Sau bữa cơm, chúng tôi đứng dậy và bà chủ nhà đưa chúng tôi ra vườn.
Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và Bút Già đã
ngồi sẵn tại dó. Chúng tôi bèn ngồi xuống bên cạnh các vị và liền cảm
thấy một sự thoải mái bình an khôn tả. Điều đó cho chúng tôi hiểu rằng,
từ đây cuộc đời chúng tôi còn phải nương tựa rất nhiều vào các vị chân
sư.
Chúng tôi đã ràng buộc chặt chẽ với các ngài dường như bởi những sợi dây
vô hình. Và tôi mơ hồ nhận thấy rằng đó không phải là một điều thật sự
tốt đẹp. Mỗi người trong chúng ta cần phải tự mình thực hiện vai trò
nhất định của mình trong cuộc đời, và không ai trong chúng ta lại nên
làm một con người thụ động, chỉ biết dựa dẫm vào người khác. Tôi hiểu
rằng nếu đến một ngày nào đó mà chúng tôi tỏ ra không thể tự mình đứng
vững, không cần đến sự trợ giúp, thì các ngài sẽ bắt buộc phải cắt đứt
mọi sự liên hệ với chúng tôi. Sau đó, Tô Mặc đã có dịp nêu ra vấn đề này
một cách hoàn toàn thành thực và cởi mở.
Mặt trời vừa khuất bóng, ánh tà dương còn tô màu lên cảnh vật lúc trời
chiều, bày ra một sự phong phú về màu sắc và một vẻ đẹp khôn tả. Không
một ngọn gió thổi, không một tiếng động làm gián đoạn sự yên tĩnh chung
quanh chúng tôi. Nỗi lo sợ về bọn cướp cho đến lúc nãy vẫn đè nặng trong
lòng chúng tôi cũng đột nhiên hoàn toàn biến mất.
Cảnh vật chung quanh thật là yên tĩnh, và chúng tôi ý thức một cảm giác
hoàn toàn thoải mái lạ thường. Chúng tôi dường như tự thả trôi theo dòng
thời gian một cách vô tư, không còn lo gì đến ngày mai.
Đêm hôm đó, chúng tôi dường như quên đi tất cả mọi nỗi lo âu cũng như sự
nôn nóng trong công việc, để chỉ ngồi cạnh bên nhau cùng với các vị
chân sư một cách yên tĩnh cho đến tận nửa khuya. Chúng tôi hầu như không
bàn luận về bất cứ đề tài nào, nhưng sự thật là một đêm yên lặng đó đã
nói với chúng tôi rất nhiều điều. Tất cả chúng tôi đều nhận ra được
những lao xao không cần thiết trong tâm thức mà hầu như ngày đêm liên
tục khởi lên trong chúng tôi, khiến cho chúng tôi phải mất hẳn đi sự
sáng suốt và bình an vốn có. Chúng tôi cũng ngạc nhiên biết bao khi nhận
ra rằng, chúng tôi không cần phải làm bất cứ điều gì để dẹp bỏ đi những
tư tưởng lao xao vọng động đó, mà chỉ cần ngồi yên, mỉm cười và chia sẻ
với nhau sự an ổn như đêm nay. Những tư tưởng vọng động kia dường như
tự nó đã không còn chút năng lượng nào để khởi lên, và đang dần dần tan
biến trước sự quan sát rất rõ ràng của chúng tôi. Thật là một kinh
nghiệm kỳ lạ và lý thú mà từ trước đến nay chúng tôi chưa từng biết đến!
Khi chúng tôi chia tay để ra về, đức Tuệ Minh mới nói đôi lời trấn an
chúng tôi về sự tấn công của bọn cướp. Ngài nói rằng, nếu bọn cướp này
vẫn ngoan cố trong ý định đánh phá thôn ấp, rốt cuộc chúng sẽ tự hủy
diệt lấy nhau. Cơ hội đã được đưa đến cho chúng để rời khỏi làng mà
không làm hại đến dân chúng. Nếu chúng không đón nhận cơ hội ấy, chúng
sẽ đi đến chỗ tự làm hại lẫn nhau. Người ta không thể mưu toan tiêu diệt
những người đồng loại mà không chuốc lấy điều tai họa cho chính mình.
Chúng ta đã gửi đến cho bọn cướp ấy thông điệp chân thành của tình yêu
thương rộng mở thiêng liêng. Nếu họ đáp lại tình thương ấy bằng sự hận
thù, sự phản bội, lừa dối hay oán hận, thì họ sẽ tự mình khơi dậy một
ngọn lửa để tiêu diệt chính họ. Các bạn đừng sợ sệt gì cả. Chúng ta chỉ
ban rải tình thương, nhưng chúng ta không thể ép buộc họ chấp nhận tình
thương ấy. Nếu bọn cướp cũng đến đây với tình thương thì sẽ không thể có
sự xung đột. Nhưng dù sao thì chính nghĩa bao giờ cũng thắng.
Hôm sau, chúng tôi được thông báo rằng một người đưa tin đã đến làng.
Chúng tôi bước ra đón tiếp ông ta và được cho biết rằng bọn cướp đã tạm
dừng mọi cuộc đánh phá, hiện đang cắm trại im lìm ở cách đó khoảng ba
mươi lăm cây số. Từ khi biết những người nông dân đã gửi lời kêu gọi cứu
trợ đến dân làng này, họ đã ngưng mọi sự cướp bóc và đánh phá, nhưng họ
vẫn còn cầm giữ một số đông người bị bắt làm con tin để phòng trường
hợp có sự kháng cự bằng võ lực.
Theo người đưa tin thì có tin đồn rằng bọn cướp sẽ tấn công làng này
trong một hai hôm nữa nếu kho tàng không được mang đến nộp cho họ.
Tất cả dân làng đều tình nguyện hy sinh tánh mạng để bảo vệ làng, nhưng
người đưa tin được trấn an rằng sự hy sinh đó là không cần thiết. Ông
được cho biết là hãy trở về nhà và yên tâm nghỉ ngơi. Dân làng cũng bày
tỏ sự biết ơn sâu xa về những cố gắng của ông vì mục đích bảo vệ chung
cho tất cả mọi người.
