Chương
4. Phật giáo – Khoa học của tâm linh
Jean Francois: Chúng ta
đã đề cập đến cái gọi là Tâm lý học Phật giáo, cái hiện tượng kiểm soát tư
tưởng. Có lẽ đó là khía cạnh của Phật giáo đã làm cho một số người Tây phương đặc
biệt chú ý. Vào thế kỷ 19, nền minh triết Phật giáo, cái phương pháp tìm được
một chút thanh thản nhờ vào sự quên đi tự ngã, đã quyến rũ một vài triết gia
như Schopenhauer. Và gần đây nhất là những kỹ thuật để kiểm soát tư tưởng. Năm
1991 tại Đại học Harvard đã diễn ra một cuộc hội thảo qui tụ Đức Đạt Lai Lạt Ma
và vài nhà nghiên cứu: thật rất đáng ca ngợi, vì lẽ đó là những nhà nghiên cứu
Tây phương quen với Tâm lý học Tây phương, lại đi đối chọi quan điểm của họ với
Đức Đạt Lai Lạt Ma. Vài người trong số họ đã từng ở Đông phương và có ít nhiều
thông tin về việc hành trì Phật giáo. Vì vậy Daniel Goleman- một cộng tác viên
khoa học của tờ Thời báo New York
đã đọc một bản báo cáo về những khuôn mẫu sức khỏe tinh thần của người Tây Tạng
và của người phương Tây. Vậy ta có thể nói gì về tâm lý học Phật giáo?
Matthieu: Một
trong những đặc điểm của Phật giáo mà ta có thể gọi là khoa học của tâm linh
này là không chỉ nhận ra, xác định một tình cảm đích thực hoặc tiềm ẩn và đưa
nó lên mặt trí thức, mà còn phải biết giải thoát cả những tư tưởng. Điều này có
nghĩa là làm thế nào để những tư tưởng không để lại dấu ấn trong tâm trí, và
nhờ đó tâm trí không bị bấn loạn. Nếu không giải thoát khỏi chúng, chúng sẽ gây
ra một phản ứng dây chuyền: một tư tưởng bất mãn khởi lên sẽ mau chóng biến
thành oán hờn rồi thù ghét và tiếp tục ám ảnh ta cho đến khi chúng kết thúc
bằng lời nói hay hành động. Và như thế chúng ta sẽ gây hại cho người khác, và
sự bình an trong tâm thức của chúng ta tan vỡ. Cũng cùng một diễn trình như thế
với ham muốn, tự cao, ghen ghét, sợ hãi v.v... ta có thể để mặc cho lòng ham
muốn phá hoại, sở hữu, thống trị nhưng sự hài lòng đem đến cho ta thì rất là
tạm bợ. Không bao giờ ta có được một nguồn vui sâu xa và bền vững mà ta có thể
kéo dài được.
Jean Francois: Nhưng
những đau khổ tinh thần không nhất thiết phải đến từ sự căm ghét hay lòng ham
muốn.
Matthieu: Chúng
đến từ những tình cảm lệch lạc. Cái chìa khóa trong việc thanh lọc tâm không
những phát hiện ra các tư tưởng, mà còn làm cho chúng tan biến ngay đi. Một vài
kỹ thuật được áp dụng, cái chính là không nên tập trung vào các dạng tình cảm,
nguyên nhân hay hoàn cảnh nào đã tạo ra chúng, mà phải tìm ra tận đầu nguồn các
tư tưởng đó. Người ta có thể phân biệt được hai dạng hành giả, một giống như
một con chó và một giống như con sư tử. Người ta có thể theo dõi tư tưởng như
con chó chạy theo những cục đá liệng vào nó hết cục này đến cục kia. Đó là dạng
của đa số con người khi một tư tưởng xuất hiện liền bị nó dẫn dắt và nó tiếp
tục phát triển thành một chuỗi dài tư tưởng làm mờ tối tâm trí. Hoặc giả người
ta cũng có thể phản ứng như con sư tử khi bị liệng một cục đá nó liền quay lại
và xông ngay vào kẻ tấn công nó. Cái dạng người này giống như hành giả quay trở
lại ngay cội nguồn tư tưởng và nghiệm xem động cơ nào làm phát sinh ra tư
tưởng.
Jean Francois: Không
nói đến ẩn dụ, vậy động cơ nào làm phát sinh tư tưởng.
Matthieu: Phải cố
gắng cắt đứt ngay trong chốc lát cái dòng tư tưởng. Không nghĩ đến quá khứ,
không bận tâm đến tương lại, ta sống dù là trong giây lát, tĩnh thức ngay trong
hiện tại mà không bị những tư tưởng vẩn vơ quấy nhiễu. Dần dần ta có thể kéo
dài sự tỉnh thức đó. Bao giờ sóng còn dậy trên mặt hồ thì nước vẫn đục. Khi
sóng đã dịu, bùn lắng đọng và nước sẽ trong lại. Cũng thế, khi những tư tưởng
vẩn vơ rời rạc lắng xuống, tâm trở nên trong sáng, và ta sẽ nhận định rõ ràng
hơn. Sau đó cần phải xem xét bản chất của những tư tưởng vẩn vơ. Để làm được
thế, ta có thể tự gây cho mình một xúc động mạnh ví dụ nghĩ đến kẻ đã làm hại
mình, hoặc nghĩ đến một vật gì mà mình ham muốn mãnh liệt. Chúng ta để những
tình cảm đó hiện ra trong tâm, rồi chúng ta bắt đầu ngắm nhìn chúng. Ban đầu
chúng chiếm lĩnh tâm trí ta. Chúng trở đi trở lại và nếu ta quan sát chúng, thì
chúng lấy đâu ra sức mạnh để ám ảnh ta. Chúng không có khả năng nhiễu hại ta
như một con người bằng xương bằng thịt được. Vậy thì chúng ở đâu ra? Và khi
chúng xuất hiện, chúng có đặc điểm gì? Có màu sắc hình dáng gì không? Và khi
chúng rời khỏi tâm trí ta chúng sẽ đi đâu? Và dần dần khi phân tích như vậy,
cái tình cảm ban đầu mãnh liệt là thế, sẽ rời khỏi chúng ta, ta sẽ không nắm
bắt hay theo dõi chúng được. Ta đi đến một trạng thái không tìm thấy và ta định
tâm giây lát trong trạng thái ấy. Đó là điều mà người ta gọi, đứng về mặt kỹ
thuật mà nói, là nhận ra "cái không của tư tưởng". Đó là một trạng
thái đơn giản trong tâm hồn, một sự tỉnh thức không còn bị ý niệm quấy rối. Khi
người ta hiểu ra rằng các tư tưởng chỉ là biểu hiện của cái tâm tỉnh thức đó,
thì chúng mất đi sự chắc thật của chúng. Một khi mà tiến trình giải thoát khỏi
tư tưởng trở nên thuần thục nhờ một sự thiền định miên mật, khi tư tưởng bắt đầu xuất hiện thì nó tự tháo
gỡ và không còn khả năng quấy rối hoặc khống chế chúng ta. Chúng hình thành và
biến mất giống như một bức vẽ bằng ngón tay trên mặt nước, tự nó tan đi khi ta
vẽ.
Jean Francois: Điều làm
Ba thắc mắc trong các lý luận đó, là điều mà con mô tả làm như thực tại bên
ngoài những hành động và những con người khác, sức nặng của hoàn cảnh hoàn toàn
không có tác động gì. Dù sao thì cũng có những trường hợp một tai họa thật sự
đe dọa chúng ta cái việc chúng ta sợ hãi trước tai họa đó, hoặc là chúng ta
muốn gạt bỏ nó, và như vậy phải có một hành động cụ thể trước sự đe dọa đó nếu
không sẽ mất mạng, tất cả những điều này đòi hỏi một giải pháp tình thế tức
khắc chứ không thể là một công việc của tư tưởng.
Matthieu:
Trước một hoàn cảnh cụ thể, chúng ta có thể phản ứng bằng
nhiều cách tùy theo nội tâm của chúng ta. Hành động xuất phát từ tư tưởng. Nếu
không kiểm soát được tư tưởng, ta không thể kiểm soát được hành động. Như thế
là ta phải học để làm chủ được tình cảm.
Jean Francois: Đúng,
nhưng đây là những trường hợp hiếm hoi.
Matthieu: Nếu ta
làm chủ được tình cảm, ta sẽ ứng dụng sự tự chủ đó trong hành động. Thông
thường ta vẫn nói một người biết làm chủ được mình hoặc là một người hoàn toàn
không kiểm soát được mình. Vấn đề ở đây, là phải phát huy sự tự chủ đó nhờ vào
sự hiểu rõ tâm mình. Không phải ta phải đứng im, tay buông xuôi bất lực đứng
nhìn một kẻ sát nhân sắp sửa hạ sát gia đình mình, nhưng mà ta phải hành động
tối thiểu để vô hiệu hóa kẻ thù mà không khởi lên lòng sân hận, hay hạ sát kẻ
thù vì lòng thù ghét. Như vậy, sự tự chủ là điều căn bản.
Jean Francois: Nhưng sự
sống con người đâu chỉ có tư tưởng? Sự sống con người là hành động.
Matthieu: Xác thân
và lời nói phải chăng là công cụ của tư tưởng. Xác thân chỉ làm những gì tư
tưởng đòi hỏi, và lời nói không bao giờ là vô thức hay là phản xạ tự nhiên.
Jean Francois: Nói rằng
xác thân chỉ hành động theo cái gì mà tư tưởng đòi hỏi, có lẽ là quá lạc quan.
