Văn học Phật giáo
Siêu Lý Học
Tỳ Kheo Giác Chánh
08/08/2554 13:18 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng

 

[09]

 

225 - TỨ NIỆM XỨ (SATIPAṬṬHĀNA)

 

 

Lược Giải:

Satipaṭṭhāna hay niệm xứ là đề mục thiền quán. Niệm xứ có 4:

1- Thân Quán Niệm Xứ (Kāyānupassanāsatipa hāna)
2- Thọ Quán Niệm Xứ (Vedanānupassanāsatipa hāna
)
3- Tâm Quán Niệm Xứ (Cittānupassanāsatipa hāna
)
4- Pháp Quán Niệm Xứ (Dhammānupassanāsatipa hāna
)

Tại sao Ðức Phật thuyết Tứ Niệm Xứ mà không là tam Niệm Xứ hay ngũ Niệm Xứ?

- Ðức Thế Tôn thuyết Tứ Niệm Xứ là vì có 3 nguyên do:

I - Vì thích hợp với 4 hạng người.
II - Ðể loại trừ 4 vọng tưởng.
III - Vì vừa đủ bao trùm các pháp.

 

226 - BỐN HẠNG NGƯỜI (PUGGALA)

Lược Giải:

Bốn hạng người ở đây là:

1- Hạng người Tuệ Yếu nặng về Tham dục.
2- Hạng người Tuệ mạnh nặng về Tham dục.
3- Hạng người Tuệ yếu thích Phân tích lý luận.
4- Hạng người Tuệ mạnh thích Phân tích lý luận.

- Ðối với hạng người Tuệ yếu nặng về Tham dục, nhất là sắc dục thì đề mục "Thân Quán Niệm Xứ" sẽ thích hợp.

- Ðối với hạng người Tuệ mạnh, nặng về Tham dục, nhất là nhục dục thì đề mục "Thọ Quán Niệm Xứ" sẽ thích hợp.

- Ðối hạng người Tuệ yếu, thích Phân tích lý luận thì đề mục "Tâm Quán Niệm Xứ" sẽ thích hợp.

- Ðối với người Tuệ mạnh thích Phân tích lý luận thì đề mục "Pháp Quán Niệm Xứ" sẽ thích hợp.

 

227 - BỐN VỌNG TƯỞNG NGÃ CHẤP (ATTAVĀDUPĀDĀNA)

Lược Giải:

Bốn vọng tưởng ngã chấp đó là:

1- Chấp rằng có tự ngã trong Sắc Uẩn.
2- Chấp rằng có tự ngã trong Thọ Uẩn.
3- Chấp rằng có tự ngã trong Thức Uẩn.
4- Chấp rằng có tự ngã trong Hành Uẩn và Tưởng Uẩn.

- Vọng tưởng về "Ta là Sắc uẩn, Sắc uẩn của Ta, Ta trong Sắc uẩn, Sắc uẩn trong Ta" thì đề mục "Thân Quán Niệm Xứ sẽ trừ diệt

- Vọng tưởng về "Ta là Thọ uẩn, Thọ uẩn của Ta, Ta trong Thọ uẩn, Thọ uẩn trong Ta" thì đề mục "Thọ Quán Niệm Xứ" sẽ trừ diệt.

- Vọng tưởng về "Ta là Thức uẩn, Thức uẩn của Ta, Ta trong Thức uẩn, Thức uẩn trong Ta" thì đề mục Tâm Quán Niện Xứ sẽ diệt trừ.

- Vọng tưởng về "Ta là Tưởng uẩn, Tưởng uẩn của Ta, Ta trong tưởng uẩn, Tưởng uẩn trong Ta" và Vọng tưởng về "Ta là Hành uẩn, Hành uẩn của Ta, Ta trong Hành uẩn, Hành uẩn trong Ta" Thì đề mục "Pháp Quán Niệm Xứ" sẽ diệt trừ.

 

228 - HÀM TẬN CÁC PHÁP (SABBADHAMMĀ)

Lược Giải:

Ðức Chánh Biến Tri thuyết Tứ Niệm Xứ chứ không thuyết nhiều hơn hay ít hơn, vì 4 Niệm Xứ vừa đủ bao các Pháp Hữu vi, Vô vi v.v...

- Thân Quán Niệm Xứ là pháp quán cho thấy rỏ về Sắc uẩn.

- Thọ Quán Niệm Xứ là pháp quán cho thấy rỏ về Thọ uẩn.

- Tâm Quán Niệm Xứ là pháp quán cho thấy rỏ về Thức uẩn.

- Pháp Quán Niệm Xứ là pháp quán cho thấy rỏ về Hành uẩn, Tưởng uẩn, và ngoại uẩn (tức Níp-Bàn).

Như vậy, hành theo pháp Tứ Niệm Xứ là Tu tập Chánh Niệm hay chú Tâm đến Ngũ uẩn để Trí Tuệ sinh khởi thấy rỏ Thực tướng của Ngũ uẩn và chứng ngộ Níp-Bàn.

Hành giả Tu tập pháp Tứ Niệm Xứ sẽ Quán sát Ngũ uẩn như sau: Cái gọi là chúng sinh, loài hữu tình, người thú v.v... Sự thật chỉ có 5 tổ hợp, hay là 5 thành phần tụ hợp tức là 5 uẩn.

 

229 - NGŨ UẨN (PAÑCA KHANDHO)

Lược Giải:

Ngủ uẩn là Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn.