Sáng hôm sau, chúng tôi đã tìm thấy lại sự hứng khởi trong công việc và
mọi tư tưởng sợ sệt đều đã biến mất. Ngày kế đó, chúng tôi đang nghiên
cứu một vài hình tượng khắc trên những tảng đá của hang núi thì chợt
nhận ra có sự khác thường từ vị trí của người canh phòng ngoài làng.
Người này đứng ở phía bên kia hang núi, trên một vị trí cao hơn chỗ
chúng tôi đứng, và như vậy anh ta có thể quan sát trên khắp một vùng
rộng lớn. Nhìn xuyên qua ống kính viễn vọng, chúng tôi thấy người ấy
đang ra hiệu báo động cho người làng.
Không bao lâu, chúng tôi thấy dân làng náo loạn chạy tứ phía và tìm nơi
trú ẩn trong những hang động sâu thẳm của vùng núi non hẻo lánh này. Tất
cả đều tỏ vẻ vô cùng lo lắng và náo động. Chúng tôi lắng tai và nghe
thấy những tiếng động ồn ào từ đằng xa vọng lại, và nhận biết ngay đó là
đoàn kỵ mã của bọn cướp đang tiến tới.
Một người trong chúng tôi trèo lên cao hơn một chút nữa để quan sát tình
hình. Anh ta cho biết đã nhìn thấy đám mây bụi mù trời dậy lên bởi một
đoàn kỵ mã đông đảo đang phi nước đại tiến về phía hang núi.
Chúng tôi lập tức đem cất giấu đồ dụng cụ của mình vào trong một khe đá ở
gần bên, và tìm nơi trú ẩn trong những khe núi chớn chở, từ đó chúng
tôi có thể quan sát những hành động của bọn cướp.
Đoàn kỵ mã ngừng lại ở chỗ cửa vào hang núi. Khoảng năm mươi tên cướp đi
tiên phong phi ngựa tiến lên phía trước, kế đó cả bọn đều quất ngựa
phóng nước đại chạy vào hang.
Tiếng vó ngựa chạy dồn dập cùng với những tiếng hò hét vang rân hợp
thành những âm thanh chấn động cả núi rừng và rùng rợn khôn tả. Nơi
chúng tôi đang ở là một vị trí rất thuận lợi, vì những vách núi hầu như
dựng đứng như vách thành. Chúng tôi có thể nhìn xuống dưới hang núi và
quan sát bọn cướp tiến tới như nước vỡ bờ, dường như không gì ngăn cản
nổi.
Đoàn quân tiên phong đã vượt qua khỏi chỗ vị trí của chúng tôi, và những
người kỵ mã đi đầu của đoàn trung quân đã tiến lên rất nhanh. Chúng tôi
quay ống kính viễn vọng nhìn trở về làng thì thấy dân làng đã bị một
cơn náo loạn khủng khiếp. Chúng tôi cũng thấy một thành viên trong bọn
chúng tôi đang đứng trên bao lơn của ngôi đền. Anh ta ngưng làm việc để
ra đứng đó quan sát bọn cướp đang tiến tới. Kế đó, chúng tôi nhìn thấy ở
phía sau anh ta, nơi cửa vào sảnh đường chính của ngôi đền xuất hiện
đức Tuệ Minh từ đó bước ra. Ngài đi thẳng đến bao lơn và đứng yên trong
một lúc, trong tư thế oai nghiêm như một pho tượng.
Tất cả những ống kính viễn vọng của chúng tôi lẽ tự nhiên là tập trung
cả về hướng đó. Bao lơn của ngôi đền cách xa chỗ chúng tôi trú ẩn khoảng
năm cây số và cao hơn khoảng ba trăm thước. Trong khoảng cách đó, chúng
tôi có thể nhìn rõ từng chi tiết những cử động của đức Tuệ Minh qua ống
kính viễn vọng.
Chúng tôi thấy đức Tuệ Minh đứng yên lặng hồi lâu rồi đưa hai tay ra
phía trước. Từ nơi hai bàn tay ngài, chúng tôi nhìn thấy một tia sáng
như bạc chiếu thẳng đến chỗ một khúc quanh về bên trái, ngay trước mặt
đoàn quân tiên phong của bọn cướp. Trong giây lát, bỗng xuất hiện một
bức tường lớn dựng lên như vách thành ở ngay chỗ ấy, với những mũi nhọn
chơm chởm túa ra như những mũi tên.
Những con ngựa ở hàng đầu của bọn cướp đang phóng nước đại như bay tới
trước, hốt nhiên nhảy dựng lên và dừng lại thình lình, làm cho một số
lớn những kỵ mã tiên phong bị hất văng xuống đất. Nhiều con ngựa nhảy
dựng và đứng sững trên hai chân sau trong một lúc, rồi quay đầu chạy trở
lại cửa hang, ngược chiều với bọn cướp ở đạo trung quân.
Khi hai toán quân của bọn cướp đến gần nhau, những kỵ mã còn chưa bị ngã
ngựa cố gắng kìm cương ngựa của họ, nhưng dường như vô ích. Cùng với
những con ngựa vô chủ phóng tới như điên, họ đâm sầm vào bọn cướp trung
quân, làm cho những hàng đầu của đạo quân này bị lỡ trớn và đứng khựng
lại. Những hàng kế đó, không biết có sự hiểm nguy, vẫn phóng nước đại
tiến vào đám người ngựa hỗn độn phía trước, và trong hang núi lúc ấy
hiện ra cảnh tượng của một đám người ngựa lộn xộn và mất trật tự, không
còn hàng ngũ kỷ cương gì cả.
Trong phút chốc, một sự im lặng chết chóc bao trùm lên tất cả, chỉ gián
đoạn bởi những tiếng thét rú lên của những kỵ mã trong cơn khủng khiếp
và tiếng ngựa hí thất thanh.
Kế đó diễn ra một cảnh tượng rùng rợn ở ngay tại chỗ mà đoàn quân tiên
phong đã hoảng kinh quay đầu trở lại, bị chạm trán với những hàng quân
đầu tiên của bọn cướp ở đạo trung quân. Những con ngựa không người cưỡi,
trong cơn hoảng hốt, đã phóng vào đám rừng người, làm cho một số lớn
những người kỵ mã bị hất văng xuống đất. Những con ngựa của họ lại trở
thành vô chủ, lồng lên nhảy tứ tản và càng làm tăng thêm sự hỗn loạn.
