Chương
13. Sáu giao báo
Thế nào
là sáu giao báo? A Nan, tất cả chúng sinh, sáu
thức gây nghiệp, nên ác báo chuốc lấy, đều từ sáu căn mà ra.
Các ác báo từ sáu căn ra như thế
nào?
Một là giao báo về thấy, chiêu
cảm ác quả. Khi nghiệp thấy ấy giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết thấy lửa
hồng đầy khắp 10 phương; thần thức người chết bay rơi theo khói vào ngục Vô
gián phát ra hai tướng: Một là thấy sáng, thì khắp thấy nhiều thứ vật dữ, sinh
ra khiếp sợ vô cùng; hai là thấy tối, lặng vậy không thấy gì sinh ra hoảng hốt
vô hạn. Lửa thấy như thế đốt cái nghe, thì có thể làm vạc dầu sôi, làm nước
đồng chảy; đốt hơi thở, thì có thể làm khói đen, lửa đỏ; đốt cái nếm, thì có
thể làm viên tròn nung đỏ, làm cơm sắt; đốt cảm xúc, thì có thể làm tro nóng,
lò than; đốt tâm ý, thì có thể sinh ra sao lửa rưới khắp, làm rung động cả cõi
hư không.
Hai là giao báo về nghe, chiêu
cảm ác quả. Khi nghiệp nghe ấy giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết, thấy
sóng cuộn chìm ngập trời đất; thần thức người chết, sa xuống theo dòng vào ngục
Vô Gián, phát ra hai tướng: Một là nghe tỏ, nghe các thứ ồn ào, tinh thần rối
loạn; hai là điếc hẳn, lặng lẽ, không nghe gì, thức thần chìm lịm. Sóng nghe
như thế, rót vào cái nghe, thì có thể làm trách, làm hỏi; rót vào cái thấy, thì
có thể làm sấm, làm thét, làm hơi độc dữ; rót vào hơi thở, thì có thể làm mưa,
làm mù, rưới các sâu độc đầy khắp thân thể; rót vào các vị, thì có thể làm mủ,
làm huyết, các thứ nhơ nhớp; rót vào cảm xúc, thì có thể làm con súc, làm con
quỷ, làm phân, làm nước tiểu; rót vào ý nghĩ thì có thể làm chớp, làm mưa đá,
đập nát tâm thức.
Ba là giao báo về ngửi, chiêu
cảm ác quả. Khi nghiệp ngửi ấy giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết, thấy hơi
độc đầy dẫy xa gần; thần thức người chết, từ dưới đất trổi lên, vào ngục Vô
Gián, phát hiện ra hai tướng: Một là ngửi thông, bị các hơi dữ xông tột bực,
làm cho tâm rối loạn; hai là ngạt mũi, hơi thở ngạt không thông, nằm chết giấc
dưới đất. Hơi ngửi như thế, xông vào hơi thở, thì có thể làm thông, làm ngạt;
xông vào cái thấy, thì có thể làm lửa, làm đuốc; xông vào cái nghe, thì có thể
làm chìm ngập, làm chết đuối, làm nước lớn, làm nước sôi; xông vào cái vị, thì
có thể làm đói, làm ngấy; xông vào cái cảm xúc, thì có thể làm xấu, làm nát,
làm núi thịt lớn có trăm ngàn con mắt, hút ăn không cùng; xông vào ý nghĩ, thì
có thể làm tro, làm chướng khí, làm gạch đá bay lên đánh nát thân thể.
Bốn là giao báo về vị, chiêm cảm
ác quả. Khi nghiệp vị ấy giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết, thấy lưới sắt
nung đỏ che khắp thế giới; thần thức người chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo
ngược đầu xuống, vào ngục Vô Gián, phát ra hai tướng: Một là nuốt vào, thì kết
thành giá lạnh, làm nứt nẻ thân thể; hai là mửa ra, thì bay lên thành lửa hồng,
đốt rụi xương tủy. Vị báo như thế, qua cái nếm, thì có thể làm nhận, làm chịu;
qua cái thấy, thì có thể làm các thứ kim thạch đốt cháy; qua cái nghe, thì có
thể làm binh khí sắc bén; qua hơi thở, thì có thể làm lồng sắt lớn che khắp cõi
nước; qua cảm xúc, thì có thể làm cung, làm tên, làm nỏ, làm bắn; qua ý nghĩ,
thì có thể làm sắt nóng bay, từ trên không rưới xuống.
Năm là giao báo về xúc, chiêu
cảm ác quả. Khi nghiệp xúc ấy giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết, thấy núi
lớn bốn mặt hợp lại, không còn đường ra; thần thức người chết thấy thành sắt
lớn, rắn lửa, chó lửa, hùm sói, sư tử, ngục tốt đầu trâu, la sát đầu ngựa, tay
cầm thương, xóc, lùa vào cửa thành, hướng về ngục Vô Gián, phát ra hai tướng :
Một là hợp xúc, thì núi kẹp ép mình, xương thịt nát ra máu; hai là ly xúc, thì
dao gươm chạm vào mình, tim gan cắt xẻ. Xúc báo như vậy, qua cái xúc, thì có
thể làm đạo, làm quán, làm sảnh, làm án; qua cái thấy, thì có thể làm đốt, làm
nung; qua cái nghe, thì có thể làm đập, làm đánh làm đâm, làm bắn; qua hơi thở,
thì có thể làm trùm, làm đẫy, làm tra, làm trói; qua cái nếm, thì có thể làm
cày, làm kiềm, làm chém, làm chặt; qua ý nghĩ, thì có thể làm rơi, làm bay, làm
nấu, làm nướng.