- Sắc uẩn phân ra có 11 loại: Sắc Quá khứ, Sắc Vị lai, Sắc Hiện tại, Sắc Nội Phần, Sắc Ngoại Phần, Sắc Thô, Sắc Tế, Sắc Hạ liệt, Sắc Thù thắng, Sắc Cận, Sắc Viễn.

- Thọ uẩn phân ra 11 loại: Thọ Quá khứ, Thọ Vị lai, Thọ Hiện tại, Thọ Nội Phần, Thọ Ngoại Phần, Thọ Thô, Thọ Tế, Thọ Hạ liệt, Thọ Thù thắng, Thọ Cận, Thọ Viễn.

- Tưởng uẩn phân ra 11 loại: Tưởng Quá khứ, Tưởng Vị lai, Tưởng Hiện tại, Tưởng Nội Phần, Tưởng Ngoại Phần, Tưởng Thô, Tưởng Tế, Tưởng Hạ liệt, Tưởng Thù thắng, Tưởng Cận, Tưởng Viễn.

- Hành uẩn phân ra 11 loại: Hành Quá khứ, Hành Vị lai, Hành Hiện tại, Hành Nội Phần, Hành Ngoại Phần, Hành Thô, Hành Tế, Hành Hạ liệt, Hành Thù thắng, Hành Cận, Hành Viễn.

- Thức uẩn phân ra 11 loại: Thức Quá khứ, Thức Vị lai, Thức Hiện tại, Thức Nội Phần, Thức Ngoại Phần, Thức Thô, Thức Tế, Thức Hạ liệt, Thức Thù thắng, Thức Cận, Thức Viễn.

 

230 - SẮC UẨN (RŪPAKHANDHA)

Lược Giải:

Rūpakhandha là nhóm Sắc Pháp, là vật biến ngại và biến hoại. Dù quá khứ, vị lai, hiện tại, dù bên trong bên ngoài, dù thô hay tế, dù tốt hay xấu, dù gần hay xa đều là Sắc Uẩn.

QUÁ KHỨ SẮC (ATĪTĀRŪPA)

Atītārūpa là Quá Khứ Sắc, Sắc đã đi qua, Sắc đã diệt Sắc đã mất, Sắc đã xa lìa, Sắc đã biến hoại; tức là Sắc Tứ Ðại và Sắc Y Ðại Sinh đã tiêu, đã hoại, đã vong, đã không còn.

VỊ LAI SẮC (ANĀGATARŪPA)

Anāgatarūpa là Vị lai Sắc, Sắc sẽ sinh, Sắc sẽ hiện, Sắc sẽ khởi, Sắc sẽ có, Sắc sẽ xuất hiện: Tức là Sắc Tứ Ðại và Sắc Y Ðại Sinh chưa sinh, chưa trụ, chưa có.

HIỆN TẠI SẮC (PACCUPAÑÑARŪPA)

Paccupaññarūpa là Hiện Tại Sắc, Sắc đang có mặt, Sắc đang còn, Sắc đang trụ, sắc đang hiện diện; tức là Sắc Tứ Ðại và Sắc Y Ðại Sinh đang còn, chưa diệt, chưa mất, chưa tiêu hoại.

NỘI PHẦN SẮC (AJJHATTARŪPA)

Ajjhattarūpa là Nội Phần Sắc, Sắc trong thân của Ta, Sắc uẩn trong phần của mình, Sắc Pháp nội thân; tức là Sắc Tứ Ðại và Sắc Y Ðại Sinh do nghiệp Tham ái, Tà kiến của Ta đã tạo từ nhiều đời trước.

NGOẠI PHẦN SẮC (BAHIDDHĀRŪPA)

Bahiddhārūpa là Ngoại Phần Sắc, Sắc ngoài thân của Ta, Sắc uẩn thuộc phần người khác, Sắc pháp ngoại thân; tức là Sắc Tứ Ðại và Sắc Y Ðại Sinh củ người khác liên hệ với nghiệp Tham ái, Tà kiến từ nhiều đời trước đã tạo.

THÔ SẮC (OLĀRIKARŪPA)

Olārikarūpa là Thô Sắc, Sắc hiển lộ rỏ ràng tức là Nhãn xứ, Nhĩ xứ, Tỷ xứ, Thiệt xứ, Thân xứ, Sắc xứ, Thinh xứ, Khí xứ, Vị xứ, Xúc xứ (đất, lửa, gió).

TẾ SẮC (SUKHUMARŪPA)

Sukhumarūpa là Tế Sắc, Sắc vi tế, nhặt nhiệm, khó thấy biết; phải dùng trí mới hiểu biết được, tức là Sắc Nữ tính, Nam tính, Mạng Quyền, Thân biểu tri, Khẩu biểu tri, Giao Giới, Khinh, Nhu, Thích Nghiệp, Sinh, Tiến (thừa kế), Dị (lão), Diệt (vô thường) và Vật Thực.

HẠ LIỆT SẮC (HĪNĀRŪPA)

Hīnārūpa là Hạ Liệt Sắc, Sắc xấu xí, Sắc đáng chán, đáng chê, đáng nhờm gớm, đáng ghê sợ, tức cảnh sắc xấu, cảnh thinh xấu, cảnh khí xấu, cảnh vị xấu, cảnh xúc xấu.

THÙ THẮNG SẮC (PANĪTARŪPA)

Panītarūpa là Thù Thắng Sắc, Sắc tốt đẹp, Sắc khả ái, Sắc khả ý, Sắc khả hỷ tức cảnh sắc tốt, cảnh thinh tốt, cảnh khí tốt, cảnh vị tốt, cảnh xúc tốt.

