Bài kệ thứ 46 - 50
KỆ THỨ 46
Nhận diện để chuyển hóa
Nội kết và tùy miên.
Khi tập khí còn,
Quả chuyển y hiển hiện.
Trước hết có danh từ nhận diện. Là nhận diện sự có mặt của một hiện tượng đang xảy ra. Sự nhận diện này bắt đầu bằng chánh niệm. Nhờ có chánh niệm chúng ta thấy rõ từng tâm hành đang diễn tiến trong ta. Sự nhận diện này không mang tính chất trách móc, hay chào đón vui vẻ, không khen, không chê và không phán xét. Đây chỉ là một sự nhận diện đơn thuần, tức là biết nó có mặt đó thôi, không đem theo sự vồ vập hay xua đuổi. A tôi biết anh đứng đó, anh có đó. Nhận diện vô tư như vậy thôi. Reconnaissance pure et simple. Mere recognition.
Ví dụ khi mình giận và mình có chánh niệm thì chánh niệm làm chuyện nhận diện cái giận của mình: “A mình đang giận đây”. “A mình vẫn còn giận đây”. Ví dụ như mình có sự ganh ghét. Nhận diện: “A tôi đang ganh tị đây”. Đó là việc đầu tiên của chánh niệm. Nhận diện đơn thuần, không theo phe và cũng không chống đối. Không chào đón mà cũng không xua đuổi. Nó phát xuất từ cái nhìn bất nhị. Tại vì cái đối tượng nhận diện đó không phải là kẻ thù không là ai khác mà là chính mình. Mình nhận diện nó như là nhận ra con của mình, em mình, bạn mình hay là chính bản thân mình. Khi mà mình có hiện tượng sợ trong mình thì mình nhận diện cái sợ đó. Khi mình có cái buồn thì mình nhận diện buồn. Mà mình không nói rằng cái sợ cái buồn là xấu, cái vui là tốt. Chỉ nhận diện đơn thuần thôi. Khi mình thở vào mà ta có chánh niệm thì ta nhận diện hơi thở vào. Tôi đang thở vào và biết rằng hơi thở vào có đó. Đó là nhận diện hơi thở mà không phán xét hơi thở đó ngắn quá, không ráng làm cho nó dài hơn? Đó không phải là nhận diện đơn thuần. Hơi thở vào dài thì nhận diện đây là hơi thở vào dài. Tất cả những gì xảy ra cho thân thể, cho cảm thọ, cho tri giác, cho những tâm hành và cho nhận thức của mình, mình đều nhận diện hết. Mình không để cho sự kiện nào của thân thể hay không để cho một tâm hành nào lọt khỏi chánh niệm mình.
Trong kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm tức là Kinh Niệm Xứ, ta thấy có bốn lãnh vực đê thực tập. Lĩnh vực thứ nhất là Thân, lĩnh vực thứ hai là Thọ, thứ ba là Tâm, thứ tư là Pháp. Thân là sắc, thọ là thọ. Còn tâm là tất cả những tâm hành của mình từ tri giác đến năm mươi mốt tâm sử trừ thọ ra thì thọ để được riêng một khuôn khổ.
Quán thân trong tâm. Contemplation of the body in the body. Quán thọ trong thọ. Contemplation of the feeling in the feelings. Quán tâm trong tâm. Contemphation of Mind in Mind. Tâm này gồm 50 tâm sở. Tại sao 50? Tại vì thọ hết là một tâm sở rồi. Năm mươi tâm sở này nó nằm trong tám tâm vương. Tám tâm vương là tám dòng sông và năm mươi mốt tâm sở là tất cả nước trong tám dòng sông trên.
Quán pháp trong pháp. Pháp là đối tượng của tâm. Thành ra (contemplation of Mind in tho Objects of Mind), Tâm và Pháp đây tuy hai mà một vì tâm thì luôn luôn có phần chủ thể và đối tượng. Và Tâm là kiến phần và pháp là tướng phần của tâm. Cái này không rời cái kia mà có. Pháp bất ly tâm. Chữ pháp này dịch là Objects of Mind. Vạn pháp có nghĩa là mười ngàn đối tượng của tâm thức. Tâm là Mind nhưng mà Mind và Objects of Mind không thể tồn tại độc lập được. Tâm và Pháp không thể tách rời và tồn tại độc lập với nhau được. Đây là bốn lĩnh vực của bốn sự quán niệm. Ta biết rằng chia làm bốn như vậy nhưng sự thật cũng không chia ra như vậy một cách rành rọt được vì Thân cũng là Pháp. Pháp là đối tượng của tâm. Thân từ tâm mà phát hiện. Thọ cũng từ tâm mà phát hiện. Vì vậy cho nên trong bốn lĩnh vực đó. Lĩnh vực nào cũng có cái tương tức hết. Lĩnh vực nào cũng có cái chứa đựng ba cái kia. Bất cứ hiện tượng thuộc thân, thuộc thọ, thuộc tâm hay thuộc pháp nào xảy ra trong giây phút hiện tại, mình cũng nhận diện hết. Nhận diện là công việc chính của người tu hành. Công việc nhận diện là công việc của người lính gác cửa. Hễ có người đi vào là mình biết ngay người đó đi vào. Hễ có người đi ra thì mình biết là người đó đang đi ra. Biết nhưng không ngăn cản.
Khi nào ta nói chuyện hộ trì sáu căn. Chúng ta nói đến chuyện giữ cửa thì phải biết ta có sáu cửa: mắt, tai, mũi, lưới, thân, và ý. Thành trì có sáu cửa nhưng chúng ta không để cho lính gác ở các cửa thì nguy hiểm. Thành trì với sáu cửa đó mà không có lính gác thì hành trì đó có thể bị xâm nhập. Sáu giác quan của chúng ta mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý cần phải thắp lên ngọn đèn chánh niệm để ngọn đèn chánh niệm đó có thể nhận diện được “A tôi thấy cái đó” “A tôi nghe cái đó” “A tôi nếm cái đó”. Như vậy thì nó anh minh vì chánh niệm là ánh sáng nó trấn ở những cửa đó.
Ta có bài hát: “ Mắt là đại dương sâu với những ngọn sóng ngầm, với những loài thủy quái với những trận cuồng phong, thuyền tôi đi trong chánh niệm xin nguyện nắm vững tay chèo để không đắm mình trong biển sắc mênh mông”. Đó là hộ trì nhãn căn. Cùng hơi thở nhiệm mầu tôi hộ trì nhãn căn, giữ gìn cho anh và giữ gìn cho tôi, để cho ngày hôm nay vẫn còn tươi sáng và để ngày mai chúng ta sẽ vẫn còn có nhau. Đó là hộ trì nhãn căn.
Nhĩ căn cũng vậy. “Tai cũng là đại dương với những đợt sóng ngầm, với những loài thủy quái với những trận cuồng phong, thuyền tôi đi trong chánh niệm xin nguyện nắm vững tay chèo để không đắm chìm trong biển tiếng mênh mông”. Và Mũi cũng vậy, Lưỡi cũng vậy, Thân cũng vậy Ý cũng vậy với những ngọn sóng ngầm, với những loài thủy quái, với những trận cuồng phong, thuyền tôi đi trong chánh niệm xin nguyện nắm vững tay chèo để không đắm mình trong biển hương, biển vị, biển xúc mênh mông”.
Tu là người biết hộ trì sáu căn. Hộ trì sáu căn là một phương pháp rất nhiệm mầu mà Bụt cứ nói đi nói lại hoài. Người tu mà không biết thắp ánh sáng chánh niệm để hộ trì sáu căn thì không phải là người tu. Ngày xưa anh Võ Đình Cường có viết một bài báo trong báo Giác Ngộ: “Một ông Thầy tu không tu” tức là ông Thầy tu không có hộ trì sáu căn. Vậy thì trong lĩnh vực của thân, mỗi khi có việc xảy ra trong thân mình thì mình nhận diện. Ví dụ mình nói: “Tôi đang thở vào thì biết rằng tôi đang thở vào” thì đó là một hiện tượng thuộc về thân. Khi chúng ta cúi xuống, đi, đứng, nằm, ngồi, hành động, khoác áo Tăng Già Lê, ta rửa mặt mà ta có chánh niệm, ta nhận diện được những gì đang xảy ra trong thân thể ta thì ta có thể nói là ta đang “quán thân trong thân” là nhận diện về thân. Còn nếu mà chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc, rửa mặt nấu cơm mà chúng ta không biết là chúng ta đang làm những việc đó thì chúng ta là một ông Thầy tu không tu. Chúng ta phải hộ trì sáu căn.