Sáu là giao báo về ý nghĩ, chiêu
cảm ác quả. Khi nghiệp ý ấy giao báo, thì lúc lâm chung, trước hết thấy gió dữ
thổi nát cõi nước, thần thức người chết bị thổi lên trên không xoay rơi theo
gió, sa vào ngục Vô Gián, phát ra hai tướng : Một là không biết, tột mê, thì
hoang mang, ruổi chạy không thôi; hai là không mê, hay biết, thì khổ, bị đốt
cháy không cùng, đau buốt không chịu nổi. Ý báo như thế, kết vào ý nghĩ, thì có
thể làm phương, làm sở; kết vào cái thấy, thì có thể làm gương soi, làm chứng
cứ; kết vào cái nghe, thì có thể làm đại hợp thạch, làm giá, làm sương, làm
đất, làm mù; kết vào hơi thở, thì có thể làm xe lửa lớn, làm thuyền lửa, củi
lửa; kết vào cái nếm, thì có thể làm kêu la to, làm ăn năn, làm khóc lóc; kết
vào cái cảm xúc, thì có thể làm lớn, làm nhỏ, làm cho một ngày muôn lần sống,
muôn lần chết, làm nghiêng, làm ngửa[1].
Cứ nuôi mười tập nhân địa ngục
trong tâm thì sẽ gặp sáu giao báo, tức nhân thì mười mà cảm quả báo lại có sáu.
Thế nào gọi là sáu giao báo? Sáu
giao báo là sáu thứ khổ báo, kết quả của bất thiện nghiệp phát xuất từ sáu căn
và sáu thức của chúng ta.
Có những hậu quả sẽ đến liền chứ
không có xa xôi gọi là gieo nhân tạo tội mà quả báo lập tức ngay khi chúng ta
vừa hấp hối lâm chung rời thân này. Nhưng cũng có những quả bảo phải bao nhiêu
kiếp về sau mình mới gặp. Quả đã đành rồi mà còn đợi các duyên. Những các duyên
nó chướng ngại các kết quả.
Duyên giao tiếp phát sanh cọ sát
tạo ra các báo như sau:
1. Giao báo về thấy: chiêu cảm ác quả,
khi nghiệp thấy ấy giao báo thì lúc lâm chung, trước nhất thấy lửa hồng đầy
khắp 10 phương, thần thức người chết bay rơi theo khói vào ngục vô gián:
- Một là
thấy sáng thì thấy nhiều thứ vật dữ sinh ra khiếp sợ vô cùng.
- Hai là
thấy tối, lặng vậy không thấy gì, sanh ra hoảng hốt vô hạn
- Lửa thấy như thế đốt cái nghe
thì có thể làm vạc dầu sôi, làm nước đồng chảy
- Đốt hơi thở thì có thể làm
khói đen, lửa đỏ
- Đốt cái nếm thì có thể làm
viên tròn nung đỏ, làm cơm sắt
- Đốt cảm xúc thì có thể làm tro
nóng, lò than
- Đốt tâm ý thì có thể sinh ra
sao lửa rưới khắp, làm rung động cả cõi hư không.
Tội chính từ con mắt, khởi tâm
ăn cắp, nên mạng chung giao báo có những cảm báo về cái thấy. Thế là tội quả
báo về cái thấy. Một là thấy sáng và hai là thấy tối, chứ không phải người này
lần lượt thấy hai thứ. Đã đành là chúng ta thấy phải do hai trần sáng và tối,
thế nhưng nếu mình làm tội, nó lại y theo chỗ đó mà có quả báo khác nhau. Thế ở
đây lửa thấy này đốt cái thấy, đốt cái nghe, hơi thở, cái nếm, đốt cái xúc và
tâm ý.
2. Giao báo về nghe: chiêu cảm ác quả,
khi nghiệp nghe ấy giao báo thì lúc lâm chung, trước hết thấy sóng cuộn chìm
ngập trời đất; thần thức người chết, sa xuống theo dòng vào ngục vô gián, phát
ra hai tướng:
- Một là nghe tỏ, nghe các thứ
ồn ào, tinh thần rối loạn.
- Hai là điếc hẳn, lặng lẽ không
nghe gì, thần thức chìm lịm.
- Sóng như thế rót vào cái nghe
thì có thể làm trách, làm hỏi;
- Rót vào cái thấy thì có thể làm sấm làm thét, làm
hơi độc dữ.
- Rót vào hơi thở thì có thể làm
mưa, làm mù, rưới các sâu độc đầy khắp thân thể.
- Rót vào các vị thì có thể làm
mủ, làm huyết, các thứ nhơ nhớp.
- Rót vào cảm xúc thì có thể làm
con súc, làm con quỷ, làm phân làm nước tiểu.
- Rót vào ý nghĩ thì có thể làm
chớp, làm mưa đá, đập nát tâm thức.
Nghe thuộc về động và tĩnh cho
nên là về sóng về nước. Một là nghe tỏ rõ, hai là điếc rặt. Vì sao nghe tại quả
báo địa ngục có cái sợ hãi về động là đúng rồi, còn đằng này vẵng lặng như tờ
và sợ hãi về cái vắng lặng đó? Thế nào là rút vào cái nghe và cái thấy?