Matthieu: Lạc
quan? Con không nói về những tác động của giác quan, mà nói về những hành động
có ý thức. Nếu chúng ta có khả năng làm chủ được lời nói và hành động, thì điều
này có thể giải quyết được đa số các cuộc xung đột của thế gian. Nhưng nếu ta
không làm chủ được tâm mình, thì điều này không thể thực hiện được. Hơn nữa,
cái tâm đem đến một sắc thái riêng biệt cho những hành động của chúng ta, vì lẽ
hai hành động tuy có vẻ giống hệt nhau nhưng hiệu quả lại hoàn toàn trái ngược
hoặc tích cực hoặc tiêu cực. Ví dụ khi ta cho ai tiền, thì có thể là ta giúp đỡ
họ, hay hoặc giả ta làm hư hỏng họ. Trở lại với vấn đề tự chủ trong những
trường hợp cụ thể, sự kiên nhẫn thật sự không phải là dấu hiệu của sự yếu đuối,
mà là của sức mạnh. Vấn đề là làm mọi việc với một thái độ không thụ động. Sự
kiên nhẫn cho ta sức mạnh để hành động đúng, mà không bị hận thù che khuất làm
cho chúng ta mất đi khả năng xét đoán. Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói sự khoan
dung không phải là bảo "này hãy làm ta đau khổ đi". Đó không phải là
sự cam chịu hay sự buông thả, mà nó ngụ ý một sự can đảm, một sức mạnh tâm hồn
cũng như một sự thông minh tránh cho chúng ta những dằn vặt nội tâm, và rơi vào
ác ý với kẻ khác. Sự kiên nhẫn đích thực, sự bất bạo động đích thực là cố gắng
tìm thấy giải pháp có lợi cho kẻ khác. Nói lên những lời ngọt ngào với mục đích
lừa đảo thì đúng là bạo động. Ngược lại một bà mẹ la mắng con, thậm chí còn
đánh cả con, có vẻ như là bạo động nhưng thật ra là bất bạo động. Điều quan
trọng là cái động cơ thúc đẩy ta hành động và kết quả sau cùng của hành động
đó. Sự lựa chọn phương tiện tùy thuộc vào trí thông minh của chúng ta. Như vậy
trên lý thuyết, ta có thể chấp nhận rằng việc dùng bạo động trong những mục
tiêu tích cực có thể tán thành được. Nhưng trên thực tế, rất khó để thành công.
Bạo động luôn luôn kéo theo bạo động và đem lại hậu quả tai hại. Như vậy là cần
phải tránh sự xung đột và nếu không tránh được, thì cố gắng vô hiệu hóa kẻ sắp
sửa có một hành động tội lỗi mà không phải đi quá trớn, cũng như không kèm theo
những tình cảm tiêu cực.
Jean Francois: Trong
những điều con nói có cái gì đó rất đúng nhưng theo Ba, chỉ có thể áp dụng được
cho cái mà ta gọi là những tình cảm vô ích hoặc thừa thãi, những sự khó chịu
quá đáng, những tham vọng cuồng điên. Hay hoặc giả những sự thái quá những sự
tuôn trào khi muốn báo thù đôi khi quá mức cần thiết. Nhưng sự chỉ trích những
tình cảm dư thừa, những sự thái quá đủ loại thì rất là tầm thường. Ba cũng biết
khó mà đem ra thực hành, nhưng cũng không phải là một khám phá mới mẻ. Tuy
nhiên đa số tình cảm, ham muốn hay tham vọng của chúng ta đều có liên hệ đến
thái độ hành động hay phản ứng trước thực tế. Điều này giả thiết một hạ tầng
tình cảm, ham muốn, tham vọng, nghi kỵ không hẳn là dư thừa, vô ích hay đáng
chê ghét vì chúng có liên hệ với những hoàn cảnh thực tế. Nếu tôi muốn xây một
căn nhà hay hoàn thành một công trình, một cuộc nghiên cứu, người ta có thể bảo
là tôi có tham vọng. Nhưng điều này cũng rất là hợp lý vì nó không xuất phát từ
lòng tham hay căm ghét, và nó cũng không hề làm hại đến ai. Nhưng nó cũng có
thể mang đến cho tôi những tình cảm tiêu cực thất vọng nếu có những trở ngại
xảy đến, hay có người đến cản trở công việc của tôi. Đây là những tình cảm mà
ta không thể gạt ra ngoài được, nó ở lại trong tâm trí vì nó do thực tế đưa đến
và cũng do tác động lên thực tế.
Matthieu: Đúng là
những tình cảm đó được phát động do thực tế bên ngoài, nhưng chúng không thuộc
hẳn về thực tế đó. Cũng cùng một con người đó thì đáng yêu với người này và
đáng ghét với người kia. Một chính trị gia thì thích quyền lực, còn một ẩn sĩ
thì hoàn toàn xa lánh quyền lực. Bản chất những tình cảm của chúng ta hoàn toàn
tùy thuộc vào cách chúng ta nhận thức thực tại. Một lần nữa, con nhắc lại không
phải là chuyện tự chấm dứt mọi tình cảm, mà là đạt được một tâm thức hồn nhiên
khoáng đãng không bị tình cảm thao túng, không bị xao xuyến vì khó khăn cũng
như không say sưa khi chiến thắng. Nếu bỏ một nắm muối trong một ly nước, nước
sẽ mặn không uống được, nhưng nếu đưa vào một hồ lớn thì vị của nước đâu có
thay đổi chút nào. Nhưng đa số người ta luôn luôn đau khổ vô ích, vì hẹp hòi
tâm trí do không có được điều họ mong muốn hoặc phải đương đầu với điều họ
không thích. Một lý do khác của sự đau khổ là tánh duy ngã. Nếu ta luôn luôn
nghĩ đến cái lợi cho chúng ta, những khó khăn mà chúng ta gặp phải, và những
khó chịu do chúng mang đến cho ta, luôn luôn đi ngược lại sự thoải mái của ta.
Chúng ta suy sụp và không chấp nhận những điều trái ý đó. Ngược lại, nếu chúng ta luôn nghĩ đến điều lợi cho kẻ
khác, thì chúng ta dễ dàng chấp nhận những khó khăn do những điều đó mang đến,
vì chúng ta biết rằng điều lợi cho kẻ khác quan trọng hơn điều lợi riêng của
chúng ta.
Jean Francois: Nhưng có
rất nhiều trường hợp người ta không thỏa mãn vì đã không có được điều mà người
ta mong muốn, không phải vì thiếu tự tin, hay vì điều mong ước không chính đáng
hoặc phát xuất từ lòng kiêu hãnh, mà vì những lý do khách quan hay do những
người khác đưa đến. Một bác sĩ muốn chữa lành cho bệnh nhân, có một tình cảm
đáng quý. Nếu thất bại, sự thất vọng của ông cũng đáng quý như vậy. Ông bất
mãn, nhưng sự bất mãn của ông cũng không đáng trách.
Matthieu: Phải,
lòng ham muốn như vậy rất chính đáng, có thể nói là cần thiết.
Jean Francois: Vậy là
có thể xếp hạng lòng ham muốn chính đáng và lòng ham muốn không chính đáng.
Motthieu: Hoàn
toàn đúng như vậy. Những tình cảm đáng chê trách là những loại làm sai lạc,
hoặc giả làm tê liệt khả năng nhận xét của chúng ta, không phải là những tình
cảm khả dĩ giúp chúng ta hoàn thành những công việc lớn lao. Sự mong mỏi làm
nhẹ bớt những nỗi đau của nhân loại, có thể là cảm hứng của một đời người, là
một tham vọng đáng trân trọng. Cần phải phân biệt giữa những tình cảm tiêu cực
như lòng ham muốn, sự căm ghét, tự cao làm chai cứng tự ngã. Còn những tình cảm
tích cực, như tính thương người, lòng bác ái, đức tin dần dần làm cho chúng ta
cởi bỏ được những xu hướng tiêu cực và vị ngã. Tình cảm tích cực không khuấy
động tâm trí ta, trái lại nó củng cố và ổn định tâm hồn ta.
Jean Francois: Vậy là
chúng ta gặp lại những sự phân biệt của phái hưởng lạc, giữa những ham muốn cần
thiết và không cần thiết.
Matthieu: Một tham
vọng tích cực như là việc đeo đuổi làm việc thiện bằng mọi phương tiện, hay
mong muốn tự sửa đổi con người của mình là một trong những đức hạnh căn bản của
Phật giáo. Thật ra người Phật tử chân chính luôn luôn nuôi dưỡng một lòng ham
muốn không bờ bến, đó là làm dịu bớt nỗi đau khổ của mọi chúng sinh trên thế
gian này. Nếu không có được lòng ham muốn này là rơi vào thụ động, vào thờ ơ và
như vậy là không còn sức mạnh tâm hồn nữa. Vậy là ta cần phân biệt những khía
cạnh tích cực và tiêu cực, vị tha và ích kỷ của lòng ham muốn. Ta sẽ bảo rằng
ham muốn là tích cực khi nó đem lại lợi ích cho kẻ khác. Đấy là định nghĩa đơn
giản nhất ngược lại lòng ham muốn là tiêu cực khi nó đem lại đau khổ cho chúng
sinh, và một tình cảm tiêu cực là thứ tình cảm phá hoại sự bình an của ta và
của người khác
Jean Francois: Hình như
con để ra ngoài những tham vọng tích cực nhằm vào việc cải thiện số phận của
chính chúng ta.
Matthieu: Hoàn
toàn không phải thế, vấn đề là làm sao đảm bảo sự thoải mái của chúng ta mà
không bao giờ làm điều gì hại cho kẻ khác. Đáng ngạc nhiên là cái cách hay nhất
để làm tốt đẹp số phận của ta là luôn luôn nghĩ đến người khác như Shantidiva,
một đạo sư thế kỷ thứ 7 đã nói:
Tất cả hạnh phúc của thế gian
Đến từ lòng vị tha
Và tất cả khổ nạn
Đến từ
lòng vị kỷ
***
Nói
nhiều lời làm gì?
Đứa ngu
luôn bị ràng buộc vào lợi
ích riêng của nó
Còn Đức
Phật thì chỉ biết phụng sự thế
gian
Vậy thì
anh hãy nhìn kỹ sự khác biệt đó.
Để kết thúc điều này, có lẽ quan
điểm chung của mọi người là quyền lực và tiền bạc không đem lại hạnh phúc, cũng
như lòng ghen tỵ và tánh tự kiêu phá hoại thú vui của cuộc sống v.v... Nhưng
cho dù rằng quan điểm chung là thế, cũng không tránh khỏi việc đa số tiếp tục
rơi vào cái bẫy của những lo toan thường nhật của thế gian như là lợi, suy,
hủy, dự, cơ, xưng, khổ, lạc (bát phong) và con người bất lực trước tám ngọn gió
đó. Không phải là vì mỗi ngày có ai đó chực chờ đâm một ngọn đao vào lưng chúng
ta nhưng từng phút giây chúng ta là con mồi của những tình cảm tiêu cực. Có
biết bao người khốn khổ thấy đời mình tan vỡ vì lòng ghen ghét. Nếu họ biết
rằng tính ghen ghét không thật có và để nó tan biến trong tâm trí, giống như
một đám mây tan trong bầu trời, không những tính ghen ghét để họ yên, mà nó sẽ
không phát triển thêm đến độ đưa đến sự giết người. Ta thường nói một đám mây
nhỏ không đem lại cơn mưa. Vậy thì khi tâm mống lên một niệm, phải tìm cách
kiểm soát nó, đừng để nó phát triển và không còn kiểm soát được nữa. Phải đập
ngay tia lửa đầu tiên, đừng để cả khu rừng cháy bùng lên sẽ không còn kịp nữa.