Khi chúng ta có một cảm thọ như buồn, vui, giận, sợ, ghét, thất vọng hay cau có thì những hiện tượng đó khi phát hiện thì chúng phải được nhận diện. Nếu chúng không bị phát giác và nhận diện thì chúng có thể hoành hành ta mà ta không biết (Ví dụ như mình trở nên người cau có gắt gỏng, la em la anh, nói nặng nhẹ với người mình thương mà không biết). Còn nếu chúng được nhận diện thì nó sẽ nằm hoặc là ngưng tăng trưởng theo chiều hướng có thể chuyển hóa. Nếu mà chúng ta biết như vậy thì chúng ta sẽ không bao giờ than phiền là ta không có thì giờ để tu. Tại vì trong khi làm việc đi đứng nằm ngồi nói cười chúng ta có thể phát triển chánh niệm tức là phát triển sự nhận diện. Nhận diện tất cả những hiện tượng về thân, về thọ, về tâm, về pháp thì chúng ta biết tu rồi. Bữa nọ có một nhà triết học tới hỏi Bụt là các Thầy trong tu viện này tu học như thế nào. Nói cách khác các Thầy làm cái gì? Sống như thế nào? Bụt mới nói thì chúng tôi cũng đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, rửa bát, cũng quét nhà. Ông triết gia kia nói: Như vậy thì có khác gì người thường đâu? Người không tu người ta cũng đi, đứng, nằm, ngồi, quét nhà, ăn cơm, rửa bát như mấy Thầy vậy? Bụt nói: Có khác chứ, tại vì chúng tôi làm những chuyện đó, chúng tôi có chánh niệm, chúng tôi biết nhận diện và hộ trì sáu căn. Câu nói như vậy thật đơn sơ nhưng cũng thật căn bản. Thành ra mình đừng có ngại là tu ở trong chùa mình phải làm việc nhiều quá và không có thì giờ tu tập. Tại vì mình làm việc với chánh niệm và có sự thanh thản đó là tu. Chỉ sợ mình làm quá mau và muốn làm cho mau xong việc nên đánh mất chánh niệm khi làm mà thôi. Và sự chuyển hóa có thể xảy ra khi có sự nhận diện. Tại vì có nhiều loại chuyển hóa, khi có chuyển hóa để nó lớn hơn và trở thành quan trọng hơn. Có khi chuyển hóa để nó biến chuyển và trở thành lợi lạc hơn. Khì mà ta ngắm một cây tùng, ta có thể có lạc thọ và hưởng được màu xanh, cái tính chất tươi mát của cây tùng. Nhưng nếu mà ta tăng cường năng lượng chánh niệm trong ta khi ta ngắm cây tùng, thì cái niềm vui đó, cái nhẹ nhàng đó, cái lạc thọ đó nó tăng gấp bội. Mình nhận diện cây tùng nhận diện cái lạc thọ mình có đối với cây tùng. Thì tự nhiên cây tùng đó nó sáng rỡ lên. Đó là chuyển hóa theo cái chiều phát triển. Ở những xứ như Nhật hay Gia Nã Đại khi mùa thu thì rừng đẹp lắm và người ta tổ chức những chuyến như hành hương vậy để đi coi lá. Gặp tuần đổ lá, gặp tuần coi lá. Cố nhiên là ta đóng tiền và đi xe buýt với những người khác để coi lá như những người khác. Nhưng mà lá đẹp nhiều hay ít, niềm vui lớn hay nhỏ là tùy theo cái trình độ thanh thản và tự do của chúng ta. Nếu tâm chúng ta thanh thản, chánh niệm chúng ta lớn thì chúng ta có khả năng thưởng thức được cái đẹp của rừng thu, có thể bằng mười lần, bằng trăm hay ngàn lần hơn những người ngồi trên chiếc xe với chúng ta cũng trả tiền như chúng ta và cùng nhìn với chúng ta. Nhưng mà họ nhìn tới đâu họ cũng thấy nỗi buồn muôn thuở của họ mà thôi. Đó là một thứ chuyển hóa. Có thể cùng một khung trời sử dụng một số tiện nghi như nhau nhưng có người thì an lạc hạnh phúc hơn những người khác. Có thể trong đại chúng tu tập, chúng ta cùng được hưởng một thứ phòng ốc, một thứ mái nhà, một thứ trà, một thứ cơm, một thứ tăng thân nhưng có người thì hạnh phúc nhiều hơn có người hạnh phúc ít hơn. Đó là tại vì khả năng chánh niệm, tại vì cái trình độ tự do trong tâm của chúng ta, cái giới hạn tự do trong tâm ta nó rộng lớn hơn. Vì vậy cho nên chánh niệm là căn bản và chánh niệm trước hết là để nhận diện. Nếu cây tùng đẹp mà mình không có nhận diện cây tùng thì cây tùng có cũng như không, cây tùng đẹp cũng như là không đẹp. Cây tùng nằm trong phạm vi của pháp. Niềm vui đó nằm trong phạm vi của tâm. Sự đau khổ hay hạnh phúc nằm trong phạm vi của họ. Vì vậy cho nên chúng ta chỉ thực tập hộ trì sáu căn được khi ta thực tập chánh niệm. Khi mà chúng ta biết nhận diện thì tự khắc chúng ta biết đường đi. Dù không chủ ý, khi nhận diện được thì ta đã phân biệt được rồi, dù ta không muốn chú ý thì khi nhận diện xong rồi ta cũng biết ngay được cái đang xảy ra là lành hay dữ, lợi lạc hay không lợi lạc. Lợi lạc gọi là thiện (bienfaisant, wholesome), không lợi lạc là bất thiện (malfaisnt, unwholesome). Khi nhận diện ra thì biết. Khi Tâm ta có một nỗi buồn dâng lên, ta nhận diện: “đây là cái buồn” và mĩm cười với cái nỗi buồn đó. Mỉm cười là đủ rồi, tại vì nụ cười đó chứng tỏ rằng chúng ta nhận diện được nỗi buồn và chúng ta biết rằng cái buồn có thể không lợi lạc, có khi lại lợi lạc. Tùy theo cách sử dụng khi nỗi buồn có thể trở thành chất liệu của niềm vui sau này. Không hẳn là nỗi buồn luôn luôn không lợi lạc. Cũng như đi ngoài trời lạnh, ta biết rằng cái lạnh không dễ chịu. Nhưng khi bước vào bếp thì cái ấm sẽ dịu hơn nhiều. Nhờ cái lạnh chúng ta tiếp nhận cái ấm của nhà bếp rất là sâu sắc. Mùa xuân và mùa hè nhà bếp rất ấm mà chúng ta đau có sướng gì mấy? Tại vì không có cái lạnh sau lưng để chúng ta trân quý cái ấm. Nhận diện để chuyển hóa. Có những nỗi lo, nỗi sợ nó làm cho ta khổ. Chỉ cần nhận diện những nỗi lo sợ và mỉm cười với chúng ta thì là chúng ta đã bắt đầu chuyển hóa liền. Giống như “buồn ơi ta chào mi” vậy. Trong khi có những nội kết và tùy miên. Nội kết là những khối vui buồn khổ đau được kết tụ trong lòng ta, những khối mà không có tính cách lợi lạc. Khi mà nó được kết thành cục thì nó không được lành mạnh lắm. Những gì lành nó không kết thành cục. Nội kết là những cái rút thắt trong tâm của chúng ta. Kết là nó thắt lại. Nếu mà ta không hộ trì sáu căn thì thế nào cũng có nội kết. Đó là lời dạy của Bụt. Khi con mắt chạm vào sắc mà phát sinh nhãn thức đó. Nếu không hộ trì nhãn căn thì thế nào cũng bị nội kết. Ban đầu chúng ta không ghiền thuốc, ghiền rượu và ghiền ớt. Khi mà lưỡi chúng ta chạm vào những đối tượng là hương trần và vị trần mà chúng ta có chánh niệm thì chúng ta có nội kết. Nội kết nó tới từ từ. Đó là những nội kết êm ái. Nó tới từ từ và thường là chúng ta không biết là ta bị nội kết hồi nào tại vì nó tới từ từ. Chứ nó tới cái rầm thì chúng ta biết ngay. Chúng ta ghiền thuốc, ghiền rượu hồi nào chúng ta không biết. Chúng ta ghiền cái người đó hồi nào chúng ta không biết. Nội kết nó len lén đi vào. Nếu mình có hộ trì sáu căn, khi vừa có một cảm thọ êm ái dịu dàng là mình biết liền. Mình biết rằng mình đang có một cảm thọ êm ái dịu dàng khi cầm lên một ly rượu bia hay một điếu thuốc hay là một người nào đó mà đáng lý không nên gần gũi lắm. Biết thì chánh niệm và biết nếu cảm thọ êm ái nầy cứ tiếp tục, thì mình sẽ đưa tới đâu? Hễ có chánh niệm có nhận diện thì không đến nỗi có chuyện vướng mắc mà không biết gì cả, cho đến khi mình giật mình là đã có cục nội kết lớn rồi. Như Xuân Diệu nói về tình yêu:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Tức là khối nội kết êm ái đi vào ta lúc nào ta không biết. Nhưng mà nội kết êm ái luôn luôn đưa tới chỗ không êm ái. Tại vì mình ghiền rồi thì mình sẽ khổ về cái ghiền của mình. Về phương diện nội kết không êm ái. Người ta nói gì mình giận, thấy một cái gì mình buồn. Khi nào cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm của mình nó gây ra một nút thắt trong lòng mình thì gọi là một nội kết. Samyojana. Ngày xưa dịch là nội kết. Giận một lần, giận nhiều lần, buồn nhiều lần thành những cục nội kết giận và buồn thật lớn. Sau đó lại dịch ra kết sử. Sử có nghĩa là có tác dụng sai khiến sử mình, sai sử một cách âm thầm. Ma đưa lối, quỷ dẫn đường. Cứ tìm những lối đoạn trường mà đi. Là tại vì có cục nội kết. Lạ quá tại sao cứ đi về phía đó? Tại vì có ma quỷ nó dẫn đường. Ma quỷ đó nó không có nằm ở ngoài. Nó nằm trong alaya thức của mình dưới hình thức những cục nội kết, những kết sử chứ có gì đâu? Ngày xưa khi học trò đi học bằng xe đạp thì mình lựa con đường gần nhất để đến trường nhưng nếu mình có nội kết êm ái với cô nào đó thì nhà cô có dù hơi xa mình cũng đi sớm chừng mười lăm phút để đi cái đường đó. Dù đi mà không gặp cũng cứ đi. Đi đường đó mình thấy yên hơn tại vì mình bị sai sử. Đôi khi vừa ra khỏi nhà chưa tính toán gì cả thì cái chân cũng đạp về hướng đó. Tại vì mình bị sai sử. Tham, sân, si, mạn, nghi, kiến đều là những nội kết cả. Kiến là một trong những căn bản phiền não Thân kiến, biên kiến, tà kiến và giới cấm thủ kiến. Thân kiến là thói quen nhận ra cái thân này là mình. Chỉ cái thân này mới là mình thôi.
Biên kiến thì quen theo phe bên này là mình, bên kia không phải là mình. Sư chú này là bạn mình Sư chú kia không phải là bạn mình. Chia biên giới cắt xén rành rọt. Tà kiến là những cái nhìn sai lạc. Kiến thủ là nắm chặt cái thấy, cái nghe của mình, cho những cái thấy, cái nghe cái hiểu của mình là chân lý và không chấp nhận những quan điểm khác. Attachment to views. Khi kẹt vào kiến thủ thì không tiến bộ nữa. Mình cho là mình nắm được sự thực rồi. Nhưng sự thực thì không thể cho mình nắm đâu. Giới cấm thủ kiến kẹt vào cái giới. Giới cấm đặt ra để hành trì để giúp mình vượt những tai nạn khổ đau. Nhưng đôi khi mình bị vướng vào hình thức và không nắm được bản chất của giới. Giới cấm này đôi khi là những tập tục lâu đời, những tabouts. Ví dụ như bên Ấn mình phải quý trọng con bò không được quyền đụng tới nó. Đôi khi nó lung tung húc trúng con nít chết mình không đụng tới nó được. Hay là khi trẻ con mình nó ấm đầu nó sốt, các bà mẹ quê cứ nghĩ tại nó đi chơi ở gàn gốc đa rồi vạch quần đi tiểu ở dưới gốc đa cho nên ông bà quở. Thành ra thay vì cho con uống aspirine hay quinine thì bà mẹ lại đi mua trầu cau xôi chuối tạ lỗi vơi thần gốc cây đa. Đó là những cái thuộc về giới cấm thủ kiến. Giới cấm thủ là kẹt vào những cái kiêng kỵ và kẹt cả ngay những giới cấm nữa. Như vậy thì ta tỏ ra không thông minh và không thấy được bản chất của giới nữa. Cái khối kia nó nằm yên trong alaya thức nhưng nó phát hiện và sai sử chúng ta. Thình thoảng nó phát hiện. Thường thường nó nằm yên dưới đó nhưng nó sai sử ta. Đôi khi chúng ta hành động nói năng, hành sử như những tên nô lệ của những cục kết sử bên dưới. Đôi khi chúng ta nói rằng: Trời ơi nó mạnh hơn cả tôi nữa. C’est plus fort que moi. It is stronger than me. Mình muốn đỏ mặt tía tai đấm bàn đấm ghế nhưng cái đó nó mạnh hơn mình nó vẫn khiến cho mình đỏ mặt tía tai đấm bàn đấm ghế. Nó là ai? Nó là kết sử. Mình thua liểng xiểng. Cho nên mình phải nhận diện nội kết của mình, nó có đó và nó đang tìm cách sai sử mình. Và nếu mình có chánh niệm thì mình có cơ hội nhận diện được cái nổi ghét của mình và tiếp tục trôi lăn theo buồn, thương, giận, ghét. Nếu sống có chánh niệm thì cảm thọ không dễ chịu kia vừa dấy lên là mình nhận diện liền. Tôi có một khổ thọ khi nhìn thấy người nầy. Tôi nhận diện nó. Nếu mình có thói quen tu tập thì mình không để cho những cảm thọ đó lặn xuống mà quán sát sâu thêm. Nhận diện rồi mình nhìn thêm sâu hơn thì có thể mình khám phá ra rằng người đó nó có những đường nét hơi giống với một người đã làm mình đau khổ trong quá khứ. Cho nên vừa trông thấy là mình mất cảm tình liền dù ông ta chưa nói gì làm phiền lòng mình hết. Vừa thấy đã mất cảm tình liền và con ma nội kết trong mình nó ló đầu lên sai sử mình. Khi thấy được điều đó thì mình giải thoát liền lập tức. Mình có thể tới nói chuyện với người ấy mà không có vấn đề với ba mình. Mình có nội kết với ba. Và khi tới chùa mình ghét Thầy tại vì mình thấy có vài cái hơi giống ba. Đôi khi ở trong chùa thì Thầy thế nào cũng có một lượng uy tín nào đó, cũng có sự kính trọng của mọi người. Cái nầy sao giống ba mình quá thì mình đâm ra ghét Thầy. Nhưng nếu mình nhận diện ra “A đúng rồi, mình không có cảm tình với Thầy tai vì mình có nội kết với ba, nhưng mà Thầy không phải là ba và mình được giải thoát và giữa Thầy và mình không có vấn đề nữa. Mình có thể hưởng được sự có mặt của Thầy và Thầy cũng hưởng được sự có mặt của mình. Đó là sự giải thoát nhỏ. Sự giải thoát đó có được là do công phu nhận diện. Hay là mình thấy một chàng trai hay một cô gái mà tự nhiên mình có cảm tình liền. Đôi khi chàng trai đó có những nét hao giống ba mình mà mình rất thương hay cô thiếu nữ đó có nét tương tợ như mẹ của mình mà mình thương mẹ lắm nên mới gặp là thích liền. Mình có cảm tình với một người tóc dài trong quá khứ thì khi mình gặp một cô tóc dài trong quá khứ thì khi mình gặp một cô tóc dài mình có cảm tình với cô này ngay. Khi mình thực tập nhận diện được rồi thì mình có thói quen là khi nhận diện được rồi thì mình theo đuổi để nhìn cho kỹ cái đó. Cố nhiên là mình dùng quán chiếu để nhìn kỹ nhìn sâu vào cái đó thì thế nào mình cũng hiểu. Mà hiểu thì được giải thoát. Và như vậy thì sự nhận diện đó có giúp cho mình hộ trì được sáu căn của mình, mình giữ được phần tự do độc lập của mình, mình không bị cái kia nó len chèn nó tới xâm chiếm mình dù cái kia là cái thương hay cái ghét
KỆ THỨ 47
Phút hiện tại thu nhiếp
Quá khứ và vị lai
Bí quyết của chuyển y
Nằm trong giây hiện tại.