Những con ngựa cũng hốt hoảng không kém gì bọn chủ nhân của chúng, bắt
đầu hí vang, nhảy vọt sang hai bên và thét rú lên từng hồi trong cơn hãi
hùng và khủng khiếp tột độ.
Kế đó, cơn hỗn loạn lan tràn khắp cả bọn cướp đang bị lúng túng và bế
tắc trong hang núi ở phía dưới chúng tôi. Thình lình chúng tôi thấy
những người kỵ mã tuốt gươm trần ra khỏi vỏ và chém loạn xạ tứ phía.
Những người khác rút súng bắn vào đám người ngựa chung quanh, có lẽ định
mở đường để thoát thân.
Không bao lâu, cảnh tượng đó đã biến thành một trận chém giết hỗn loạn,
chỉ có những kẻ mạnh bạo nhất sống sót. Cơn hỗn loạn chấm dứt bằng sự đổ
xô nhau chiếm lấy những khoảng trống giữa những kẻ may mắn thoát khỏi
cơn chém giết vừa qua.
Rồi họ rời khỏi hang núi và để lại những đống xác người ngựa đã chết
hoặc bị thương. Chúng tôi hối hả đi xuống để tìm cách cứu giúp những kẻ
bị thương. Tất cả dân làng và các vị chân sư cũng tiếp tay với chúng
tôi. Dân làng cũng gửi người đi khắp các vùng phụ cận để kêu gọi sự trợ
giúp.
Chúng tôi làm việc ráo riết suốt đêm và cho đến sáng hôm sau. Đức Tuệ
Minh và các chân sư đích thân chăm sóc những kẻ bị thương khi chúng tôi
vừa đưa họ ra khỏi đống thịt người ngựa hỗn tạp, có kẻ sống lẫn người
chết.
Khi chúng tôi đã cứu được tất cả những người còn sống, cho đến người cuối cùng, chúng tôi trở về quán trọ để ăn sáng.
Vừa bước vào nhà trọ, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy tên Cướp Đen
đang ngồi nói chuyện với đức Tuệ Minh. Ngài nhận thấy cái nhìn ngạc
nhiên của chúng tôi và nói:
– Chúng ta sẽ nói chuyện sau.
Sau bữa ăn sáng, chúng tôi bèn ra ngoài cùng với Tô Mặc. Tô Mặc cho biết
rằng đức Tuệ Minh và anh ta đã tìm thấy tên Cướp Đen bị thương nặng và
không thể cử động được nữa, vì bị ngựa đè lên mình. Hai vị đã kéo tên
cướp ra và chở hắn đến một nơi tạm trú, tại đây y được dành cho tất cả
mọi tiện nghi có thể tìm được. Kế đó hai vị kêu gọi đến sự giúp đỡ của
bà chủ nhà trọ chúng tôi và giao tên cướp cho bà chăm sóc.
Khi những vết thương được băng bó xong, hắn ta khẩn cầu bà chủ nhà hãy
cho ông ta biết là phải làm gì để sám hối mọi tội lỗi và quay đầu hướng
thiện. Khi ấy, bà hỏi ông ta có muốn được bình phục sức khỏe chăng. Ông
ta đáp:
– Có, tôi muốn được lành mạnh hoàn toàn.
Bà chủ nhà nói:
– Vì bây giờ anh đang cầu xin có được sức khỏe, lời cầu xin của anh đã được đáp ứng. Anh sẽ được hoàn toàn lành mạnh.
Kế đó, tên cướp nằm thiếp đi trong một cơn ngủ mê li bì. Đến nửa đêm,
những vết thương của hắn ta đã hoàn toàn biến mất và thậm chí không để
lại một vết sẹo nhỏ nào.
Tô Mặc đã nhận thấy điều này khi anh ta đi tuần tra lúc ban đêm. Tên
Cướp Đen bèn đứng dậy, mặc y phục vào và tình nguyện giúp một tay cứu
trợ cho những kẻ bị nạn. Chúng tôi cũng thấy một số đông bọn cướp được
hoàn toàn bình phục mà trước đó chúng tôi nghĩ rằng họ không sao qua
khỏi.
Khi công việc cứu trợ kết thúc, tên Cướp Đen len lỏi trong đám đồng bọn
bị thương và cố gắng hết sức để an ủi và trấn tĩnh tinh thần họ. Nhiều
người giống như những con thú bị gài bẫy, họ lo sợ bị tra tấn đến chết,
vì đó là cách đàn áp những kẻ cướp bị sa lưới theo phong tục bổn xứ. Ý
nghĩ đó ăn sâu vào trí óc họ đến nỗi họ không có một sự phản ứng tốt
lành nào đối với những cách đối xử nhân đạo mà người ta dành cho họ. Họ
sợ rằng những cố gắng của chúng tôi để giúp họ mau bình phục sức khỏe
chỉ có mục đích là để có thể tra tấn họ lâu dài hơn.
Sau cùng, tất cả đều đã khỏi bệnh, tuy rằng một số ít đã kéo dài bệnh
tật dây dưa trong nhiều tháng với niềm hy vọng rõ rệt không dấu giếm
rằng nhờ đó họ có thể hoãn sự tra tấn họ.
Ít lâu sau đó, tên Cướp Đen qui tụ tất cả những tên cướp sống sót nào
tình nguyện theo ông ta để thành lập một toán quân bảo vệ làng mạc chống
lại những cuộc tấn công của bọn cướp về sau này. Ông ta cũng chiêu mộ
được nhiều dân làng gia nhập vào toán quân đó. Về sau chúng tôi được
biết rằng kể từ ngày đó, những bọn cướp không còn đánh phá vùng này nữa.
Hai nhóm của phái đoàn chúng tôi rốt cuộc cũng đã vượt qua vùng lãnh thổ
này trên lộ trình đi đến vùng sa mạc Gobi. Chính tên Cướp Đen và đồng
bọn đã hộ tống và bảo vệ cho phái đoàn trong vùng địa phận của họ và
vùng lân cận, ít nhất trên bảy trăm cây số đường trường, và không một
người nào muốn nhận tiền thù lao về công việc đó.
Về sau, chúng tôi còn có nhiều dịp được nghe nói về Cướp Đen. Ông ta đã
phát triển nhiều công việc từ thiện và cứu trợ trong toàn thể vùng này
và dành trọn cuộc đời còn lại để giúp đỡ cho dân chúng được sống yên
lành hạnh phúc mà không hề nhận tiền bạc của ai.