Jean Francois: Một lần
nữa có sự đồng tình của các nền triết lý, một nền tảng chung của sự khôn ngoan
thực tiễn dù là Tây phương hay Đông phương, là một nghệ thuật sử dụng các khả
năng tâm lý của chúng ta trong các giao tiếp với thực tại hầu tránh được những
sự thái quá có thể đem đến đau khổ và làm cho ta thêm bất mãn. Bây giờ cái mà
người ta gọi là tâm lý học, khoa học của tâm linh, không chỉ là một cuốn sách
thực dụng như cuốn sách của Epictète trong chủ nghĩa khắc kỷ, dùng để tránh ít
bị tổn thương do hoàn cảnh bên ngoài gây nên hay do tai nạn trong đời sống, hơn
là do tình cảm sai lạc của chúng ta. Cái gọi là tâm lý học trước khi được ứng
dụng để tìm một sự thanh thản tâm hồn, thật đơn giản chỉ là sự tìm hiểu các
hiện tượng tri thức. Và từ đó trong buổi hội thảo ở Đại học Harvard, nhiều diễn
giả Hoa Kỳ nói rằng họ khám phá trong Phật giáo một khoa học về tâm linh rất
mực phong phú.
Matthieu: Cũng
không nên quên rằng những nhà nghiên cứu về Phật giáo như vậy không nhiều lắm
đâu.
Jean Francois: Vậy thì
cái khoa học về tâm linh ấy gồm có những gì?
Matthieu: Tâm lý
học Phật giáo có rất nhiều mặt. Ví dụ nó phân tích các yếu tố tâm linh xuất
hiện như thế nào một khi mà tâm thức bị ràng buộc bởi một cái ngã và xem cái
ngã ấy như là môt thực thể riêng biệt hiện hữu. Một loạt các hình thái tâm linh
bắt nguồn từ cái ngã đó.
Jean Francois: Ba cắt
ngang ở đây. Con nói cái "Ngã" là bẩm sinh?
Matthieu: Con muốn
nói rằng theo lẽ tự nhiên tất cả chúng ta đều có ý niệm về cái tôi, chúng ta
trả lời khi được gọi, chúng ta cảm giác nóng khi nhiệt độ tăng, chúng ta nhận
biết được về cuộc sống v.v… Đó là cái mà Phật giáo xem như là cái ngã bẩm sinh.
Rồi thêm vào ý niệm ấy là ý niệm một cái ngã là một thực thể riêng biệt để chỉ
cá nhân chúng ta. Quan niệm ấy hoàn toàn là một tạo tác của tâm thức như con đã
nói. Khi ta tìm cái ngã ấy trong vòng tâm thức hay trong xác thân hoặc trong cả
hai, ta không làm sao, dù là bằng phân tích hay là bằng thiền định, tách biệt
ra được một thực thể nào khả dĩ là cái ngã đó được.
Jean Francois: Phải,
nhưng dù rằng không biết cái ngã nằm ở đâu, cảm giác về cái tôi cũng không hẳn
là hoàn toàn bẩm sinh vì lẽ nó thay đổi tùy theo nền văn minh, văn hóa và cũng
tùy theo con người nữa. Có những nền văn hóa, những cá nhân nơi đó cái tôi được
đặc biệt tán dương. Cái cảm giác về tự thân có thể bắt nguồn từ xã hội, từ lịch
sử cũng như có thể là bẩm sinh.
Matthieu: Đúng là
điều con muốn nói. Cái cảm giác đơn sơ nhất về cái ngã thì bẩm sinh, và tất cả
cái gì thêm vào là do chính cá nhân tạo ra dưới ảnh hưởng của xã hội và của
chính y. Cái cảm giác nền tảng về cái tôi đang hiện hữu là chung cho mọi con
người. Cái khác biệt là ở mức độ trầm trọng về tự ngã đó, cũng như sự tin tưởng
của ta về cái ngã là có thật.
Jean Francois: Vậy thì
cái gì là xấu, là hão huyền? Là cái ngã như vậy đó hay là vì sự phóng đại quá
mức của cái ngã đó.
Matthieu: Không
phải vì cái ngã như nó vẫn là. Dù cho một người đã hoàn toàn thoát khỏi sự ràng
buộc của cái ngã khi ta gọi họ, họ vẫn lên tiếng. Cái xấu dĩ nhiên là những
thái quá về cái ngã cũng như những hình thái dính mắc nhẹ nhàng hơn về cái ngã,
tuy là khó thấy nhưng cũng là nguyên nhân những trăn trở của chúng ta. Về vấn
đề này, người ta tìm thấy trong Phật giáo cả một danh mục các yếu tố tinh thần
bắt nguồn từ sự dính mắc hay không dính mắc vào tự ngã. Người ta đã mô tả được yếu
tố tinh thần, sau đó lại còn có nhiều yếu tố khác. Những tình cảm này đi từ
những tình cảm tích cực như sự vô tư, lòng tự trọng, sự kính nể kẻ khác, sự tin
cậy, lòng nhiệt thành v.v... đến những yếu tố tiêu cực như sự kiêu căng, sự uể
oải, dao động, che dấu, giáo điều, cả đến sự thờ ơ lạnh nhạt v.v…
Jean Francois: Theo
Phật giáo, sự hồi quang phản chiếu diễn ra như thế nào?
Matthieu: Ta có
thể tự hỏi: ''Thế nào là tri thức? Cái gì khởi động một nhận thức? Cái tâm có
thể tự nhận biết mình hay không?'' Trả lời câu hỏi sau cùng này là trên bình
diện tương đối, thật ra, chúng ta ý thức được tâm của chúng ta, có thể quan sát
việc vận hành của nó và bản chất của các tư tưởng chúng ta. Nhưng rốt ráo lại
thì tư tưởng không thể tự mình tư tưởng, cùng một lúc tự biết lấy giống như một
lưỡi gươm không thể tự cắt lấy được hay con mắt tự nhìn thấy nó được. Vậy là
trong những trường hợp tương tự, người ta phân biệt được hai cách suy diễn hay
lý luận: Một dựa trên thực tại tương đối, nghĩa là theo lối thông thường của
thế gian, hai là trên thực tại tuyệt đối. Trong trường hợp sau này, nếu phân
tích rốt ráo ta sẽ thấy rằng nếu cái tâm là một thực thể độc lập, nó không thể
vừa hiện hữu vừa tự biết lấy nó được. Trong Phật giáo người ta tìm thấy những
trường phái có mức độ nhận thức khác nhau: vài trường phái cho rằng nếu cái tâm
là một thực thể độc lập, thì nó sẽ tự biết nhờ vào một tiến trình không cần có
một sự liên hệ chủ quan, khách quan, giống như một ngọn đèn tự cháy lấy mà
không cần đến một nguồn gốc ánh sáng bên ngoài nào. Còn những trường phái khác
thì cho rằng ngọn đèn không có nhu cầu tự mình sáng lấy, vì lẽ nó không chứa
chấp bóng tối, và nếu ánh sáng tự sáng lấy được, thì bóng tối cũng tự mình làm
tối lấy được.
Jean Francois: Không
chối cãi tính đặc sắc của tư tưởng Phật giáo trong lãnh vực này, về điều mà con
vừa mới đề cập đến, Ba thấy cả một nghi vấn cổ điển trong triết học Tây phương.
Ví dụ: Tư tưởng có thể tự biết được không? Đó là vấn đề về khả năng nội quan,
hay về tính cách phản hồi của tư tưởng. Có thể nào trong cùng một lúc, ta có
thể nhận ra và biết được một vật, đồng thời cũng tự biết được rằng mình đang có
ý thức về việc nhận và biết đó. Một vài nhà tâm lý học cho rằng nội quán là khả
thi, người khác lại cho rằng chúng ta không đủ khả năng để tự mình quan sát lấy
mình, và việc quan sát đời sống nội tâm là không đáng tin cậy và chỉ có sự quan
sát cách ứng xử của chúng ta mới giúp chúng ta đi đến cội nguồn của vấn đề.
Matthieu: Cái quan
điểm sau cùng này đóng mọi cánh cửa cho việc thiền định vốn chính là cốt tủy
của Phật giáo. Nếu suy tư đúng mức thì một đặc điểm phân biệt giữa ý thức và
bất động là cái khả năng của tâm có thể nhìn lại chính mình. Vậy đừng sợ đi vào
nội quán hầu tìm hiểu bản chất của tâm và cũng đừng giới hạn sự khám phá bằng
những phương cách bên ngoài. Và đó là điều mà hơn hai thiên niên kỷ nay những hành
giả Phật giáo đã làm. Việc sử dụng những dụng cụ cơ động không thể giúp chúng
ta hiểu được về bản thể của tâm. Chúng ta chỉ có những thông tin về những kích
động đi vào và đi ra hệ thần kinh từ đó chúng ta phân tích và đo đạc, chứ chúng
ta không quan sát thẳng vào tâm. Chỉ có tâm mới có thể hiểu được tâm mà thôi.
Jean Francois: Con phân
tích về nhận thức con người như thế nào?
Matthieu: Trên
bình diện thực tại tương đối mỗi khoảnh khắc tri thức nảy sinh do sự tiếp xúc
giữa một vật và các giác quan, từ đó khởi động một nhận thức. Ta có thể nói có
một đề tài riêng biệt dành cho mỗi vật trong mỗi khoảnh khắc nhận thức. Dù như
có vẻ liên tục, nhận thức và tư tưởng sinh và diệt từng chập một. Nhưng nếu
phân tích rốt ráo, ngay lúc này đây cái tâm cũng không phải là một thực thể độc
lập và riêng biệt. Nó chỉ là một dòng chảy, một sự liên tục tạo nên bởi những
khoảnh khắc phù du không thực sự hiện hữu. Chỉ có sự tỉnh thức, không nhị
nguyên, là có thể thăng hoa trên mỗi tư tưởng, bất biến vì đã vượt được thời gian.
Jean Francois: Việc
nghiên cứu các nhận thức, các cảm giác bắt đầu bằng những ý niệm, đó là vấn đề
xưa cũ bắt nguồn từ triết lý Hy Lạp và được tiếp tục cho đến Kant và sau nữa.
Theo truyền thống, người ta gọi đó là vấn đế về các học thuyết nói về tri kiến,
về sự hình thành các hình tượng, về quan niệm, về cảm giác, về sự tạo lập tư
tưởng, về lý luận. Cũng là trên một bình diện quy tắc hơn, đó là luận lý học đã
trở thành một trong những ngành quan trọng nhất của triết lý Tây phương.