Hai câu đầu là giáo lý của Hoa Nghiêm. Tại vì trong kinh Hoa Nghiêm chúng ta được học được rằng: Cái một nó chứa đựng cái tất cả và thời gian nó chứa đựng không gian. Cái “Cái” mà nó nằm trong tầm tay là cái giây phút hiện tại. Điều này là một điều kiện căn bản mà tất cả chúng ta có thể thấy được, nắm được. Cái “Cái” mà nó nằm trong cái tầm với của chúng ta là giây phút quá khứ và những giây phút tương lai. Tại vì theo giáo lý này phút hiện tại nó thu nhiếp được cả quá khứ và vị lai. Và hơn nữa, nếu mà thời gian nó chứa đựng không gian, như là giáo lý Hoa Nghiêm cho chúng ta thấy, thì giây phút hiện tại nó chứa đựng được cả cái ở đây và không gian ở những chỗ khác. Chúng ta đứng trên mặt đất mà chúng ta an trú được trong giây phút hiện tại thì miếng đất dưới chân chúng ta là cái mà ta tiếp xúc được. Nhưng mà miếng đất đó không có biên giới, tuy rằng chúng ta đứng ở Loubes Bernac nhưng mà chúng ta thấy rằng miếng đất đó nó dính liền với cả lục địa Âu châu, thành chúng ta có thể thở vào và chúng ta thấy chúng ta đứng trên cả Âu châu. Thành ra không phải chúng ta chỉ tiếp xúc được với một mảnh đất nhỏ Loubes mà chúng ta tiếp xúc luôn được với cả Âu châu rộng lớn. Hơn nữa, nếu chúng ta an trú vững chãi trong giây phút hiện tại thì chúng ta thấy chúng ta đạp lên trên cả trái đất và tất cả chúng ta thấy rõ ràng rằng là trái đất nó tồn và cái chân chúng ta nó đặt lên trên cả trái đất tròn. Và như vậy không chỉ giây phút hiện tại nó chứa đựng cái ở đây mà nó chứa đựng tất cả. Thành ra nước Trung Hoa, nước Việt Nam, nước Nhật Bản đều dính vào trong cái bàn chân của chúng ta ở trong giây phút đó. Và vì vậy cho nên nắm được giây phút hiện tại và chúng ta nắm được tất cả mọi giây phút và chúng ta nắm được cái ở đây và cái ở kia, và cái ở kia nó dính liền với cái ở đây. Có một trường phái trị liệu tâm lý nó chuyên chú về vấn đề đi tìm quá khứ, mở cho được cái cánh cửa của quá khứ để tiếp xúc được với những cái gì nó nằm ở trong quá khứ thì mới trị liệu được. Đó là trường phái Phân tâm học (Sycho Analisic). Theo trường phái đó là trong thời thơ ấu hay là trong quá khứ chúng ta đã có những đau khổ vì những sự xâu xé, vì những sự chống đối giữa những khuynh hướng khác nhau trong nội tâm mà chúng ta không giải quyết được. Chúng ta có nội kết - nói theo danh từ Phật học - từ hồi thơ ấu, những cái đau buồn, những giận hờn, những xâu xé, những chống đối, những mâu thuẫn ở trong nội tâm của chúng ta, nhưng tại vì ý thức của chúng ta không chịu đựng được những đau khổ đó cho nên nó tìm cách đè nén những đau khổ đó vào trong cái vô thức (unconsicious), nó tương đương với một phần của thức alaya. Cái vùng ý thức không chịu đựng được sự đau khổ, cho nên nó âm thầm, nó đẩy lùi những niềm lo lắng, khổ đau đó ra khỏi cái giới hạn của nó. Và vì vậy cho nên tất cả những cái đau buồn đó, những cái mâu thuẫn đó bị đè nén ở trong cái vùng vô thức. Và những cái bị đè nén đó luôn luôn tìm cách trỗi dậy, nó biến hình và nó sai sử cái bản thân ta, cái ý ta và cái miệng ta nói ra những cái điều nghĩ và bất thường. Mình không có an lạc ở trong cái bản chất, mình không có an lạc ở trong cái chiều sâu. Cho nên ở cái mặt phẳng nó có những hiện tượng bất thường. Ở trường hợp nầy phái Phân Tâm Học, Freud, tìm cách làm thế nào cho chúng ta tiép xúc được với những cái đau khổ đó, cái uẩn ức, cái bị đè nén đó trong tiềm thức và vì vậy cho nên tìm cách trở về quá khứ. Và khi mà mình rọi cái ánh sáng của ý thức vào những cái vùng u uẩn của quá khứ đó rồi, mình làm cho những cái vô thức nó trở thành ra ý thức rồi thì từ từ cái bệnh của mình nó sẽ thuyên giảm. Cho nên cái phương pháp trị liệu của Phân Tâm Học là để cho chúng sinh người bệnh họ ngồi hay nằm trên một cái đi-văng rất là thoải mái và nhà phân tâm học (the analis) thì phục kích ở phía sau, tức là không để cho người đó thấy mặt, thấy mặt thì người đó mắc cở hay là có thể không chịu nói thành ra người đó ngồi đằng sau và người đó nói những câu xúi người này diễn tả ra những cái gì nó xảy đến trong đầu người đó. Nằm thoải mái buông xuôi hai tay và cứ để cho đầu óc nó tự do hễ bất cứ một cái hình ảnh nào hiện ra trong đầu thì nói cho ông ta biết, tin tưởng ông ta hoặc là có ý niệm nào hiện ra trong đầu thì nói cho phân tâm gia biết. Ông ta có thể bắt đầu nói rằng bây giờ đây ông hay bà kể lại một vài kỷ niệm thời thơ ấu ấy có thể những chi tiết trong tiềm thức nó đi ra mà cái người bệnh đó không biết là cái chi tiết đó quan trọng, nhưng mà nhà phân tâm học có thể thấy và hỏi thêm một vài câu để người kia nói ra. Hoặc là nói người kia kể lại một chuyện xảy ra gần đây, những chuyện có thể làm cho mình đau khổ, làm cho mình chú ý, những cái thất bại của mình, những cái vụng về của mình. Khi mà nói về những cái này, nói về những giấc mộng của mình hay là nói những cái gì vừa mới xảy ra cho mình thì người này có thể thỉnh thoảng tiết lộ ra những tài liệu, những cái tài liệu, những cái dữ kiện về vô thức. Tại trong khi nói như vậy, thỉnh thoảng nó lòi ra những cái tư liệu như vậy và nhà phân tâm này đứng sau lưng nhờ có sự hiểu biết thành ra nắm đầu được những con rắn ở trong vô thức. Và vì vậy cho nên hai người cùng nhau tìm về quá khứ để có thể có những cơ hội tiếp xúc được với những con rắn của vô thức, nó làm cho mình đau khổ lâu nay và những con rắn đó nó bị ém, bị chôn chặt ở dưới tiềm thức một cách rất là tự nhiên bởi ý thức. Mình nằm đó và mình không có suy nghĩ gì cả. Mình cố để cho nó tự nhiên rồi khi nào có tư tưởng gì hiện ra thì mình báo cho ông kia tại mình có niềm tin nơi ông kia, mình tin nơi ông kia, mình tin tưởng rằng ông kia có thể giúp mình được thành ra mình báo cáo cho ông kia, hay là có hình ảnh nào tự nhiên nó hiện ra mình nói cho ông kia biết. Thì công việc đó, ban đầu mình tưởng như là nó dễ nhưng kỳ thực nó không có dễ. Là tại vì có những tư tưởng có những hình ảnh nó hiện ra trong đầu mình mà mình không có dám nói cho người kia biết. Tại vì đôi khi có những hình ảnh có sỗ sàng, những hình ảnh nó xấu, nó thô tục và mình không dám nói cho người kia biết; những tư tưởng cũng vậy. Thành mình cũng có nói nhưng mà mình kiểm duyệt. Mình dùng con dao kiểm duyệt thành ra cái người kia không có thể thấy sự thật. Và càng nói sự thật chừng nào thì người kia càng có dữ kiện, càng có tài liệu để giúp cho mình có thể thấy được và tiếp xúc được với những tài liệu, những sự thật về nhận thức. Những phương pháp thường dùng mình đi tới tiếp xúc với những cái về vô thức. Bác sĩ Freud là người đầu tiên ở Tây phương khám phá ra được vô thức và có ảnh hưởng rất lớn trên lĩnh vực về văn học, về triết học về tâm lý học ở Tây phương.