Ghi chú: Sắc tốt hay Sắc xấu tùy theo cá tánh mỗi chúng sinh và do sự so sánh mà có.

Thí dụ: Trên ngọn cây cảnh tốt của chim, nhưng cảnh xấu của cá v.v...

VIỄN LY SẮC (DŪRERŪPA)

Dèrerūpa là Viễn Ly Sắc, Sắc xa, khó thấy, khó nhận, tức là Sắc nữ tính, nam tính ... và Sắc vật thực (như Sắc tế).

THÂN CẬN SẮC (SANTIKERŪPA)

Santikerūpa là Thân Cận Sắc, Sắc gần, Sắc dể thấy, dể nhận, tức là 10 Sắc Thô.

 

231 - THỌ UẨN (VEDANĀKHANDHA)

Lược Giải:

Vedanākhandha là nhóm cảm thọ, tri giác lãnh nạp đối tượng. Dù quá khứ, vị lai, hiện tại, dù bên trong bên ngoài, dù thô hay tế, dù tốt hay xấu, dù gần hay xa đều là Thọ Uẩn.

QUÁ KHỨ THỌ (ATĪTĀVEDANĀ)

Atītāvedanā là Thọ đã diệt, đã mất, đã xa lìa, đã vắng mặt, đã sinh và diệt mất rồi tức là Khổ Thọ, Lạc Thọ và Xả Thọ đã diệt v.v...

VỊ LAI THỌ (ANĀGATAVEDANĀ)

Anāgatavedanā hay Thọ sẽ sinh khởi, Thọ sẽ hiện bày, sẽ có, sẽ hiện, sẽ sinh trụ, Tức là Khổ Thọ, Lạc Thọ và Xả Thọ chưa sinh v.v...

HIỆN TẠI THỌ (PACCUPAÑÑĀVEDANĀ)

Paccupaññāvedanā làThọ đang còn, đang có, đang trụ, Thọ đang hiện diện, đang hiện hữu tức là Khổ Thọ, Lạc Thọ và Xả Thọ đang tồn tại chưa hoại diệt ...

NỘI PHẦN THỌ (AJJHATTAVEDANÀ)

Ajjhattavedanà là Thọ riêng của mỗi chúng sinh, Thọ trong thân, trong mình, Thọ Phần ta tức là Khổ Thọ, Lạc Thọ và Xả Thọ do nghiệp Tham ái liên quan Tà kiến từ trước.

NGOẠI PHẦN THỌ (BAHIDDHĀVEDANĀ)

Bahiddhāvedanā làThọ ngoài của mỗi chúng sinh, Thọ của tha nhân, Thọ của người khác, Thọ thuộc phần tha nhân mà có liên hệ đến nghiệp Tham ái, Tà kiến từ trước.

THÔ THỌ VÀ TẾ THỌ (OLĀRIKĀ SUKHUMĀ VEDANĀ)

Olārikā và sukhumā là Thọ Thô và Thọ Tế. Thọ Bất Thiện là Thọ Thô, Thọ Thiện và Thọ Vô Ký là Thọ Tế. Thọ Thiện và Thọ Bất Thiện là Thọ Thô, Thọ Vô Ký và Thọ Tế. Thọ Khổ là Thọ Thô, Thọ Lạc và Thọ Xả là Thọ Tế. Thọ của người không nhập thiền là Thọ Thô, Thọ của Bậc nhập thiền là Thọ Tế. Thọ hưỡng cảnh lậu là Thọ thô, Thọ hưỡng cảnh Vô Lậu là thọ Tế.

Nói tóm lại, Thọ Thô và Thọ Tế, do so sánh tức là có sự phân biệt vậy.

HẠ LIỆT THỌ VÀ THÙ THẮNG THỌ (HĪNĀ VÀ PANĪTĀ VEDANĀ)

Hīnā và panītā vedanā là Thọ tốt và Thọ xấu, Thọ Bất Thiện là Thọ xấu, Thọ Thiện và Thọ Vô Ký là Thọ tốt. Thọ Ưu là Thọ xấu, Thọ Hỷ và Thọ Phi Khổ Lạc là Thọ tốt. Thọ Hỷ và Thọ Ưu là Thọ xấu, Thọ Phi Khổ Phi Lạc là Thọ tốt. Thọ của người không nhập thiền là Thọ xấu, Thọ của Bậc nhập thiền là Thọ tốt. Thọ hưỡng cảnh lậu là Thọ xấu, Thọ hưỡng cảnh Vô Lậu là thọ tốt. Nói tóm lại, Thọ tốt và Thọ xấu là do so sánh mà có.

VIỄN LY THỌ (DŪREVEDANĀ)

Dèrevedanā là Thọ Viễn Ly, xa lìa: Thọ Bất Thiện xa lìa Thọ Thiện và Thọ Vô Ký. Thọ Thiện và Thọ Vô Ký xa lìa Thọ Bất Thiện. Thọ Thiện xa lìa Thọ Bất Thiện và Thọ Vô Ký. Thọ Bất Thiện và Thọ Vô Ký xa lìa Thọ Thiện. Thọ Vô Ký xa lìa Thọ Thiện và Thọ Bất Thiện. Thọ Thiện và Thọ Bất Thiện xa lìa Thọ Vô Ký. Thọ Khổ xa lìa Thọ Lạc và Thọ Xả. Thọ Lạc và Thọ Xả xa lìa Thọ Khổ. Thọ Lạc xa lìa Thọ Khổ và Thọ Xả. Thọ Khổ và thọ Xả xa lìa Thọ Lạc. Thọ Xả xa lìa Thọ Khổ và Thọ Lạc. Thọ Lạc và Thọ Khổ xa lìa Thọ Xả. Thọ của người không nhập thiền xa lìa Thọ của người nhập thiền. Thọ thành cảnh Lậu xa lìa Thọ Phi thành cảnh Lậu. Thọ không thành cảnh Lậu xa lìa Thọ thành cảnh Lậu.

