MỤC LỤC
Lời dịch
giả
Lời dẫn
nhập của tác giả
Chương
1: Từ việc nghiên cứu khoa học
Chương
2: Tôn giáo hay triết lý
Chương
3: Bóng ma trong chiếc hộp đen
Chương
4: Phật giáo – Khoa học của tâm linh
Chương
5: Về Phật giáo siêu hình
Chương
6: Phật giáo và phương Tây
Chương
7: Nguồn gốc của bạo động
Chương
8: Tinh thần đạo giáo và tinh thần thế tục
Chương
9: Phật giáo ảnh hưởng thế giới và bản thân
Chương
10: Phật giáo suy tàn và phục hưng
Chương
11: Đạo Phật: đức tin, nghi thức, mê tín, dị đoan
Chương
12: Phật giáo và cái chết
Chương
13: Phật giáo và phân tâm học
Chương
14: Sự tiến bộ và đổi mới
Chương
15: Nhà sư chất vấn vị triết gia
Kết luận
của vị triết gia
Kết luận
của vị sư
LỜI DỊCH
GIẢ
Do một sự
tình cờ may mắn, tôi đọc được quyển “Le moine et le philosophe” của Jean
François Revel vàMatthieu- vốn là hai cha con.
Jean Francois Revel vốn là viện
sĩ viện Hàn lâm Pháp, giáo sư triết học còn Matthieu Ricard là Tiến sĩ sinh vật
học tại viện Pasteur Paris. Hai ông này vốn không xa lạ gì với nền văn học Pháp
đương đại.
Toàn bộ nội dung quyển sách là
việc trao đổi quan điểm của hai người về mọi khía cạnh liên quan đến Phật giáo.
Cuộc đối thoại hào hứng, sôi nổi, phong phú giữa hai con người mà một vốn là
một triết gia vô thần và người kia là một khoa học gia tầm cỡ bỗng nhiên cắt
ngang sự nghiệp khoa học của mình để sang Tây Tạng theo học Phật giáo rồi trở
thành tu sĩ và hiện là thị giả của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Quyển sách này đã đem lại cho
độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn
toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ. Với vốn ngoại
ngữ cũng như kinh nghiệm Phật học còn rất hạn chế, bản dịch chắc chắn còn nhiều
sơ sót, rất mong các bậc cao minh tri túc trong và ngoài đạo vui lòng chỉ giáo.
Thâm tạ
Bác
sĩ Hồ Hữu Hưng
NHÀ SƯ
VÀ TRIẾT GIA
Dẫn nhập
của tác giả
Từ đâu
nảy sinh các ý tưởng làm nên quyển sách này. Từ đâu mà có nhu cầu phải thực
hiện nó.Và từ những động lực tinh thần nào- như các chính trị gia thường nói-
đã thúc đẩy chúng tôi nghĩ đến việc này. Nếu chỉ một mình tôi viết lời dẫn nhập
này, chẳng qua là vì sự tiện lợi trong việc sử dụng ngữ pháp. Và nếu không có
những lời rào đón quanh co, thật khó mà ghi chú một đề tài hấp dẫn cả hai con
người- một đề tài xuất phát từ những động cơ trái ngược. Những cuộc đàm thoại
sau đây có mục đích nêu rõ sự khác biệt song hành đó. Nếu tôi là người viết
tiền đề này, thì Matthieu là đồng tác giả vì chúng tôi đã trao đổi với nhau từ
trước và Matthieu đã đọc lại, sửa chữa, bổ sung theo cách nhìn của Matthieu.
Bỏ qua những sự thừa thãi vô ích
về những gì sẽ được trình bày rộng rãi qua các cuộc nói chuyện, tôi xin tóm tắt
về cuộc gặp gỡ tâm linh của hai cá nhân, từ đó nảy sinh ra ý niệm về việc sáng
tác quyển sách này.
Con tôi, Maurice Ricard sinh năn
1946, tốt nghiệp trung học tại trường trung học Janson De Sailly, đã theo học
khóa sinh vật phân tử, và sau một quá trình học tập xuất sắc, đã đưa nó đến học
vị Tiến sĩ quốc gia sinh học vào năm 1972. Chủ tịch hội đồng chấm thi luận án
là Francois Jacob, một nhà khoa học nổi danh, giải Nobel về sinh vật học. Dưới
sự dẫn dắt của ông này, Mathieu đã lao vào những cuộc nghiên cứu khoa học nhiều
năm tại viện Pasteur. Sau đó Matthieu đã cho chúng tôi biết (thầy nó và tôi) và
hai chúng tôi đã quá ngỡ ngàng, ý định của nó muốn rời bỏ công tác khoa học để
đi châu Á theo học về Phật Giáo Mật Tông ở Tây Tạng, và cuộc đời nó đảo lộn từ
đây. Nó trở thành một tu sĩ Phật giáo.
Phần tôi, tôi đeo đuổi sự nghiệp
đại học cốt yếu là về văn chương và triết học. Tôi đã dạy triết ở đại học nhiều
năm, và đã rời đại học vào năm 1963 để chuyên vào lãnh vực viết văn và xuất
bản. Tôi cũng không vì thế mà xao lãng triết học, và tôi cũng viết nhiều.
Khác hẳn các triết gia khác, tôi
luôn luôn hết sức chú tâm vào sự phát triển khoa học. Do đó mà tôi rất hài lòng
khi có một người con là một khoa học gia tầm cỡ. Và tôi cũng rất thất vọng, khi
thấy nó chấm dứt ngang cuộc khởi đầu đầy hứa hẹn. Quan điểm của cá nhân tôi là
hoàn toàn phi tôn giáo và vô thần, do đó không cho phép tôi quan tâm nhiều đến
Phật giáo, mặc dù tôi không hề ghét bỏ nó, vì rõ ràng Phật giáo chiếm một ngôi
vị lành mạnh trong các học thuyết hiện đại, và đã được cảm tình của một số
triết gia khó tính nhất.
