Chương
08. Năng lực thần chú
Đức Phật
dạy: “A-nan, thầy hỏi cách nhiếp trì tâm niệm thì tôi đã nói rằng: Người muốn
vào tam-ma-đề, tu học pháp môn nhiệm mầu, cầu đạo Bồ tát, trước nhất cần giữ
bốn thứ luật nghi đó trong sáng như giá, như sương, tự không thể sinh ra được
tất cả nhành lá; ba ý nghiệp, bốn khẩu nghiệp ác chắc chắn không còn có nhân mà
sinh được. A-nan nếu giữ bốn việc như vậy không thiếu xót, thì tâm còn không
duyên với sắc, hương, vị, xúc, tất cả ma sự làm sao mà phát sanh được. Nếu có
tập khí cũ không thể diệt trừ, thầy dạy người đó nhất tâm tụng thần chú vô
thượng ‘Phật Đỉnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra’ của
tôi, đó là cái tâm chú do vô vi tâm Phật của vô kiến đỉnh tướng Như lai, từ nơi
đỉnh hiện ra, ngồi trên hoa sen báu mà nói.
Vả lại, thầy cùng nàng
Ma-đăng-già do nhân duyên nhiều kiếp trước thành tập khí ái ân, không phải một
đời hay một kiếp; song một phen tôi tuyên dương thần chú, nàng Ma-đăng-già
thoát hẳn khỏi lòng yêu, thành quả A-la-hán. Nàng kia còn là dâm nữ, không có
tâm tu hành, do sức thần chú giúp, cũng mau chứng quả vô học; thế thì các thầy,
những hàng Thanh Văn trong hội này, cầu tối thượng thừa, thì quyết định sẽ
thành Phật, cũng ví như bụi bay gặp gió thuận, có khó khăn gì?”[1].
Từ nhiều kiếp chúng ta đã tạo vô
biên tội ác từ sát đạo dâm vọng, tùy theo nghiệp báo mà chúng ta thọ lãnh tội
nặng nhẹ.
Tham ái nhẹ tái sanh làm loài chim cá.
Sân hận nhẹ tái sanh làm rắn, mèo, hổ báo.
Ngu si nhẹ tái sanh làm voi, heo, ruồi và kiến.
Khi nghiệp báo trả ở thân súc
sanh nhưng còn dư báo nên khi lên làm người thì hay bị chướng duyên do:
1. Vì tập khí nên xuất gia dễ
phạm giới sát, đạo, dâm, vọng. Nếu làm phật tử tại gia phát tâm giữ 5 giới, 10
giới, nhưng việc giữ giới vẫn bị khiếm khuyết, không được trọn vẹn.
2. Vì dư báo nên câm điếc, đui
ngọng, gẫy tay hoặc gặp những chuyện hẩm hiu, chướng nạn.
3. Dễ bị phiền não chi phối, khó
điều ngự được. Vì phiền não nên dễ vun bồi thêm nhân ác tham, sân, si để đời
đời đi lại trong tam đồ.
Do ba điều này chi phối chúng
ta, nhất là chủng tử tập khí, nên đạo nghiệp của chúng ta khó thành, ý chí khó
vững.
Xin kể một chuyện về tập khí sát
sanh:
Có một tên giết người, sau này
được cảm hoá và xuất gia. Dù xuất gia nhưng tập khí cũ vẫn còn mạnh mẽ trong
lòng. Ở chùa hay tiếp xúc Phật tử nếu gặp việc không vừa ý, trái ý, thì tập khí
hung dữ đó khởi lên mãnh liệt muốn hãm hại đối tượng của mình, muốn đánh, muốn
đả thương, dùng bạo lực để đánh trả những người không nghe lời sư.
Cơn khủng hoảng mâu thuẫn dằn
vật dữ dội vì sư không muốn như vậy nhưng bên trong tập khí nổi lên, khiến tay
chân sư ngứa ngáy muốn cầm vũ khí hung hãn đánh người.
Vị thầy bổn sư phải đứng một bên
ân cần khuyên bảo, cùng với tập trung trì chú hỗ trợ để giúp cho ý thức của sư
có đủ sức mạnh kềm chế những tập khí thói quen cũ và nhờ tha lực của thần chú
gia hộ. Sau nhiều lần trì chú và sám hối, ý thức sư chiến thắng tập khí cũ.
Sư trở nên hiền lành như một nhà
sư cửa Phật.
Tập khí thói quen là một cái gì
đó không hình không tướng nhưng vẫn chi phối chúng ta khó diệt. Thế nên, trong
nhà thiền có bài kệ truyền tụng nổi tiếng như sau:
Ðốn ngộ tuy đồng Phật
Ða sanh tập khí thâm.
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.
Tạm dịch:
Ðốn ngộ tuy bằng Phật
Nhiều đời tập khí vây.
Gió dừng, còn sóng dữ
Lý hiện, niệm còn đầy.
Bây giờ được làm người, chúng ta
còn nhiều dư báo của chủng tử súc sanh sót rớt lại trong thân tâm này, nên
chúng ta bị báo chướng (sáu căn không đủ, bịnh hoạn), nghiệp chướng (chủng tử
tập khí) và phiền não chướng (phiền, hận, ghen ghét, tập đố...) theo chướng
ngại mình.
Để tiêu những tập khí nghiệp báo
này, ngoài việc sám hối, quán tưởng hay điều ngự tâm, chúng ta có thể thành tâm
trì tụng thần chú sẽ giúp chúng ta có năng lực tiêu trừ tận gốc các tập khí
thâm sâu khó gỡ.
Hiệu lực của thần chú Thủ Lăng
Nghiêm rất lớn.
Thần chú Thủ Lăng Nghiêm còn gọi là
Phật Đỉnh Quang Minh Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra hay Bạch Tán Cái tức chỉ cho
cái thể dụng rộng lớn của bản lai tự tánh. Bạch là trí tuệ. Tán cái là lòng từ
bao la rộng lớn. Như vậy, chú Lăng Nghiêm là biểu hiện toàn thể toàn dụng của
tự tâm nên gọi là tâm chú.
Tâm chú này có khả năng và hiệu
quả rất lớn, có khả năng tiêu trừ tập khí sát, đạo, dâm, vọng, đặc biệt là tập
khí của lòng ái dục. Chính thần chú này đã cứu A-nan và nàng Ma-đăng-già ra
khỏi đám mây ái dục. Và khi người trì tụng phát tâm cân xứng với thần chú này
nghĩa là cân xứng với bản lai tự tánh.
Thần chú này thuộc mật giáo. Có
năm đệ (phần) chia ra 427 câu[2] và không giải nghĩa được. Còn các phần khác
trong kinh Thủ Lăng Nghiêm đều thuộc hiển giáo vì Đức Phật có giải thích từng
phần, từng câu rõ ràng.
Thần chú này tùy mỗi nước phiên
âm có sai khác đôi chút, nhưng nếu có lòng tin bất động đúng đắn, nhiếp tâm thọ
trì miên mật thì sẽ có hiệu nghiệm.
Trong chốn thiền môn thời Lăng
Nghiêm được gọi là thời công phu khuya (tức công phu tu tập mới sớm tinh mơ)
khoảng 5 giờ hay 6 giờ sáng, tùy từng chùa. Ngoài năm đệ Lăng Nghiêm còn kèm
theo chú Đại bi và thập chú như chú Như ý bảo luân vương, Tiêu tai kiết tường,
Công đức bảo sơn, Phật mẫu chuẩn đề, Thánh vô lượng thọ quyết định quang minh
vương, Dược sư quán đảnh, Quán âm linh cảm, Thất Phật diệt tội, Vãng sanh tịnh
độ và Thiện thiên nữ chú.
Đây là thời công phu rất thanh
tịnh vì sau một đêm nghỉ ngơi, ngủ dậy, tâm trí rất trong sáng, nhẹ nhàng,
những công việc hàng ngày nặng nhọc, bận rộn đã lắng xuống, nên thần chú dễ
thấm nhuần thân tâm. Thêm vào đó, buổi sáng tinh mơ không khí yên tĩnh, trong
lành, thần kinh êm dịu, việc tụng kinh trì chú dễ dàng tăng thêm nhiều năng
lượng tâm linh cảm ứng.
[1] Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 570-1.
[2]
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr.
583-600.