THÂN CẬN THỌ (SANTIKEVEDANĀ)

Santikevedanā là gần gủi, trái với Thọ Viễn Ly: Thọ Bất Thiện gần với Thọ Bất Thiện. Thọ Thiện gần với Thọ Thiện. Thọ Vô Ký gần với Thọ Vô Ký.Thọ Khổ gần với Thọ Khổ. Thọ Lạc gần với Thọ Lạc. Thọ Xả gần với Thọ Xả. Thọ của người nhập thiền gần với Thọ của người nhập thiền. Thọ của người không nhập thiền gần với Thọ của người nhập thiền. Thọ thành cảnh Lậu gần với Thọ thành cảnh Lậu. Thọ Phi thành cảnh Lậu gần với Thọ Phi thành cảnh Lậu. Nói tóm lại, Thọ Xả và Thọ gần đều do so sánh mà có.

 

232- TƯỞNG UẨN (SAÑÑĀKHANDHO)

Lược Giải:

Saññākhandho là nhóm hồi tưởng, nhớ lại, nhận ra, biết cái đã biết. Dù quá khứ, vị lai, hiện tại, dù bên trong, bên ngoài, dù thô hay tế, dù tốt hay xấu, dù gần hay xa đều là Tưởng Uẩn.

QUÁ KHỨ TƯỞNG (ATĪTĀSAÑÑĀ)

Atītāsaññā là Tưởng đã qua, đã diệt, đã mất, tức là Sắc Tưởng, Thinh Tưởng, Khí Tưởng, Vị Tưởng, Xúc Tưởng và Pháp Tưởng đã diệt mất, đã vắng mặt, đã xa lìa.

VỊ LAI TƯỞNG (ANĀGATASAÑÑĀ)

Anāgatasaññā là Tưởng vị lai sẽ sinh, sẽ có, sẽ hiện, tức là Sắc Tưởng, Thinh Tưởng, Khí Tưởng, Vị Tưởng, Xúc Tưởng và Pháp Tưởng chưa sinh, chưa khởi, chưa hiện.

HIỆN TẠI TƯỞNG (PACCUPAÑÑĀSAÑÑĀ)

Paccupaññāsaññā làTưởng hiện tại, đang trụ, đang có mặt, đang hiện hữu tức là Sắc Tưởng, ... Pháp Tưởng đang hiện khởi, đang hiện diện.

NỘI PHẦN TƯỞNG (AJJHATTASAÑÑĀ)

Ajjhattasaññā là Tưởng bên trong, Tưởng riêng của mỗi chúng sinh, Tưởng thuộc Phần ta tức là Sắc Tưởng, ... PhápTưởng của phần riêng mình, liên quan đến nghiệp Tham ái liên quan Tà kiến từ trước.

NGOẠI PHẦN TƯỞNG (BAHIDDHĀSAÑÑĀ)

Bahiddhāsaññā là Tưởng bên ngoài, Tưởng ngoại thân, Tưởng của tha nhân, tức là Sắc Tưởng, ... Pháp Tưởng liên hệ đến nghiệp Tham ái, Tà kiến từ trước.

THÔ TƯỞNG VÀ TẾ TUỞNG (OLĀRIKĀ VÀ SUKHUMASAÑÑĀ)

Olārikā và sukhumasaññā là Tưởng Thô và Tế: Tưởng sinh khởi trong lộ ngũ môn là Tưởng thô Tưởng sinh khởi trong lộ Tâm Ý môn là Tưởng tế. Tưởng Thiện và Tưởng Bất Thiện là Tưởng Thô. Tưởng Vô Ký là Tưởng tế. Tưởng Tương Ưng Thọ Khổ là Tưởng Thô, Tưởng Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Xả là Tưởng tế. Tưởng Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Khổ là Tưởng thô, Tưởng Tương Ưng Thọ Xả là Tưởng tế. Tưởng của người không nhập thiền là Tưởng thô, Tưởng của người nhập thiền là Tưởng tế, Tưởng Phi cảnh lậu là Tưởng tế. Nói tóm lại, Tưởng thô và Tưởng tế là do so sánh mà có.

Nói tóm lại, Thọ Thô và Thọ Tế, do so sánh tức là có sự phân biệt vậy.

HẠ LIỆT TƯỞNG VÀ THÙ THẮNG TƯỞNG (HĪNĀ VÀ PANĪTĀ SAÑÑĀ)

Hīnā và panītā saññā là Tưởng xấu xa và Tưởng tốt đẹp. Tưởng Bất Thiện là Tưởng xấu, Tưởng Thiện và Tưởng Bất Thiện là Tưởng xấu, Tưởng Vô Ký là Tưởng tốt. Tưởng Tương Ưng Thọ Khổ là Tưởng xấu, Tưởng Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Xả là Tưởng tốt, Tưởng Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Khổ là Tưởng xấu, Tưởng Tương Ưng Thọ Xả là Tưởng tốt. Tưởng của người không nhập thiền là Tưởng xấu, Tưởng của người nhập thiền là Tưởng tốt. Tưởng mà thành cảnh của lậu là Tưởng xấu, Tưởng không thành của Lậu là Tưởng tốt. Nói tóm lại, Tưởng tốt và Tưởng xấu là do so sánh mà có.