Ngày thứ hai sau khi bọn cướp đã tan rã, đến trưa thì chúng tôi đã săn
sóc hết tất cả những kẻ bị thương và cũng đã đi quan sát lại một lần
cuối để chắc chắn rằng không một người nào còn bị bỏ sót lại trong hang
núi giữa đống xác người ngựa nằm ngổn ngang la liệt như bãi chiến
trường.
Trong khi chúng tôi trở về quán trọ để ăn điểm tâm và nghỉ ngơi, một
người trong nhóm chúng tôi cất tiếng nói lên một ý nghĩ vẫn ám ảnh chúng
tôi trong nhiều giờ trước đó:
– Tại sao phải có sự giết chóc rùng rợn và hủy hoại sinh mạng khủng khiếp đến như thế?
Chúng tôi đã mệt đừ, và cơn xúc động đã làm cho chúng tôi bị hoàn toàn
kiệt sức. Vì bọn cướp gây cho dân làng một sự sợ hãi kinh hoàng tột độ,
nên tất cả mọi cố gắng cứu trợ đều đổ dồn lên vai chúng tôi, nhất là
trong những giờ phút đầu tiên.
Ngay cả sau khi chúng tôi đã lôi hết những kẻ bị thương ra khỏi đống xác
người ngựa nằm ngổn ngang chồng chất lên nhau, chúng tôi cũng gặp nhiều
khó khăn để thuyết phục dân làng ra tay trợ giúp những kẻ bị thương. Họ
tuyệt đối không thấy có lý do nào để giúp đỡ chúng tôi cứu mạng những
kẻ đã toan giết hại họ chỉ vì lòng tham muốn của cải.
Nhiều người dân làng cảm thấy vô cùng ghê tởm khi phải sờ mó vào một xác
chết. Nếu họ không có một sự kính trọng đặc biệt đối với các vị chân sư
thì họ đã rời khỏi vùng này ngay lập tức mà không hẹn ngày trở lại. Dầu
sao, chúng tôi đã quá mệt mỏi và rất đau lòng, vì đó là cái kinh nghiệm
khủng khiếp nhất trong đời chúng tôi.
lll
Khi cơn xúc động của những ngày qua đã dần dần lắng dịu, chúng tôi lại
bắt tay vào công việc một cách hào hứng, hăng say. Mùa lễ Phục sinh đã
sắp đến và chúng tôi định kết thúc công việc sưu tầm ở làng này trước
khi trở về Ấn Độ.
Công việc được hoàn thành rất mau chóng. Sự chuẩn bị cuối cùng cho việc
trở về được hoàn tất trước ngày lễ Phục sinh, và chúng tôi định dành
trọn ngày Chủ nhật để nghỉ ngơi dưỡng sức.
Khi vừa bước ra cửa để đi tới đền trước lúc bình minh, chúng tôi gặp
Chander Sen ngồi trong sân quán trọ. Ông ta liền đứng dậy để đi theo
chúng tôi và nói Tô Mặc sẽ gặp chúng tôi tại chánh điện. Ông ta đề nghị
chúng tôi nên trở về Ấn Độ bằng đường đi ngang Lhasa, thủ đô Tây Tạng,
kế đó qua Mouktinath theo đường truông núi Kandemath trên dãy Tuyết Sơn,
rồi từ đó, sẽ đi tới Darjeeling.
Khi trở về làng, chúng tôi thấy mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng chờ chúng
tôi lên đường. Một số khá đông dân làng đã đi trước để vạch đường trên
các truông núi bị bao phủ dưới một lớp tuyết dày đến ba bốn thước tây.
Truông núi mà chúng tôi sẽ vượt qua ở cách xa đến tám mươi cây số và
trên một chiều cao độ bốn ngàn thước. Phần lớn vùng này núi non chớn chở
và rất khó vượt qua. Dân làng có thói quen vạch một con đường mòn và
nện tuyết ém xuống cho chặt một ngày trước khi lên đường. Tuyết được ép
chặt trên đường lộ sẽ đông đặc lại vào ban đêm và người ngựa sẽ dễ đi
hơn.
Chúng tôi thức dậy rất sớm trước khi trời sáng và nhận thấy rằng mọi
việc đều đã được chuẩn bị chu đáo đến từng chi tiết nhỏ. Dật Sĩ và một
người hướng đạo địa phương sẽ đi theo chúng tôi. Tất cả dân làng đều tề
tựu đông đủ để tiễn đưa chúng tôi lên đường.
Chúng tôi lấy làm tiếc mà phải rời khỏi làng. Tại đây chúng tôi đã trải
qua hai mùa đông tốt đẹp. Dân làng là những người hồn nhiên chất phác và
dễ thương. Để tỏ lòng ưu ái, nhiều người trong bọn họ đã tiễn đưa chúng
tôi trên bảy tám cây số rồi mới quay trở về. Khi đó, chúng tôi mới từ
giã họ một lần cuối cùng và tiếp tục dấn bước trên con đường trở về Ấn
Độ.
Nhưng chúng tôi còn phải trải qua nhiều tháng trên đường về trước khi
nhìn thấy lại những ngọn núi đầu tiên của dãy Tuyết Sơn. Theo lộ trình
đã định, chúng tôi đi xuống thung lũng Gia-ma-nu-chu, đi dọc theo một
con sông đến truông Tonjnor Jung, rồi đi vòng theo con sông Brahmaputra
để đến Lhasa, thủ đô Tây Tạng.
Khi chúng tôi gần đến Lhasa thì đã nhìn thấy nhô lên từ đằng xa nóc điện
Potala, cung điện của vị Đạt-lai Lạt-ma, vị vua của xứ Tây Tạng. Cung
điện này được xem như một viên ngọc quí của thành phố này.
Lhasa là thủ phủ chính trị của Tây Tạng, nhưng còn vị lãnh đạo tinh thần
tối cao về mặt đạo đức tâm linh được cho là cư ngụ trong một trung tâm
huyền bí ẩn giấu gọi là Shambhala, hay Bạch Ngọc Cung. Chúng tôi rất
mong ước được viếng thăm trung tâm huyền bí và linh thiêng này, mà theo
truyền thuyết là được ẩn giấu rất sâu dưới lòng đất ở vùng sa mạc Gobi.