Nếu thấy tối mà có tội thì người
đi ăn trộm ban đêm hay tìm cái tối để làm gì? đây nói chỗ vi tế cho chúng ta nhận
thấy. Quả báo của chúng ta bởi vì nó từ tâm mình nó phát ra. Nó tỉ mỉ từng một
từng một cái, phải có thời gian, phải tìm thời gian để ý và suy ngẫm.
Trong cái nghe có khi từ chỗ
động mà mình tạo tội. Cái nghe là nó đối với lời nói. Cái âm thầm lặng lẽ, cái
mưu mô của chúng ta yên tịnh vắng vẻ, bí mật, mới có những mưu mô để mà bật ra
những tội ác. Những bậc xuất gia cũng nhờ yên tĩnh, im lặng, thanh tịnh mà thấy
được lẽ đạo. Những người giỏi về những chuyện đi làm những việc ác ở cái tĩnh
lặng, có những mưu mô, phát những mưu mô để mà xoay sở những người khác. Ăn
trộm nghe tĩnh rồi, mọi người ngủ rồi, liền vào ăn trộm là từ tĩnh tạo tội thì
khi người ấy bị quả báo thì sẽ từ cái tĩnh mà có ra những sợ hãi thì người ấy
lúc lâm chung sẽ gặp quả báo về cái tĩnh.
3. Giao báo về ngửi: chiêu cảm ác quả,
khi nghiệp ngửi ấy giao báo thì lúc lâm chung trước hết thấy hơi độc đầy dẫy xa
gần, thần thức người chết từ dưới đất trồi lên, vào ngục vô gián, phát hiện ra
hai tướng:
- Một là ngửi thông, bị các hơi
dữ xông tột bực, làm cho tâm rối loạn.
- Hai là ngạt mũi, hơi thở ngạt
không thông, nằm chết giấc dưới đất. Hơi ngửi như thế xông vào, xông vào hơi
thở, thì có thể làm thông, làm ngạt, xông vào cái thấy, thì có thể làm lửa, làm
đuốc.
- Xông vào cái nghe thì có thể làm
chìm ngập, làm chết đuối, làm nước lớn, làm nước sôi.
- Xông vào cái vị thì có thể làm
đói, làm ngấy.
- Xông vào cảm xúc thì có thể
làm xấu, làm nát, làm núi thịt lớn có trăm ngàn con mắt hút ăn không cùng.
- Xông vào ý nghĩ thì có thể làm
tro, làm chướng khí, làm gạch đá bay lên đánh nát cơ thể.
4. Giao báo về vị: chiêu cảm ác quả,
khi nghiệp vị ấy giao báo, thì lúc lâm chung trước hết thấy lưới sắt nung đỏ
che khắp thế giới; thần thức người chết từ dưới đất tung lên, mắc lưới treo
ngược đầu xuống vào ngục vô gián, phát ra hai tướng:
- Một là nuốt vào thì kết thành
giá lạnh, làm nứt nẻ thân thể.
- Hai là mửa ra thì bay lên
thành lửa hồng, đốt rụi xương tủy. Vị báo (quả báo của vị) như thế, qua cái nếm
thì có thể làm nhận, làm chịu.
- Qua cái thấy thì có thể làm
các thứ kim thạch đốt chảy.
- Qua cái nghe thì có thể làm
bình khí sắc bén.
- Qua hơi thở thì có thể làm
lồng sắt lớn che khắp cõi nước.
- Qua cảm xúc thì có thể làm
cung, làm tên, làm nỏ, làm bắn.
- Qua ý nghĩ thì có thể làm sắt
nóng bay từ trên không rưới xuống.
Đây là chiêu cảm ác quả về vị,
về tội của cái lưỡi: bởi thọ lãnh, ăn vào những món ăn làm đau đớn thân xác
chúng sanh, mình nuốt mình nhai, chính cái đó mà nay chịu cái khổ, lãnh cái khổ
về cái lưỡi.
5. Giao báo về xúc: chiêu
cảm ác quả, khi nghiệp xúc ấy giao báo thì lúc lâm chung, trước hết, thấy núi
lớn bốn mặt hợp lại, không còn đường ra; thần thức người chết thấy thành sắt
lớn, rắn lửa, chó lửa... tay cầm thương, xóc, lùa vào cửa thành, hướng về ngục
vô gián, phát ra hai tướng:
- Một là hợp xúc thì núi kẹp ép
mình, xương thịt nát ra máu.
- Hai là ly xúc thì dao gươm
chạm vào mình, tim gan cắt xẻ. Xúc báo như vậy, qua cái xúc thì có thể làm đạo,
làm quân, làm sảnh, làm án.
- Qua cái thấy thì có thể làm
đốt, làm nung.
- Qua cái nghe thì có thể làm
đập, làm đánh, làm đâm, làm bắn.
- Qua hơi thở thì có thể làm
trùm, làm đẫy, làm tra, làm trôi.
- Qua cái nếm thì có thể làm
cây, làm kềm, làm chém, làm chặt.
- Qua ý nghĩ thì có thể làm rơi,
làm bay, làm nấu, làm nướng.
6. Giao báo về ý nghĩ: chiêu
cảm ác quả, khi nghiệp ấy giao báo thì lúc lâm chung, trước hết thấy gió dữ
thổi nát cõi nước, thần thức người chết bị thổi lên trên không xoay rơi theo
gió, sa vào ngục vô gián, phát ra hai tướng:
- Một là không biết, tột mê thì
hoang mang, ruổi chạy không thôi
- Hai là không mê, hay biết, thì
khổ bị đốt cháy không cùng, đau buốt không chịu nổi. Ý báo (quả báo của ý) như
thế, kết vào ý nghĩ thì có thể làm phương, làm sở
- Kết vào cái thấy thì có thể
làm gương soi, làm chứng cứ
- Kết vào cái nghe thì có thể
làm đại hợp thạch, làm giá, làm sương, làm đất, làm mù
- Kết vào hơi thở thì có thể làm
xe lửa lớn, làm thuyền lửa, cũi lửa
- Kết vào cái nếm thì có thể làm
kêu la to, làm ăn năn, làm khóc lóc
- Kết vào cái cảm xúc thì có thể
làm lớn, làm nhỏ, làm cho một ngày muôn lần sống, muôn lần chết, làm nghiêng,
làm ngửa.
Quả báo từ nơi cái thấy thì cảm
trong địa ngục chiếu soi như gương soi thấy tất cả chứng cứ một đời thiện ác
của mình, không dối trá che dấu gì được.
Thấy có những người làm chứng,
có những vật làm chứng cứ, thấy có cõi địa ngục, vua Diêm Vương tra xét, chứng
cứ cho mình phải cúi đầu nhận tội. Còn ở cái nghe thì nghe làm giá rét, làm
những thứ lạnh băng. Những các quả báo này hiện lên. Cái này chỉ từ mắt Phật
(Phật nhãn) mới thấy chứ mình đâu biết gì. Rơi vào địa ngục Vô gián là tội
chính. Còn đây là những căn phụ. Dĩ nhiên số đông là các sáu căn lãnh tội.
A Nan,
thế gọi là 10 nhân và 6 quả của địa ngục, nhân quả ấy đều do mê vọng của chúng
sinh tạo ra.
Nếu các chúng sinh, sáu căn đồng
tạo nghiệp dữ, thì vào ngục A Tỳ, chịu khổ vô cùng trong vô lượng kiếp; nếu
từng mỗi căn tạo ra và nghiệp dữ đã gồm cả cảnh và căn thì người ấy vào 8 ngục
Vô Gián. Nếu cả thân, khẩu, ý làm việc sát, đạo, dâm, thì người ấy vào thập bát
địa ngục; không đủ cả ba nghiệp thân, khẩu, ý, hoặc trong ấy chỉ làm một việc
sát, hoặc một việc đạo, thì người ấy vào trong tam thập lục địa ngục; chỉ có
một căn, riêng làm một việc, thì người ấy vào nhất bách bát địa ngục.
Do những chúng sinh ấy riêng gây
ra nghiệp, nên vào chỗ đồng phận trong giới ấy; đó đều do vọng tưởng phát sinh
ra, không phải bản lai tự có[2].
Đức Phật kết lại mười nhân và
sáu quả địa ngục, nhân quả ấy đều do mê vọng của chúng sanh tạo ra.
- Nếu các chúng sinh, sáu căn
đồng tạo nghiệp dữ, thì vào ngục A Tỳ,
- Nếu từng mỗi căn tạo ra và
nghiệp dữ đã gồm cả cảnh và căn thì người ấy vào tám ngục Vô Gián,
- Nếu cả thân, khẩu, ý làm việc
sát, đạo, dâm, thì người ấy vào mười tám địa ngục,
- Không đủ cả ba nghiệp thân,
khẩu, ý, hoặc trong ấy chỉ làm một việc sát, hoặc một việc đạo, thì người ấy
vào trong ba mươi sáu địa ngục,
- Chỉ có một căn, riêng làm một
việc, thì người ấy vào một trăm lẻ tám địa ngục.
Tất cả đều do những chúng sinh
ấy riêng gây ra nghiệp, nên vào chỗ đồng phận cộng nghiệp trong cảnh giới ấy.
Đó đều là do vọng tưởng phát sinh ra, chứ không phải bản lai tự có, đều do cái
hốt nhiên bất giác, sanh tướng vô minh do mình nhặm mắt mà hoá ra, chứ bầu trời
vẫn trong sáng bao la. Tâm pháp nếu quên thì tánh chân hiển bày.
Ngân cấu tận trừ quang thỉ hiện
Tâm pháp song vong tánh tức chân
Nghĩa:
Khi nào bụi hết gương trong lại
Tâm pháp đều quên tánh tức chân.
(Thiền
sư Vĩnh Gia)
CÁC DƯ BÁO: Lại nữa, A Nan, các
chúng sinh đó, nếu không phải gây tội chê phá luật nghi, phạm Bồ Tát giới, hủy
báng Niết Bàn của Phật, mà chỉ phạm những nghiệp phức tạp khác, thì sau khi bị
đốt cháy nhiều kiếp, đền tội hết rồi, thì chịu những hình quỷ.
Nếu nơi bản nhân, do tham vật mà
làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp vật thành hình gọi là Quái quỷ;
Do tham sắc mà làm ra tội, thì người
ấy đền tội hết rồi, gặp gió thành hình, gọi là Bạt quỷ;
Do tham dối trá mà làm ra tội,
thì người ấy đền tội hết rồi, gặp giống súc thành hình, gọi là Mỵ quỷ;
Do tham nóng giận mà làm ra tội,
thì người ấy đền tội hết rồi, gặp con sâu thành hình, gọi là Cổ độc quỷ;
Do tham thù oán mà làm ra tội,
thì người ấy đền tội hết rồi, gặp vận suy kẻ thù mà thành hình, gọi là Lệ quỷ;
Do tham ngã mạn mà làm ra tội,
thì người ấy đền tội hết rồi, gặp khí thành hình, gọi là Ngạ quỷ;
Do tham lừa gạt mà làm ra tội,
thì người ấy đền tội hết rồi, gặp u uẩn thành hình, gọi là Áp quỷ;
Do tham ái kiến mà làm ra tội,
thì người ấy đền tội hết rồi, gặp tinh hoa thành hình, gọi là Vọng lượng quỷ;
Do tham vu vạ mà làm ra tội, thì
người ấy đền tội hết rồi, gặp linh hiển thành hình, gọi là Dịch sử quỷ;
Do tham bè phái che giấu mà làm
ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp con người thành hình, gọi là Truyền
tống quỷ.
A Nan, những người đó đều vì
thuần tình phải đọa lạc, khi lửa nghiệp đốt sạch rồi, thì lên làm quỷ; như thế đều
do cái nghiệp vọng tưởng tự mình chuốc lấy; nếu ngộ được tính Bồ đề, thì nơi
tính Diệu viên minh, vốn không có gì.
Lại nữa, A Nan, khi nghiệp quỷ
đã hết, tình và tưởng cả hai đều thành không, thì mới ở nơi thế gian, cùng với
người mắc nợ cũ, oán đối gặp nhau; thân làm súc sinh để trả nợ cũ.
Quái quỷ theo vật, vật tiêu báo
hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim kiêu.
Bạt quỷ theo gió, gió tiêu báo
hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm tất cả những loài cữu trưng kỳ dị.
Mỵ quỷ theo súc, súc chết báo
hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài hồ.
Cổ quỷ theo sâu, sâu diệt báo
hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài có độc.
Lệ quỷ theo vận suy, suy tột báo
hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài giun.
Ngạ quỷ theo khí, khí tiêu báo hết,
sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài cung cấp thịt ăn.
Áp quỷ theo u ẩn, u ẩn tiêu báo
hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài cung cấp đồ mặc.
Vọng lượng quỷ theo tinh hoa,
tinh hoa tiêu báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm các loài chim mùa.
Dịch sử quỷ theo sự linh hiển,
linh hiển diệt báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm tất cả các loài hưu
trưng.
Truyền tống quỷ theo người,
người chết báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm các loài quấn quít bên
người.
A Nan,
bọn ấy đều do lửa nghiệp đốt xong, sinh ra loài súc, trả hết nợ cũ; như thế,
đều do những nghiệp hư vọng của tự mình chuốc lấy; nếu ngộ được tính Bồ đề, thì
các vọng duyên đó vốn không có gì.
Như lời thầy nói, cô Bảo Liên
Hương, Lưu Ly Vương, Thiện Tinh Tỷ Khưu đều vốn tự mình gây ra nghiệp dữ;
nghiệp ấy không phải từ trên trời sa xuống, từ dưới đất phát ra và cũng không
phải do người khác đưa tới, mà chính do vọng tưởng của tự mình gây ra, rồi tự
mình phải chịu quả báo; nơi tâm Bồ đề, đó chỉ là sự kết động của vọng tưởng giả
dối.
Lại nữa, A Nan, các súc sinh ấy
đền trả nợ trước, nếu trong lúc trả nợ, trả quá nợ cũ, thì những chúng sinh ấy,
trở lại làm người, đòi lại chỗ thừa. Nếu bên kia có sức, lại có cả phúc đức,
thì ở trong loài người, không rời bỏ thân người, mà hoàn lại chỗ thừa đó; còn
nếu không phúc đức, thì phải làm súc sinh đền lại chỗ thừa.
A Nan, nên biết, nếu dùng tiền
của hoặc sức người ta, thì đền đủ là xong; còn như trong ấy, có giết thân mạng,
hoặc ăn thịt kẻ khác, như thế, thì đi đến ăn nhau, giết nhau, trải qua nhiều
kiếp, số như vi trần, cũng như bánh xe xoay vần, thay đổi bên cao, bên thấp,
không có dừng nghỉ; trừ khi được phép Sa ma tha, hoặc gặp Phật ra đời, thì
không thể thôi được.
Nay thầy nên biết loài chim kiêu
kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng ngoan
cố.
Giống cữu trưng kia, trả nợ đủ,
trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng quái dị.
Những loài hồ kia, trả nợ đủ,
trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng ngu dại.
Những loài có độc kia, trả nợ
đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng nham hiểm.
Những loài giun kia, trả nợ đủ,
trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng hèn nhát.
Những loài cung cấp thịt ăn kia,
trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng nhu nhược.
Những loài cung cấp đồ mặc kia,
trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng lao lụy.
Những loài chim mùa kia, trả nợ
đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng văn hoa.
Những loài hưu trưng kia, trả nợ
đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng thông minh.
Những loài quấn quít theo người
kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng thông
đạt.
A Nan, bọn ấy trả hết nợ cũ, trở
lại hình người, đều do từ vô thỉ đến nay, điên đảo gây nghiệp, vay trả thừa
thiếu, sinh nhau, giết nhau; nếu không gặp Như Lai, không nghe chính pháp, thì
ở trong trần lao, máy móc xoay vần mãi mãi; bọn ấy thật là đáng thương xót[3].
Các chúng sinh tạo ác nghiệp đó,
nếu không phải gây tội chê phá luật nghi, phạm Bồ Tát giới, hủy báng Niết Bàn
của Phật, mà chỉ phạm những nghiệp phức tạp khác, thì sau khi bị đốt cháy nhiều
kiếp, bị đền tội hết rồi, thì tái sanh vào kiếp quỷ.
- Quái quỷ: nếu nơi bản nhân, do
tham vật mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp vật thành hình gọi là
Quái quỷ;
- Bạt quỷ: do tham sắc mà làm ra
tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp gió thành hình;
- Mỵ quỷ: do tham dối trá mà làm
ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp giống súc thành hình;
- Cổ độc quỷ: do tham nóng giận
mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp con sâu thành hình;
- Lệ quỷ: do tham thù oán mà làm
ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp vận suy kẻ thù mà thành hình;
- Ngạ quỷ: do tham ngã mạn mà
làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp khí thành hình;
- Áp quỷ: do tham lừa gạt mà làm
ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp u uẩn thành hình;
- Vọng lượng quỷ: do tham ác
kiến mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp tinh hoa thành hình;
- Dịch sử quỷ: do tham vu vạ mà
làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp linh hiển thành hình;
- Truyền tống quỷ: do tham bè
phái che giấu mà làm ra tội, thì người ấy đền tội hết rồi, gặp con người thành
hình. Người bị ma quỷ ám, thành đồng bóng nói chuyện hoạ phúc may rủi chẳng hạn
cho nên gọi là truyền tống quỷ. Hiện tại đang lên đồng lên bóng, nhưng nếu ngộ
bồ đề thì vốn không có gì.
Những chúng sanh đó đều vì thuần
tình phải đọa lạc, khi lửa nghiệp đốt sạch rồi, thì lên làm quỷ; như thế đều do
cái nghiệp vọng tưởng tự mình chuốc lấy; nếu ngộ được tính Bồ đề, thì nơi tính
Diệu viên minh, vốn không có gì.
Khi nghiệp quỷ đã hết, tình và
tưởng cả hai đều thành không, thì mới ở nơi thế gian, cùng với người mắc nợ cũ,
oán đối gặp nhau; thân làm súc sinh để trả nợ cũ.
- Chim kiêu: quái quỷ theo vật,
vật tiêu báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim kiêu.
- Cữu trưng kỳ dị: bạt quỷ theo
gió, gió tiêu báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm tất cả những loài cữu
trưng kỳ dị.
- Loài hồ: mỵ quỷ theo súc, súc chết
báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài hồ.
- Loài có độc: cổ quỷ theo sâu,
sâu diệt báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài có độc.
- Loài giun: lệ quỷ theo vận
suy, suy tột báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài giun.
- Loài cung cấp thịt ăn: ngạ quỷ
theo khí, khí tiêu báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài cung cấp
thịt ăn.
- Loài cung cấp đồ mặc: áp quỷ
theo u ẩn, u ẩn tiêu báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm loài cung cấp
đồ mặc.
- Loài chim mùa: vọng lượng quỷ
theo tinh hoa, tinh hoa tiêu báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm các
loài chim mùa.
- Loài hưu trưng: dịch sử quỷ
theo sự linh hiển, linh hiển diệt báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều làm
tất cả các loài hưu trưng.
- Loài quấn quít bên người:
truyền tống quỷ theo người, người chết báo hết, sinh nơi thế gian, phần nhiều
làm các loài quấn quít bên người.
Các chúng sanh này đều do lửa
nghiệp đốt xong, sinh ra loài súc, trả hết nợ cũ; như thế, đều do những nghiệp
hư vọng của tự mình chuốc lấy; nếu ngộ được tính Bồ đề, thì các vọng duyên đó
vốn không có gì.
Như cô Bảo Liên Hương, Lưu Ly
Vương, Thiện Tinh Tỷ Khưu đều vốn tự mình gây ra nghiệp dữ; nghiệp ấy không
phải từ trên trời sa xuống, từ dưới đất phát ra và cũng không phải do người
khác đưa tới, mà chính do vọng tưởng của tự mình gây ra, rồi tự mình phải chịu
quả báo; nơi tâm Bồ đề, đó chỉ là sự kết động của vọng tưởng giả dối.
Các súc sinh ấy đền trả nợ
trước, nếu trong lúc trả nợ, trả quá nợ cũ, thì những chúng sinh ấy, trở lại
làm người, đòi lại chỗ thừa. Nếu bên kia có sức, lại có cả phúc đức, thì ở
trong loài người, không rời bỏ thân người, mà hoàn lại chỗ thừa đó; còn nếu
không phúc đức, thì phải làm súc sinh đền lại chỗ thừa.
Như vậy, nếu dùng tiền của hoặc
sức người ta, thì đền đủ là xong; còn như trong ấy, có giết thân mạng, hoặc ăn
thịt kẻ khác, như thế, thì đi đến ăn nhau, giết nhau, trải qua nhiều kiếp, số
như vi trần, cũng như bánh xe xoay vần, thay đổi bên cao, bên thấp, không có
dừng nghỉ; trừ khi được phép Sa ma tha, hoặc gặp Phật ra đời, thì không thể
thôi được.
- Người ngoan cố: chúng ta nên
biết loài chim kiêu kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo,
tham hợp hạng ngoan cố.
- Người quái dị: giống cữu trưng
kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng quái dị.
- Người ngu dại: những loài hồ
kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng ngu dại.
- Người nham hiểm: những loài có
độc kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng nham
hiểm.
- Người hèn nhát: những loài
giun kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng hèn
nhát.
- Người nhu nhược: những loài
cung cấp thịt ăn kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham
hợp hạng nhu nhược.
- Người lao lụy: những loài cung
cấp đồ mặc kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp
hạng lao lụy.
- Người văn hoa: những loài chim
mùa kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng văn
hoa.
- Người thông minh: những loài hưu
trưng kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo, tham hợp hạng
thông minh.
- Người thông đạt: những loài
quấn quít theo người kia, trả nợ đủ, trở lại hình người, sinh trong nhân đạo,
tham hợp hạng thông đạt.
Các chúng sanh ấy trả hết nợ cũ,
trở lại hình người, đều do từ vô thỉ đến nay, điên đảo gây nghiệp, vay trả thừa
thiếu, sinh nhau, giết nhau; nếu không gặp Như Lai, không nghe chính pháp, thì
ở trong trần lao, máy móc xoay vần mãi mãi; bọn ấy thật là đáng thương xót.
Như vậy, chúng ta thấy sự tái
sanh một loài nào với đặc tánh, đặc điểm nào đều liên quan đến cái nhân quá khứ
và do nhân quá khứ mà tạo thành cái quả hiện tại. Nhân hiện tại làm quả vị lai
như mắc xích dây chuyền của 12 khoen xoay vòng tròn mãi không dứt.
Do các sát đạo dâm vọng khiến
chúng ta đọa địa ngục. Hết địa ngục thì lên làm quỷ. Do nghiệp báo mà thấy ra
nào địa ngục, nào cõi ma quỷ, nào súc sanh, nào dạng người tương ưng. Nếu nhận
ra được tánh bồ đề mà sống với tánh của mình thì những nghiệp báo tan hết.
Chuyện nghiệp báo này là chuyện hư vọng.
Những chuyện mờ mịt nhân quả này
chỉ có Đức Phật mới biết thôi. Thế đấy, giờ oán đối gặp nhau để trả nợ chỉ qua
là tội báo, giờ phải trả nợ nhau. Đức Phật nhìn rõ tường tận và chỉ ra.
Tình tưởng đều trả xong tức là
đã vào địa ngục chịu bao nhiêu khổ rồi, làm thân quỷ cũng chịu bao nhiêu khổ
rồi. Chuyện cũ đã quên hết rồi thì coi như đền tội xong rồi, bây giờ chỉ còn
chút dư báo xót lại được lên dương thế làm thân các loài vật để mà trả nợ nhỏ
cho hết, rồi mới lên làm người.
Những người tạo mười tập nhân
như dâm dục, tham lam, ngã mạn, nóng giận, giả dối dụ dỗ, lừa gạt, thù oán, ác
kiến, vu vạ và cãi vã mà còn kèm theo những tội chê phá luật nghi. Phá giới tội
còn nhẹ, chứ chê phá luật nghi tội càng nặng hơn. Chê phá luật nghi đây tức là
phá kiến, tức là mình phạm giới và khiến cho mọi người, người ta bắt chước
mình, cho nên cái phá kiến nó nặng hơn. Như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm nói cô
tỳ-kheo-ni Bảo-liên-hương cho là ái nhiễm giao hợp giữa nam nữ không có tội gì
hết. Nên khi chết, cô liền bị đọa vào địa ngục do tội phá kiến và phá giới.
Những người phá kiến thì sẵn
sàng phá giới, tức do chỗ hiểu sai đưa đến hành động sai. Nên mệnh chung thần
thức liền đọa vào địa ngục, sau đó làm quỷ rồi mới lên làm súc sanh chó mèo.
Lang thang ở ba cõi tam đồ địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh, từ loài này sang loài
khác, biết bao đọa lạc. Nguyễn Du đã thương cảm than rằng:
Ðoàn vô tự lạc loài nheo nhóc
Quỉ không đầu van khóc đêm mưa.
Cho nên chúng ta gặp những loài
này thì cố gắng nhất tâm niệm Phật cho ma quỷ sớm thoát kiếp khổ.
Khi làm thân loài vật trả quá nợ
cũ rồi (trả nhiều hơn cái mình thiếu) thì khi lên làm người sẽ đòi nợ cũ tức
người chủ sẽ thành món nợ của mình. Chúng ta nghe về pháp Sa-ma-tha phân biệt
rõ ràng chân và vọng. Những sự tướng ở thế gian toàn là hư vọng cả, chỉ có tánh
Phật là sự thật thì không có tiếc thân mạng liền dứt được sự dây dưa. Lên làm
nô lệ để trả nợ tức là trả bằng công sức lao động.
Tiền và sức khoẻ có thể trả nợ
thế được nhưng mà nợ thân mạng và máu thịt (giết chết mạng người tức cắt đi
mạng căn của người) thì theo văn kinh nói phải trả bằng nợ mạng, nợ máu mà
thôi.
A ăn thịt B thì mai sau B lại sẽ
ăn thịt A. Rồi A nếu không hiểu không giải sanh oán thù, giết lại B, cứ thế A
giết B, B giết A. Như ăn thịt con gà, con dê; dê chết làm người, người chết làm
dê bị người ăn thịt lại. Oán thù lại chập chùng, lại đòi nợ và không dứt hết
được. Do vậy trải trăm ngàn kiếp thường ở trong đường sống chết, bởi vì nợ thịt
và nợ mạng không dứt.
Nợ thân mạng và nợ máu thịt trải
vi trần kiếp vẫn còn, chỉ khi nào mình được pháp Sa-ma-tha dạy cho chúng ta
nhận được thân tội báo, nó là cái báo chướng, nó là cái khổ nạn, đừng vì nó mà
tạo nghiệp.