Còn vô thức của đạo Bụt đã có 2600 năm nay. Bác sĩ Freud nhận thấy có những người tự nhiên bàn tay nó tê liệt, nó không có cảm giác; có những người mà tự nhiên mắt nó mờ đi không thấy nữa và tai nó điếc đi không có nghe nữa, nhưng khi mà đem tới các nhà bác sĩ thần kinh học thì họ nói rằng thần kinh thị giác, thần kinh thính giác của người này không có sao cả, không có hư hao gì cả. Thì lúc đó bác sĩ Freud mới dùng phương pháp thôi miên để cho người kia nằm trong cái vùng thôi miên của mình và bác sĩ bảo người kia nói. Thì người kia nói ra những cái điều mà trong lúc thường thường không bị thôi miên thì không có nói. Bác sĩ Freud mới nói rằng tất cả những cái đau khổ đó, cái sự điếc, cái sự câm đó, cái sự đui đó, cái sự tê liệt đó, nó từ những triệu chứng tâm thức mà ra, chứ nó không có nguồn ở những thần kinh hệ. Và người ta nói rằng bác sĩ Freud đã khám phá ra cái vùng vô thức là nhờ những phương pháp như vậy. Có những em bé, năm tuổi, bảy tuổi, tự nhiên nó điếc đặc, nó không nghe nữa. Những khi mà người ta đem ra khám thì người ta thấy thần kinh thính giác của nó vẫn còn y nguyên. Thì sự thật là tại vì những cái chuyện nói qua nói lại của cha mẹ nó làm cho nó khổ. Nó khổ, nó chịu không có được thành ra tự động nó điếc đi để khỏi phải nghe những điều cha mẹ nó nói. Đó là bệnh tâm lý. Con mắt của mình đôi khi nó bị mù để mình khỏi nhìn những gì mà mình không trông thấy hàng ngày. “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Và bàn tay của mình, đôi khi một người lớn họ lợi dụng mình, họ dùng bàn tay mình để thỏa mãn những dục tính của họ. Con nít mà bị lợi dụng về phương diện dục tính rất nhiều, nhất là Tây phương. Và vì vậy cho nên có những đứa bé tự nhiên cái bàn tay nó bị tê liệt lại, tại vì nó sợ. Nó động chạm vào cái bộ phận sinh dục của người lớn, hay là chính của nó nó cũng sợ, vì vậy cho nên nó tê liệt. Và những cái đó không có lý do về sinh lý. Nó có lý do về tâm lý. Và vì vậy cho nên cái trường phái này là cái trường phái chuyên môn đi tìm quá khứ để có thể khám phá được những cái gốc rễ của những đau khổ trong hiện tại.
Nhưng màtheo ánh sáng của Duy Biểu Học thì mình không cần phải phục kích để nắm đầu những cái quá khứ, tại vì cái quá khứ của chúng ta, chúng ta biết rằng cái giây phút hiện tại nó chứa đựng cả quá khứ và tương lai. Thì phương pháp của chúng ta là phải tiếp xúc cái giây phút hiện tại trước. Và tiếp xúc một cách đơn thuần, chưa cần phải có một cái ý niệm tìm tòi gì cả. Chúng ta phải tiếp xúc được với nó. Rồi khi mà chánh niệm nó gia tăng thì tự nhiên mình thấy được những cái yếu tố đó nó làm ra giây phút hiện tại, trong đó có những cái yếu tố về quá khứ, những cái yếu tố về tổ tiên, những yếu tố về xã hội. Tại vì cái nỗi đau buồn, nỗi lo sợ, một chúng sinh nỗi bực dọc, nó được làm bằng những chất liệu mà nếu mình tiếp xúc rồi thì mình bắt đầu trông thấy được cái bản chất của nó. Tức là những cái nguyên nhân nó từng làm bằng những chất liệu mà nếu mình tiếp xúc được một lần, hai lần, ba lần, và mình quen tiếp xúc rồi thì mình bắt đầu trông thấy được cái bản chất của nó. Tức là những cái nguyên nhân nó từng làm ra hiện tượng đó. Cho nên câu “phút hiện tại thu nhiếp, quá khứ và vị lai”, nó cho chúng ta thấy rằng con đường thực tập của chúng ta không cần phải đi tìm về quá khứ, không cần đi tìm phương pháp phân tâm học hoặc đi tìm về cái thời thơ ấu. Chúng ta hãy tiếp xúc những cái gì đã xảy ra trong giây phút hiện tại, và nếu chúng ta tiếp xúc được sâu sắc, ta tự nhiên thấy được quá khứ nó nằm trong hiện tại. Tại cái phương pháp phân tâm học nó tốn kém lắm, ít nhất cũng phải một năm hay là hai năm, có khi tới năm bảy năm, có khi tới mười năm. Mà mỗi tuần như vậy thì người bệnh phải tới gặp bác sĩ một lần, hai lần, có khi ba lần mà cả nhiều năm. Rất là tốn kém.
Gần đây ở Tây phương có trường phái Nhân Bản (Approach). Trường phái nhân bản đó nói rằng: chúng ta không cần phải đi tìm về quá khứ, chúng ta phải lo về cái hiện tại nhiều hơn. Thì cái trường phái này được được đại diện bởi vô số những nhà trị liệu trong đó có Karl Groger. Thì những chủ trương của ông ta:
Thứ nhất là hãy chú tâm đến cái hiện tại thay vì chú tâm tới cái quá khứ.
Thứ hai khi nào có một cảm thọ nào nó trổi dậy, thì chúng ta ý thức cái cảm thọ hơn là đi tìm nguyên do của nó. Thì ta thấy cái trường phái này nó đã đi sát gần với phương pháp của Duy Biểu học.
Thứ ba là sử dụng những cái nguyên liệu của ý thức, khỏi cần phải đi tìm những cái nguyên liệu của vô thức.
Thứ tư là phải chịu trách nhiệm, phải lãnh trách nhiệm lập tức về những cái gì nó xảy ra cho mình trong địa vực cảm thọ.
Thứ năm là mình lo về cái chuyện làm sao sống cho an lạc,cho hạnh phúc hơn là chữa bệnh. Không cần chữa bệnh, tìm cách lo sống bây giờ cho nó an lạc đi thì tự nhiên bệnh nó sẽ bớt.
Chúng ta thấy trường phái Nhân Bản tới gần cái phương pháp mà chúng ta thấy ở trong phương pháp thực tập của Làng Hồng. Hôm trước đây chúng ta có nói tới ba phương pháp để đối trị lại với những giống đau khổ trong quá khứ đó, thì phương pháp đầu tiên là hãy tiếp xúc những cái gì lành mạnh, tươi mát, đẹp đẽ trong cái giây phút hiện tại. Chúng ta hãy nhớ cái điều này hôm trước trả lời cái câu hỏi làm sao chúng ta có chuyển hóa được những hạt giống khổ đau trong quá khứ đó, thì chúng ta đưa ra ba phương pháp.
Phương pháp thứ nhất là chúng ta gieo trồng, tưới tẩm những hạt giống của hạnh phúc trong hiện tại, thì tự nhiên những hạt giống đó nó lớn lên, nó mạnh ra và tự động chuyển hóa những hạt giống của khổ đau. Đó là phương pháp mà bên phía trị liệu Nhân bản họ đề nghị. Nhưng mà chúng ta còn hai phương pháp khác.
Phương pháp thứ hai là thực tập chánh niệm. Thực tập chánh niệm để có thể nhận diện được những cái hạt giống đau khổ mỗi khi chúng nó biểu hiện ra. Tại vì chúng nó luôn luôn tìm cách biểu hiện ra. Có khi nó biến hình, nhiều khi nó biến hình, nó biểu hiện ra nhưng mà nó trá hình chút đỉnh. Thành ra trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc, nói chuyện, tiếp xúc thì đôi khi những cái đau khổ đó, những cái trầm luân đó, nó phát hiện. Và tại vì chúng ta có cái thói quen là sống ý thức rồi cho nên chúng ta nhận diện những cái đó. Ban đầu chúng ta chỉ nhận diện thôi, nhưng mà nhờ cái công tác nhận diện đó mà từ từ chúng ta thấy được cái bản chất của nó. Chúng ta thấy được cái căn cứ của nó. Chúng ta biết nó là cái khối nội kết đang nằm sâu xa ở trong tiềm thức của chúng ta. Và mỗi khi chúng ta nhận diện được một cái hiện tượng như vậy đó, thì tự nhiên cái hiện tượng đó nó bớt đi cái sức mạnh của nó. Nó yếu đi, danh từ Tây phương là discharge, tức là một vùng năng lượng mà mỗi khi chánh niệm vào và nhận diện nó thì tự nhiên năng lượng của nó bớt đi.
Phương pháp thứ ba của chúng ta là mời nó lên. Khi mà chúng ta đã nhận diện rồi, chúng ta biết là nó có ở dưới đó rồi thì thỉnh thoảng chúng ta mời lên để ngồi uống trà chung và nói chuyện. Phương pháp thứ ba là để chuyển hóa nó thành ra những cái nguồn năng lượng khác.
Thành ra khi mà nó trở thành hiện tại - tại vì bất cứ một cái tâm niệm nào, bất cứ một cảm thọ nào, bất cứ một tâm hành nào mà phát hiện rhì nó cũng chứa trong nó quá khứ và tương lai. Mình nhìn vào đó thấy được quá khứ, tương lai và vì vậy cho nên nắm được hiện tại là mình nắm được quá khứ. Và hơn nữa mình tiếp xúc được hiện tại thì tự nhiên đã có sự chuyển đổi ở trong đó rồi. Huống hồ là mình còn phương pháp thứ ba. Tức là khi nào mình nhận diện ra rằng ở trong mình nó có những cái như vậy thì thỉnh thoảng mình mời nó lên để mình nói chuyện với nó. Thành ra đối với những người theo trường phái gọi là Nhân Bản đó, mình có thể nói chuyện cho họ biết rằng: “Ông chú ý tới phút hiện tại là phải, tôi đồng ý. Tôi khuyến khích ông đi trên con đường đó. Nhưng mà tôi xin nói cho ông biết rằng, tuy nói nó là hiện tại nhưng kỳ thực nó chứa đựng tất cả những quá khứ ở đó. Tuy rằng ông nghĩ rằng ông phải từ bỏ cái phương pháp gọi là tìm về quá khứ của trường phái Phân Tâm Học, nhưng mà kỳ thực trong khi ông tiếp xúc với hiện tại thì ông cũng có cơ hội thấy được cái quá khứ trong hiện tại. Tại vì cái hiện tại luôn luôn chứa đựng cái quá khứ”. Đó là tương tức.
Điều thứ hai mà ông chủ trương là phải ý thức được những cảm thọ khi nó xảy ra trong tâm tư mình, điều đó chúng tôi cũng thấy rất là đúng. Tại vì phương pháp tu học của đạo Bụt là phải ý thức được những cái gì xảy ra ở trong giây phút hiện tại, trong đó có những cái cảm thọ của mình: những cái vui, cái buồn, cái bực, cái giận của mình, mình phải ý thức hết. Nhưng mà ý thức như vậy không phải là chỉ là ý thức suông. Tại vì khi mình ý thức được những cái cảm thọ đó thì có lực lượng chánh niệm nó nằm ở trong con người của mình. Và khi mà cái năng lượng của chánh niệm tiếp xúc được với năng lượng của cái cảm thọ kia thì cái cảm thọ kia nó sẽ được chuyển hóa một phần nào. Tức là nó có hiện tượng yếu đi. Mình nói thêm cho họ biết rằng chánh niệm là rất quan trọng. Năng lượng của chánh niệm là rất quan trọng. Có năng lượng của chánh niệm đó thì không những mình nhận diện được nó mà từ từ mình thấy được bản chất sâu sắc của nó. Tức là mình dùng cái phương pháp mà trong đạo Bụt gọi là quán. Quán tức là nhìn sâu và nhìn kỹ. Mà quán cũng là công trình của chánh niệm. Chánh niệm trước tiên là mà công việc nhận diện, khi quen rồi thì làm được một cách sâu sắc. Mình nhận diện rồi nhưng mà mình nhìn thấu được cái cội nguồn của nó thì gọi là quán, cũng là chánh niệm. Chánh niệm khi yếu chỉ có thể là nhận diện được thôi, nhưng mà chánh niệm khi mạnh có thể thấy được cội nguồn cái mình nhận diện. Ví dụ như mình có chánh niệm yếu thì khi gặp một Sư huynh đi ngang qua mình biết đó là Sư huynh của mình. Nhưng nếu mà chánh niệm mạnh, mình có một cái năng lượng vững vàng không những mình thấy Sư huynh của mình mà mình còn thấy được cái tình trạng Sư huynh mình sáng hôm nay khi mà đi ngang qua. Thấy được rất rõ. Và đó là yếu tố quán.