Chúng tôi vào thành phố Lhasa cùng với một đoàn người hộ tống. Người ta
đưa chúng tôi đến những nhà trọ có chuẩn bị đủ mọi thứ tiện nghi có thể
tìm được ở đây. Một đám đông kéo đến trước cửa nhà trọ và đứng đó hàng
giờ để quan sát chúng tôi, vì sự hiện diện của người da trắng ở đây là
một cảnh tượng lạ lùng và hiếm có.
Chúng tôi được mời đến viếng tu viện Lạt-ma giáo vào ngày hôm sau, lúc
mười giờ. Chúng tôi được đề nghị bày tỏ những điều ước muốn của mình, và
mọi người sẽ vui lòng giúp đỡ chúng tôi về mọi mặt.
Bất cứ chúng tôi đi đâu, đều có một nhóm người đi theo sau lưng. Một
lính canh được đặt trước cửa nhà trọ để xua đuổi những kẻ tò mò, vì dân
chúng thủ đô Lhasa có thói quen bước vào nhà người lạ mà không báo
trước. Sự có mặt của chúng tôi là một điều mới lạ trong đời họ, và chúng
tôi không thể trách họ về sự tò mò nói trên.
Khi một người trong chúng tôi đi ra ngoài một mình, những kẻ tò mò bao
vây chung quanh với ý định rõ ràng là để nhìn xem cho tận mắt, sờ mó tận
tay để biết chắc rằng anh ta quả là một con người thật, và đôi khi sự
quan sát ấy tỏ ra quá đỗi sỗ sàng đối với nạn nhân.
Hôm sau chúng tôi thức dậy sớm và sửa soạn đi đến tu viện để gặp vị sư
trưởng. Khi chúng tôi gần đến tu viện, vị sư trưởng đích thân bước ra
tiếp đón chúng tôi. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy cùng đi với sư
trưởng có cả đức Tuệ Minh và đức bà Mã Ly! Đó là một cuộc hội ngộ hoàn
toàn bất ngờ.
Chúng tôi vào tu viện và nghỉ lại đó. Sau những cuộc đàm luận lý thú về
đạo lý với vị sư trưởng, chúng tôi bàn về việc lên đường đi Shambhala.
Vị sư trưởng hỏi rằng người cùng đi với chúng tôi được chăng. Một trong
các vị chân sư đáp rằng người có thể đi, không khó, nếu người có thể rời
khỏi xác phàm và trở về nhập xác tùy ý muốn. Dầu sao, nhóm các vị chân
sư sẽ đi Shambhala ngay tối hôm ấy.
Chúng tôi đồng ý rằng các ngài sẽ tụ họp tại nhà trọ của chúng tôi vào lúc xế chiều và Tô Mặc sẽ cùng đi với các ngài.
Các ngài đã tụ họp tại đó sau khi chúng tôi trở về nhà trọ. Sau một cuộc
trò chuyện ngắn, các ngài bước ra cửa và chúng tôi không còn gặp lại
các ngài trong nhiều ngày.
Trưa ngày hôm sau, chúng tôi được thông báo cho biết rằng đức Đạt-lai
Lạt-ma sẽ tiếp kiến chúng tôi tại biệt điện của ngài. Vị sư trưởng đến
nhà trọ ngay chiều hôm đó để cho chúng tôi những chỉ dẫn cần thiết về
cuộc yết kiến này.
Chúng tôi thật hân hạnh được dành cho cuộc yết kiến này, vì theo thường
lệ thì chúng tôi phải chờ đợi một thời gian khá lâu trước khi được diện
kiến đức Đạt-lai Lạt-ma. Chúng tôi được dành cho đặc ân này ngay sau khi
một sứ giả đem tin tức trở về cho đức Đạt-lai Lạt-ma biết rằng cuộc
thăm viếng tại Bạch Ngọc Cung (Shambhala) đã diễn ra một cách tốt đẹp.
Đức Đạt-lai Lạt-ma cũng đã được thông báo về những sự việc diễn biến
trước đây trong suốt cuộc hành trình của chúng tôi. Chúng tôi cố gắng
gây cho ngài một ấn tượng tốt đẹp đến mức tối đa, vì chúng tôi muốn xin
phép Ngài để thực hiện một cuộc quan sát và sưu tầm khắp nơi trong xứ
Tây Tạng.
Chúng tôi được cho biết rằng vị thống đốc của tỉnh sẽ đến trước giờ trưa
và đã thông báo cho biết, do một viên sứ giả đem tin, rằng ngài sẽ giúp
đỡ chúng tôi với tất cả quyền hạn của ngài. Đó thật là một sự ngạc
nhiên bất ngờ.
Chúng tôi thức dậy sớm và đi cùng với một nhóm tùy tùng đến yết kiến xã
giao vị thống đốc. Ngài tỏ vẻ rất hài lòng về cử chỉ này và mời chúng
tôi cùng đi với ngài. Khi chúng tôi và vị thống đốc đến nơi, chúng tôi
được đưa vào các gian phòng dành cho quan khách tại biệt điện. Từ đó,
chúng tôi sẽ đi thẳng đến một phòng riêng để tham gia những nghi lễ đầu
tiên chuẩn bị cho cuộc yết kiến với đức Đạt-lai Lạt-ma.
Khi chúng tôi đến nơi, có ba vị Lạt-ma cao cấp đang ngồi trên những
chiếc bục cao có lót nệm dày, trong khi những vị Lạt-ma cấp dưới ngồi
xếp chân trên nền đất trong tư thế kiết già. Hai vị Lạt-ma mặc áo đỏ
đứng trên những bục cao và điều khiển những khúc thánh ca hợp tấu. Vị sư
trưởng bạn chúng tôi thì ngồi trên một chiếc ngai có che lọng theo nghi
lễ và chờ viên thống đốc đến.
Sân ngoài của tu viện được trang hoàng thật đẹp trong dịp này. Những bức
tranh tuyệt đẹp trình bày những cảnh tượng lịch sử diễn ra từ năm 1417
khi đức Tông-khách-ba (Tsongkhapa) thành lập tông phái Cách-lỗ (Gelugpa)
ở Tây Tạng. Phái này cũng thường được gọi là Hoàng phái, bởi họ thường
sử dụng y phục màu vàng. Chính phái này về sau đã sản sinh ra các vị
Đạt-lai Lạt-ma liên tục tái sinh qua nhiều đời mà đến nay là vị đời thứ
14 vẫn còn đang hoằng hóa. Các vị Đạt-lai Lạt-ma là người lãnh đạo tinh
thần và dẫn dắt người dân Tây Tạng về mặt tâm linh. Các vị đã chọn Lhasa
là trung tâm chính yếu của xứ Tây Tạng, cả về mặt tâm linh cũng như các
hoạt động kinh tế và xã hội.