VIỄN LY TƯỞNG (DŪRESAÑÑĀ)

Dèresaññā là Tưởng Viễn Ly, xa lìa, rời ra. Tưởng Bất Thiện xa lìa Tưởng Thiện và Tưởng Vô Ký. Tưởng Thiện và Tưởng Vô Ký xa lìa Tưởng Bất Thiện. Tưởng Thiện xa lìa Tưởng Bất Thiện và Tưởng Vô Ký. Tưởng Bất Thiện và Tưởng Vô Ký xa lìa Tưởng Thiện. Tưởng Vô Ký xa lìa Tưởng Thiện và Tưởng Bất Thiện. Tưởng Thiện và Tưởng Bất Thiện xa lìa Tưởng Vô Ký. Tưởng Tương Ưng Khổ xa lìa Tưởng Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Xả. Tưởng Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Xả xa lìa Tưởng Tương Ưng Thọ Khổ. Tưởng Tương Ưng Thọ Lạc xa lìa Tưởng Tương Ưng Thọ Khổ và Thọ Xả. Tưởng Tương Ưng Thọ Khổ và thọ Xả xa lìa Tưởng Tương Ưng Thọ Lạc. Tưởng Tương Ưng Thọ Xả xa lìa Tưởng Tương Ưng Thọ Khổ và Thọ Lạc. Tưởng Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Khổ xa lìa Tưởng Tương Ưng Thọ Xả. Tưởng của người không nhập thiền xa lìa Tưởng của người nhập thiền. Tưởng thành cảnh cuả Lậu xa lìa Tưởng Phi cảnh Lậu. Tưởng Phi cảnh Lậu xa lìa Tưởng thành cảnh Lậu.

THÂN CẬN TƯỞNG (SANTIKESAÑÑĀ)

Santikesaññā là Tưởng Bất Thiện thân cận gần gủi Tưởng Bất Thiện. Tưởng Thiện gần với Tưởng Thiện. Tưởng Vô Ký gần với Tưởng Vô Ký. Tưởng Tương Ưng Thọ Khổ gần với Tưởng Tương Ưng Thọ Khổ. Tưởng Tương Ưng Thọ Lạc gần với Tưởng Tương Ưng Thọ Lạc. Tưởng Tương Ưng Thọ Xả gần với Tưởng Tương Ưng Thọ Xả. Tưởng của người nhập thiền gần với Tưởng của người nhập thiền. Tưởng của người không nhập thiền gần với Tưởng của người nhập thiền. Tưởng thành cảnh của Lậu gần với Tưởng thành cảnh của Lậu. Tưởng Phi cảnh Lậu gần với Tưởng Phi cảnh Lậu. Nói tóm lại, Viễn Ly Tưởng và thân cận Tưởng đều do so sánh mà có.

 

233 - HÀNH UẨN (SAMKHĀRAKHANDHO)

Lược Giải:

Samkhārakhandho là nhóm hành vi, hành động, Dù quá khứ, vị lai, hiện tại, dù bên trong, bên ngoài, dù thô hay tế, dù tốt hay xấu, dù gần hay xa đều là Hành Uẩn.

QUÁ KHỨ HÀNH (ATĪTĀSAMKHĀRĀ)

Atītāsamkhārā là hành vi đã diệt, đã qua, đã mất tức là Sở hữu Tư trong các Tâm như Sắc Tư, Thinh Tư, Khí Tư, Vị Tư, Xúc Tư và Pháp Tư đã đã xa lìa, đã vắng mặt, đã không còn.

VỊ LAI HÀNH (ANĀGATASAMKHĀRĀ)

Anāgatasamkhārā là những hành vi chưa sinh, chưa có, chưa hiện bày tức là Sắc Tư ... Pháp Tư chưa sinh, chưa khởi, chưa xuất hiện, chưa hiện bày.

HIỆN TẠI HÀNH (PACCUPANNĀSAMKHĀRĀ)

Paccupannāsamkhārā là hành vi đang sinh, đang khởi, đang còn tức là Sắc Tư, ... Pháp Tư đang sanh khởi, đang hiện diện. đang hiện hữu.

NỘI PHẦN HÀNH (AJJHATTASAMKHĀRĀ)

Ajjhattasamkhārā là những hành vi riêng của mỗi chúng sinh, hành vi thuộc trong thân, hành vi của mình, tức là Sắc Tư, ... PhápTư của phần mình, thuộc phần ta, thuộc phần riêng của mỗi chúng sinh có liên quan nghiệp Tham ái, Tà kiến từ trước.

NGOẠI PHẦN HÀNH (BAHIDDHĀSAMKHĀRĀ)

Bahiddhāsamkhārā là những hành vi bên ngoài, thuộc phần tha nhân, thuộc phần của ngưòi khác tức là Sắc Tư, ... PhápTư của tha nhân có liên hệ đến nghiệp Tham ái, Tà kiến từ trước.

THÔ HÀNH VÀ TẾ HÀNH (OLĀRIKĀ VÀ SUKHUMA SAMKHĀRĀ)

Olārikā và sukhuma samkhārā là hành vi Thô thiển và vi tế. Hành Bất Thiện là Hành Thô, Hành Vô Ký là Hành tế. Hành Tương Ưng Thọ Khổ là Hành Thô, Hành Tương Ưng Thọ Lạc và Khổ Thọ là Hành thô, Hành Tương Ưng Xả Thọ là Hành tế. Hành của người không nhập thiền là Hành thô, Hành của người nhập thiền là Hành tế, Hành thành cảnh lậu là Hành thô, Hành không thành cảnh lậu là Hành tế. Nói tóm lại, Hành là Sở hữu Tư trong các Tâm, do so sánh mà có thô và tế.