Matthieu: Và của
cả Đông phương, vì đã có nhiều sách khảo luận viết về luận lý nhưng cũng rất
rắc rối.
Jean Francois: Luận lý
học, có nghĩa là không những các tư tưởng của chúng ta diễn tiến như thế nào,
mà chúng ta hình dung sự việc ra sao, nó tổ chức như thế nào, nó liên kết với
nhau ra sao để cuối cùng trở thành những nhận xét, những lý luận v.v… Nhưng
luận lý cũng còn để tránh sai lầm trong lý luận, trong việc nhận xét, cả một
khoa học về sự nối kết các quan niệm. Từ quyển Thétète của Platon đến cuốn
''Bình luận về lý trí thuần túy'' của Kant, qua quyển ''Diễn từ về phương
pháp'' của Descartes, đúng là một vấn đề trung tâm. Vậy là, một lần nữa điều
thích thú với Ba cho đến bây giờ là được thấy Phật giáo tuy không được tiếp xúc
với Tây phương cho mãi đến gần đây đã nêu lên một nghi vấn rất giống như nghi
vấn của các nền triết lý Tây phương.
Matthieu: Phật
giáo không cho rằng đã khám phá ra một chân lý gì mới. Cái ý niệm về một sự mới
mẻ rất xa lạ đối với mọi tri kiến đến từ sự thành tựu tâm linh, vì lẽ nó chỉ
cốt tìm hiểu về bản thể của sự vật, và điều này thì không khác nhau giữa Đông
phương và Tây phương. Nhưng điều phân biệt một sự thành tựu tâm linh và một sự
phân tích hoàn toàn trên lý thuyết, là ở chỗ nhờ vào thiền định hành giả có một
tri kiến về bản thể sự vật do kinh nghiệm chứ không phải do suy luận bình
thường. Ở đây lý thuyết không phải bị bỏ rơi giống như một toa thuốc của bác sĩ
đặt trên bàn ngủ đầu giường mà không uống thuốc. Nó được đem ra ứng dụng để
loại ra khỏi giòng tâm thức, bất kỳ cái gì làm mờ tối nó.
Jean Francois: Sự phân
biệt giữa tri kiến suy lý và tri kiến thiền định cũng là vấn đề trung tâm của
Platon. Một cái nhìn trực tiếp, lý thuyết rút ra từ đó, theo Platon là giai
đoạn rốt ráo của sự khai tâm về triết lý.
Matthieu: Trở lại
vấn đề nhận thức. Nhận ra một sự vật mà ta thích hay không thích không phải là
do tự thân của vật ấy mà là do cách nhận của ta. Không có cái gì trong một vật
thể đẹp có thể làm lợi cho tâm, cũng như không có cái gì trong một vật thể xấu
làm hại cho tâm. Nếu con người biến mất đi, thế giới hiện tượng không vì thế mà
biến mất theo, nhưng cái thế giới từng hiện hữu đó không có lý do tồn tại đối
với người đã mất. Sẽ có những thế giới khác hiện hữu đối với người ấy. Ví dụ
“cổ điển” là một ly nước có thể là chỗ trú ẩn cho một con cá, mà cũng có thể là
thức uống cho con người, là một hủ mật bất tận cho một vị trời, là máu mủ cho
các con quỷ đói, là nước đồng sôi cho những kẻ bị đọa ở địa ngục. Một bài thơ
thiền đã viết: “Đối với kẻ si tình, một người đẹp là một vật để hưởng thụ, với
ẩn sĩ thì người đẹp chỉ để tiêu khiển, còn đối với con sói thì đó là một bữa ăn
ngon.'' Dù rằng được khởi động từ các vật thể nhận thức của chúng ta cũng là
những tạo tác của tâm. Khi ta nhìn thấy một trái núi, nhận thức đầu tiên hoàn
toàn thuần khiết không xen tạp. Nhưng ngay sau đó với một số người họ tự bảo:
"Ồ núi này có vẻ nguy hiểm, và không thân thiện chút nào.'' Người khác thì
bảo: ''Đây là nơi rất tốt cho việc ẩn cư.'' Và còn nhiều tư tưởng khác nữa. Nếu
các vật thể tự mình có thể định nghĩa được, và tự thân chúng có những tính chất
riêng biệt hoàn toàn không phụ thuộc vào người quan sát chúng, thì mọi người
phải nhận ra chúng một cách giống nhau.
Jean Francois: Những
phân tích đó rất đúng, nhưng Ba nhắc lại đó cũng là kinh điển cho các triết
gia. Nhưng làm thế nào để liên kết chúng với một sự minh triết có thể đem ứng
dụng trong sự sống hằng ngày.
Matthieu: Nếu
chúng ta phân tích những nhận thức của chúng ta nhờ vào thiền định, thì ta sẽ
không còn bị vướng bận về việc chắc thật của chúng. Ta sẽ hiểu được sự phù du
của những ý niệm như về bạn và thù chẳng hạn. Người mà ta xem là thù hôm nay,
lại được một số đông kẻ khác ưa thích, và cũng có thể trở thành một trong số
những người bạn tốt của ta vài tháng sau này. Bằng cách nào đó chúng ta phải
tập không tin tuyệt đối vào những xét đoán, những nhận thức về người và vật,
giống như ta làm tan một cục nước đá trong nước. Nước và đá cùng đồng một chất
liệu. Đá thì cứng có thể làm gãy xương, còn nước thì trôi chảy và dịu dàng. Như
vậy ta có thể nhận thức cuộc đời hoặc như một kẻ thù tiềm ẩn mà ta có thể chia
thành ưa và không ưa, hoặc xem cuộc đời như một cuộc thay đổi liên tục và không
có thực thể. Và người ta có thể nhận ra trong các hiện tượng một sự thuần khiết
vô tận đồng nghĩa với chữ Không. Dĩ nhiên điều này tạo ra một sự khác biệt rất
lớn.
Jean Francois: Có hai
thái độ đối với thực tại và nhân loại nói chung. Thái độ đầu tiên là chung cho
thuyết hưởng lạc, Phật giáo và thuyết khắc kỷ. Nó cho rằng toàn thể thực tại
trên thế gian và của nhân loại vốn dĩ đã như thế thì không thể cải thiện được.
Cái có thể cải thiện được là cái tâm thức con người. Giải pháp áp dụng là sự
tiến đến thành tựu tâm linh, đến sự minh triết. Để nói đến điều mà Ba biết khá
rõ, nhà hiền triết theo thuyết hưởng lạc hay thuyết khắc kỷ là một người thường
tự bảo mình: "Càng ít rắc rối, cứ để cho kẻ khác quay cuồng trong điên
loạn thì tôi càng không bị khổ tâm có thể làm hư hỏng tôi. Tôi cũng tránh không
nói rằng tôi có thể thay đổi được hoàn cảnh. Cái mà tôi có thể thay đổi, chính
là cách cư xử, tư tưởng của tôi trước mọi tình huống. Cần nhất là nên đứng về
phía nào, hoặc chọn vật này hay vật nọ''.
Thái độ thứ hai là tự bảo:
''Không được, ta có thể chuyển hóa được thực tại, ta có thể cải tiến nó, ta có
thể ảnh hưởng lên nó. Và như vậy mục tiêu của triết lý không phải là kiểm soát
được tư tưởng đến mức không chịu can dự vào một hoàn cảnh khách quan nào, mà là
tìm cách thay đổi hoàn cảnh khách quan bằng kỹ thuật, bằng chinh trị.'' Platon
đã thử liên kết hai thái độ này.
Matthieu: Con nghĩ
rằng Phật giáo cũng đề xướng một sự phối hợp giữa hai thái độ trên, nhưng lại
dựa trên những nguyên tắc khác hơn là sự không can thiệp vào thực tại ở một
mặt, và mặt khác là sự thay đổi nhờ kỹ thuật và chinh trị. Trước tiên, không
cần phải thay đổi thực tại, phải nói là thực tại tối hậu của vạn vật, vì lẽ
theo Phật giáo sự hoàn hảo, sự thuần khiết đầu tiên của vạn vật không hề xấu
hơn khi ta không biết đến nó, cũng như nó không hề tốt hơn khi ta nhận ra nó.
Cái mà ta phải và cần thay đổi là cái nhìn sai lạc về bản thể của sự vật. Chính
trong khuôn khổ của sự thay đổi đó, mà ta cần phải làm chủ được tư tưởng, nung
nấu lòng vị tha để có thể giúp chúng sinh thay đổi theo chiều hướng đó. Con
đường Phật giáo là để có một cái nhìn mới về thế gian, một sự khám phá về thực chất của con người và hiện
tượng. Nó sẽ giúp chúng ta đương đầu với những bất trắc của cuộc đời vì lẽ ta
sẽ có thể chấp nhận những bất trắc đó với một thái độ triết lý, với niềm vui và
ta biết sử dụng sự thành công hay thất bại như những chất xúc tác giúp ta tiến
bộ trên con đường đạo. Vậy là không cần phải trốn tránh cuộc đời mà chỉ cần
hiểu được bản thể của nó. Người ta không quay lưng với đau khổ, người ta chỉ
tìm thuốc chữa và tìm cách thăng hoa nó.
Jean Francois: Thuốc
gì?
Matthieu: Mỗi
chúng sinh đều có Phật tính, nghĩa là có thể đạt đến sự giải thoát cũng như một
sự hiểu biết hoàn hảo. Chỉ là những tấm màn ngẫu sinh và phù du đã che lấp mất
Phật tính không cho nó hiển lộ. Người ta gọi những tấm màn đó là vô minh. Đạo
là giải thoát khỏi những tình cảm tiêu cực và phơi bày Phật tính sẵn có ở chúng
ta. Mục tiêu đó không có gì là ích kỷ. Động cơ thúc đẩy chúng ta đi trên con
đường đạo, là cốt để chuyển hóa chúng ta ngõ hầu giúp đỡ kẻ khác thoát khổ. Cái
quan niệm vị tha đó đưa chúng ta đến việc nhận ra sự bất lực của chúng ta trước
đau khổ của chúng sinh, và nó tạo nên ý muốn hoàn thiện con người chúng ta để
giúp đỡ kẻ khác. Vậy là không có việc làm ngơ với cuộc đời và khi ta đã giác
ngộ, ta có thể sử dụng cá tính cách bất khả xâm phạm Đối với các hoàn cảnh bên ngoài để làm lá chắn trong cuộc chiến
chống lại đau khổ.
