MỤC LỤC
Lời đầu
Chương I: Bối
cảnh Phật giáo
Chương
II: Nhân duyên nói kinh
Chương
III: Gạn hỏi tâm
Chương
IV: Hai cỗi gốc: Thường trụ và Lưu chuyển
Chương
V: Thiết lập hai điều nạn hỏi
Chương
VI: Pháp Sa-ma-tha
Chương
VII: Giới thủ lăng nghiêm
Chương
VIII: Năng lực thần chú
Chương
IX: Mười hai loài chúng sanh
Chương
X: Ba tiệm xứ
Chương
XI: Những tập khí sinh ra bảy đạo
Chương
XII: Mười tập nhân địa ngục
Chương
XIII: Sáu giao báo
Chương IV: Cõi
Tiên, Trời và A-tu-la
Chương
XV: Kết khuyến
Sách
tham khảo
LỜI ĐẦU
Có một
đêm, Đức Phật đứng lặng lẽ trầm mặc bên dòng sông bạc. Tôn giả Xá Lợi Phất cũng
đứng phía sau và nhìn xuống ánh trăng lung linh óng ánh trên mặt nước, bất giác
tôn giả buồn bả than rằng:
- “Bạch đức Thế Tôn! Thật đáng
thương thay! Có những kẻ mò trăng đáy nước đến nổi chết chìm”.
Đức Phật ôn tồn đáp:
- “Đúng thế! Thật đáng thương
xót! Nhưng đáng thương hơn nữa là những kẻ chấp rằng vũ trụ không trăng”.
Có người tìm trăng đáy nước,
thấy ánh trăng lung linh ảnh hiện trên mặt nước, nên lao đầu xuống nước mò
kiếm, nhọc sức luống công mà còn cái khổ phải bị chết chìm mà không biết rằng
rất đơn giản chỉ cần ngước đầu lên thì sẽ thấy được ngay chị hằng xinh đẹp
thật. Rồi lại có người cho rằng trên đời không có trăng dù rằng mặt trăng tròn
vằng vặn vẫn đang toả ánh sáng huyền diệu bao trùm vũ trụ không gian đó... Đây
là những người thật đáng thương, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi là những chúng
sanh luân hồi.
Trong chương I, đoạn III, Phần
Chỉ hai thứ cỗi gốc mê và ngộ, Phật bảo Tôn giả A Nan:
“Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến
nay điên đảo nhiều cách, giống nghiệp tự nhiên nhóm lại như chùm quả ác xoa.
Những người tu hành không thành được đạo vô thượng Bồ đề, đến nỗi lại thành
Thanh văn, Duyên giác hoặc thành ngoại đạo, chư Thiên, Ma vương, hay bà con Ma,
đều do không biết hai chữ cỗi gốc, tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn
thành cơm, dầu trải qua nhiều kiếp như vi trần, rốt cuộc vẫn không thể thành
được. Thế nào là hai thứ cỗi gốc?
A Nan,
một là cái cỗi gốc sống chết vô thỉ, tức như thầy ngày nay cùng các chúng sinh
dùng cái tâm phan duyên mà làm tự tính.
Hai là cái thể bản lai thanh
tịnh Bồ đề Niết Bàn vô thỉ thì như hiện nay cái tính bản minh thức tính của
thầy, sinh ra các duyên mà bị bỏ rơi. Do các chúng sinh bỏ rơi cái bản minh ấy
nên tuy cả ngày sống trong tính bản minh mà không tự giác, oan uổng vào trong
lục đạo”[1].
Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một bộ
kinh thuộc hệ tư tưởng thượng thừa liễu nghĩa, có rất nhiều tư tưởng thâm áo ẩn
tàng trong kinh. Như một vườn hoa có rất nhiều hoa nở đẹp, tuyệt đẹp nhất là
hoa cúc trắng tinh khiết nói về Tạng tánh Như Lai tạng, hoa cúc vàng nói về mặt
luân chuyển của thức tinh nguyên minh và nhiều hoa khác nữa. Nội dung cuốn sách
nhỏ này chỉ nói về mặt ý nghĩa ‘luân hồi’ mà trong kinh Thủ Lăng Nghiêm có đề
cập đến, như người làm vườn chỉ xin nhặt hoa cúc vàng để mời người xem; còn hoa
trắng chỉ xin giới thiệu sơ lướt qua, đợi đủ thắng duyên sẽ tiếp tục ra mắt một
tác phẩm khác về ý nghĩa này.
Con thành tâm hướng về Đại Ninh,
xin đê đầu đảnh lễ trên Tôn sư Hải Triều Âm, người đã hết lòng truyền trao cho
chúng con nghệ thuật của người làm vườn từ những năm 1983, 1984 và 1985; người
đã trao những hạt giống chắc tốt của Tứ Niệm Xứ và Lăng Nghiêm cho chúng con.
Hôm nay giống đã ra hoa. Nếu chúng con có được chút công đức phước thiện nào
trong cuốn sách nhỏ này, xin kính dâng trên Thầy và pháp giới chúng sanh.
Lòng dạt dào tràn đầy những cống
hiến, nhưng sự giác tỉnh và năng lực thì còn yếu kém quá, kính trông mong các
thiện tri thức từ bi chỉ dạy cho những lỗi lầm sai sót, để lần tái bản sau sách
được hoàn mãn hơn.
Thành kính tri ân.
Mùa thu lá đỏ tại WI, ngày 30 tháng 8 năm 2008
Thích Nữ Giới Hương
[1] Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh biên dịch, NXB Tp HCM,
1999, tr. 68.