HẠ LIỆT HÀNH VÀ THÙ THẮNG HÀNH (HĪNĀ & PANĪTĀ SAMKHĀRĀ)

Hīnā và panītā samkhārā là hành vi thấp hèn và hành vi cao quý; hành xấu và hành tốt. Hành Bất Thiện là Hành xấu, Hành Thiện và Hành Vô Ký là Hành tốt. Hành Tương Ưng Thọ Khổ là Hành xấu, Hành Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Xả là Hành tốt, Hành Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Khổ là Hành xấu, Hành Tương Ưng với Thọ Xả là Hành tốt. Hành của người không nhập thiền là Hành xấu, Hành của người nhập thiền là Hành tốt. Hành thành cảnh của lậu là Hành xấu, Hành Phi thành cảnh Lậu là Hành tốt. Nói tóm lại, Hành là Sở hữu Tư trong các Tâm, do theo sự so sánh mà có tốt và xấu.

VIỄN LY HÀNH (DŪRESAMKHĀRĀ)

Dèresamkhārā là hành vi xa lìa, rời ra. Hành Bất Thiện xa lìa Hành Thiện và Hành Vô Ký v.v...

Hành Tương Ưng Thọ Khổ xa lìa Hành Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Xả v.v...

Hành của người không nhập thiền xa lìa Hành của người nhập thiền, Hành của người nhập thiền xa lìa Hành của người không nhập thiền. Hành thành cảnh Lậu xa lìa Hành Phi cảnh Lậu. Hành Phi cảnh Lậu xa lìa Hành thành cảnh Lậu.

THÂN CẬN HÀNH (SANTIKESAMKHĀRĀ)

Santikesamkhārā là Hành vi thân cận gần gủi. Hành Bất Thiện gần với Hành Bất Thiện. Hành Thiện gần với Hành Thiện. Hành Vô Ký gần với Hành Vô Ký. Hành Tương Ưng Thọ Khổ gần với Hành Tương Ưng Thọ Khổ. Hành Tương Ưng Thọ Lạc gần với Hành Tương Ưng Thọ Lạc. Hành Tương Ưng Thọ Xả gần với Hành Tương Ưng Thọ Xả. Hành của người nhập thiền gần với Hành của người nhập thiền. Hành của người không nhập thiền gần với Hành của người nhập thiền. Hành thành cảnh Lậu gần với Hành thành cảnh Lậu. Hành Phi cảnh Lậu gần với Hành Phi cảnh Lậu. Nói tóm lại, Hành là Sở hữu Tư hiệp trong các Tâm, do so sánh mà có gần và xa.

 

234 - THỨC UẨN (VIÑÑĀAKHANDHA)

Lược Giải:

Viññāakhandha là nhóm Tri giác, Tâm thức, Dù quá khứ, vị lai, hiện tại, dù bên trong, bên ngoài, dù thô hay tế, dù tốt hay xấu, dù gần hay xa đều là Thức Uẩn.

QUÁ KHỨ THỨC (ATĪTĀVIÑÑĀA)

Atītāviññāa là Thức đã diệt, đã qua, đã mất tức là Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức và Ý Thức đã diệt mất, đã xa lìa.

VỊ LAI THỨC (ANĀGATĀVIÑÑĀA)

Anāgataviññāa là Thức chưa sinh, chưa khởi, chưa có, tức là Nhãn Thức, Nhĩ Thức, ... Ý Thức chưa hiện khởi, chưa sinh ra, chưa có mặt.

HIỆN TẠI THỨC (PACCUPANNAVIÑÑĀA)

Paccupannaviññāa là Thức hiện tại, đang sinh khởi, đang hiện diện tức là Nhãn Thức, ... Ý Thức đang trụ, đang tồn tại, đang hiện bày.

NỘI PHẦN THỨC (AJJHATTAVIÑÑĀA)

Ajjhattaviññāa là Thức nội phần, riêng của mỗi chúng sinh chấp thủ rằng của ta, của mình, thuộc nội thân tức là Nhãn Thức, ... Ý Thức riêng của mỗi người, mỗi chúng sanh, mỗi hữu tình.

NGOẠI PHẦN THỨC (BAHIDDHĀVIÑÑĀA)

Bahiddhāviññāa là Thức ngoại phần, tha nhân, của người khác tức là Nhãn Thức, ... Ý Thức thuộc phần bên ngoài ngoại thân của người khác.

THÔ THỨC VÀ TẾ THỨC (OLĀRIKĀ & SUKHUMAVIÑÑĀA)

Olārikā và sukhumaviññāa là Thức Thô và Thức tế. Thức Bất Thiện là Thức Thô, Thức Thiện và Thức Vô Ký là Thức tế. v.v...

Thức Tương Ưng Thọ Khổ là Thức Thô, Thức Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Xả là Thức tế v.v...

Thức của người không nhập thiền là Thức thô, Thức của người nhập thiền là Thức tế. Thức thành cảnh lậu là Thức thô, Thức không thành cảnh lậu là Thức tế. Nói tóm lại, Thức thô và Thức tế là do so sánh mà có.

HẠ LIỆT THỨC VÀ THÙ THẮNG THỨC (HĪNĀ & PANĪTĀVIÑÑĀA)

Hīnā và panītāviññāa là Thức xấu và Thức tốt.

Thức Bất Thiện Thức xấu Thức Bất Thiện và Thức Vô Ký là Thức tốt v.v...

Thức Tương Ưng Thọ Khổ là Thức xấu, Thức Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Xả là Thức tốt v.v...