Jean Francois: Trong
quyển sách dành cho cuộc hội thảo ở Harvard, Daniel Goleman tiến sĩ tâm lý học
đã phát biểu khi bắt đầu bản báo cáo: ''Khi tôi đã xong các khóa học về tâm lý
ở đại học Harvard, tôi xem như xác định vĩnh viễn tâm lý học là một khoa học
bắt nguồn từ ở châu Âu và châu Mỹ, và đã được khai sinh ở Tây phương trong thế
kỷ trước. Nhưng khi tôi du hành đến Á châu, tôi đã khám phá ra một khoa tâm lý
học rất phong phú, rất đa dạng và rất phát triển và khi nhìn lại, tôi rất đỗi
kinh ngạc về việc các giáo sư tâm lý học ở Tây phương không thấy có nhu cầu
giảng dạy những khoa tâm lý Đông phương đó ngang hàng với khoa tâm lý Tây
phương.'' Như vậy là ở Đông phương cũng hiện hữu một khoa tâm lý học được định
nghĩa theo những tiêu chuẩn của tâm lý học khoa học ở Tây phương. Và đã có
những cuộc tìm tòi nghiên cứu từ rất lâu trong Phật giáo về các đề tài con
người và thế gian.
Matthieu: Nhân
tiện cũng nói là Goleman không phải là người duy nhất khó chịu về sự thiếu quan
tâm đến những qui phạm Đông phương. Francisco Varela, nhà thần kinh sinh vật
học, giám đốc trung tâm nghiên cứu CNRS tại đại học Bách khoa Paris cũng viết:
''Chúng tôi ủng hộ việc tái khám phá nền triết lý Đông phương nhất là truyền thống
Phật giáo, cũng là một sự phục hưng lịch sử văn hoá Tây phương, và thành quả
của nó cũng quan trọng không kém việc khám phá tư tưởng Hy Lạp trong việc phục
hưng Âu châu. Lịch sử đương đại về triết lý mà lãng quên tư tưởng Ấn Độ, thì
rất phiến diện vì lẽ Ấn Độ và Hy Lạp chia sẻ với chúng ta một gia tài ngôn ngữ
Ấn Âu và còn cả những bận tâm chung về văn hóa và triết lý.
Jean Francois: Vậy thì
những sự tìm tòi tâm lý của Phật giáo mà không liên hệ đến ý tưởng muốn hoàn
thiện con người, hoặc tìm một sự thanh thản trong tâm hồn nhưng chỉ thuần túy
nghiên cứu về những diễn tiến tâm lý thì được thực hiện như thế nào?
Matthieu: Con sẽ
lấy một ví dụ đơn giản liên quan đến sự nhận thức vì đó là một trong những đề
tài chính về sự vận hành của tâm thức. Khi ta nhận ra một vật gì ví dụ như một
hình vuông xanh chẳng hạn, ta có thể phân biệt bề mặt của hình vuông, các góc
cạnh. Tất cả những thành phần ấy được nhận ra một cách tổng hợp làm một hình
vuông. Có phải là một cuộc nhận ra toàn diện vật thể với các thành phần cấu tạo
nó, hay là một sự nối tiếp chớp nhoáng những khoảnh khắc ý thức về những chi
tiết của vật, rồi tổng hợp lại thành những hình ảnh giống hệt như khi ta quay
tròn một ngọn đuốc, ta chỉ thấy một vòng lửa mà thật ra chỉ là ý thức một đốm
lửa di chuyển liên tục. Trong văn học Phật giáo có một loạt phân tích theo
chiều hướng này và nhiều sách khảo luận dành cho những hiện tượng trên.
Jean Francois: Chúng có
từ thời nào?
Matthieu: Từ những
bài thuyết giảng của Đức Phật thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, cho đến thế kỷ
thứ 19 đã có nhiều đạo sư Tây Tạng chú thích về những văn bản nói về sự nhận
thức. Và người ta tiếp tục thảo luận các vấn đề trên rất sống động, trong những
buổi tranh luận về siêu hình trong các tu viện.
Jean Francois: Như vậy
vấn đề rất thú vị, vì điều này hòa hợp với một trường phái tâm lý rất quan
trọng vào thế kỷ thứ 20. Đó là điều mà người ta gọi là tâm lý học về hình thể
đã khởi đầu vào đầu thế kỷ 20, và đã được trình bày ở Pháp trong một quyển sách
rất nổi tiếng bởi một vị giáo sư của Ba ở Đại học Sorbonne, Giáo sư Paul
Guillaume. Ông ta đã viết từ hơn 50 năm nay, một quyển sách còn lưu hành đến
ngày nay, quyển ''Tâm lý học về hình thể". Đó là một quyển sách mẫu về sự
trong sáng và chính xác. Trường phái tâm lý về hình thể bắt nguồn từ sự nhận
xét sau cho đến ngày nay chủ yếu tâm lý học là để phân tích, nghĩa là ta tưởng
rằng sự nhận thức một vật thể đến từ những thành phần cấu tạo nên vật thể ấy.
Chúng ta đi dẫn đến tổng thể sau cùng của vật, nhưng thật ra là chúng ta nhận
ra tổng thể của vật, theo như những cuộc thí nghiệm tại phòng thí nghiệm. Những
thuyết gần đây của khoa học tri thức đưa ra ý niệm về sự phức tạp và về sự tự
tổ chức cũng quan niệm một sự nhận thức tổng thể giống như phân tích của Phật
giáo. Vậy là một vấn đề về nhận thức đã được Phật giáo đặt ra 600 năm trước
Công nguyên.
Matthieu: Không có
một vật gì là thường hằng, và theo luật vô thường thì vật thể thay đổi liên
tục. Tâm chỉ khởi khi có vật, và mỗi khi vật thay đổi thì tâm cũng thay đổi
theo. Cái quan niệm vô thường từng phút giây một của hiện tượng và tư tưởng đi
rất xa vì nó chỉ ra rằng trong thế giới hiện tượng nếu có một thực thể cứng
nhắc thường hằng hiện hữu thì cái tâm sẽ dán chặt vào đó và không rời ra được
nữa. Chính sự vô thường tế nhị đó đã đưa Phật giáo đến chỗ xem cuộc đời như
mộng ảo, như một dòng chảy bất tận không thể nắm bắt được. Dù là những vật có
vẻ cứng rắn như cái bàn, cái tủ cũng thay đổi liên tục. Cái dòng tư tưởng cũng
được tạo thành bởi vô số những phút giây do sự tiếp xúc với vô số những thay đổi
của hiện tượng bên ngoài. Chỉ là sự tổng hợp của những phút giây ấy mới cho một
cảm giác về một thực tại thô kệch mà thôi.
Jean Francois: Cái quan
niệm trên rất trái với quan niệm của Platon cũng như toàn thể các triết gia Hy
Lạp. Platon cho rằng ta không thể biết được cái gì đang động đậy, đang thay
đổi. Theo họ hiện tượng là đang ở trong trạng thái di chuyển liên tục, do đó
không thể cho phép có được một nhận thức chắc chắn, bền vững, vĩnh viễn. Và
rằng tất cả nền triết lý Tây phương cho đến Kant đều cố gắng để tìm ra đằng sau
hiện tượng một yếu tố thường hằng và bền vững để có được một nhận thức chắc
chắn. Cái tiêu biểu cho sự nhận thức chắc chắn đó, đã được cụ thể hóa bằng
phương thức toán học làm nền tảng cho mọi ý niệm. Vậy là người ta tìm đằng sau các
hiện tượng, những nguyên lý thường hằng chi phối các hiện tượng đó. Những
nguyên lý đó được gọi là luật. Và để thoát ra sự di chuyển hổn loạn của thế
giới hiện tượng, người ta tìm thấy đằng sau chúng những cấu trúc vốn dĩ là
những liên hệ nhân quả, những định luật thường hằng. Epicure hay đúng hơn là
Lutèce- đệ tử ông ta, gọi những luật đó là những hiệp ước nhờ vào đó thần linh
đảm bảo sự thích nghi của tâm trí con người với thực tại. Những hiệp ước đó là
những nguyên tố bền vững đằng sau các hiện tượng luôn thay đổi.
Matthieu: Hãy cẩn
thận! Sự có mặt của những định luật không có nghĩa là có sự hiện hữu của những
thực thể thường hằng đằng sau các hiện tượng. Phật giáo chấp nhận hoàn toàn
rằng thế giới hiện tượng bị chi phối bởi luật nhân quả. Nhưng những luật đó như
những hiện tượng mà nó chi phối, cũng không phải là những thực thể thường hằng
tự chúng có thể có được. Không có cái gì tự nó và do nó mà hiện hữu, tất cả đều
hiển hiện do luật tương thuộc của nguyên nhân và điều kiện. Luật hấp dẫn của
trái đất không thể có được nếu không có vật thể. Một tảng đá gồm có nhiều
nguyên tử chở theo năng lượng. Một cầu vồng được hình thành khi một tia nắng
mặt trời chiếu ngang qua một đám mây có nhiều hơi nước: Cầu vồng thấy được
nhưng không sờ được. Nếu không có một trong những yếu tố đó thì hiện tượng biến
mất. Vậy là cầu vồng không có thực thể và người ta không thể nói đến sự tan
biến hay mất đi của một vật thể không hiện hữu. Vật thể đó chỉ xuất hiện như
một ảo ảnh nhờ vào sự kết hợp tạm thời của một số yếu tố cũng không phải là
những thực thể hiện hữu.
Jean Francois: Đâu có
phải hiện tượng thiên nhiên nào cũng giống như cầu vồng.
Matthieu: Nhưng
mọi hiện tượng là do sự kết hợp của những yếu tố tạm thời. Không ở đâu có những
hiện tượng độc lập và thường hằng. Đã có câu: "Không có gì riêng biệt có
thể xuất hiện được như một bông hoa xuất hiện giữa bầu trời." Trở lại vấn
đề các định luật, không có gì chứng minh rằng các định luật ấy hiện hữu như là
các nguyên tắc thường hằng đằng sau các hiện tượng. Sự nhận ra chúng chỉ có thể
xảy ra trong tâm trí, và chỉ có siêu hình học mới có thể cho ta quan niệm về
thực tại tối hậu của một thế giới hiện tượng hiện hữu ngoài tất cả ý niệm của
chúng ta. Phật giáo có thể đã gặp Poincaré khi ông ta cho rằng dù bản thể của
một thực tại độc lập với cái tâm đã nhận ra nó, có thế nào đi nữa thì cái thực
tại đó luôn luôn ngoài tầm nắm bắt của chúng ta. Và ta có thể nói rằng nếu
không có sinh vật, thì thực tại mà các sinh vật ấy nhận biết cũng không có lý
do tồn tại.
Jean Francois: Dù sao
thì cũng còn có những định luật toán học.
Matthieu: Cũng
không hẳn là chúng rõ ràng như chúng có vẻ như thế. Ta có thể nghĩ rằng thực
tại đằng sau thế giới hiện tượng có, thể diễn đạt bằng danh từ toán học không
chủ quan. Nhưng như Alan Wal1ace đã kết luận: ''Những công lý toán học được xem
từ lâu như những sự thật hiển nhiên không cần phải chứng minh. Nhưng vào thế kỷ
trước, nhiều nhà toán học đã gợi ý rằng những định đề của Euclide không đúng
cũng không sai, chúng cũng giống như những luật 1ệ của một cuộc chơi. Hiện nay
thì đã rõ rằng những công lý toán học hoàn toàn tùy thuộc vào kinh nghiệm của
chúng ta, và ta không thể nói rằng các nhà toán học đã dựa vào một thực tại
ngoài kinh nghiệm để dựng lên các định luật toán học. Việc xác định rằng không
thể có thực thể chắc chắn đằng sau các hiện tượng, cũng đi ngược lại ý niệm của
vài nền triết lý Ấn Độ chủ trương có những khuôn mẫu chung, ví dụ như:
"Khuôn mẫu cây” cho các loại cây ''khuôn mẫu tồn tại” cho tất cả cái gì
hiện hữu.
Jean Francois: Đó là tư
tưởng của Platon.
Matthieu: Cũng gần
giống như vậy. Nhưng Phật giáo bác cái quan niệm cho rằng nếu có một
"khuôn mẫu cây'', thì bắt buộc tất cả các cây đều phải mọc cùng một lúc,
cùng một thể cách vì lẽ một thực thể thường hằng không thể thay đổi. Thật vậy,
nếu cây lớn lên, hoặc cho ra hoa quả thì sự thường hằng của thực thể không còn
nữa. Do đó những tư tưởng này không thể tin cậy được và phải được bỏ qua.
Jean Francois: Ta không
nên nhầm lẫn giữa công lý và định đề cũng như gán vào những định đề toán học,
một khoa học tiên nghiệm, những nhận thức về vật lý và sinh vật luôn đi cùng
với quan sát lý thuyết và thực nghiệm. Nhưng chúng ta không hội thảo về triết
lý các khoa học để đi theo sự song hành Đông phương và Tây phương, có lẽ triết
lý Ấn Độ gần hơn Phật giáo so với triết lý của Platon, vì lẽ theo Platon cái
“thực thể cây” hiện hữu trong thế giới siêu cảm nhận, và tất cả các cây khác
trong thế giới cảm nhận được tức là thế giới hiện tượng đều là bản sao chép của
''thực thể cây'' do đó không thể hoàn hảo như "thực thể cây'' được. Từ đó
có sự ám ảnh giữa thế giới hiện tượng khó nhận biết thực tưởng, vì lẽ luôn luôn
thay đổi và thế giới siêu cảm nhận với những vật thể có thể cảm nhận được. Có
thể nào so sánh thuyết của Platon với triết lý Ấn Độ và Phật giáo phản ứng như
thế nào?
Matthieu: Phải nói
rằng có một vài điểm chung giữa tư tưởng của Platon và những ''thực thể chung''
của Ấn giáo theo chiều hướng cả hai đều cho rằng có những thực thể vĩnh hằng
đằng sau các hiện tượng. Phật giáo đi theo một lối suy luận rắc rối hơn để chối
bỏ mọi thực thể thường hằng.
Luận thuyết Ấn Độ bị Phật giáo
đả kích nhiều nhất là thuyết một Đấng Tạo hóa toàn năng như Ishvara của người
Ấn Độ. Nhiều cuộc tranh cãi đã xảy ra vài thế kỷ trước và sau Công nguyên.
Thuyết Ấn Độ chủ trương một thực thể sáng tạo thường hằng, tự có đầy đủ mọi
thứ, không có nguyên nhân tiền định, và sáng tạo với một hành động có chủ ý.
Từng điểm một, biện chứng pháp Phật giáo đã bác bỏ tư tưởng đó. Ví dụ hãy nói
về sự toàn năng của Đấng Tạo hóa. Hoặc là Đấng Tạo hóa không muốn sáng tạo nữa,
như vậy là mất đi sự toàn năng của mình (vì lẽ sự sáng tạo nằm ngoài ý muốn)
hoặc là Đấng Tạo hóa quyết định sáng tạo, thì cũng không phải toàn năng vì còn
chịu tác động của ý muốn.
Jean Francois: Điều con trình bày đẹp như những nghịch lý
của Zenon d' Elea.
Matthieu: Đấng Tạo
hóa không thể nào là một thực thể thường hằng được vì sẽ khác đi trước và sau
khi sáng tạo. Hơn nữa nếu Đấng Sáng Tạo lập ra mọi thứ trên thế gian, thì ta có
thể hiểu rằng tất cả nguyên nhân của mỗi hiện tượng đều phát xuất từ Đấng Sáng
Tạo ấy. Nhưng theo luật nhân quả, một sự kiện không thể xảy ra nếu những nguyên
nhân và điều kiện của sự biểu hiện đó không hội tụ đủ. Và sự kiện đó không thể
không xảy ra nếu nguyên nhân và điều kiện đã hội tụ đủ. Như vậy ta có thể nói
là Đấng Tạo hóa hoặc là không thể sáng tạo được gì hoặc là phải luôn luôn sáng
tạo. Tất cả các lý luận đó đều có thể áp dụng đối với những triết thuyết chấp
nhận một Đấng Tạo hóa vĩnh hằng, toàn năng và có tự ngã.
Jean Francois: Ba thán
phục quá! Ba có cảm tưởng đang nghe một biện chứng gia hoài nghi của thời cổ
đại, hoặc một nhân vật theo chủ nghĩa hưởng lạc hay một nhân vật theo thuyết
khắc kỷ cùng chống lại một quan niệm một Đấng Thượng Đế Sáng tạo.
Matthieu: Cái loại
biện chứng đó tiếp tục là đầu đề của những cuộc tranh cãi triết lý. Người ta
cũng đồng thời phân biệt khía cạnh tương đối của các hiện tượng và thực tại tối
hậu của chúng. Trên quan điểm tuyệt đối, Phật giáo nói rằng nếu có một thực thể
hiện hữu, thì nó không thể sinh cũng như không thể diệt, cũng như con người
không thể đến từ hư vô vì lẽ vô số nguyên nhân cũng không thể làm hiện hữu cái
gì không có, hay nếu cái gì đã có rồi thì nó không còn cần sinh ra nữa.
Jean Francois: Người ta
tưởng chừng như đang nghe những câu trả lời trong Parmenide của Platon.
Matthieu: Dù thế
nào đi nữa đứng trên bình diện chân lý tuyệt đối, nếu nghiên cứu sâu tiến trình
nhân quả, người ta bắt buộc phải thừa nhận rằng không thể có ràng buộc nhân quả
giữa những thực thể hiện hữu. Hoặc là nhân biến mất trước quả và như vậy, nhân
không còn nữa không thể đưa đến quả. Hoặc là nhân vẫn tồn tại khi quả đã trổ,
như vậy là không còn nhân quả, vì lẽ khi trổ quả nhân bắt buộc phải thay đổi.
Không thể có nhân quả khi hai thực thể hiện hữu đồng thời được.
Jean Francois: Có chứ.
Matthieu: Không
thể có được. Hai thực thể có mặt đồng thời không thể có liên hệ nhân quả, cũng
không thể có quan hệ nào khác được.
Jean Francois: Có những
liên hệ nhân quả xảy ra theo diễn trình thời gian nhưng cũng có liên hệ nhân
quả đồng thời xảy ra được.
Matthieu: Ba hãy
cho một ví dụ.
Jean Francois: Ví dụ
như Ba đang thở dưỡng khí để sống. Nhân là dưỡng khí, và quả là Ba đang thở là
hai hiện tượng đồng thời.
Matthieu: Không
đúng, vì lẽ dưỡng khí và xác thân thay đổi từng giây phút một, Ba không thể nói
dưỡng khí và xác thân là hai thực thể có tự ngã, ảnh hưởng qua lại và đồng thời
với nhau. Nếu hột và trái là hai thực thể có tự ngã, không thể có nhân quả giữa
chúng xảy ra đồng thời vì hột phải tan biến trước khi có quả, và nếu một vật đã
mất đi thì không thể sản sinh ra bất cứ thứ gì được.
Jean Francois: Thì điều
đó đúng là liên hệ nhân quả, khi nhân có trước quả. Dù rằng có liên tục trong
thời gian, nhưng cũng là sự đồng thời trong việc chiếc lá hấp thu năng lượng
mặt trời. Ba nghĩ là có hai loại nhân quả loại đồng thời, và loại theo diễn
trình thời gian.
Mathieu: Nhưng
không phải là mặt trời trong phút giây hiện tại đã tạo ra cái lá mà chúng ta có
thể thấy.
Jean Francois: Không
phải thế, Ba cũng biết vậy nhưng khi tia nắng mặt trời đến chiếc lá dù đã mất
một thời gian xuyên qua không gian, tiến tình nhân quả có thể xem như đồng
thời. Vậy có thể có nhân quả đồng thời và nhân quả theo thời gian. Hume và Kant
đã tranh luận về đề tài mọi liên hệ nhân quả không thể là kế tục, và mọi kế tục
không phải là nhân quả.
Matthieu: Những
tia nắng mặt trời làm cho cây nảy mầm không phải là những tia nắng đã sưởi ấm
cho cây. Vậy là nhân không có. Nếu con đánh rơi chiếc bình này trước mắt con,
nhân quả không đồng thời, vì chiếc bình chưa chạm đất ngay khi con đánh rơi nó.
Jean Francois: Nhưng Ba
đã cho con ví dụ về dưỡng khí?
Matthieu: Dưỡng
khí không phải là một thực thể thường hằng vì nó thay đổi liên tục. Nhân quả
không đồng thời. Dưỡng khí bên ngoài không phải là thứ dưỡng khí dùng để thanh
lọc máu.
Jean Francois: Kèo nhà
dùng để chống đỡ nóc nhà không cho nó để sập xuống. Nhân quả rõ ràng là đồng
thời.
Matthieu: Những
nguyên tử của kèo nhà di chuyển liên tục, do đó cây kèo nhà không phải là một
thực thể bất biến. Điểm mà con muốn nhấn mạnh là: trên bình diện tương đối,
bình diện của sự thật qui ước như là điều mà tất cả chúng ta đều nhận thấy như
nhau, thì luật nhân quả không thể tránh được. Nhưng nếu đứng trên bình diện lý
luận tuyệt đối thì luật nhân quả không thể áp dụng cho những thực thể thường
hằng được. Vì thế trong thế giới hiện tượng không thể có một thực thể cố định,
độc lập và có tự ngã được.