Pháp Sa-ma-tha lại còn dạy cho
chúng ta biết tất cả mọi loài chúng sanh đồng thể thường trụ bình đẳng, cho nên
không sanh lòng oán thù. Sự hiểu biết này sẽ làm vơi nhẹ oán thù đi và biến
lòng thù oán thành tình thương bao la. Còn nếu không thì do tiếc thân mạng của
mình, chấp là thân thật thì oán thù vẫn là lòng oán thù, vẫn dây dưa mãi, may
gặp Đức Phật ra đời Đức Phật dạy Phật pháp cho chúng ta, chỉ cho chúng ta đường
đi của nhân quả để mà tránh.
Khi nào có trí tuệ Bát nhã biết
thân là cái không có, tâm đang chấp ngã đây là cái không có, nên cố gắng tỉnh
ra. Rồi biết thân người cũng không có, chỉ có ràng buộc. Trả nợ rồi nhưng lòng
vẫn oán thù, vẫn còn hận, nên thần thức vẫn đi theo người kia để báo oán, lại
phải trả nợ thêm cho hết, chứ không phải người được trả nợ rồi là oán cũng hết
đâu, vì tâm người kia chưa buông xả. Trả hận rồi mà chưa nguôi.
Bởi nếu trong lúc người ta giết
mình, mình không biết đó là mình trả nợ, nên tâm oán thù ấy cứ theo dõi người
kia, vì vậy lúc người kia bị anh này phá thì người ta cũng oán. Thân mạng này
là quan trọng, là quý lắm, nên xâm phạm là tội nặng khủng khiếp. Chẳng những nợ
mạng mà nợ máu thịt ăn thịt súc vật, ăn dùng thân phần súc vật vẫn là oán đối
thân phần, nợ năm lạng thịt thì trả năm lạng thịt.
Thịt heo bán ngoài chợ, cả trăm
ngàn người ăn thì cả trăm người trả nợ, cho nên cứ ăn nhau, cứ giết nhau mãi.
Nếu mình uống sữa con bò thì mai mốt mình trả nhau bằng cái gì? Mình cũng có nợ
nhưng không nợ mạng, không độc ác không nợ nặng nhưng vẫn có là dùng vật của
nó, nghĩa là vay sao thì trả vậy.
Đây là quả báo, sáu thứ khổ báo,
kết quả của bất thiện nghiệp phát xuất từ sáu căn và sáu thức của chúng ta. Cho
nên vua Trần Nhân Tông mới soạn bản kinh Sám hối lục căn và trong nhà thiền mỗi
buổi sáng đọc bản kinh này để sám hối các tột lỗi từ thô đến tế do sáu căn của
mình gây ra dù vô tình hay cố ý tạo ra cũng đều xin sám hối hết.
Đây là tuệ nhãn, Phật nhãn Đức
Phật mới thấy rõ đường đi nước bước của đường nhân quả, của từng cảnh giới quả
báo mà sáu căn sẽ lãnh thấy khi lâm chung lúc tâm thức mờ mịt.
Chúng ta mang ơn Phật vô cùng đã
từ bi chỉ cho chúng ta, những chúng sanh vô minh lao mình trong đêm tối.
Trong cuốn Sống chết bình an[4]
tức trích đoạn của Tạng Thư Sống Chết, các thiền sư Tây tạng bằng định lực, chỉ
bậc tu hành thật cao mới nhận được, thấy rõ trạng thái lâm chung, nếu hiện
nghiệp là nghiệp lành, thiện nghiện thì thân trung ấm an vui. Còn nếu hiện đời
tạo ác thì khi trút hơi thở, người chết thấy có những cảnh giới, những trạng
thái hiện ở sáu căn như sau:
- “Khi vừa tắt hơi, ánh sáng căn
bản xuất hiện
- Thân trung ấm cao bằng thằng
bé từ 8 đến 10 tuổi rất mạnh khoẻ nhanh sáng (dù người chết có thể là già lão
què mù).
- Thân trung ấm lang thang kinh
hoảng hệt như người ở trong giấc mộng và nghe tiếng núi lở ngay sau lưng, tiếng
thác nước lớn gầm, tiếng hỏa diệm sơn phun lửa, tiếng gió bão thét.
- Thân trung ấm trong bóng tối
kinh hoàng cố chạy thoát lại bị tấn công bằng những trận mưa đá toàn máu mủ, bị
ám ảnh bởi những âm thanh la hét của ma quỷ, bị yêu quái và thú dữ săn đuổi.
Trước mặt luôn luôn có ba cái hố thẳm sâu. Cứ thế gió nghiệp cuốn trôi, không
nơi vịn níu.
- Những cuồng phong đẩy trung ấm
đi. Bị kinh hoảng ngốn ngấu, bị thổi dạt như những nhụy hoa bay trước gió,
trung ấm lang thang vô vọng, tìm nơi trú ẩn”.
Như vậy, chúng ta thấy những gì
các tổ Tây Tạng đã thấy ở đây cũng giống như những gì Đức Phật đã nói tỉ mỉ
cách đây 26 thế kỷ. Chúng ta mắt thường không thấy được nhưng chúng ta hiểu và
tin một khi đừng động loạn, giới hạnh thanh tịnh, định tâm sáng tỏ thì tuệ nhãn
sẽ sáng.
[1] Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 700-705.
[2] Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 706-7.
[3] Kinh
Thủ Lăng Nghiêm, tr. 708-13.
[4]
Sống Chết Bình An (từ cuốn Tạng Thư Sống Chết – The Book of Dealth, Sogyal
Ripoche soạn, do ni sư Trí Hải dịch), Tỳ-kheo-ni Diệu Khiết trích đoạn, 1997,
tr. 44-7.