Thức của người không nhập thiền là Thức xấu, Thức của người nhập thiền là Thức tốt.

Thức thành cảnh của lậu là Thức xấu, Thức không thành cảnh Lậu là Thức tốt. Nói tóm lại, Thức tốt và xấu do so sánh mà có.

VIỄN LY THỨC (DŪREVIÑÑĀA )

Dèreviññāa là Thức viễn ly, xa lìa, rời ra. Thức Bất Thiện xa lìa Thức Thiện và Thức Vô Ký v.v...

Thức Tương Ưng Thọ Khổ xa lìa Thức Tương Ưng Thọ Lạc và Thọ Xả v.v...

Thức của người không nhập thiền xa lìa Thức của người nhập thiền.

Thức của người nhập thiền xa lìa Thức của người không nhập thiền.

Thức thành cảnh Lậu xa lìa Thức không cảnh Lậu.

Thức Phi cảnh Lậu xa lìa Thức thành cảnh Lậu.

THÂN CẬN THỨC (SANTIKEVIÑÑĀA)

Santikeviññāa là Thức thân cận gần gủi. Thức Bất Thiện gần với Thức Bất Thiện. Thức Thiện gần với Thức Thiện. Thức Vô Ký gần với Thức Vô Ký. Thức Tương Ưng Thọ Khổ gần với Thức Tương Ưng Thọ Khổ. Thức Tương Ưng Thọ Lạc gần với Thức Tương Ưng Thọ Lạc. Thức Tương Ưng Thọ Xả gần với Thức Tương Ưng Thọ Xả. Thức của người nhập thiền gần với Thức của người nhập thiền. Thức của người không nhập thiền gần với Thức của người nhập thiền. Thức thành cảnh Lậu gần với Thức thành cảnh Lậu. Thức không thành cảnh Lậu gần với Thức không thành cảnh Lậu. Nói tóm lại, Thức xa Thức gần do so sánh mà có.

 

235 - VÔ THƯỜNG (ANICCA)

Anicca là tư cách không thường, luôn luôn biến đổi. Cũng gọi Paloka là suy vong, biến hoại - Cũng gọi Cara là bị giao động, bị chi phối vì tứ khổ, bát phong - Cũng gọi Pabhagu bất toàn, vì do nhân sinh tất phải hoại diệt. - Cũng gọi là Addhuvam là không bền vững, vì không có chân đướng vững chắc. Cũng gọi Viparināmadhammā là pháp thay đổi tự nhiên, đối với người gọi là sinh, già, đau, chết. Ðối với trời đất gọi là thành, trụ, hoại, không đối với các pháp nói chung là sinh, tiến, dị, diệt ...

- Cũng gọi là Asāra là mềm yếu, vì không có lõi, cũng như cây chuối v.v...

- Vibhava là không có sự trưởng thành thật sự, sự già chuyển biến trong mỗi sát na sau già hơn sát na trước vì đi đến gần với sự diệt vong ...

- Cũng gọi là sankhata là pháp do nhân cấu tạo tức là pháp hữu vi, pháp hành . ..

- Cũng gọi là Maranadhamma là pháp có sự hoại diệt, sự chết chắc chắn, không sao tránh khỏi được.

Hành giả luôn luôn ghi nhớ mười danh nghĩa nói trên để Quán cho thấy rỏ thực tướng của ngũ uẩn gọi là Quán tướng Vô Thường của ngũ uẩn (Aniccalakkhaa). Hoặc hành giả suy niện thêm 4 đặc tính của vô thường:

- Vô thường có đặc tính sinh lên rồi phải diệt (Uppādavaya Vattito)

- Vô thường có đặc tính luôn luôn thay đổi (Viparināma)

- Vô thường có đặc tính là hằng có sự thay đổi trong tất cả thời gian và không gian (Tāvatālika)

- Vô thường có đặc tính là đối lập với thường (Níp-Bàn) (Niccapatipakkhapatthena).

(*) Phần Quán Tam Tướng nương theo bản dịch của Ngài Hộ Tông đã trích dịch từ sách Visuddhimagga

 

236 - KHỔ NÃO (DUKKHA)

Dukkha là tư cách thống khổ, đau khổ, khó chịu đựng bất toại nguyện, ưu, bi, sầu, nảo, ai, khốc ...

- Cũng gọi Roga là bệnh hoạn, khốn quẩn...

- Cũng gọi Ganda là ung nhọt, vì bị châm chít dầy vò mãi, vì có vật uế trược rĩ chảy, vì bị đau đớn, vì bị sưng và bể vỡ.

- Cũng gọi Salla là mũi tên, ngũ uẩn như bia, đau khổ như tên.

- Cũng gọi Agha là sự bất hạnh sầu não, không hay của ngũ uẩn.

- Cũng gọi Abādha là động cơ gây sự đau khổ của ngũ uẩn, vì mất tự do, vì bất toại nguyện, vì là kho tàng thống khổ ...

- Cũng gọi Iti là mối tai họa nguy hiểm vì vô chủ quyền vô sở hữu chủ.

- Cũng gọi Upaddava là sự hư hỏng, rủi ro vì hằng đưa lại sự tiêu hoại, bất lợi vô ích...

- Cũng gọi Bhaya là kinh hãy khiếp đảm, vì đem lại sợ sệt khổ đau, vì ngăn sự an vui lợi lạc.

- Cũng gọi Upasagga là tai hại, hoạn họa, vì đem lại sự bất lợi, vì gây ra tội lỗi, vì pháp ra vô lượng khổ.