Jean Francois: Con đưa
ra ví dụ về nhân quả theo sự kiện nhưng cũng có nhân quả theo cấu trúc. Lấy ví
dụ một con tàu nổi trên mặt nước. Nước và tàu đồng hiện hữu. Tỉ trọng của nước
làm tàu nổi.
Matthieu:. Đúng
vậy, không có nhân quả giữa những thực thể nhưng có những liên hệ cấu trúc giữa
những hiện tượng tạm thời mà ta gọi là những liên hệ tương thuộc "Cái này
có vì cái kia có. Cái này sinh ra trên cái nền của cái kia. "Không thể có
cái gì tự có được hoàn toàn độc lập với các yếu tố khác. Mỗi một mắt xích của
tiến trình nhân quả cũng lại là một tổng hợp những yếu tố luôn luôn thay đổi.
Đó là một lý luận để chỉ rõ sự không thể hiện hữu của những sự kiện độc lập và
thường hằng dù là một Thượng Đế Sáng tạo hay một nguyên tử tự nó có mà không
cần đến nguyên nhân và điều kiện, cũng như không cần đến những sự kiện khác.
Jean Francois: Ở đây
nữa cũng là một nghi vấn mà người ta tìm thấy trong triết lý Tây phương. Khi
thì những hiện tượng thật sự hiện hữu theo trường phái Duy nghiệm hay Thực
nghiệm. Khi thì những hiện tượng hoàn toàn là ảo giác theo trường phái Duy tâm
giống như triết thuyết Berkeley vào thế kỷ 18. Khi thì những hiện tượng là một
mớ hỗn độn kế tiếp nhau trong đó nhân quả rất hão huyền theo triết thuyết của
Hume. Khi thì hiện tượng không phải là thực tại mà là một sự tổng hợp của thực
tại đằng sau hiện tượng mà ta không được biết, và các tạo tác của tâm thức con
người. Nói khác đi, nó hiện thực một nửa là do thế giới bên ngoài, và một nửa
là do tâm thức con người dựng nên, nói một cách thô sơ đó là thuyết của Kant
trong quyển "Bình luận về lý trí thuần túy". Vậy là tất cả mô hình về
thực tại và hiện tượng đã được đề cập trong triết lý Tây phương. Theo ý Ba, Ba
cho rằng đó không thật sự là một vấn đề. Nếu hiện tượng không có, theo Phật
giáo, thì cái gì có thể hiện hữu được.
Matthieu: Phật
giáo chọn con đường trung đạo, không chối bỏ thực tại các hiện tượng trong một
thế giới tương đối với nhận thức nhưng không nhìn nhận có những thực thể thường
hằng đằng sau hiện tượng. Do đó mới có danh từ trung đạo, cũng không rơi vào
thuyết hư vô theo đó không có gì tồn tại ngoài nhận thức, cũng không rơi vào
thuyết vĩnh hằng theo cách suy nghĩ của Ba, theo đó có một thực tại duy nhất
độc lập ngoài nhận thức và bao gồm yếu tố có tự ngã. Cái mẫu của các thực thể
cứng nhắc mà Phật giáo không chấp nhận, ví dụ như hạt bụi vật chất không phân
chia được hay những khoảng thời gian không chia cắt được. Cái gọi là khối hay
vật chất, đó là sự đông đặc của năng lượng. Phật giáo dẫn ta đến sự hư ảo của
thế giới cứng nhắc dựa vào một lập luận không hẳn là một thuyết khoa học, nhưng
xem xét đến khả năng có sự hiện hữu của nguyên tử, nghĩa là theo ngữ nguyên
những hạt không phân tách được.
Jean Francois: Theo Phật
giáo, có chăng hai mức độ thực tại: một là thuộc về hiện tượng và một đằng sau
hiện tượng tức là một hạ tầng thực tại dù là không gồm có vật chất mà chỉ có
dạng năng lượng.
Matthieu: Khi Phật
giáo đề cập đến cái Không của các hiện tượng đã cho rằng các hiện tượng xuất
hiện nhưng không hề phản ảnh có những thực thể cố định. Vật lý đương đại nói
rằng một điện tử có thể được xem như một hạt hay như một sóng, hai quan niệm
hoàn toàn không thể dung hợp theo nghĩa thông thường. Một vào hiện tượng giao
thoa các điện tử chỉ có thể giải thich được khi giả thiết rằng một điện tử đồng
thời đi qua hai lỗ hổng khác nhau. Theo Phật giáo, những nguyên tử không thể
xem như là những thực thể cố định, như vậy làm sao xem thế giới hiện tượng hình
thành từ những nguyên tử đó lại có thể là một thực tại cố định được sao? Tất cả
những điều đó đập tan cái quan niệm về sự cứng chắc của các hiện tượng. Chính
trong chiều hướng đó mà Phật giáo xác định là thực tại tối hậu của các hiện
tượng chính là cái Không và cái Không đó tiềm ẩn một lực vô tận của các biểu
hiện.
Jean Francois: Những
giả thuyết về bản chất cũng như về sự không chắc thật của vật chất đã được
người nào trình bày?
Matthieu: Chính
Đức Phật, sau đó đã được sưu tập và bình luận bởi hai triết gia Phật giáo vĩ
đại là Long Thọ vào thế kỷ
thứ 2 và Chandrakirti vào thế kỷ thứ 8. Việc phân tích nguyên tử được tiến hành
như sau: Hãy quan sát một vật thể thô sơ, một cái bàn chẳng hạn. Nếu ta tách
rời các yếu tố sẽ không còn cái bàn nữa. Sau đó nếu ta bào nó ra thì cái bàn
lại biến chất và nếu ta quan sát một hạt một cưa ta sẽ tìm thấy phân tử, nguyên
tử, và như vậy quan niệm về nguyên tử đã có ở phương Đông từ thời Democrite.
Jean Francois: Thật
vậy, quan niệm về nguyên tử đã xuất hiện trong triết lý của Democrite và
Epicure. Và những quan niệm ấy đã không được chứng minh theo khoa học như những
lý thuyết vật lý cổ đại khác. Chẳng qua là những nhận định của tâm thức.
Matthieu: Điều buồn cười là nguyên tử theo tiếng Hy
Lạp có nghĩa là không phân
tách được.
Jean Francois: Đúng
vậy, cái nhân tố hậu không còn có thể cắt ra làm hai được.
Matthieu: Phật
giáo cũng cùng dùng một chữ đó. Người ta nói về những hạt không có thành phần,
cũng như không thể tái phân chia được. Có thể là cấu trúc tối hậu của vật chất.
Bây giờ hãy quan sát những hạt không phân chia được, được xem như những thực
thể độc lập. Làm thế nào để hạt này kết hợp với hạt kia để tạo ra vật chất? Nếu
những hạt ấy chạm vào nhau, phía tây của hạt này chạm vào phía đông của hạt
kia. Nhưng nếu chúng có phương hướng thì chúng lại có thể phân chia được, và
như vậy là mất đi tính cách bất khả phân. Nếu chúng không có cạnh cũng như
không có phương hướng thì chúng sẽ giống như một điểm trong toán học không có
bề dày, không có kích cỡ, hay chất liệu. Vậy nếu ta thử kết hợp hai hạt không
kích cỡ thì hoặc là chúng không chạm vào nhau được và như vậy không kết hợp
được, hoặc là chúng chạm được vào nhau và như vậy chúng hòa tan với nhau. Như
vậy một trái núi gồm những hạt không thể phân chia được có thể tan ra thành một
hạt. Kết luận là không thể có những hạt không thể phân chia được, tự nó tồn tại
được mà lại là cấu trúc của vật chất. Hơn nữa nếu một nguyên tử có một khối
lượng, một kích cỡ, một điện tích thì còn giống như những thành phần tạo ra nó
không? Nó có thể tồn tại ngoài những thành phần này không? Nguyên tử không thể
đồng nhất với khối lượng hay kích cỡ của nó. Nó cũng không phải khác hơn những
thứ này. Vậy là nguyên tử có những đặc tính riêng, nhưng nó cũng không phải
giống từng đặc điểm này. Nguyên tử chỉ là một khái niệm, một cái nhãn giả trùm
lên một thực thể độc lập và tối hậu không thực sự tồn tại.
Jean Francois: Theo
Democrite và Epicure, ta thấy có tư tưởng về những thành phần tối hậu của vật
chất là những nguyên tử được tổ chức theo những hình thể phức tạp để tạo thành
nhiều hiện tượng phức tạp khác nhau. Và những biểu hiện chỉ là những ảo giác.
Nhưng để giải thích nguyên tử tập hợp với nhau như thế nào, tại sao lại có
những nguyên tử tập hợp với những nguyên tử khác, người xưa đã sáng tạo ra
thuyết những nguyên tử có móc: một vài loại nguyên tử có móc tập hợp với đồng
loại, một vài loại khác thì không. Dù sao, sau cùng cũng phải giải thích vì sao
các nguyên tử lại tập hợp cách thế nào để tạo lập nên các hiện tượng.
Matthieu: Người
Phật tử sẽ nói: "Nếu đã có móc, vậy là có nhiều thành phần đỉnh và đáy của
móc, vậy là cái không thể phân chia lại có thể chia được".
Jean Francois: Họ có
thể nói thế! Dù sao vào thời đó ở phương Tây cũng như ở phương Đông chúng ta đã
có những lý thuyết rực rỡ, nhưng lại là những lý thuyết siêu hình chứ không
phải là những lý thuyết vật lý.
Matthieu: Đúng vậy
nhưng khi chứng minh rằng không thể có những hạt không phân chia được, Phật
giáo không chủ trương giải thích các hiện tượng vật lý theo cách vật lý học
đương đại. Phật giáo chỉ muốn phá tan cái khái niệm tinh thần về sự chắc thật
của thế giới hiện tượng. Chính cái khái niệm ấy đã làm chúng ta dính mắc vào
cái tôi và vào các hiện tượng, vậy là cái khái niệm ấy là nguyên nhân của nhị
nguyên giữa ta và người, có và không, yêu và ghét v.v... là đầu mối của tất cả
mọi sự đau khổ trên đời. Dù sao đi nữa, ta cũng thấy rằng Phật giáo có cùng
chung quan điểm với vật lý học đương đại, và sự đóng góp của Phật giáo đáng
được ghi vào lịch sử các tư tưởng. Con muốn kể ra đây tên của một nhàvật lý tầm
cỡ hiện nay, ông Henri Margenau giáo sư đại học Yale. Ông viết: ''Vào cuối thế
kỷ 19, người ta cho rằng có những tác dụng hỗ tương giữa những vật thể vật
chất. Bây giờ thì người ta không xem đó là chân lý. Người ta lại nghĩ rằng có
sự hỗ tương tác dụng của các trường năng lượng, hay các lực khác không phải là
vật chất. Và Heisenberg cũng nói: "Nguyên tử không phải là vật. ''Còn
Bertrand Rossel thì nói: "Gọi một cục tròn nhỏ, một khối cứng nhỏ là điện
tích là một sự xâm phạm không chính đáng về cái nghĩa thông thường của xúc
giác.''Và ông nói thêm: "Vật chất là một công thức tiện lợi để diễn tả cái
gì xuất hiện ở nơi mà không có vật chất, nghĩa là không có gì hết." Mặt
khác Ngài James Jeans đi đến mức cho rằng vũ trụ bắt đầu giống như một tư tưởng
lớn hơn là một cỗ xe lớn.
Jean Francois: Những
trực giác nói trên dù là rất công phu, rất sâu sắc trong các triết lý cổ xưa,
dù là ở phương Tây với Democrite, Epicure, Lucrèce và ở phương Đông với Phật
giáo đã là những điều báo trước rất đáng kinh ngạc về khoa học hiện đại, hơn
nữa chỉ bắt nguồn từ tư duy không thể kiểm chứng được, thật sự rất ấn tượng.
Người ta cũng có thể tìm thấy trong triết lý Trung Hoa những dự đoán tương tự.
Tuy nhiên chỉ ở phương Tây những loại trực giác đó mới đưa đến sự hình thành
khoa học hiện đại. Vì sao lại không có một sự phát triển đồng loại đối với Phật
giáo?
Matthieu: Việc
kiểm chứng thực nghiệm của Phật giáo dĩ nhiên là có, nhưng ta đừng quên mục
tiêu của Phật giáo, cốt yếu là một khoa học về tâm linh, một khoa học đã phát
triển suốt 2000 năm về đời sống thiền định và nghiên cứu tâm linh. Chẳng hạn ở
Tây Tạng từ thế kỷ thứ 8, khoa học này là sự bận tâm chính của một bộ phận dân
chúng. Mục đích không phải để thay đổi sự sống bên ngoài, mà là để tạo nên
những con người hoàn hảo hơn và biết phát triển cuộc sống nội tâm. Sự hiểu biết
ấy có nhiều mức độ: Siêu hình học bàn về những thực tại tối hậu và sự ứng dụng
việc hiểu biết nội tâm vào thế giới hiện tượng để giải quyết những rắc rối và
khổ đau. Đau khổ xác thân hay tâm trí là kết quả những hành động, lời nói và tư
tưởng tiêu cực như sát nhân; cướp của, lường gạt, vu khống... Tư tưởng tiêu cực
xuất phát từ việc người ta quý trọng cái tôi muốn bảo vệ nó, hành động tiêu cực
cũng từ chỗ cái tôi duy nhất và bền vững. Sự tin tưởng vào cái tôi như một thực
thể độc lập, chỉ là một khía cạnh của việc xem các hiện tượng là thực sự hiện
hữu. Khi nhìn nhận rằng sự dính mắc vào cái ngã không có mục tiêu rõ ràng, và
khi phá tan sự ràng buộc của chúng ta vào sự chắc thật của các hiện tượng, ta
làm đứt đoạn cái vòng lẩn quẩn của sự đau khổ. Vậy là việc không nhìn nhận khái
niệm về những hạt độc lập giúp cho chúng ta giảm sự dính mắc vào thực chất các
hiện tượng và vào con người chúng ta, và do đó giúp chúng ta thoát khỏi những tình cảm lệch lạc. Một sự phân
tích như vậy đưa đến nhận thức dù là hoàn toàn nội tâm, ít ra cũng ảnh hưởng
rất lớn đến quan hệ chúng ta với thế giới bên ngoài và ảnh hưởng của chúng ta
đối với nó.
Jean Francois: Phải,
nhưng ảnh hưởng như thế nào khi mà Phật giáo chủ trương sự không thật của thế
giới bên ngoài, hay ít ra là tính cách biểu hiện nhưng trống rỗng của nó. Nói
cách khác, cái lý thuyết về nguyên tử không có thực chất tối hậu để có thể tạo
dựng một thực thể, đã không thể kiểm nghiệm được. Vậy là người ta không thể
chắc là thuyết ấy đúng, và như vậy người ta xây dựng một khoa học tâm linh trên
nền tảng một lý thuyết về vật chất không được kiểm nghiệm.
Matthieu: Mục đích
là để phá vỡ những quan niệm về một thực tại cứng nhắc và thường hằng, bằng
cách chứng minh là những quan niệm đó phi lý và không có cơ sở. Việc kiểm
nghiệm được thực hiện qua sự thay đổi của con người. Sự phân tích đó dĩ nhiên
không phải là một sự phân tích vật lý, nó không thể làm sáng tỏ sự cấu thành
các phần tử, sự vận hành các vì sao... mà chỉ giúp một cách thực tiễn cho con
người thoát ra sự đau khổ do dính mắc vào các hiện tượng.
Jean Francois: Đúng,
nhưng mục đích đó chỉ đạt được không phải do sự khẳng định khoa học về sự có
hay không một thế giới bên ngoài mà chỉ với một giả thuyết, một kiến giải về thế
giới ấy, mà giả thuyết đó không bao giờ được chứng minh thực nghiệm bởi các
Phật tử.
Matthieu: Kiểm
nghiệm không cần thiết vì ở đây ta nói về tâm và về sự lừa dối của nó. Trên
thực nghiệm, điều này có thể được chứng thực nhưng chỉ trong lãnh vực có liên quan
đến nó mà thôi. Ta biết rằng aspirine làm giảm đau đầu, còn việc suy tư có thể
xóa tan ham muốn, ghen ghét, kiêu căng hay tất cả cái gì làm vẩn đục tâm trí đó
là điều có thể so sánh trên mặt thực nghiệm với aspirine.
Jean Francois: Nhưng
với Ba điều này chỉ có nghĩa là: tôi có một số khái niệm về thực tại vì cái
khái niệm đó tiện cho tôi xây dựng một triết thuyết thích hợp cho cá nhân tôi.
Matthieu: Đây
không phải là một khái niệm tiện lợi về thực tại khi chối bỏ bằng một cuộc phân
tích tâm linh hợp lý cái quan niệm về một hạt không thể phân chia được, ta phá
tan hình ảnh trong tâm về sự chắc thật của các hiện tượng. Điều ta mong đợi là
tìm ra một chất giải độc hữu hiệu cho các nguyên nhân đau khổ của chúng ta. Khi
mục đích ấy đạt được, thì mục đích của đời sống tâm linh cũng đạt được. Khi ta
bắn một mũi tên, ta không quên đích đến của nó. Người ta có thể xem như là
thành công khi đặt chân lên mặt trăng, cũng như người ta nghĩ là có thể làm chủ
vật chất đến mức có thể làm nổ tung hành tinh này tuy rằng điều này đáng nghi
ngờ. Khoa học, trải qua bao nhiêu thế kỷ nỗ lực tinh thần cũng như vật chất,
trải qua nhiều thế hệ con người đã hy sinh đến tính mạng, mới đến được một số
kết quả mà khoa học đã đề ra. Phật giáo còn nhiều ưu tiên khác cần quan tâm hơn
qua nhiều thế hệ.
Jean Francois: Nhưng dù
sao việc mưu cầu giải thoát khỏi đau khổ. Không phải dựa vào một nhận thức
khách quan mà lại dựa vào một giả thuyết hay.
Matthieu: Ta hiểu
thế nào về một nhận thức khách quan? Bản thể của hạt không thể hiểu được và vượt
khỏi tầm đo đạc của khoa học. Cũng giống như thế, một vũ trụ tách biệt khỏi mọi
khái niệm của con người, không thể nhận thức được bởi trí óc con người. Cái gì
ràng buộc vào thực tại các hiện tượng chính là tâm của con người. Và chúng ta
tác động lên cái gì để thoát ra các bế tắc? Cũng là trên cái tâm này. Và nếu ta
đừng nhận thức sai lầm về sự chắc thật của thế gian thì chúng ta sẽ không còn
khổ sở triền miên nữa. Đó cũng là một nhận thức khách quan về các cơ chế của
đau khổ, và là kiểm chứng thực nghiệm về kết quả của khoa học tâm linh này.
Jean Francois: Nói là
kiểm chứng thực nghiệm không làm Ba hài lòng chút nào.
Matthieu: Không lẽ
Ba chỉ nghĩ rằng một kiểm chứng thực nghiệm chỉ được tiến hành trên những hiện
tượng vật lý thôi sao? Nếu nói trên quan điểm đó, chỉ có những khoa học định
lượng và vật lý mới đúng nghĩa là khoa học chính xác. Để được gọi là chính xác,
một khoa học phải đi từ những giả thuyết rồi tiến hành thực nghiệm, để xác nhận
hoặc phủ nhận các giả thuyết đó tùy theo kết quả các cuộc thử nghiệm. Không có
lý do gì những tiêu chuẩn đó chỉ được giới hạn cho lãnh vực vật lý hay khách
quan. Hơn nữa con cũng không hiểu vì sao, như Ba đã nói trước đây, cần phải
tách rời những khoa học tâm linh ra khỏi sự cải thiện con người, vì lẽ đạt đến
sự thanh thản tâm hồn là một sự kiểm chứng thực nghiệm của khoa thiền định,
cũng giống như sự rơi các vật thể được kiểm chứng bằng luật hấp dẫn vậy.
Không
có gì ngoài tâm mới biết được thực tại tối hậu của tâm. Trong khuôn khổ của tâm
lý học Tây phương, sự quan sát nội tâm không được xem như là một phương pháp
khoa học và đã bị gạt bỏ, chỉ vì lý do những kẻ đã áp dụng nó không được trang
bị đầy đủ để thực hiện nó. Họ không được huấn luyện, không hiểu biết gì về
thiền định, không biết những kỹ thuật để làm yên lặng tâm thức ngõ hầu quan sát
hoạt động sâu thẳm của nó. Cũng như dùng một volt kế hỏng để đo dòng điện. Học
tập những kỹ thuật thiền định đòi hỏi sự kiên trì. Vì người ta không thấy hứng
thú trong việc học tập các kỹ thuật ấy nên người ta gạt bỏ nó ra ngoài. Tuy
nhiên vấn đề này cũng xảy ra trong chiều ngược lại. Con có biết một số người
Tây Tạng không tin rằng con người đã đặt chân lên mặt trăng.