Do vậy dù có bực bội nhất thời
với con tôi, tôi không hề bất hòa và lạnh nhạt với nó. Tôi ghi lại giai thoại
này bởi vì vào năm 1996, những buổi phát hình và những bài báo viết về Phật
giáo và về Matthieu, khi mà nó cho phát hành quyển sách của nó về vị thầy của
mình là Lạt Ma Dilgo Khientsé, hay là khi nó tháp tùng Đức Đạt Lai Lạt Ma trong
chuyến du hành của Ngài sang Pháp. Khi ấy, người ta đã nói rằng, chúng tôi
không hề gặp nhau từ hai mươi năm nay, và ý định cho ra mắt quyển sách này có
thể là sự nối lại liên lạc, hay nói đúng hơn là sự làm lành của hai cha con. Đó
chẳng qua là một sự tưởng tượng, chứ không phải là một thông tín chính xác.
Chúng tôi vẫn tiếp tục gặp nhau trong điều kiện mà chi phí đi lại cho phép. Từ
năm 1973, tôi đã đến Darjeeling bên Ấn Độ- nơi
con tôi đang ở với vị thầy của nó, và sau đó đến Bhoutan, Nepal.
Nếu có đám mây nào che mờ mối liên hệ của hai chúng tôi thì đó là những đám mây
của gió mùa Châu Á. Thời gian trôi qua và Matthieu có dịp đến Âu châu thường
xuyên hơn, để tham dự ở Tây phương những công cuộc truyền bá càng ngày càng mở
rộng của Phật giáo. Vai trò thị giả và thông dịch viên của vị Đạt Lai Lạt Ma,
nhất là sau khi vị này đoạt giải Nobel về hoà bình, đã gia tăng các cuộc du
hành của nó.
Công cuộc truyền bá Phật giáo là
một sự kiện bất ngờ đã làm nảy sinh ý tưởng một cuộc thảo luận về đề tài "
Phật giáo và Tây phương". Đáng lẽ quyển sách này phải mang tựa đề nói trên,
nhưng sau đó nhà xuất bản Nicole Lattès đã nghĩ ra một cái tựa đề hay hơn
nhiều. Đó là "Nhà sư và triết gia".
Thật ra Phật giáo là gì? Điều
này đại thể là phải do Matthieu trả lời. Tại sao Phật giáo ngày nay đã phát
triển được nhiều tín đồ, và đã gợi lên một sự tò mò lớn ở Tây phương? Nhưng lại
chính là tôi phải đưa ra những giả thuyết để giải thích sự bành trướng của giáo
lý này. Nguyên nhân có lẽ vì những sự phát triển gần đây của các triết thuyết
và tôn giáo Tây phương đã đưa đến một sự thất vọng hay có thể là những thể chế
chính trị của chúng ta. Rõ ràng là sự trao đổi quan điểm của hai cha con chúng
tôi có một giá trị đặc biệt, không phải vì nó phát xuất từ một vị triết gia Tây
phương và một vị Lạt Ma Đông phương, mà là vì Matthieu vốn dĩ là người Tây
phương lại theo học và thấm nhuần giáo lý Đông phương, hơn nữa lại xuất thân là
một nhà khoa học tầm cỡ, có đầy đủ khả năng để so sánh hai nền văn hoá ở mức độ
cao nhất. Thật vậy, Matthieu đã chuyển di khả năng khoa học của mình vào công
cuộc nghiên cứu ngôn ngữ và truyền thống Tây Tạng. Trong vòng hai mươi năm, nó
đã xây dựng, xuất bản, và dịch thuật các bản văn Mật căn bản cổ đại cũng như
đương đại của Phật giáo Tây Tạng, ít ra là những văn bản còn tồn tại.
Sự lưu trú dài hạn của Đức Đạt
Lai Lạt Ma cùng nhiều vị Lạt Ma và đạo sư Tây Tạng khác ở ngoại quốc đã là một
cơ hội tốt cho sự phát triển Đạo Phật ở phương Tây. Nó đã cho phép người dân
phương Tây dễ dàng thâm nhập vào giáo lý Phật giáo một cách xác thực nhất. Một
sự giáo huấn không dựa vào sách vở, chỉ gián tiếp và lý thuyết nhưng sống động
đã bắt nguồn từ những vị đạo sư kiệt xuất này.
Dựa theo một quan niệm cũ kỹ lâu
đời, phương Tây hình dung Phật giáo như là một sự minh triết nhưng thụ động và
tiêu cực, và xem Niết Bàn như là một sự quay về sống với nội tâm, mà không màng
đến thế sự bên ngoài, kể cả sinh hoạt trong các thành phố.
Thật ra hoàn toàn không phải
thế. Theo quan niệm của một số triết thuyết Tây phương, Phật giáo cũng có tầm
cỡ về nhân bản, chính trị, xã hội.
Trên đây là sơ lược những trường
hợp và động cơ đã được hai cha con chúng tôi đối chiếu lại quan điểm về Phật giáo, những sự hiếu kỳ hỗ
tương để làm sáng tỏ những điểm tương đồng nhưng không che giấu những điểm bất
đồng.
Và do đó, tại sao ở thành phố
Hatiban trênvương quốc Nepal,
trong một ngôi nhà cô tịch nằm trên ngọn núi nhìn xuống Katmandou (thủ đô của
vương quốc Nepal)
đã diễn ra những cuộc đàm thoại dẫn đến sự ra mắt của quyển sách này.