- Cũng gọi Attana là yếu hèn bất lực, vì không chống được sự khổ, không đương đầu nổi với cảnh khổ.

- Cũng gọi Alena là trống không, vì chẳng che ngăn được sự tuông rơi xuống.

- Cũng gọi Asarāna là bơ vơ đơn độc vì thiếu sự che chở, hộ trì.

- Cũng gọi Ādinava là tội lỗi sai lầm, vì gây ra sự khó khăn liên tục, khổ đau mãi mãi.

- Cũng gọi Aghamula là nguyên nhân cột trói tâm mất tự do.

- Cũng gọi Vadhaka là động cơ hủy diệt nềm vui.

- Cũng gọi Sāsava là trầm luân, chìm đắm vì Dục Lậu, Hữu Lậu, Tà Kiến Lậu và Vô Minh Lậu.

- Cũng gọi Mārāmisa là mồi của ác ma, pháp hành ma, phiền não ma, tử thần ma.

- Cũng gọi Jātidhamma là pháp sinh khởi trôi chảy luôn luôn như giòng thác lũ.

- Cũng gọi Jarādhamma là pháp mang đến sự già liên tục, như lá vàng rơi lả tả.

- Cũng gọi Byādhidhamma là pháp đến sự đau khổ liên tiếp.

- Cũng gọi Sokadhamma là pháp đưa đến sự sầu muộn.

- Cũng gọi Paridevadhamma là pháp đem lại sự ai bi, tảm não, khóc than.

- Cũng gọi Upayasadhamma là pháp dẫn theo sự thống khổ thê lương.

- Cũng gọi Sankilesadhamma là pháp tích tụ những điều phiền toái như tham, sân, tà kiến ...

Hành giả ghi nhớ 25 danh nghĩa kể trên để quán cho thấy rỏ thực trạng của ngũ uẩn gọi là quán tưởng khổ não của ngũ uẩn (dukkha lakkhaa).

Hoặc hành giả suy niệm thêm 4 đặc tính của khổ não:

- Khổ não có đặc tính làm cho nóng nảy (Santāpa).

- Khổ não có đặc tính làm khó chịu, khó kham nhẩn (Dukkhama)

- Khổ não có đặc tính làm cho sinh thống khổ, vật sinh ra khổ khác (Dukkha-vatthuka).

- Khổ não có đặc tính đối lập với sự an vui (Sukkhapa ipakkhapatthena)

 

236 - VÔ NGÃ (ANATTĀ)

Anattā là tư cách không có tự ngã đơn thuần bất biến, không có chủ quyền trống không - Cũng gọi Para là riêng rẽ từng phần, không dưới quyền ai cả, không ai có năng lực gì làm cho trái lại lý vô ngã.

- Cũng gọi Ritta là ít oi mỏng mảnh, khiếm khuyết vì không có được sự an vui vĩnh viễn.

- Cũng gọi Tuccha là rổng không, huyển giả, hư vọng ảo tưởng vì không có thực chất tự ngã.

- Cũng gọi Suñña là không trống không, huyển không vì không có ngã và ngã sở.

Hành giả ghi nhớ 5 danh nghĩa kể trên để quán cho thấy rỏ thực tướng của ngũ uẩn gọi là quán tướng vô ngã của ngũ uẩn (Anattālakkhaa).

Hoặc hành giả suy niệm về 4 đặc tính của pháp vô ngã:

- Vô ngã có đặc tính là không ở dưới quyền ai cả (Vase avattanāyeva).

- Vô ngã có đặc tính rổng không, chẳng có linh hồn chẳng có tự ngã bất biến (Suññatā).

- Vô ngã có đặc tính không lệ thuộc dưới đấng tự hữu, tạo hóa chúa tể nào cả (Asusa-mikattā).

- Vô ngã có đặc tính đối lập với danh nhgĩa tự ngã, hữu ngã, bản ngã (Attavipakkha-bhāvato).

 

 

LỜI PHỤ

 

 

Hành giả tu tập theo pháp Tứ Niệm xứ nên tìm chổ thanh vắng như trong rừng, dưới cội cây, ngôi nhà trống hay một trú xứ thanh tịnh nào khác cũng được, rồi thong thả tu tập trong cả bốn oai nghi là khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi. Nhất Tâm Chánh Niệm là luôn luôn ghi nhớ biết mình, chú tâm theo dỏi mỗi mỗi hành vi, động tác của Thân Tâm. Khi chánh Niệm thuần thục vững mạnh rồi, Trí tuệ sẽ phát sinh thấy rỏ sự sinh diệt của Danh Sắc.

Ðiều đáng chú ý hơn hết là làm sao quán cho thấy rỏ tướng trạng Vô Thường, Khổ não, Vô Ngã của ngũ uẩn. Ba tướng nầy là pháp ấn căn bản của môn Thiền Quán. Người tu hành khá ghi nhớ thận trong, không nên khinh suất. Nếu hành giả lìa bỏ đề mục là ngũ uẩn, và lìa bỏ ba pháp ấn căn nầy thì không thể thành tựu Ðạo Quả.

Nay chúng tôi dù tài hèn sức kém, nhưng cố gắng tìm tòi trong chánh tạng Pàli những bài pháp chính của Ðức Phật dạy về pháp Tứ Niệm Xứ, để đóng góp vào nền thiền học của nước nhà, nếu có những chổ sơ sót ngoài ý muốn, mong quí Ngài Cao Tăng Thiền Ðức từ bi chỉ dạy cho.

GIÁC CHÁNH

 

Tiêu điểm:
Các tin đã đăng: