm phóng dật ấy tan biến, không còn nữa. Nó đi mất.
Trước đó
nó không có hiện hữu. Vừa phát hiện lên nó liền đi mất, thật nhanh
chóng
ngay khi ta ghi nhận. Vì lẽ ấy ta nói nó là vô thường. Tình trạng
hoại
diệt của những cảm giác khó chịu cũng thật rõ rệt. Trong khi niệm
"phồng",
"xẹp", có trạng thái mệt mỏi, nóng, hoặc đau nhức phát hiện trong
thân.
Nếu ta chú tâm niệm vào nơi ấy và ghi nhận, "mệt, mệt" v.v... đôi
khi nó
tan biến đi mất. Có khi nó chỉ chấm dứt lúc ta ghi nhận, rồi trở
lại. Vì
thế, nó là vô thường. Vị hành giả nhận thức đặc tướng vô thường
của vạn
pháp khi ghi nhận sự phát sanh và hoại diệt của sự vật.
Chứng ngộ bản chất phù du của sự
vật là
Quán Niệm về Vô Thường. Nó đến từ kinh nghiệm bản thân. Chỉ suy tư
suông
mà bản thân không kinh nghiệm thì không phải là thấu hiểu thật sự.
Không
hành thiền ta sẽ không biết những gì phát sanh và những gì hoại
diệt. Đó
chỉ là học theo sách vỡ, có thể tạo thiện nghiệp, nhưng không phải
thật sự
là tuệ giác. Tuệ minh sát là những gì mà tự mình thấu triệt bằng
cách hành
thiền, chú niệm những sự vật ngay lúc nó phát sanh và hoại diệt.
Trong cử
tọa hôm nay rất nhiều thiền sinh đang ngồi nghe Sư giảng đã tiến
đến mức
hiểu biết như thế. Những gì Sư nói không phải chỉ do kinh nghiệm
riêng của
Sư mà thôi. Không đâu. Đó cũng không phải là kinh nghiệm của một
số bốn
mươi, hoặc năm mươi hành giả đệ tử của Sư. Có nhiều trăm người như
vậy.
Những vị còn sơ cơ có thể không thành đạt sự hiểu biết rõ rệt như
vậy.
Không phải dễ đâu. Tuy nhiên, cũng không phải là quá khó để cho ta
thành
tựu. Nếu vị nào gia công chuyên cần thực hành đúng mức những lời
Sư chỉ
dạy ắt có thể chứng đạt. Nếu không gia công đúng mức ắt không thể
thành
tựu. Những cấp bằng tốt nghiệp, bằng tưởng lệ hay danh dự v.v...
đều là
thành quả của sự gia công. Không cố gắng ắt không thành công. Tuệ
minh sát
trong Phật Giáo cũng vậy. Phải gia công tận lực mới chứng ngộ.
Khi mà tâm định được củng cố vững
chắc và
thâm sâu ta có thể thấy một số nhiều những chặp tư tưởng trong một
cử động
co tay vào hoặc duỗi tay ra. Ta sẽ thấy có một số rất lớn những
chặp tư
tưởng phát sanh trong khi ta muốn co tay vào hoặc duỗi ra, cái nầy
tiếp
nối cái khác. Cùng thế ấy, một số lớn những tư tưởng phát sanh
trong một
nháy mắt. Phải ghi nhận tất cả những tư tưởng phù du ấy, ngay khi
nó phát
sanh. Nếu không thể nhận diện ra nó trong tức khắc, hãy ghi nhận,
"hay
biết, hay biết". Ta sẽ thấy rằng trong thời gian ghi nhận "hay
biết" như
vậy thì có đến bốn, năm, hoặc hằng chục tư tưởng nối tiếp phát
sanh. Đến
khi sự hay biết của ta trở nên thật bén nhạy thì đến chữ "hay
biết" cũng
không cần thiết. Chỉ có trí thức theo dõi cũng đủ.
Một tư tưởng phát sanh, tâm hay
biết nó;
một tư tưởng khác phát sanh, cái tâm quan sát hay biết nó. Cũng
như mình
nói, "một miếng cơm, một và". Mỗi tư tưởng phát sanh, có tâm quan
sát hay
biết. Hay biết như vậy, hiện tượng sanh diệt trở thành thật là rõ
rệt đối
với hành giả. Trong khi niệm phồng lên xẹp xuống ở bụng mà tâm
phóng đi
thì nó liền bị cái tâm quan sát hay biết liền và bắt lại tức khắc,
cũng
như con thú chạy thẳng vào cạm bẩy. Và một khi ta đã hay biết thì
nó sẽ
biến mất. Ta sẽ thấy rõ ràng điều nầy như thấy một vật cầm trong
tay. Thấy
như vậy mỗi khi có tư tưởng phát sanh.
Khi mệt mỏi phát sanh, ta ghi
nhận, "mệt",
và nó tan biến. Nó phát sanh trở lại. Ta ghi nhận trở lại. Và nó
tan biến.
Sự hoại diệt nầy càng rõ rệt hơn
khi tuệ
minh sát tiến đến mức cao độ. Mệt, ghi nhận, hết; mệt, ghi nhận,
hết. Nó
hoại diệt, hết cái nầy đến cái khác. Không có sự liên lạc giữa cái
mệt nầy
với cái kế tiếp. Với cảm giác cũng cùng một thế ấy. Đau, ghi nhận,
hết;
đau, ghi nhận, hết. Cái đau nầy riêng rẽ, không lẫn lộn với cái
đau khác.
Mỗi cơn đau rõ ràng riêng biệt với cái khác.
Đối với người thường, mỗi
cơn đau hay mỗi cơn mệt kéo dài không gián
đoạn. Hình như cảm giác đau, hay mệt, liên tục kéo dài trong một
khoảng
thời gian. Trong thực tế không có tình trạng mệt, hay đau, kéo
dài. Chỉ
trong một khoảng thời gian rất ngắn và riêng rẽ. Một cơn mệt, và
cơn khác
kế tiếp. Một cơn đau, và cơn đau khác kế tiếp. Hành giả sẽ thấy
như vậy
khi chuyên cần ghi nhận.
Khi hành giả ghi nhận, "phồng",
cái bụng
dần dần nổi phồng lên và dần dần chấm dứt. Khi niệm, "xẹp", bụng
dần dần
xẹp xuống và chấm dứt. Người thường, không thông hiểu pháp hành
nầy, nghĩ
rằng niệm cái bụng phồng lên và xẹp xuống là vô lý. Xuyên qua kinh
nghiệm
của chính họ, họ nghĩ rằng đối với người hành thiền là vậy. Có gì
đâu. Chỉ
cái bụng phồng lên và xẹp xuống thì có nghĩa lý gì. Vài người lên
án. Xin
chớ ức đoán mò, rồi chỉ trích. Sư chỉ xin khuyên hãy hành thử rồi
tự mình
sẽ thấy. Nếu gia công đúng mức ta sẽ thấy.
Khi ghi nhận, "co vào", ta thấy rõ
ràng
cánh tay hay cái chân cử động, và qua; cử động, và qua; hết cử
động nầy
đến cử động khác. Bây giờ ta thấu hiểu lời dạy trong kinh điển,
rằng những
thực tại như danh và sắc không di động từ nơi nầy đến nơi khác.
Thông
thường ta nghĩ rằng cũng một cánh tay ấy di chuyển, cũng một cánh
tay ấy
sau khi di chuyển, và trước đó cũng cùng một cánh tay ấy. Người ta
nghĩ
rằng cũng một cánh tay ấy đưa ra và đưa vào. Đối với họ chỉ có một
cánh
tay, không bao giờ thay đổi. Họ không thể thấy sự liên tục đổi
thay của
vật chất. Họ không thể thấy vật chất liên tục nối tiếp phát sanh
như thế
nào ... Họ thiếu tuệ giác nhìn sâu vào bên trong sự vật. Trạng
thái vô
thường sâu kín ẩn núp bên trong sự liên tục. Nó lẫn trốn được bởi
vì ta
không hành thiền, không niệm những gì phát sanh và hoại diệt. Sách
Visuddhimagga, Thanh Tịnh Đạo dạy:
"Bởi vì ta không theo dõi trạng
thái phát
sanh và hoại diệt nên đặc tính vô thường không phát hiện, ngày nào
mà nó
còn ẩn núp, lẫn trốn trong trạng thái liên tục." -- Visuddhimagga
xxi,
trang 781.
Hành giả luôn luôn canh chừng mỗi
khi có
sự phát sanh. Đối với vị ấy, tất cả sự vật -- vật chất và tâm linh
-- đều
phát hiện một cách riêng rẽ, từng mảnh riêng biệt, chớ không phải
một toàn
thể đơn thuần. Từ xa nhìn vào đoàn kiến, hình như có một lằn không
gián
đoạn. Nhưng lúc lại gần, nhìn rõ ra, ta thấy từng con kiến chớ
không có
một lằn. Vị hành giả chia chẽ sự vật ra thành những mảnh vụn, và
do đó
trạng thái liên tục không thể che lấp sự thật. Đặc tính vô thường
tự vạch
mở ra. Hành giả không còn lầm lạc trong ảo kiến.
"Nhưng khi trạng thái phát
sanh và hoại
diệt đã được nắm vững, và tình trạng liên tục đã được phá vỡ, đặc
tính vô
thường phát lộ trọn vẹn thực tướng cùng với tính chất cá biệt thật
sự của
nó." -- Visuddhi Magga
xxi, 781
Hành thiền và chứng ngộ tuệ giác
về đặc
tính vô thường là như vậy. Chỉ suy tư suông mà không hành thiền
không thể
đạt đến tuệ giác ấy.
Khi đã chứng ngộ lý vô thường ta
cũng
chứng ngộ luôn hai đặc tính khổ và vô ngã.
"Nầy Meghiya, người đã
chứng ngộ lý vô
thường cũng chứng ngộ lý vô ngã."
-- Anguttara Nikàya, Tăng Nhứt A Hàm, ii, 169
Như vậy, thấu hiểu đặc tính vô
thường là
điều vô cùng quan trọng.
Khám Phá Trở Lại
Về vấn đề nầy xin kể lại nơi đây
một kinh
nghiệm của Sư. Câu chuyện liên quan đến một người tu thiền. Người
nầy cùng
sinh quán với Sư, làng Hseipkhun, quận Shwebo. Người ấy không phải
ai xa
lạ mà là anh họ của Sư. Anh là một trong ba người đầu tiên trong
làng theo
học Thiền Minh Sát. Ba người cùng làng ấy ước hẹn với nhau là sẽ
đi hành
thiền trong thời gian một tuần lễ. Họ thực hành thật chuyên cần.
Khi đến
thiền viện họ đem theo đủ thuốc hút và trầu cau để mỗi ngày dùng
một lần.
Nhưng đến khi rời viện, mỗi người đem trở về trọn bảy điếu thuốc
và bảy
miếng trầu cau -- họ không hề động tới.
Họ rất siêng năng và trì chí. Sau
ba ngày
hành thiền họ đã đạt tới Tuệ Sanh-Diệt và vô cùng thỏa thích được
chứng
nghiệm trạng thái vắng lặng và thấy ánh sáng quanh mình. Họ lấy
làm hoan
hỉ nói rằng, "Cho đến tuổi già như thế nầy tôi mới tìm ra được
chân lý."
Bởi vì họ là những người đầu tiên
đến hành
Thiền Minh Sát, Sư nghĩ nên để họ tự nhiên với những phỉ lạc của
họ, và
chỉ nhắc chừng họ nên tiếp tục ghi nhận. Sư không bảo họ là không
nên mãi
quan tâm đến phỉ lạc ấy. Do đó, mặc dầu cố gắng thực hành thêm bốn
ngày
nữa, họ vẫn không tiến cao thêm.
Sau khi rời thiền viện về nhà
nghỉ, họ trở
lại hành thiền thêm một tuần nữa. Người anh họ của Sư lần nầy đạt
đến tầng
Tuệ Diệt. Mặc dầu vẫn niệm, "phồng", "xẹp", "ngồi", anh không thấy
hình
thể cái bụng phồng lên, xẹp xuống, và cơ thể anh hình như tan
biến. Anh
nói với Sư rằng anh phải rờ xem cái bụng còn đó không. Và trong
thời gian
ấy, bất luận lúc nào và bất luận vật gì mà anh nhìn đến, đều hình
như rã
rời và tan biến. Nhìn đất, thấy đất tan rã. Nhìn cây, thấy cây cối
tan rã.
Mọi sự vật đều trở nên rất khác biệt, ngược hẳn với những gì trước
kia anh
biết. Anh bắt đầu ngạc nhiên.
Cho đến lúc bấy giờ anh không hề
nghĩ rằng
cảnh vật như đất, cây, gỗ v.v... có thể không ngừng tan rã như
vậy. Trước
đó anh nghĩ rằng những vật kia tức nhiên phải hoại diệt, nhưng chỉ
hư hoại
dần dần trong một thời gian khá dài. Nó sẽ còn sống khá lâu. Bây
giờ tuệ
minh sát của anh đã phát triển đến mức độ mà những hiện tượng
sanh-diệt tự
nhiên phát hiện, dầu anh có đang hành thiền hay không. Sự vật hư
hoại và
tan rã trước mắt anh, hoàn toàn trái ngược với những gì mà trước
kia anh
tin tưởng. Có lẽ nhãn quan của anh có gì hư hỏng. Hay mắt anh
không còn
thấy đúng sự thật.
Rồi anh hỏi Sư. Và Sư nói cho anh
nghe.
Trạng thái hoại diệt và tan rã mà anh thấy là thật, là thực tế.
Khi tuệ
minh sát trở nên bén nhạy và thâm sâu anh có thể thấy sự vật phát
sanh và
hoại diệt, không phải chỉ trong lúc hành thiền. Sư giải thích cho
anh hiểu
rằng những gì anh thấy là thật. Về sau anh lại nói cho Sư nghe
thêm những
ấn chứng mới mẻ mà anh chứng nghiệm khi càng ngày càng tiến bộ
trong tuệ
minh sát. Đến nay thì anh không còn nữa. Anh đã qua đời từ lâu.
Khi tuệ minh sát phát triển thật
sự bén
nhạy, nó sẽ lấn áp những tư tưởng và quan kiến sai lầm. Ta thấy sự
vật
đúng theo thực tướng của nó là vô thường, khổ, vô ngã. Một cái tâm
không
có tu tập, hay một suy tư không dựa trên kinh nghiệm hành thiền,
không thể
đưa đến tuệ giác sâu sắc nhìn thấu vào bản chất thật sự của vạn
pháp. Chỉ
có Thiền Minh Sát mới làm được.
Một khi đã chứng ngộ lý vô thường
ta sẽ
thấy sự vật làm khổ ta như thế nào với tình trạng không ngừng sanh
diệt
của nó. Ta sẽ thấy vì sao không thể tìm hạnh phúc thật sự trong sự
vật
trần gian, làm thế nào những sự vật trần gian không thể là nơi
nương tựa
châu toàn cho ta, nó luôn luôn hư hoại như thế nào và do đó, nó
đáng nhàm
chán, ghê tởm như thế nào, như thế nào nó là khổ v.v...
"... khổ trong ý nghĩa đáng sợ".
Trước kia ta nghĩ, "Cơ thể nầy sẽ
không
sớm hư hoại. Nó sẽ tồn tại khá lâu dài." Do đó, ta vững lòng nương
tựa vào
nó. Nhưng nay, nhờ hành thiền, ta thấy rằng nó không ngừng sanh
diệt. Và
nếu diệt mà không có gì sanh tiếp theo, tức nếu có cái gì hư hoại
-- thuộc
vật chất hay tinh thần -- mà sau đó không có cái mới khác phát
sanh tiếp
nối theo, ắt có chết. Và điều nầy có thể xảy ra bất luận lúc nào.
Cố chấp
những sự vật-- tinh thần hay vật chất, có thể chết đi và tan rã
bất cứ lúc
nào -- là chính mình, là tự ngã của mình, và ẩn náu nương nhờ nơi
đó, thì
quả thật là đáng sợ, không khác nào nương thân an trú trong một
ngôi nhà
cũ nát sắp sụp đổ.
Và ta sẽ nhận thấy rằng không có
gì xảy ra
vì ý ta muốn như vậy. Sự vật chỉ diễn tiến theo chiều hướng và
tiến trình
thiên nhiên của nó. Ta nghĩ rằng "ta" có thể đi nếu mình muốn,
ngồi như ý
muốn, đứng, thấy, nghe, làm tất cả mọi việc như ý muốn, giờ đây,
nhờ hành
thiền ta thấy rằng không phải vậy.
Danh và sắc, tinh thần và vật
chất, đi đôi
với nhau. Chỉ khi nào có tác ý (danh), tức có ý muốn co tay vào
mới có
hình thể (sắc) co tay vào. Chỉ khi nào có ý muốn duỗi tay ra mới
có hình
thể duỗi tay ra. Chỉ khi có nhân mới có quả. Chỉ khi có gì để thấy
mới có
sự thấy. Nếu không có gì để thấy ắt không làm thế nào thấy được.
Chỉ có sự
nghe khi có tiếng động để nghe. Ta chỉ cảm nhận hạnh phúc khi có
lý do để
cảm nhận hạnh phúc. Chỉ lo sợ khi có nguyên nhân lo sợ. Nếu có
nhân ắt có
quả. Không cách nào khác. Không một cá nhân, một người, không có
ai, hay
cái gì, sống và làm những gì mình muốn làm. Không có mình, không
có tự
ngã, không có tôi. Chỉ có những tiến trình phát sanh và hoại diệt.
Thấu triệt rõ ràng là vấn đề tối
trọng yếu
trong pháp hành Thiền Minh Sát. Lẽ dĩ nhiên, ta sẽ gặp những lúc
phỉ lạc,
vắng lặng, hay thấy ánh sáng, trong khi tu tập thực hành. Những sự
việc ấy
không quan trọng. Điều quan trọng là am hiểu thấu đáo lý vô
thường, khổ,
vô ngã. Những đặc tướng ấy sẽ rõ ràng khi ta gia công chuyên cần
hành
thiền như đã giải thích.
Sau Cùng, Trạng Thái Tĩnh Lặng
Ta tự mình làm cho sự vật trở nên
sáng tỏ
và tự mình chứng nghiệm, chớ không phải tin theo lời ai khác.
Những hành
giả còn sơ cơ, chưa chứng được tuệ giác như vậy hãy biết rằng đó
là vì
mình chưa đạt đến tầng hiểu biết ấy. Hãy cố gắng chuyên cần thêm.
Điều gì
người khác làm được ắt ta làm được. Sẽ không quá chậm trể. Tuệ
giác phát
sanh trong lúc ta hành thiền. Chỉ khi nào tự mình biết chắc chắn
rằng tất
cả đều vô thường, khổ và vô ngã ta mới không bám níu vào nhục dục
ngũ
trần, xem trần cảnh là thường còn, hạnh phúc, xinh tươi, tốt đẹp.
Ta cũng
không dính mắc, luyến ái, xem nó là tự ngã, là linh hồn trường
cửu, là
"Ta". Ta buông bỏ tất cả mọi ràng buộc. Rồi sao nữa? -- Rồi thì,
tất cả
mọi ô nhiễm đều lắng đọng xuyên qua Thánh Đạo, và ta chứng ngộ
Niết Bàn.
"Người không còn bám níu
(thủ) không khát
khao ham muốn điều gì. Người không khát khao ham muốn điều gì tự
mình lắng
đọng, thân tâm an lạc." --
Majjhima Nikàya, Trung A Hàm ii, 318
Bất luận lúc nào hành thiền ta
không bị
ngoại cảnh ám ảnh. Do đó không có sự bám níu (thủ). Không bám níu
những gì
ta thấy, nghe, hửi, nếm, sờ đụng, hoặc hay biết. Trần cảnh phát
hiện theo
thời gian của nó, rồi tan biến. Tự nhiên nó tự phát lộ hình tướng
vô
thường, không có gì để bám níu vào. Với trạng thái luôn luôn sanh
diệt, nó
áp bức, làm cho ta khổ. Tất cả đều là nhân sanh khổ. Không có gì
hạnh
phúc, tốt đẹp hay xinh xắn để bám níu. Phát sanh rồi hoại diệt,
bản chất
của nó là vậy. Do đó, không có gì để nắm giữ, để xem là tự ngã, là
linh
hồn trường cửu hay cái "Ta", sống và tồn tại. Tất cả những hiện
tượng ấy
hiển lộ phơi trần một cách rõ rệt. Đối với những sự vật như vậy
thì không
có gì để bám níu. Và chừng đó ta bước vào Thánh Đạo và chứng ngộ
Niết Bàn.
Sư sẽ trình bày điểm nầy dưới ánh sáng của pháp Tùy Thuộc Phát
Sanh (Thập
Nhị Nhân Duyên) và ngũ uẩn.
"Thủ chấm dứt do Ái chấm
dứt; Hữu chấm dứt
do Thủ chấm dứt; Sanh chấm dứt do Hữu chấm dứt; Do Sanh chấm dứt,
Lão, Tử,
Âu Sầu, Đau Khổ, Phiền Muộn, Thất Vọng và Ta Thán chấm dứt. Như
thế ấy
chấm dứt toàn thể khối đau khổ."
-- Majjhima Nikàya, Trung A Hàm i, 337
Người có hành thiền về những đối
tượng
phát hiện ở lục căn -- tinh thần hay vật chất -- và có hiểu biết
bản chất
vô thường, khổ, và vô ngã, cố hữu dính liền với nó sẽ không thỏa
thích bám
níu vào nó. Vì không bám níu, vị ấy không có tác ý, hay ý muốn thọ
hưởng.
Vì không có tác ý vị ấy không tạo nghiệp, và hành động tạo nghiệp
nầy được
gọi là "Hữu". Vì không Hữu nên không có Sanh. Đã không có Sanh tức
không
có cơ hội để già, bệnh, chết, âu sầu, đau khổ v.v... Đó là phương
cách tạm
thời chứng ngộ Niết Bàn trong khi hành thiền.
Sư sẽ giải thích sự chứng ngộ Niết
Bàn qua
Thánh Đạo ở phần sau.
Trong bài kinh Sìlavanta, được
trích ở
phần trên, Ngài Sàriputta giải thích rằng nếu vị tỳ khưu có giới
đức trong
sạch hành thiền về những đặc tướng vô thường, khổ và vô ngã của
ngũ uẩn
thủ, vị ấy có thể chứng đắc Quả Tu Đà Huờn (Nhập Lưu). Nếu vị
Thánh Tu Đà
Huờn hành thiền ... có thể đắc Quả Tư Đà Hàm (Nhứt Lai). Nếu vị
Thánh Tư
Đà Hàm hành thiền ... đắc Quả A Na Hàm (Bất Lai). Nếu vị Thánh A
Na Hàm
hành thiền ... đắc Quả A La Hán (Ứng Cúng). Ở đây, đắc bốn Quả Tu
Đà Huờn,
Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán có nghĩa là chứng ngộ Niết Bàn qua
bốn
Thánh Đạo.
Những Giai Đoạn Tiến Bộ
Để bước vào Thánh Đạo, phải
khởi hành từ tuệ đạo. Tuệ đạo bắt đầu với
Tuệ Phân Tích Danh và Sắc. Rồi tiến đến Tuệ Phân Biện Nhân Duyên,
và tiếp
tục gia công, tiến đến Tuệ Quán Trạch Giáo Pháp. Đến đây ta thỏa
thích suy
tư, quán xét và phân biệt sự vật. Các học giả uyên thâm thường mất
nhiều
thì giờ để làm điều nầy. Còn ta, nếu muốn suy tư và quán trạch sự
vật, chỉ
ngồi xuống lắng tâm hành thiền. Tâm trí lúc bấy giờ trở nên nhẹ
nhàng và
bén nhạy, thấy rất rõ ràng những sự vật được ghi nhận phát sanh và
hoại
diệt như thế nào. Ta đã đạt đến tuệ sanh diệt.
Đến giai đoạn nầy công trình ghi nhận có phần dễ dàng. Có ánh
sáng phát
sanh, có phỉ lạc, có trạng thái vắng lặng. Ta chứng nghiệm những
gì mà
trước kia không bao giờ mơ tưởng đến. Ta vô cùng thỏa thích và cảm
nghe
hạnh phúc. Người mới tập hành thiền phải kềm giữ cái tâm một cách
rất khó
nhọc. Nó phóng đi đầu nầy, vừa kéo về là nhảy sang ngã khác. Phần
lớn thời
gian ngồi thiền là phóng tâm. Hình như không có gì là đúng. Vài
người phải
chiến đấu rất cam khổ. Nhưng, với niềm tin vững chắc nơi vị bổn
sư, với ý
chí dõng mãnh và kiên trì quyết tâm, ta đã trải qua những giai
đoạn khó
khăn ấy. Ta đã thành đạt Tuệ Sanh Diệt. Mọi việc đều trở nên tốt
đẹp, dễ
dàng. Tâm niệm vững chắc ghi nhận sự vật một cách tự nhiên, không
phải mất
nhiều cố gắng. Ta cảm nghe dễ chịu. Có ánh sáng phát hiện. Phỉ lạc
phát
sanh. Cả thân lẫn tâm đều thoải mái dễ chịu. Đối tượng mà ta ghi
nhận hình
như hồn nhiên tự nó rơi vào đề mục. Tất cả đều sẵn sàng để được
ghi nhận,
không còn bao giờ hờ hững lãng quên, không bao giờ chểnh mảng
thiếu ghi
nhận. Và mỗi lần ghi nhận, sự hay biết rất rõ ràng. Nếu ta theo
dõi suy tư
về điều gì, điều ấy trở nên vấn đề giản dị và rõ ràng minh bạch.
Nếu ta
suy niệm về vô thường, khổ, và vô ngã mà trước kia đã từng nghe
nói đến,
nó phát hiện một cách sáng tỏ. Chừng đó ta có cảm tưởng như đang
thuyết
giảng Giáo Pháp và nghĩ rằng mình là một giảng sư hùng biện.
Nhưng, nếu
thật sự không có học thức căn bản, ta sẽ giảng một cách tồi tệ.
Dầu sao,
lúc bấy giờ ta cũng có cảm tưởng như đang thuyết Pháp. Có thể lúc
ấy ta
nói rất nhiều. Hiện tượng ấy được gọi là "Niết Bàn Lý Tưởng". Đó
không
phải thật sự là Niết Bàn của các bậc Thánh Nhân. Ta có thể gọi là
"Niết
Bàn Giả", chỉ nháy theo, bắt chước Niết Bàn chớ không phải thật sự
là Niết
Bàn.
"Đó là trạng thái bất diệt của
những người
hiểu biết."
Tu học hành thiền cũng giống như
trèo núi.
Ta bắt đầu leo từ dưới đồng bằng và sớm cảm nghe mệt mỏi. Hỏi thăm
những
người từ trên đỉnh núi đi xuống thì họ khuyến khích, "bây giờ gần
đến nơi
rồi đó!" Vẫn mệt mỏi, nhưng ta nỗ lực trèo thêm nữa và không bao
lâu gặp
được một gọp đá bằng phẳng dưới một bóng cây to, có tàng lá sum
sê. Ta
ngồi lại nghỉ mệt. Thỉnh thoảng một ngọn gió mát mẻ nhẹ nhàng
thoáng qua.
Bao nhiêu mệt mỏi hầu như đã tan biến. Cảnh vật đẹp đẽ hữu tình.
Rồi ta
cảm nghe thoải mái trở lại, sẵn sàng trèo cao thêm nữa. Tuệ Sanh
Diệt là
nơi nghỉ mát dưới bóng cây to để hành giả lấy sức trèo thêm cao
nữa, mãi
đến Tuệ Minh Sát.
Quý vị hành giả chưa đạt đến tuệ
nầy có
thể nản lòng. Bao nhiêu ngày tháng đã trôi qua mà chưa từng nếm
được chút
mùi vị của tuệ giác nào. Tình trạng nầy đôi khi cũng làm ngã lòng.
Vài
người rời bỏ thiền viện, nghĩ rằng tu thiền thật ra cũng không có
gì. Họ
chưa khám phá ra được "Niết Bàn của người tu thiền". Vì lẽ ấy các
thiền sư
khuyến khích quý vị mới nhập môn nên cố gắng sớm đến mục tiêu ấy.
Phần lớn
thành công như lời khuyên, và một khi đã đến mức nầy thì không cần
phải
khuyến khích nữa. Lúc bấy giờ niềm tin của họ đã thật sự vững chắc
và họ
dõng mãnh quyết tâm tận lực chuyên cần cho đến khi thành đạt mục
tiêu cuối
cùng.
"Niết Bàn của người tu thiền" nầy
thường
được nói là amanusi rati -- thỏa thích phi thường, hay phỉ lạc
siêu phàm.
Ta có thể thỏa thích với nhiều thứ, thỏa thích trong công trình
học vấn,
trong tiền của sự nghiệp, trong đời sống gia đình v.v... "Niết Bàn
của
người tu thiền" vượt qua khỏi tất cả những thỏa thích ấy. Có một
thiền
sinh nói với Sư rằng ngoài đời ông ta thọ hưởng đầy đủ mọi lạc thú
một
cách dồi dào. Nhưng không có thú nào có thể so sánh với cái thú
của người
hành thiền. Ông ta thật tình không thể diễn tả trạng thái thỏa
thích ấy
thú vị như thế nào.
Tuy nhiên, phải chăng tất cả chỉ
có bấy
nhiêu? Không. Ta phải tiếp tục hành thêm nữa. Ta tiếp tục ghi
nhận. Chừng
đó, càng ngày càng tiến bộ, ta không còn thấy hình dáng phát lộ
nữa mà chỉ
thấy nó tan biến.
Bất luận cái gì phát hiện đều tan
biến
ngay lúc ta ghi nhận nó. Ta ghi nhận, "thấy", tức khắc nó tan
biến. Ghi
nhận, "nghe", nó liền tan biến. "co vào", "duỗi ra", nó liền tan
biến.
Chẳng những mọi sự vật phát hiện đều tan biến mà sự hay biết các
sự vật ấy
cũng tan biến cùng một lúc. Đó là Tuệ Diệt.
Mỗi khi ta ghi nhận là nó nhanh
chóng tan
biến. Khi mục kiến như vậy một thời gian ta cảm nghe kinh sợ. Đó
là Tuệ
Kinh Sợ. Kế đó ta thấy mọi sự vật đều hư hoại, tan rã một cách rất
hiểm
nguy. Đó là Tuệ Khổ Tâm. Rồi ta tiếp tục hành thiền, cảm nghe vô
cùng chán
ngán với đời sống. Đó là Tuệ Chán Nản.
"Vì thấy tất cả mọi sự vật
đều hoại diệt
như vậy vị đệ tử đã được giáo huấn đầy đủ của bậc Thánh Nhân xem
thường
sắc, xem thường thọ, xem thường tưởng v.v..."
-- Majjhima Nikàya, Trung A Hàm i,
137;
Samyutta Nikàya, Tạp A Hàm ii, 68
Trước đây ta xem cơ thể vật chất
nầy là
một thích thú. Ngồi hay đứng, đi đi lại lại, co tay co chân, hay
duỗi ra,
nói năng hay làm lụng, mọi việc hình như dễ dàng tốt đẹp. Ta lấy
làm thỏa
thích với tấm thân nầy, nghĩ rằng thân nầy là của ta và vững tâm
nương tựa
vào nó. Nhưng, giờ đây hành thiền, thấy nó rã rời và không còn có
thể làm
nơi nương tựa châu toàn. Nó không còn tạo cho ta thích thú, mà
thật sự là
đáng nhàm chán. Ta cảm nghe mệt mỏi.
Trong quá khứ ta đã từng hoan hỉ
thọ hưởng
những cảm giác (thọ) sung sướng của cơ thể vật chất và hạnh phúc
tinh
thần. Lúc bấy giờ ta nghĩ, "Ta rất thích thú", "Ta cảm nghe hạnh
phúc".
Giờ đây những cảm giác ấy không còn thích thú nữa. Nó rất phù du
tạm bợ,
vừa mới đến đã vội lìa. Ta nhàm chán. Ta đã từng nghĩ rằng tri
giác
(tưởng) của ta quả thật tốt đẹp. Nhưng nay thấy nó cũng vậy, vừa
phát hiện
liền tan biến. Và ta rất chán với nó. Những sinh hoạt tâm linh
(hành) mà
trong đó tâm sở "tác ý" giữ vai trò quan trọng, là chủ động của
tất cả mọi
hành động bằng thân, khẩu, ý, của ta. Nghĩ rằng, "Tôi ngồi. Tôi
đứng. Tôi
đi. Tôi hành động" là dính mắc, bám níu vào hành uẩn. Trước đây ta
nghĩ
rằng hành là tốt đẹp. Thì nay ta thấy nó cũng luôn luôn hoại diệt.
Và ta
nhàm chán. Trước kia ta thích thú suy tư. Những người mới đến đây
để hành
thiền thường có ý không hoan hỉ khi được khuyên dạy chỉ nên ghi
nhận,
không nên suy tư về điều gì. Giờ đây ta đã thấy rõ những ý nghĩ,
hay tư
tưởng, phát sanh và hoại diệt nhanh chóng như thế nào. Và ta rất
mệt mỏi
và nhàm chán nó.
Cùng một thế ấy, tất cả những gì
phát hiện
ở lục căn cũng nhanh chóng hoại diệt. Khi thấy rõ như vậy có người
ghê tởm
cùng cực. Vài người rất nhàm chán.
Đến đây hành giả khát khao
muốn dứt khoát rứt bỏ, xa lìa tất cả. Lẽ dĩ
nhiên, một khi đã quá mệt mỏi nhàm chán thì ta muốn dứt bỏ. "Nó
đến rồi
đi, đến rồi đi, không ngừng nghỉ, không có gì tốt đẹp. Ta sẽ cảm
nghe dễ
chịu hơn nếu nó hoàn toàn chấm dứt." Đó là Tuệ Muốn Giải Thoát.
Nơi mà tất cả đều chấm dứt là Niết
Bàn.
Muốn dứt bỏ, muốn giải thoát ra khỏi tất cả là mong muốn Niết Bàn.
Nếu
hành giả muốn Niết Bàn thì phải làm sao? -- Phải gia công thêm và
tiếp tục
kiên trì hành thiền. Đó là Tuệ Suy Tư.
Hành giả tiếp tục tinh tấn một
cách đặc
biệt, và những đặc tướng vô thường, khổ và vô ngã trở nên ngày
càng tỏ rõ,
nhất là đặc tướng khổ.
Sau khi suy tư ta đạt đến Tuệ Xả
Hành. Giờ
đây công trình hành thiền trôi chảy dễ dàng, không cần phải nhiều
cố gắng,
niệm vẫn suôn sẻ và vững chắc. Chỉ ngồi xuống và gom tâm. Mọi việc
tự nó
sẽ xảy diễn suôn sẻ, giống như người ta lên giây đồng hồ, không
cần phải
làm gì khác. Trong suốt khoảng một tiếng đồng hồ hành giả ngồi yên
trong
một tư thế, không cử động.
Trước khi đạt đến tuệ giác nầy ta
còn có
thể bị xáo trộn. Tâm có thể hướng về một tiếng động nào và do đó
niệm bị
xao lãng. Tâm có thể phóng đi nơi nầy nơi khác, chạy tới chạy lui
lăng
xăng, và thời tọa thiền bị xáo trộn. Những cảm giác như mệt mỏi,
nóng bức,
đau nhức, ngứa ngáy hay ho hen có thể xảy đến, và thời ngồi thiền
bị xáo
trộn. Và mỗi khi bị xáo trộn ta phải khởi lại từ đầu. Nhưng đến
giai đoạn
tiến bộ nầy mọi sự việc đều suôn sẻ tốt đẹp, không còn xáo trộn
nữa. Có
thể ta nghe tiếng động nhưng không quan tâm đến và tiếp tục ghi
nhận. Bất
luận điều gì xảy ra ta đều ghi nhận mà không bị khuấy động, không
còn
phóng tâm, Những sự vật tốt đẹp có thể phát hiện nhưng không vì đó
mà ta
thỏa thích hoặc để cho những cảm giác thích thú phát sanh. Gặp
phải những
hoàn cảnh bất hạnh cũng vậy, ta không vì đó mà âu sầu, khổ sở hay
lo sợ.
Những cảm giác khó chịu như mệt mỏi, nóng nực, hoặc đau nhức ít
khi xảy
ra. Nếu có đi nữa cũng không đến nỗi không chịu được. Chính niệm,
hay tâm
ghi nhận, của ta khắc phục những cảm giác ấy. Đến giai đoạn nầy ta
không
còn nghe ngứa hay ho nữa. Vài chứng bệnh trầm trọng hơn đôi khi
cũng được
suy giảm hoặc tiêu trừ luôn. Còn những cảm giác đau đớn, dầu không
thể
chữa trị bằng cách chú tâm ghi nhận nhưng vẫn có thể được thuyên
giảm phần
nào. Ta có thể ngồi như vậy trong một tiếng đồng hồ mà không ngừng
ghi
nhận. Vài người có thể liên tục ghi nhận trong suốt hai, hoặc ba
tiếng
không gián đoạn mà không cảm nghe mệt mỏi. Hành giả mãi ghi nhận
như vậy
mà không để ý biết thời gian qua.
Giữa một ngày hè nóng nực như vầy,
nếu đã
chứng ngộ tuệ giác nầy thì quả thật là dễ chịu. Trong khi mọi
người không
ngớt than van rên rỉ vì khí trời oi bức thì vị hành giả đã tiến
đến tuệ
nầy không mảy may hay biết gì. Cả một ngày trời trôi qua dường như
trong
nháy mắt. Phải chăng tuệ minh sát quả thật là tốt đẹp! Tuy nhiên,
vẫn còn
nhiều trở ngại hiểm nguy như quá lo âu, ham muốn, hoặc dính mắc,
luyến ái.
Nếu những ô nhiễm nầy mà không được tận diệt ắt không thể có tiến
bộ. Một
khi đã trọn vẹn loại trừ được nó là ta đã bước vào Thánh Đạo và
chứng ngộ
tuệ giác của Con Đường. Bằng cách nào?
Thánh Đạo
Mỗi lần ghi nhận, "phồng, xẹp,
ngồi, đụng,
thấy, nghe, co vào, duỗi ra v.v..." ắt có sự cố gắng. Đó là Chánh
Tinh Tấn
của Bát Thánh Đạo (hay Bát Chánh Đạo). Rồi ta niệm. Đó là Chánh
Niệm. Rồi
có sự gom tâm niệm vào một điểm, thấm sâu vào đối tượng được ghi
nhận. Đó
là Chánh Định. Ba chi -- Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định
-- hợp
thành giai đoạn "Định" của Con Đường. Rồi có sự áp đặt các tâm sở
cùng với
tâm định vào đối tượng được ghi nhận. Đó là sự áp đặt các tâm sở
trên đề
mục. Theo Bản Chú Giải, đặc tính của nó là "bốc dở" các tâm sở
lên, và đặt
vào đề mục (abhiniropana-lakkhana). Đó là Chánh Tư Duy. Rồi có sự
nhận
thức rằng đối tượng được theo dõi là di động, thấy, hay biết, vô
thường
v.v... Đó là Chánh Kiến. Chánh Tư Duy và Chánh Kiến hợp thành giai
đoạn
"Tuệ" của Con đường.
Ba chi còn lại của Bát Thánh Đạo
là Chánh
Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng hợp thành giai đoạn "Giới" của Con
Đường,
đã được hành giả thanh lọc trước khi hành Thiền Minh Sát. Không
thể có tà
ngữ, tà nghiệp và tà mạng trong đối tượng được ghi nhận. Như vậy,
trong
khi ghi nhận hành giả cũng làm cho các chi trong giai đoạn "Giới"
của Con
Đường trở nên toàn hảo.
Tám chi của Bát Thánh Đạo đều có
mặt trong
mỗi chặp tư tưởng hay biết. Tám chi nầy hợp thành con đường minh
sát, phát
sanh khi hành giả diệt trừ tâm bám níu. Ta phải chuẩn bị dần dần
con đường
minh sát nầy cho đến khi thành đạt Tuệ Xả Hành. Khi Tuệ Xả Hành
được khai
triển đủ thuần thục và vững mạnh, hành giả bước vào Thánh Đạo. Nó
xảy diễn
như thế nầy:
Khi Tuệ Xả Hành đã được triển khai
đầy đủ
thuần thục và vững mạnh, tâm niệm của hành giả càng sâu sắc và bén
nhạy.
Trong khi niệm dễ dàng và thâm sâu như vậy thì bỗng nhiên hành giả
rơi vào
trạng thái an lạc của Niết Bàn. Quả thật rất kỳ diệu. Trước đây ta
chưa
bao giờ biết. Ngay lúc vào trạng thái ấy ta cũng không thể nghĩ
bàn. Chỉ
sau khi vào đến rồi ta mới bắt đầu suy tư. Ta nghĩ suy vì thấy đó
là bất
thường. Đó là Tuệ Suy Tư. Rồi chừng đó ta hiểu biết những gì đã
xảy ra. Đó
là chứng ngộ Niết Bàn xuyên qua Thánh đạo. Như vậy, nếu muốn chứng
ngộ
Niết Bàn điều trọng yếu là phải gia công vượt qua khỏi bám níu.
Với người
thường, tâm bám níu phát hiện ở mọi nơi: trong sự thấy, sự nghe,
sự xúc
chạm. sự hay biết. Họ bám níu vào những gì mà họ nghĩ là thường
còn, hạnh
phúc, là tốt đẹp, là linh hồn trường cửu, là tự ngã, là con người.
Ta phải
gia công nỗ lực vượt thoát ra khỏi mọi bám níu. Gia công nỗ lực có
nghĩa
là hành thiền, niệm bất luận gì phát hiện, bất luận gì được thấy,
nghe,
được xúc chạm, hay được nghĩ đến. Nếu liên tục hành thiền như vậy
ta sẽ
không có sự bám níu, Thánh Đạo phát hiện, dẫn đến Niết Bàn. Đó là
tiến
trình của Con Đường.
Tóm Lược
* Tuệ minh sát triển khai
như thế nào?
-- Tuệ minh sát được triển khai
bằng
cách hành thiền, niệm ngũ uẩn.
* Tại sao niệm ngũ uẩn?
Niệm vào lúc nào?
-- Niệm ngũ uẩn mỗi khi ngũ uẩn
phát
hiện, để chúng ta không bám níu vào nó (thủ).
-- Nếu không niệm danh và sắc
(tức ngũ
uẩn) ắt có bám níu phát sanh.
-- Bám níu vào danh và sắc vì
nghĩ rằng
nó thường còn, tốt đẹp, là tự ngã.
-- Nếu liên tục niệm danh và sắc
ắt mọi
bám níu chấm dứt.
-- Ta sẽ thấy rõ rằng tất cả đều
vô
thường, khổ và chỉ là những tiến trình luôn luôn trôi chảy.
-- Một khi bám níu chấm dứt, Con
đường
sẽ phát hiện và dẫn đến Niết Bàn.
Đó là những thành phần của
Thiền Minh Sát.
- HẾT -
-ooOoo-