Chủ trương thứ ba của trường phái Nhân Bản là chỉ cần những tư liệu trong ý thức thôi mà khỏi phải cần những tư liệu trong vô thức thì mình nói rằng: “Đừng có lo những cái tư liệu ý thức đó nó chứa đựng hết những cái tư liệu trong vô thức. Và vì vậy nếu quý vị tu tập chánh niệm - cả người trị liệu, cả con bệnh tu tập chánh niệm - thì tiếp xúc với những cái tư liệu trong hiện tại và trong ý thức cũng đủ rồi”.
Thứ tư là cái trường phái này chủ trương phải chịu trách nhiệm những cái gì nó xảy ra cho mình. Cái này rất là hay. Ví dụ như là có sự bực bội nó xảy ra cho mình, có một sự thất vọng xảy ra cho mình thì trước hết mình phải lãnh trách nhiệm về cái đó. Mình đừng có đi tìm những cái nguyên do, mình hãy chịu trách nhiệm những cái đang xảy ra cho mình trước.
Đứng về phương diện Phật học, chúng ta thấy như thế này, mỗi cái hiện tượng như vậy nó xảy ra là có nhiều nguyên do. Nhất là trong Duy Biểu học, hiện tượng nào cũng có tính cách tự biến và cộng biến. Cái giận của tôi, tôi chịu trách nhiệm. Nhưng mà anh cũng chịu trách nhiệm một phần nhỏ nào đó. Tại vì đây là cái giận của tôi thành tôi chịu trách nhiệm nhiều hơn, nhưng mà không phải anh không chịu trách nhiệm phần nào. Anh đã nói ra một câu làm cho tôi giận, thì tôi biết rằng tôi chịu trách nhiệm về cái giận của tôi mà anh cũng công trình một phần nào về cái giận của tôi. Còn chị, tuy rằng chị không có nói gì hết, chị không có làm gì cho tôi giận hết, nhưng mà chị cũng có dự phần vào trong cái tính cộng biến. Và vì vậy không có ai là không có trách nhiệm trong phần xảy ra trong tôi cả. Và cái mức trách nhiệm nó tùy thuộc. Nhưng mà tôi thấy một điều rất rõ là tôi là người chịu trách nhiệm nhiều nhất. Tại cái giận đó là cái giận của tôi. Trong trường phái tâm lý này, người ta không có nói tới trách nhiệm cho người khác. Người ta nói tới mình phải lãnh cái trách nhiệm những gì xảy ra cho mình. Trên thực tế là chúng ta chịu trách nhiệm chung. Tuy nhiên, cái giận của tôi tự biến nhiều hơn là cộng biến, và vì vậy cho nên tôi là người chịu trách nhiệm chính. Những người kia có thể giúp đỡ tôi được nhưng mà chính tôi phải chịu trách nhiệm về cái đau khổ của tôi trước hết. Tại vì khi mà mình biết rằng mình phải chịu trách nhiệm những gì đang xảy ra cho tâm lý của mình thì nó chó nhiều cái lợi:
Cái lợi thứ nhất là mình khỏi phải mất thời giờ đi tìm những cái nguyên do của nó trong quá khứ, mình lo xử lý bao nhiêu năng lượng và thời giờ của mình để lo xử lý cái giận của mình.
Thứ hai là mình không đổ lỗi cho những cái yếu tố ở ngoài. Những cái yếu tố ở ngoài đôi khi nó có dự phần trực tiếp hay gián tiếp vào cái giận của mình. Nhưng cái phần chịu trách nhiệm chính tới 90%, ít nhất là 90% là của mình. Thành ra tôi chịu trách nhiệm về cái giận của tôi trước và tôi không có đổ lỗi trách nhiệm đó cho anh, cho chị và cho quá khứ nữa. Ví dụ như là cái giận của mình, cái buồn của mình có thể do ba mình, do mẹ mình hay là do quá khứ làm ra, nhưng mà mình biết rõ rằng không có cái gì đơn phương một phía mà nó ra, nó do từ nhiều phía trong đó phía mình là cái chánh. Và vì vậy cho nên khi mà mình có một niềm đau khổ thì trước tiên mình phải có thái độ chấp nhận rằng mình chịu trách nhiệm về cái đau khổ của mình trước. Rồi những người khác họ có thể giúp được mình từng nào thì hay từng đó, nhưng chính mình là người chịu trách nhiệm đầu tiên.
Và điều thứ tư là trường phái này dạy là đừng có lo chữa bệnh, đừng có lo trị bệnh, lo sống cho hạnh phúc thôi. Thì cũng đúng là tại vì trong xã hội này khi mà có cái gì không suông sẽ thì người ta mới nói thôi, còn khi mà mọi việc nó đi một cách êm đẹp thì người ta không có nói. Tức là người ta không có chú ý tới những cái tin vui, chỉ chú ý những cái tin buồn thôi. Ví dụ như là sáng nay mà có một người điểm một nụ cười rất là tươi thì không có đăng báo và khi người đó giận dữ la hét, giết người thì đăng báo. Tức là báo chỉ đăng những tin xấu thôi, không bao giờ đăng những tin tốt cả. Hay là khi mình không có đau răng thì mình không có sướng, đến khi mình đau răng mình mới khổ thôi. Và vì vậy cho nên cái phương pháp của mình làm thế nào để sống cái ngày hôm nay cho nó hạnh phúc và an lạc thì tự nhiên những cái bệnh của mình, những cái đau khổ của mình nó bớt đi. Và phương pháp đó là tiếp xúc với những cái gì tươi mát, lành mạnh, đẹp đẽ trong giờ phút hiện tại. Và cái đó chỉ có thể làm bằng chánh niệm được.
Trong khi đi thiền hành chẳng hạn mà nếu mình có chánh niệm thì mình tiếp xúc được không bao nhiêu là yếu tố mát lành ở trong con người của mình và xung quanh mình. Tuy nhiên là mình không có chữa bệnh gì cả nhưng mà đó là hình thái chữa bệnh gián tiếp. Khi nào mình có niềm vui, mình có sức khỏe tự nhiên những cái buồn rầu, những cái bệnh tật từ từ nó tiêu. Điều này cũng đúng. Nhưng mà Duy Biểu Học còn đi xa hơn là ngoài phương pháp thứ nhất là tìm cách sống trong hiện tại thì mình còn có thể dùng chánh niệm để mà nhận diện những cái đau khổ khi nó xuất hiện để làm cho nó yếu đi, và thứ ba là mình có thể mời nó lên để mình quán chiếu và chuyển hóa.
“Phút hiện tại thu nhiếp, quá khứ và vị lai”, và vì vậy cho nên “bí quyết của chuyển y, nằm trong giây phút hiện tại”. Bí quyết của sự chuyển hóa gốc rễ mình. Y đây tức là alaya thức, những cái đau khổ, những cái vô minh trong alaya thức nó nằm trong giây phút hiện tại. Thành ra phương pháp tu học thông minh nhất là phương pháp xử lý hiện tại. Tức là nắm cái giây phút hiện tại, tiếp xúc với nó mà cho tươi, cho nó mát, làm cho nó đẹp, chuyển hóa nó. Đừng có nói rằng ngày hôm nay mình phải khổ cực thì ngày mai mình mới có an lạc được, và cái chỗ của mình không phải là ở đây, cái chỗ của mình là ở bên Tây Phương Cực Lạc Thế Giới. Chỗ này là cái chỗ mình phải bỏ, chỗ kia là chỗ mình phải tới, như vậy mình hoàn toàn đầu tư vào tương lai, hay mình chìm đắm trong quá khứ. Mình mơ tới tương lai thì đó không phải là đường lối mà Bụt dạy.
Kinh Người Biết Sống Một Mình là cái bản văn xưa nhất của nhân loại, dạy chúng ta phải an trú trong hiện tại. Và vì vậy cho nên chúng ta thấy rằng trong đạo Bụt dạy cái giây phút mà nó nằm trong cái tầm tay chúng ta là giây phút hiện tại, và chúng ta phải sống cái giây phút đó cho sâu sắc. Sống như thế nào để nó an lạc, hạnh phúc. Và sống như thế nào để cho những cái đau khổ có thể chuyển hóa trong giây phút hiện tại và sẽ có an lạc thì tương lai tự nhiên nó sẽ an lạc. Và một cái nét độc đáo của giáo lý đạo Bụt là thực tập như thế nào để hiện tại được an lạc. Và như vậy thì không còn nghi ngờ gì nữa: hiện tại an lạc thì tương lai an lạc. Hiện tức là bây giờ, có thể thấy được, có thể sờ mó được, gọi là hiện. Pháp là những cái hiện tượng. Lạc có nghĩa là hạnh phúc. Trú tức là ở. Có khi gọi là hiện pháp lạc cư. Tiếng Phạn là dharma sukha vihari. Dharma là pháp, là hiện, là thấy được, sờ mó được, chứng nghiệm được ngay bây giời. Hiện pháp tức là những cái gì nó thấy được, sờ mó được, đó có nghĩa là hiện tại. Sukkha là an lạc, ngược lại với dukha. Dukkha là khổ. Vihari là trú, là cư. Vihari là cái chỗ ở. Vihari cũng có nghĩa là tu viện Buddhist vihara là tu viện. Vkhari cũng có nghĩa là cái chỗ người ta ở, người ta chơi. Có vẻ thảnh thơi, có vẻ vui thú, gọi là vihara. Nhận xét cho kỹ chúng ta thấy rằng trong hiện tại nó có những cái điều kiện nội tại và những cái điều kiện ngoại tại, nó đủ làm cho chúng ta Phật. Cố nhiên là nó có những cái yếu tố của đau khổ nội tại và xung quanh. Nhưng nó không có nghĩa là những yếu tố của hạnh phúc không có. Nếu mà chúng ta suốt ngày cứ tiếp xúc với những yếu tố bệnh tật khổ đau thôi thì chúng ta sẽ gầy mòn từ từ, sẽ chết. Và có người như vậy. Có người giam hãm trong cái thế giới bệnh hoạn, trong thế giới sầu khổ. Ngó cái gì cũng thấy đau buồn hết. Và những người như vậy không có sống sót được. Thành ra những người đó mình phải giúp họ làm thế nào để tiếp xúc được với những cái lành mạnh, những cái đẹp đẽ trong họ và xung quanh họ. Có người than phiền rằng; cây rừng người ta đốn hết cây cối chết hết, thành ra không có gì vui tươi hết. Nhưng người đó không có thấy rằng cũng còn có những cây đẹp, cũng có những cái rừng đẹp, và mình phải thưởng thức những cây đẹp, những cái rừng đẹp đó. Mà càng thưởng thức, mình càng thấy những cái cây đẹp, những cái rừng đẹp đó càng quý và mình có sức mạnh để giúp bảo vệ những cái cây khác, những cái khu rừng khác đang bị chết. Thành ra tiếp xúc với đau khổ chưa đủ, phải tiếp xúc với những cái mầu nhiệm, lành mạnh. Có một điều chúng ta thấy rõ là trong đạo Bụt, trong truyền thống Nam Phương, người ta nói nhiều quá đến dukkha, tức là đến khổ. Cứ nói cái gì cũng khổ hết. Nói một hồi người ta khổ thêm. Trong khi đó thì đạo Bụt Bắc Phương, Đạo Bụt Đại thừa, muốn sửa cái sự sai lầm đó, cho nên chỉ cho chúng ta thấy và giúp cho chúng ta tiếp xúc được với những cái sukkha, với những cái hạnh phúc. Do đó cho nên trong truyền thống đại thừa, chúng ta thấy có các Thiền sư họ làm thơ ca ngợi hoa vàng, trúc biếc, bạch vân, minh nguyệt. Họ ca ngợi pháp thân bất diệt, tức là họ nhấn mạnh tới cái chân như duyên khởi, chứ họ không phải chỉ nói tới cái vô minh duyên khởi mà thôi. Vô minh đuyên khởi thì nó biểu hiện ra những cái đau khổ, những cái đen tối. Nhưng chân như duyên khởi, nó biểu hiện ra những cái tươi vui đẹp đẽ. Cố nhiên nói rằng ở trong cuộc sống nó có cái đẹp, cái hay, cái lành mà người ta phải tiếp xúc; nhưng mà nếu con người chúng ta bị kềm kẹp trong cái thế giới khổ đau thì cũng khó lòng tiếp xúc được với những cái đẹp đó. Trên nguyên tắc mình thấy bông hoa rất đẹp, thấy cảnh mặt trời lặn rất huy hoàng. Nhưng mà trên thực tế mình tiếp xúc không được. Tại vì mình có một nỗi sầu đau nó quá lớn. Và có một cái gì nó giống như một bức tường ngăn cản không cho mình tiếp xúc được với bông hoa, tiếp xúc được với những cái mầu nhiệm với thiên nhiên. Trong trường hợp đó chúng ta phải cần tới Tăng thân. Chúng ta phải ở trong một Tăng thân mà trong đó có những người có thể mỉm cười được, có thể bước những bước chân thảnh thơi, có thể cầm lấy bàn tay ta bằng cái sự trìu mến, để chia sẻ, để có thể hiểu được ta, và chúng ta có thể được kéo ra khỏi cái thế giới u buồn, đen tối của chúng ta. Cho nên Tăng thân là một cái dụng cụ rất quan trọng.
KỆ THỨ 48
Tu tập và chuyển hóa
Trong đời sống hàng ngày
Nương tựa vào Tăng đoàn
Công phu mau nhìn thấy.
Nương tựa vào Tăng đoàn, công phu mau nhìn thấy, là ở chỗ đó, là chúng ta phải nương dựa vào Tăng đoàn. Chúng ta thường ca ngợi những người tu một mình, sống một mình; lên núi đóng cửa lại, sống một mình. Mà chúng ta cho họ là những người tu duy nhất, tu thiệt. Nhưng mà kỳ thực ra, tu mà không có Tăng thân thì khó lắm. Tại vì con người là một sinh vật xã hội, và vì vậy cho nên những cái buồn đau, những cái niềm vui, những cái hy vọng những con người nó lệ thuộc tới xã hội. Và vì vậy cho nên chính ở trong cái xã hội loài người mình mới thấy được rằng là mình đã chuyển hóa hay chưa.
“Tu tập và chuyển hóa, trong đời sống hằng ngày”. Câu này nó có nghĩa là mình tu nhưng mà mình vẫn sống bình thường cuộc sống hàng ngày của mình. Mình sống đời sống hàng ngày của mình một cách bình thường nhưng mà mình có thể tu tập và chuyển hóa ngay trong đời sống hàng ngày đó. Cố nhiên ta phải thực tập chỉ và quán. Tại vì trong đời sống hàng ngày, chúng ta bị kéo theo, chúng ta đánh mất chúng ta,và vì vậy cho nên chúng ta phải tu tập chỉ. Chỉ tức là ngưng lai. Ngưng, ở đây chúng ta phải hỏi câu hỏi thông minh là: “ngưng cái gì?” Ngưng cái sự phóng thể, ngưng cái sự chạy như bị ma đuổi. Ở trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta bị kéo theo, chúng ta chỉ là một nạn nhân thôi. Chúng ta bị kéo theo những người xung quanh. Chúng ta bị kéo theo bởi hoàn cảnh. Chúng ta bị kéo theo bởi tư tưởng, bởi những cái tâm tư buồn giận của chúng ta và chúng ta không có đời sống của chính chúng ta, và vì vậy chúng ta phải chỉ. Chỉ có nghĩa là dừng lại. Có những người họ sống không có cưỡng lại được với cái sự kéo theo đó, cho đến một ngày kia họ bị tai nạn và họ cũng phải bị bắt buộc nằm trong nhà thương 15 ngày hay là một tháng. Và tại vì bác sĩ hay là y tá bắt họ phải nằm, không cho cựa quậy cho nên họ mới có cơ hội nhìn lại cuộc đời của họ. Và họ mới bắt đầu thấy được là họ đã điên rồ như thế nào trong những năm vừa qua. Đôi khi cái phương pháp chỉ đó không phải do mình muốn mà nó có, mà do cái tai nạn, cái hoàn cảnh nó bắt buộc phải như vậy.
Chỉ ở đây là cái chỉ tự nguyện. Tức là mình phải ngưng lại, cái sức mạnh, cái năng lượng nó giúp mình, ngưng lại gọi là chánh niệm. Còn ví dụ như mình đang suy nghĩ miên man, mình đang buồn thương, giận ghét một cách thông tục tự nhiên nghe tiếng đồng hồ đánh lên, nhạc đồng hồ đánh lên. Thì nhạc do đồng hồ là một trong những cái hiện tượng của sự sống, nhưng mà chúng ta đã chấp nhận với nhau rằng là nhạc đồng hồ nó phải có cái công dụng là giúp ta chỉ, ngưng lại, thở và chúng ta mỉm cười: “A, chúng ta đang phiêu lưu trên cái dòng quên lãng, trên cái dòng buồn ghét. Chúng ta đang tự đánh mất mình”. Và tiếng đồng hồ trở nên tiếng gọi của Bụt. Và Bụt ở đây không phải là Bụt ở ngoài, Bụt ở đây trong tự tâm của chúng ta gọi: “Này con ơi! Con đang đi đâu vậy? Con hãy trở về”. Cho cái câu kệ của chúng ta về chuông đó là: lắng lòng nghe, lắng lòng nghe, tiếng chuông huyền diệu đưa về nhất tâm. Và tiếng Anh chúng ta dịch là listen, listen, this wonderful sound bring me back to my true home. True home, tức là ở đó mình an trú. Hiện pháp lạc trú. Mình là một đứa con hoang, bỏ nhà ra đi và khi nghe tiếng chuông thì trở về cái nhà của mình. Giờ phút hiện tại có thể có an lạc, có thể có hạnh phúc, có giác ngộ ở trong đó. Và vì vậy cho nên chỉ là cái pháp tu của tất cả chúng ta. Còn nếu như chúng ta ở trong một cái Tăng thân mà mọi người đều có tu tập chỉ, thì tu chỉ nó trở thành ra một cái điều tự nhiên và đơn giản. Khi mà chúng ta đi thiền hành chúng ta chỉ. Đi mà không cần tới. Khi mà chúng ta rửa nồi hay là chúng ta quét nhà, chúng ta tắm, mà nếu chúng ta chỉ thì chúng ta sống rất sâu sắc cái giây phút đó. Còn trong khi quét nhà, nấu ăn hay là tắm mà không chỉ thì chúng ta không có sống sâu sắc trong giây phút đó.
Đó là ngày tháng nó đi qua cho chúng ta sống được đời sống của chúng ta một cách đích thực. Anh đã làm gì đời anh? Ta đã làm gì đời ta trong mấy chục năm qua? Tại vì ta không có tu chỉ, cho nên những cái năm qua nó đã đi qua như giấc mộng. Ta chưa bao giờ sống một cách sâu sắc, một cái giờ phút để đứng để ngắm một cái ngôi sao hay là nâng một cái cành hoa trên tay, và như vậy thì cuộc sống nó quá uổng.
Do đó cho nên chỉ là cách thực tập đầu tiên để chúng ta có thể dừng lại. Và dừng lại chúng ta có thể trở về nhà ngay lập tức, nhà của ta trong đó có hạnh phúc, có giác ngộ, có giải thoát. Chỉ là samatha. Đang khi mà tôi đi vào bếp, tôi thấy một thiền sinh đang gọt cà rốt thì tôi mới hỏi, “À, con đang làm gì đó?” Thì đó là một tiếng chuông. Và thiền sinh đó nếu mà thông minh thì chỉ cần mỉm cười thôi tại vì Thầy giúp mình chỉ, mình có thể đang phiêu lưu trong khi cắt cà rốt, và tiếng hỏi của Thầy “con làm gì đó?” nó có tác dụng giúp mình chỉ và mình trở về nhà của mình, trở về an lạc của mình. Còn nếu như mình trả lời: “Dạ thưa Thầy, con đang cắt cà rốt.” Thì là hỏng. Đó chứng tỏ rằng mình không hiểu câu hỏi của Thầy. Tại vì rõ ràng Thầy đang thấy mình cắt cà rốt, tại sao mình lại phải còn trả lời như vậy. Trả lời như vậy thì không hiểu mình và cũng không hiểu Thầy. Thành ra khi mình là một người có chánh niệm đang tu học theo chỉ và sự có mặt của mình tạo ra cái chỉ xung quanh mình. Ban đầu mình phải nhờ tiếng chuông, mình phải nhờ tiếng đồng hồ, mình phải nhờ tiếng điện thoại, nó giúp mình chỉ rồi từ từ mình nhờ một Sư anh, một Sư chị, một Sư em. Sự có mặt của họ giúp mình chỉ và nếu mình an trú trong cái chỉ đó nhiều hơn ba hơi thở. Tại vì theo nguyên tắc là mỗi khi mình được nhắc là mình phải an trú ít nhất là trong ba hơi thở trong khi chỉ. Còn nếu mình học giỏi, mình học giỏi thì cái chỉ của mình có thể kéo dài cả mấy chục phút giây đồng hồ đó, mình có cái gọi là tam muội, nhiều chừng nào thì chánh niệm của mình vững chừng đó. Và khi mình đưa con mắt của mình quét qua như một luồng ánh sáng thì mình nhìn thấy nó sâu sắc hơn. Chúng ta biết rằng cái đèn pin của chúng ta mà nếu pin mạnh, thì nó như một cái chổi quét ngang tới đâu thì chúng ta thấy rõ ràng tới đó. Mà nếu như đèn pin của chúng ta yếu thì chúng ta chỉ thấy lờ mờ thôi. Cái chánh niệm của chúng ta cũng như vậy. Chúng ta chỉ thì chúng ta có pin, có năng lượng chánh niệm thì chúng ta bắt đầu thấy. Nhưng mà nếu chúng ta thực tập chỉ nhiều hơn là ba hơi thở, nó kéo dài được hai phút, nó kéo dài được năm phút, nửa giờ thì cái chỉ đó trở thành ra một cái năng lượng ánh sáng rất là mạnh, chiếu vào đâu thì chúng ta thấy được cái đó, gọi là quán. Cái năng lượng giúp chúng ta chỉ là chánh niệm. Niệm tức là đem cái tâm chúng ta trở về trong giây phút hiện tại. Chữ “kim” là giây phút hiện tại. Chữ “tâm” là cái tâm của mình. Tâm trở về giây phút hiện tại. Thành ra tu chỉ là một phần quan trọng của chúng ta ở Làng Hồng.
Tu chỉ có nghĩa là ngưng lại cái sự phiêu lưu, ngưng lại cuộc phiêu lưu của chúng ta và trở về nhà sống an lạc trong giây phút hiện tại, không có tìm cầu, không có mơ ước gì cả. Chỉ cần mấy tuần lễ nữa thôi mình đi Việt Nam nhưng mà mình vẫn có thể an trú trong Làng Hồng như thường gọi là chỉ. Còn nếu mà mình bị thu hút hoàn toàn bởi chuyến đi, không thấy chị, thấy em, an lạc, uống trà và an cư thì mình không có tập tu chỉ. Chỉ là an trú trong hiện tại. Và an trú trong hiện tại như vậy thì chánh niệm ngày càng lớn và hạnh phúc ngày càng lớn. Và khi cái năng lượng đó ngày càng lớn thì mình thực tập quán rất là dễ. Quán là nhìn kỹ, nhìn sâu. Quán nó đối với chỉ. Quán là vipassana. Khi mà có lực lượng chỉ rồi thì chúng ta có thể tu quán một cách dễ dàng. Nhìn sâu và nhìn kỹ để có thể thấy được cái chân tướng của nó, gọi là quán. Nhưng mà chúng ta cũng biết rằng chỉ và quán nó không có thể rời nhau được. Trong chỉ đã có một ít quán rồi. Ngưng lại và nhận diện tất nhiên là bắt đầu thấy. Không thể nào không thể có cái thấy trong chỉ. Và khi mà có quán, có cái thấy rồi thì nhất định rằng là có chỉ.
Không thể có quán mà không có chỉ. Khi mà mình có cái thấy (insight), mình thấu hiểu cội nguồn của một cái gì rồi tức là có chỉ. Ví dụ như bây giờ mình nhìn vào cái bông và mình thấy được mặt trời, thấy được đám mây, thấy được tính chất nguyên sinh của cái bông, thấy cái đó chứng tỏ mình có chỉ, tu tập quán. Và cái mà gọi là đạo Phật đi vào cuộc đời, đạo Phật nhập thế (Engage Buddhism) nó lấy cái câu này làm bản chất.
Mình sống cuộc sống bình thường như mọi người nhưng mà trong đó chỉ và quán tiếp tục được thực hiện.
“Nương tựa vào Tăng đoàn, công phu mau nhìn thấy”. Tu tập mà không có Tăng đoàn rất là khó, nhất là khi mà mình bị giam hãm trong cái vũ trụ đau thương, tối đen, mình không có cái khả năng tiếp xúc được với những cái lành mạnh tươi vui có tính cách trị liệu ở trong mình và xung quanh mình. Chúng ta thấy có những cái trung tâm tu học mà họ tới nơi không có sự liên lạc giữa những người tu với nhau. Mỗi người hạ thủ công phu gắt gao, tu cho thật rục nhưng mà không có chuyển hóa gì cả, tại vì Tăng đoàn không hẳn là một Tăng đoàn. Tăng đoàn có nghĩa là sự nâng đỡ lẫn nhau. Ở Đông phương chúng ta có chùa chiền tổ chức như là một gia đình, trong đó Thầy được coi là một người cha, người mẹ, còn người Sư huynh của mình như một người anh, Sư đệ như là một người em còn có Sư bác, Sư chú, Sư cô, Sư dì. Và như vậy thì trong truyền thống của chúng ta, chúng ta đã biết rõ ràng rằng là cái môi trường Tăng thân rất là quan trọng. Nếu Tăng thân không được thiết lập như một gia đình tâm linh, trong đó mỗi người là một thành phần gia đình thì công phu của chúng ta khó thành đạt lắm. Chúng ta biết rằng ở Tây Phương có những người tới với Tăng thân từ một gia đình đổ vỡ, từ một xã hội thác loạn và những người đó không có gốc rễ. Và Tăng thân đó được thành lập như một sự tụ họp của những hòn đảo riêng biệt và không có tình người, không có sự ấm áp của một gia đình, thì các thiền sinh kia tu tập mười năm, hai mươi năm cũng không có kết quả. Tại vì con người là một sinh vật xã hội mà trong gia đình, người đó không có gốc rễ, mà đi vào một Tăng thân lạnh lẽo như vậy thì cũng không thể nào có gốc rễ. Thành ra Tăng thân phải được tổ chức như một gia đình trong đó có sức ấm, có hạnh phúc, có sự hòa hợp, mọi người đều tiếp nhận mình như là một người em, một người chị, một người anh thì tự nhiên mình có cái cơ hội mọc ra những cái rễ đầu tiên trong cuộc đời mình. Và vì vậy cho nên Tăng đoàn phải là một gia đình, có thể giúp cho những người chưa bao giờ có gia đình cảm được cái có và có được những cái gốc rễ đầu tiên.
Vấn đề này rất quan trọng ở Tây phương. Thành ra những năm vừa rồi Thầy đi giảng dạy. Thầy luôn luôn kêu gọi các trung tâm tu học nên tổ chức những Tăng thân có tính cách gia đình. Tại vì những người mất gốc, họ tới mà không có cái không khí đầm ấm đó thì họ mất cái cơ hội cuối cùng của họ. và khi mà mọc rễ rồi và họ chấp nhận cái Tăng thân đó như là gia đình của họ thì tự con người họ trở thành ra bình thường có thể vui được, hạnh phúc được. Lúc đó sự tu tập để đi xa hơn mới thực hiện được. Một Thầy dầu có giỏi cách mấy, một Đạo Sư có giỏi cách mấy mà nếu không có Tăng thân thì cũng không có làm gì nhiều.
Ngày xưa, Tăng thân của Bụt thiết lập thỉnh thoảng cũng có những vấn đề lớn, đôi khi có chia rẽ, có khi Tăng thân tách ra làm hai, đã xảy ra nhiều lần như vậy. Nhưng mà biết làm sao hơn, con người nó là như vậy. Tại Kosambi, Tăng thân tách ra làm đôi. Bụt can thiệp vào cũng không giải quyết được thành ra Bụt phải bỏ đi. Ở thành Vương Xá, Đề Bà Đạt Đa tổ chức một giáo hội mới tách rời ra, Bụt cũng không làm gì được, có làm nhưng mà cũng không can thiệp vào một cách trực tiếp. Nhưng mà những cái khó khăn đó giáo đoàn đã vượt qua được và Tăng thân của Bụt có uy tín là người ta nhìn vào cái đoàn thể Tăng thân người ta có niềm tin nơi phương pháp hành trì giáo lý của Bụt. Thành ra vua Ba Tư Nặc, vua nước Kosala, có một lần chắp tay lạy mà thưavới Bụt câu này mà được chép vào trong kinh: “Bạch đức Thế Tôn, nhìn và Tăng thân con có đức tin nơi đức Thế Tôn. Nhìn vào các vị khất sĩ đi qua, đi lại, ngồi xuống, đứng lên thực tập, con có đức tin nơi đức Thế Tôn. Tại vì con thấy Thế Tôn ở trong Tăng thân Thế Tôn”. Cái khả năng của một vị Đạo Sư có thể nhìn thấy trong cái Tăng thân của mình, là nếu mà Tăng thân dở thì Đạo Sư đó cũng dở. Sự thật là như vậy.
Do đó cho nên một trong cái mà mình phải học trong cái thời gian mình thọ huấn là môn học xây dựng Tăng thân, gọi là Dựng Chúng (community bulding, sangha buiding). Tại vì khi mà mình học nghệ thuật dựng chúng rồi thì mình mới có thể tạo dựng được một cái chúng có hạnh phúc và làm cơ sở và niềm tin cho rất nhiều người.
Cho nên, Thầy mơi nói rằng là nếu một vị Đạo Sư không có Tăng thân thì cũng như là một nhà nghệ sĩ mà không có tư liệu, một nhạc sĩ mà không có đàn, một chiến sĩ mà không có súng. Và vì vậy cho nên Tăng thân rất quan trọng. Nếu Tăng thân mà có được một ít yếu tố của sự hòa hợp, có hạnh phúc thì khi một người tới với Tăng thân chưa tu đã bắt đầu hưởng lợi ích rồi. Cho nên xây dựng Tăng thân là công trình quan trọng nhất của sự tu tập. Và mình biến thành ra một cái yếu tố tốt của Tăng thân.
Ngày xưa, bây giờ cũng vậy, có nhiều người ví dụ như ông Chánh Trí, có lần ông chán các Thầy, ông giận các Thầy rồi ông nói rằng tôi chỉ quy y nhị bảo thôi, Phật bảo & Pháp bảo, Tăng bảo tôi không có thích. Có nhiều người nói rằng tôi chỉ quy y Thánh Tăng thôi tức là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Văn Thù, Phổ Hiền thôi, còn mấy Thầy, mấy Sư cô đang sống ở đây chưa phải là Tăng thân.
Nói như vậy không có đúng. Tại vì cái Tăng thân mà ta có thể sờ mó được, có thể thừa hưởng được là Tăng thân này tức là phàm Tăng. Và cái giá trị của Tăng thân là do ta xây dựng ra chứ không phải tự nhiên mà nó có được. Tăng thân này là một đoàn thể mà trong đó mọi người đều có ý chí tu học, có thiện chí muốn tu học. Còn tu học thành hay không thành, thành công tới mức nào là do cái nghệ thuật tu học nữa chứ không phải có cái thiện chí mà được, có thiện chí chưa đủ; cũng như là thương, muốn thương chưa chắc đã là thương.
Thành thử ra, Tăng thân không cần phải hoàn hảo. Sangha does not have to bi perfect. Một cái Tăng thân không cần phải toàn hảo mới được. Chỉ cần phàm Tăng thôi chứ không cần Thánh Tăng mà mình đã hưởng được nhiều lợi lạc được rồi. Nếu mà mỗi cá nhân của Tăng thân có ý thức rằng mình cần nương tựa vào Tăng thân để tu học, thì mình phải biết rằng Tăng thân đó là phải là tự mình xây dựng cho nó tốt đẹp. Nếu Tăng thân chưa đẹp như mình muốn thì mình phải làm cho nó đẹp như mình muốn. Và phương pháp làm cho Tăng thân đẹp thì trước hết là làm cho mình đẹp, tại vì mình là một phần tử của Tăng thân. Và cái phần tử nằm trong cái tầm tay mình, gần gũi nhất là chính mình. Cho nên mình mỉm một nụ cười, mình thở một hơi thở, đó là mình làm cho tất cả Tăng thân. Mình đi thiền hành cho đàng hoàng đó là mình phục vụ Tăng thân. Chứ đừng có nói là mình phải tới mình dạy cho người này, chỉ cho người kia gọi là xây dựng Tăng thân.
Xây dựng Tăng thân trước hết là phải mỉm cười là phải đi thiền hành, là mình phải chỉ, là mình phải an trú trong hiện tại. Căn cứ trên cơ bản đo mình mới có thể giúp được một Sư anh, một Sư chị, một Sư em. Chứ nếu không có căn bản đó thì mình có xây dựng cách mấy cũng không đi tới đâu cả. Một tăng thân mà có hạnh phúc nó quan trọng vô cùng, nó nuôi dưỡng mình làm cho mình vững chải, tại vì cá nhân có khi lên khi xuống nhưng mà nguyên một Tăng thân thì không đến nỗi như vậy, tại vì khi mà người này xuống thì luôn luôn những người kia nó nâng dậy. Đó là cái sự quan trọng của Tăng thân. “chị ngã em nâng” làm như vậy thì mình có quyền lung lay, mình có quyền xuống nhưng mà Tăng thân luôn luôn ở đó để nâng đỡ mình dậy. Và đến khi người khác hơi lung lay, hơi xuống thì đã có mình đây. Và vì vậy cho nên con về nương tựa Tăng không phải là một vấn đề tín ngưỡng, không phải là vấn đề đức tin.
Mình đọc quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng như là một cái sự tỏ lộ niềm tin, nhưng mà quy y Tăng không phải là vấn đề đức tin, đó là vấn đề thực tập. Quy y Phật cũng vậy, đó là vấn đề thực tập. Quy y Phật là luôn luôn sống trong chánh niệm. Chánh niệm tức là Phật, nó soi sáng cho mình.
Một người thiền sinh giỏi, có tương lai là một người biết xây dựng một Tăng thân. Đừng có đợi đến khi mình tốt nghiệp rồi mới xây dựng Tăng thân, lúc đó mình sẽ không thành đâu. Cái Tăng thân hiện tại mình phải sống cho hòa hợp, cho có hạnh phúc và mình phải xây dựng cái Tăng thân ngay trong giây phút hiện tại.con về nương tựa Tăng, đó là vấn đề thực tập không phải vấn đề tín ngưỡng.
“Tu tập và chuyển hóa,
Trong đời sống hàng ngày
Nương tựa vào Tăng đoàn
Công phu mau nhìn thấy”.
KỆ THỨ 49
Không sinh cũng không diệt
Sinh tử và Niết-bàn
Sở đắc là vô đắc
Không nắm cũng không buông.
Bài học này là kết quả nói về sự tu học, cái sở đắc của sự tu học. Trong khi bài 48 nói về cái nhân, tức là chính là sự tu học. Và vì vậy cho nên chúng ta có thể nói bài 48 là nói về tích môn: cần phải tu tập và chuyển hóa, trong đời sống hàng ngày, còn phải nương tựa vào Tăng đoàn đó là nói về tích môn. Còn bài này là phải nói về bản môn. “Không sinh cũng không diệt, sinh tử là Niết-bàn. Sở đắc là vô đắc. Không nắm cũng không buông”.
Không sinh cũng không diệt tức là Niết-bàn. Tại vì Niết-bàn tức là sự chấm dứt, tức là sự vượt thoát khỏi sinh và khỏi diệt. Nhưng mà sự chấm dứt đó nó không có nghiã là sự loại trừ ra khỏi một cái gì cả, sự loại trừ của sinh tử, tại vì sinh tử là Niết-bàn. Tức là cái mà mình gọi là bản môn. Tuy nói rằng là mình có đắc, nhưng mà kỳ thực là mình có đắc gì đâu. Nói rằng sóng nó nắm được nước nhưng mà sóng đâu có cần phải nắm nước nữa. Tại vì sóng là nước rồi. Chúng ta nói một cách buồn cười là sóng nó tiếp xúc được với nước. Nhưng mà sóng là nước rồi đâu cần phải tiếp xúc nữa.
Cũng như chúng ta sống trong thế giới của sinh-diệt của có - không, của còn - mất, của đi - tới và chúng ta tiếp xúc được Niết-bàn, thì nó cũng buồn cười giống hệt như vậy. Tại vì chúng ta đang an trú trong Niết-bàn.
Niết-bàn là chân như, là tự tánh của chúng ta. We have been nirvana for a long time, already. Cũng như là sóng, nó đã là nước từ muôn vạn kiếp rồi. Thành ra có cái gì đắc đâu. Chúng ta hãy nhớ lại Tam Pháp Ấn. Tam Pháp Ấn là cái chìa khỏa mở cửa 50 bài tụng Duy Biểu. Tam pháp ấn với cái hình ảnh đồng quan Pháp.
Đồng quan có bề trái, đồng quan có bề phải và đồng quan có cái chất kim khí của nó. Chúng ta sờ vào mặt trái của đồng France, đồng thời chúng ta sờ vào chất kim khí đồng France. Chúng ta sờ vào mặt phải của đồng France cũng vậy. Và vì vậy cho nên cái thế giới hiện tượng nó chính là thế giới của bản thể. Từ hiện tượng thuyền quay về bản thể, nhưng kỳ thực là khỏi quay về bản thể.
Ở đây, chúng ta ôn lại tam vô tánh, tam tánh. Là chúng ta sống trong cái ý niệm về có, về không, về một, về nhiều, về tới, đi, sinh, diệt. Tám cái đó là do hai cái này mà ra. Thì Tam pháp ấn là khai thị cho chúng ta về Niết-bàn. Vô thường, vô ngã là đứng về phương diện hiện tượng mà nói, tức là sóng. Chúng ta xét cái tính chất vô thường, vô ngã của tất cả mọi sự vật cũng như chúng ta nhìn vào sóng để thấy cái bản chất của nó. Và đó là phương thức để chúng ta vượt khỏi những cái ý niệm có - không, một nhiều, tới - đi, sinh - diệt.
Chúng ta học về Niết-bàn tức là cái pháp ấn thứ ba. Pháp án thứ ba là Niết-bàn, tức là sự chấm dứt tất cả mọi khái niệm trong đó khái niệm về vô thường, về vô ngã. Tại vì khái niệm về vô thường, vô ngã đưa ra để giúp chúng ta thoát được khái niệm thường và ngã. Nhưng mà nó vẫn là một khái niệm. Niết-bàn, nó vượt thoát thường mà nó cũng vượt thoát vô thường. Nó vượt thoát ngã mà nó cũng vượt thoát vô ngã như là những ý niệm.
Nhưng nếu không có vô thường, vô ngã, chúng ta có thể tiếp xúc được Niết-bàn không? cho nên đứng về phương diện ba tự tánh thì chúng ta thấy như thế này: thực tại trong cái nhìn của thường, ngã nó là biến kế chấp. Thực tại được nhìn bằng con mắt vô thường vô ngã là thực tại y tha khởi. Thành ra y tha khởi tháo gở chúng ta khỏi biến kế sở chấp và giúp chúng ta tiếp xúc được với Niết-bàn vốn là viên thành thật. Còn khi mình chạm vào vô thường, thật sự chạm vào vô thường chứ không chạm vào ý niệm vô thường, tức là mình chạm vào Niết-bàn.
Chạm vào sóng tức là chạm vào nước. Nước và sóng là một. Và vì vậy cho nên nói rằng có đắc nhưng mà kỳ thực có cái gì đắc đâu. Và vì vậy cho nên không có cái gì mình phải nắm hết, mà không không cái gì mình buông hết. Không nắm cũng không buông là chỗ đó. Có gì mà tôi phải nắm lấy đâu, có gì mà tôi phải bỏ đâu, gọi là vô đắc. Không nắm được cũng không buông (vô thủ vô xả). Nắm là thủ, buông là xả. Tại vì khi mà mình nói rằng là nắm lấy một cái, buông một cái thì cái đó còn là nhị nguyên (dualistic). Thành ra bài 48 nói về tu tập của chúng ta, nói về nhân. Bài 49 nói về quả. Bài 48 nói về tích môn và bài 49 nói về bản môn.
KỆ THỨ 50
Lướt trên sóng sinh tử
Thuyền từ dạo biển mê
Nụ cười vô úy nở
Phiền não tức bồ đề.
Bài này là nói về hạnh môn. Các vị Bồ-tát ban đầu cũng trôi lăn trong biển sinh tử, thường ngã, nhưng mà nhờ thực tập vô thường quán, vô ngã quán cho nên từ cái thế giới của hiện tượng mà tiếp xúc được với thế giới của bản thể, Niết-bàn.
Do đó cho nên cái tự do mình vượt thoát bao nhiêu những cái sợ hãi do có không, một nhiều, tới đi, sinh diệt gây ra, do đó cho nên mình lướt trên sóng sinh tử, tức là mình cỡi trên sóng sinh tử mà đi. “Thuyền từ dạo biển mê”, tức là các vị Bồ-tát sau khi được chứng ngộ rồi, sau khi đã hết sợ rồi, sau khi đã hết chìm đắm rồi thì trở về với thế giới của sinh tử mà không thấy có sinh tử. Trở về thế giới của sóng nhưng mà vẫn an trú trong nước, gọi là lướt trên sóng sinh tử. “Thuyền từ dạo biển mê”, đó là những vị Bồ-tát đang hành đạo trong cuộc đời này như là Bồ-tát Quan Thế Âm, Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Dược Vương, Bồ-tát Diệu Âm mà chúng ta thấy trong kinh Pháp Hoa, mà chúng ta đã nói tới hạnh môn, tức là cái môn thứ ba.
“Nụ cười vô úy nở”. Tức là trong cái thế giới mà mình thấy có đau thương, có sầu não mà mình vẫn thấy các vị nở nụ cười vô úy, tại vì quý vị dã tiếp xúc được với cái thực chất của Niết-bàn. Quý vị không còn thấy sinh, không còn thấy tử nữa. Quý vị thấy rất rõ phiền não tức là bồ đề. Thấy bất nhị giữa phiền não và bồ đề. Khi đã thấy được rồi thì thoát khỏi sự sợ hãi rồi thì bơi lội một cách an nhiên trong cái thế giới mà chúng ta gọi là sinh tử, mà các vị không còn thấy sinh tử nữa. Trong cái thế giới mà chúng ta gọi là phiền não, nhưng mà đối với các vị thì đó là Bồ đề.
Hôm nay là ngày 21.1.1993, chúng ta đang ở Xóm Thượng và chúng ta đang học 50 bài tụng nó mới, nhưng mà nó chỉ mới trên hình thức thôi, trên phương diện nội dung thì nó củ là tại vì nó được làm bằng những yếu tố của Duy Biểu học, bắt đầu từ giáo lý của Bụt dạy.
Ví dụ như trong kinh Pháp Cú thì Bụt nói tâm là căn bản, tâm là chủ, trong các pháp tâm là Họa sư, có thể vẽ ra tất cả hình ảnh và có một bài kệ ở trong Hoa Nghiêm mà các Sư cô, Sư chú học mỗi ngày ở Việt Nam trong cái nghi thức thí thực cô hồn: “Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng pháp quán giới tính, nhất thiết duy tâm tạo”. Nếu ai muốn hiểu được, biết được về chư Bụt trong ba đời thì phải quán chiếu về cái bản tính của pháp giới và thấy rằng tất cả đều do tâm mình tạo ra (nhất thiết duy tâm tạo). Đó là căn bản của giáo lý Duy Thức mà hôm nay chúng ta gọi là Duy Biểu.
Tâm tạo ra và tâm biểu hiện ra. Nó biểu hiện thành ra hai cái: chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Và vì vậy cho nên cái tư tưởng Duy Tâm, Duy Tâm đây mình phải phân biệt với cái danh từ duy tâm triết học ở ngoài đời. Tại vì tâm ở trong đạo Bụt không phải là tâm ở ngoài đời. Có khi tâm gọi là ý, có khi tâm gọi là thức, và thường thường ba chữ tâm, ý, thức dùng ở trong Tam tạng kinh điển. Có khi ba chữ tâm, ý, thức nó cùng một nghĩa. Có khi chữ tâm nó có nghĩa khác. Chữ ý nó có nghĩa khác. Chữ thức nó có nghĩa khác. Và trong Duy Biểu học, tâm là alaya thức, ý là mạt na và thức là thức thứ sáu (ý thức) và năm thức đầu.
Thì tâm, ý và thức chúng ta đã học. Một bên là citta, một bên là manas, một bên là vijnana thì trong ba mười bài tụng của Thầy Thế Thân. Tâm tức là dị thục thức, tức là thức thứ tám. Ý là mạt na gọi là tư lượng. Và thức là biểu biệt cảnh. Thì Thầy Huyền Trang theo học cái này. Thử năng biến duy tâm, vị dị thục tư lương, cập biểu biệt cảnh thức. Biểu biệt thức tức là cái thức này nó biểu hiện ra cảnh vật đó. Biểu là biểu hiện, biệt là phân biệt. Thành ra chúng ta nhìn cuộc đời, nhìn thế giới, nhìn non sông, nhìn vũ trụ bằng thức thứ sáu. Và thức thứ sáu nó lấy từ thức thứ bảy làm căn cứ, làm cơ quan cũng như là cái thấy lấy con mắt làm căn cứ. Và ý phát sinh từ tâm.