Một lúc sau, vị thống đốc cùng đoàn tùy tùng bước vào và đi thẳng đến
chỗ ngồi của vị sư trưởng. Vị này cũng đã từ trên ngai bước xuống. Cả
hai vị đều đứng chung một chỗ để tiếp đón chúng tôi và đưa chúng tôi đến
phòng khách của đức Đạt-lai Lạt-ma.
Tòa sảnh đường được trang hoàng với những tấm thảm bằng lụa treo trên
vách rất lộng lẫy và với những bàn ghế bằng gỗ quí đánh bóng rất đẹp.
Sau khi được đưa vào phòng khách, chúng tôi quì xuống một lúc trước đức
Đạt-lai Lạt-ma rồi mới đứng dậy và được mời ngồi.
Vị sư trưởng thay mặt chúng tôi để chúc mừng đức Đạt-lai Lạt-ma và trình
bày mục đích cuộc viếng thăm của chúng tôi. Đức Đạt-lai Lạt-ma đứng dậy
và mời chúng tôi bước lại gần. Một vị Lạt-ma hầu cận đưa từng người
trong chúng tôi đến chỗ ngồi. Vị sư trưởng và viên thống đốc ngồi ở hai
góc cùng một hàng với chúng tôi.
Khi đó, đức Đạt-lai Lạt-ma bước xuống ngai và đứng trước mặt chúng tôi.
Ngài cầm lấy một cây quyền trượng nhỏ do vị quan hầu cận dâng lên, rồi
từ từ đi dọc theo hàng của chúng tôi đứng và điểm nhẹ cây quyền trượng
ấy lên trán mỗi người như một nghi thức ban ân huệ.
Kế đó, do vị sư trưởng làm thông ngôn, ngài chúc mừng chúng tôi đến xứ
Tây Tạng. Ngài nói rằng ngài rất hân hạnh tiếp đón chúng tôi như những
vị thượng khách trong thời gian chúng tôi lưu lại thành phố này.
Chúng tôi đưa ra cho ngài nhiều câu hỏi và được cho biết rằng ngài sẽ
trả lời vào hôm sau. Sau đó, ngài mời chúng tôi đến xem những tài liệu
và bia đá cổ được lưu trữ dưới hầm biệt điện. Ngài gọi một vị quan hầu
cận và truyền khẩu lịnh mà vị quan ấy không dịch lại, nhưng chúng tôi
hiểu rằng chúng tôi được tự do đi lại khắp nơi trong biệt điện mà không
có giới hạn.
Kế đó, đức Đạt-lai Lạt-ma ban ân huệ bằng cách bắt tay chúng tôi một
cách thật thân mật. Rồi ngài cho người đưa chúng tôi cùng với vị sư
trưởng và viên thống đốc về nơi nhà trọ để nghỉ ngơi.
Về đến nơi, vị sư trưởng và viên thống đốc xin phép được vào phòng chúng
tôi vì họ muốn trao đổi một số vấn đề. Vị sư trưởng nói:
– Có nhiều chuyện lý thú đã xảy ra kể từ khi các bạn đến lưu trú trong
ngôi làng nhỏ chỗ chúng tôi. Chúng tôi đã xem xét nhiều tấm bia đá cổ
trong tu viện và nhận thấy rằng tất cả đều có đề cập đến một nền văn
minh cổ của xứ Gobi. Chúng tôi ngờ rằng các nền văn minh và tín ngưỡng
tôn giáo cổ xưa đều xuất xứ từ một nguồn gốc duy nhất. Chúng tôi không
biết rõ căn nguyên và thời đại nào đã sáng tạo các bia đá cổ, nhưng
chúng tôi quả quyết rằng những bia đá ấy ghi lại những tư tưởng của một
dân tộc đã từng sống cách đây nhiều ngàn năm. Chúng tôi hiện có phần tóm
lược của một bản dịch do một vị Lạt-ma xứ Kisou-Abou dịch lại cho chúng
tôi. Chính nhờ đó mà chúng tôi đã hiểu được phần lớn nội dung các bia
đá.
Sáng hôm sau, khi chúng tôi đang đợi vị sư trưởng thì có một sứ giả đưa
tin đến rằng đức Đạt-lai Lạt-ma muốn tiếp kiến chúng tôi vào lúc hai giờ
trưa. Chúng tôi bèn đi tìm vị sư trưởng và gặp được ông ta ngoài cửa
tòa sảnh đường với vẻ mặt hân hoan và đang cầm nơi tay một tờ thông điệp
được mang đến cho chúng tôi, vị sư trưởng nói:
– Đây là một thư mời với mục đích chính thức trao tặng cho các ông.
Khi chúng tôi đã tụ họp lại, có một người trong nhóm đề nghị đến phòng
lưu trữ các tài liệu văn khố. Chúng tôi tán thành và liền đi tới đó. Khi
đến nơi, một sự bất ngờ làm chúng tôi rất ngạc nhiên. Tại đó chúng tôi
thấy có hàng nghìn pho tài liệu cổ khắc trên những tấm bảng bằng đồng,
bằng thép, và còn có những tấm bia bằng đá cẩm thạch trắng chạm trổ rất
đẹp. Đây là lần đầu tiên chúng tôi có dịp quan sát tận mắt loại tài liệu
cổ đó.
Vị sư trưởng cho chúng tôi biết rằng bản thân ông không biết rõ về những
bia đá cổ đó, nhưng được nghe nói rằng chúng được đưa đến từ xứ Ba Tư.
Ông liền tình nguyện đi tìm và mời đến một vị Lạt-ma được tin là biết rõ
tường tận về những bia đá cổ này. Khi ông ta đã ra ngoài, chúng tôi bắt
đầu cuộc quan sát, nhưng không một thành viên nào trong nhóm chúng tôi
đọc được những cổ tự khắc trên các bia đá.
Chung quanh những bia đá này đều có chừa một phần lề, bề rộng chừng năm
phân tây. Trên các lề này có chạm hình nổi. Rất nhiều hình nổi trong số
này được làm bằng vàng ròng, còn một số cổ tự cũng bằng vàng nhưng không
được chạm nổi lên.
Những bia đá đều sắp thành từng hàng rất có qui củ, và mỗi hàng đều có mang một số thứ tự
Trong khi chúng tôi còn đang đắm chìm trong cơn suy tưởng mông lung thì
vị sư trưởng đã trở lại cùng với một vị Lạt-ma cao niên, có phận sự bảo
quản các kho tài liệu.
Vị Lạt-ma mới đến này thuật cho chúng tôi nghe lịch sử của các bản văn
và tài liệu cổ, và câu chuyện làm cho chúng tôi thích thú say mê đến nỗi
vị sư trưởng phải nhắc nhở chúng tôi về cuộc hội kiến với đức Đạt-lai
Lạt-ma.
Giờ yết kiến đức Đạt-lai Lạt-ma đã gần đến và chúng tôi phải mặc áo
tràng dự lễ trong dịp này. Khi chúng tôi đến sảnh đường thì thấy đức
Đạt-lai Lạt-ma vừa đi qua dãy hành lang cùng với toán ngự lâm quân theo
hộ vệ để bước vào sảnh đường theo một cửa lớn. Cánh cửa hông vừa mở,
chúng tôi lại được đưa vào gian phòng khách trang hoàng lộng lẫy.
Giữa phòng khách, đức Đạt-lai Lạt-ma ngồi trên một sàn cao có trải nệm
thêu chỉ vàng. Ngài mặc áo rộng thêu vàng với một khăn choàng đỏ. Vị sư
trưởng đưa chúng tôi đến trước mặt ngài và lại đứng cùng một hàng với
chúng tôi như trước.
Sau vài lời chào hỏi chúc mừng, đức Đạt-lai Lạt-ma từ trên sàn bước
xuống và đứng trước mặt chúng tôi với hai bàn tay đưa lên. Chúng tôi bèn
quì xuống để ngài ban ân huệ. Khi chúng tôi đứng lên, ngài bước tới
trước vị trưởng đoàn của chúng tôi, cài một huy hiệu nhỏ trên ngực ông
ta.
Kế đó ngài từ từ đi dọc theo hàng ngũ chúng tôi và cài lên ngực của mỗi người một huy hiệu tương tự nhưng nhỏ hơn.
Kế đó, ngài cầm lấy cái ống dài đựng tờ văn thư từ trên tay vị sư trưởng
và trao cho vị trưởng phái đoàn của chúng tôi. Những huy hiệu đều rất
đẹp, được làm bằng vàng ròng và có cẩn một viên ngọc bích ở giữa. Trên
viên ngọc có khắc bằng hình nổi bức chân dung đức Đạt-lai Lạt-ma vô cùng
sinh động và rất giống.
Chúng tôi có cảm tưởng rằng đức Đạt-lai Lạt-ma và các vị Lạt-ma cận thần
đều là hiện thân của sự khả ái và lịch sự, và chúng tôi không biết nói
gì khác hơn là thốt ra hai tiếng “cám ơn”.
Kế đó, vị Lạt-ma hầu cận cho biết chúng tôi được mời dự dạ tiệc với đức Đạt-lai Lạt-ma ngay tối hôm đó tại biệt điện.
Sau bữa dạ tiệc, câu chuyện lại xoay chiều về vấn đề những tấm bia đá cổ
lạ kỳ. Đức Đạt-lai Lạt-ma và viên lão thần phụ trách bảo quản kho tài
liệu cổ, qua lời của một viên thông ngôn, thuật lại cho chúng tôi nghe
lịch sử của những bia đá cổ. Chúng tôi đã ghi chép lại cẩn thận tất cả
những gì được nghe hôm đó.
lll
Theo lời các ngài thì những bia đá này do một nhà sư tìm ra được trong
một cái hầm ở dưới nền đất của một ngôi đền cổ đã điêu tàn ở xứ Ba Tư.
Nhà sư ấy có thuật lại rằng ông ta được hướng dẫn đến nơi chôn giấu
những bia đá cổ do những tiếng hát dịu dàng êm ái vọng ra liên tục từ
ngôi đền cổ, mà ông ta nghe văng vẳng bên tai trong mỗi lúc tọa thiền.
Bài hát rất du dương và giọng hát rất trong trẻo đến nỗi làm cho nhà sư
phải chú ý và tò mò. Nhà sư bèn đi về hướng từ đó vọng ra tiếng hát và
bước dần vào bên trong các hầm đá của một ngôi đền cổ đã đổ nát. Giọng
hát dường như xuất phát từ phía dưới hầm.
Sau khi xem xét kỹ lưỡng và không thấy có một lối nào đi xuống phía dưới
hầm, nhà sư bèn quyết định tìm ra nguồn gốc xuất phát ra giọng hát. Nhà
sư tìm được những đồ khí cụ thô sơ quanh đó và bắt đầu đào xới trong
những đống gạch ngói đổ nát.
Không bao lâu, ông ta tìm thấy một phiến đá lớn dường như là để lót sàn
đá dưới hầm. Ông ta cảm thấy thất vọng vì trong một lúc ông tưởng rằng
đã bị lạc hướng vì tiếng gió rít lên từng hồi trong những bức tường xiêu
đổ của ngôi đền.
Trước khi rời khỏi chỗ ấy, nhà sư bèn ngồi tọa thiền trong một lúc.
Trong khi ông ta đang nhập định thì tiếng hát lại vang lên trong trẻo và
rõ ràng hơn trước, và dường như thúc giục ông phải tiếp tục cuộc thăm
dò, tìm kiếm.
Một sự cố gắng hầu như phi phàm đã giúp cho ông ta dịch chuyển được
phiến đá lớn sang một bên và khám phá ra một con đường hầm. Khi ông ta
chui lọt được qua cửa hầm này thì đường đi được soi sáng dường như bởi
một nguồn ánh sáng vô hình. Trước mặt nhà sư là một vầng ánh sáng rực rỡ
chói lòa. Nhà sư bèn đi theo vầng ánh sáng đó, và dần dần tiến đến cửa
vào một hang động lớn, khép chặt bằng những cánh cửa đá rất kiên cố.
Trong khi ông ta đang khựng lại ngắm nhìn những cánh cửa đá này và không
biết phải làm gì để có thể tiếp tục đi tới, thì bỗng có tiếng rít lên
và một phiến đá lớn từ từ chuyển động, rồi xoay ngang để lộ ra một cửa
vào để ông ta có thể đi xuyên qua đó.
Trong khi ông bước qua cánh cửa này thì giọng hát lại vang lên, trong
trẻo và êm ái, nghe như người hát đang ngồi ở phía bên trong đó. Ánh
sáng lúc nãy dừng lại ở ngoài cửa lại tiếp tục di chuyển vào bên trong
động và chiếu sáng khắp nơi. Và nhà sư vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy
những tấm bia đá cổ dựng đứng nơi đây, trong những khoảng trống đục
khoét trên vách đá, phủ đầy cát bụi như đã có tự muôn đời.
Nhà sư bèn quan sát kỹ vài tấm bia cổ và liền nhận ra ngay vẻ đẹp tuyệt
mỹ cũng như giá trị của các tấm bia này. Ông ta nghĩ rằng cần phải trở
về và chờ dịp thích hợp tiết lộ bí mật này với một số người tâm phúc để
cùng họ tìm cách di chuyển những bia đá ra ngoài và đem cất giấu ở một
nơi an toàn.
Ông ta bèn ra khỏi hầm, đặt phiến đá lớn lại nguyên chỗ cũ, lấy gạch
ngói vụn nát phủ lên trên như trước, rồi đi tìm những người bạn tâm phúc
sẵn lòng tin tưởng câu chuyện do ông kể lại và có đủ can đảm cũng như
phương tiện để cùng ông thực hiện kế hoạch.
Sự tìm kiếm những người hợp sức này kéo dài đến hơn ba năm. Hầu hết
những người mà ông ta thuật chuyện cho nghe đều tưởng rằng ông ta đã mất
trí, điên khùng. Sau cùng, trong một chuyến hành hương, ông gặp được ba
vị tăng mà ông đã quen biết trong một cuộc đi hành hương tương tự trước
đây, và thuật chuyện cho họ nghe. Họ tỏ ra rất hoài nghi. Nhưng một
buổi tối đúng vào lúc chín giờ, trong khi họ đang ngồi quây quần chung
quanh một ánh lửa trại, thì tất cả đều nghe văng vẳng đến một giọng hát,
bắt đầu với một bài ca nói về đề tài những bia đá cổ.
Ngày hôm sau, họ chấm dứt cuộc hành hương và bắt đầu cuộc hành trình đi
đến ngôi đền cổ. Kể từ khi đó, giọng hát kia mỗi ngày đều vang lên đúng
vào lúc chập tối. Giọng hát ấy càng nhẹ nhàng du dương hơn khi bốn người
du khách đi đường mệt mỏi, khiến cho họ như quên cả sự mệt nhọc.
Khi họ đi gần đến ngôi đền cổ điêu tàn, và chuyến hành trình đã sắp kết
thúc, thì hình ảnh mảnh mai thanh tú của một đứa trẻ thiếu niên bỗng
xuất hiện vào khoảng một giờ trưa và bắt đầu vừa hát vừa hướng dẫn họ
đến chỗ ngôi đền.
Khi họ đến nơi thì phiến đá lớn đã bị cạy bật lên và nằm sang một bên.
Họ liền đi theo đường hầm đưa đến chỗ động đá. Những cánh cửa tự nhiên
mở rộng khi họ đến gần, và họ bước vào động. Chỉ một lúc quan sát ngắn
ngủi cũng đủ cho các vị tăng lữ nhận biết giá trị của những bảo vật này.
Họ bèn đi đến một làng cách đó độ một trăm cây số để tìm mua lạc đà và
đồ lương thực tiếp tế, chuẩn bị đưa các bia đá cổ đến một chỗ an toàn.
Họ mua được mười hai con lạc đà và trở lại ngôi đền cổ, rồi bọc gói thật
cẩn thận các tấm bia đá cổ lại chắc chắn cho khỏi bị hư hỏng dọc đường.
Kế đó họ mua thêm ba con lạc đà nữa, và bắt đầu một cuộc hành trình lâu
dài đến Peshwar. .
Gần đến Peshwar, cả bọn mới đem cất giấu những bảo vật quí giá này trong một hang núi hẻo lánh; và để yên tại đó trong năm năm.
Để giữ gìn các bia đá cổ, các vị tăng lữ luân phiên nhau tọa thiền ngay trước cửa hang núi.
Sau đó, từ Peshwar họ lại chở các bia đá đến Lahnda, trong tỉnh Punjab, và lưu trữ tại đó trong mười năm.
Kế đó, xuyên qua nhiều giai đoạn từ từ và chậm chạp, những bảo vật này
được chở đến Lahsa và lưu trữ trong biệt điện của đức Đạt-lai Lạt-ma.
Như thế, phải mất đến bốn chục năm để di chuyển tất cả các bia đá từ nơi
chôn giấu đầu tiên đến được Lahsa.
Từ nơi biệt điện này, người ta còn dự tính sẽ phải chuyển những bia đá
quý giá này đến Bạch Ngọc Cung (Shambhala). Như vậy, hiện thời xem như
những bia đá này vẫn còn đang trên đường di chuyển chứ chưa thực sự đến
nơi cất giữ cuối cùng.
Khi câu chuyện được kể lại đến đây thì những người phụ tá mang bốn tấm
bia đá cổ vào phòng và cẩn thận đặt lên một bàn gỗ giống như cái bàn mà
chúng tôi đang ngồi chung quanh. Nhờ đó chúng tôi đều có thể nhìn thấy
các bia đá tận mắt.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau được đúc kết từ những nghiên cứu của
chúng tôi trong suốt nhiều năm qua, chúng tôi tin rằng với những cuộc
sưu tầm rộng khắp và công phu hơn nữa có lẽ sẽ chứng minh được rằng
những bia đá cổ này thật ra chỉ là những bản sao được tạo ra để bảo tồn
những tài liệu cổ trên các bản chánh mà nay đã thất lạc. Nếu giả thuyết
này đúng, thì các bia đá này có lẽ đã được làm ra vào thời kỳ sơ khai
của nền văn minh cổ Ấn Độ.
Dầu sao, theo chỗ chúng tôi biết thì thế giới văn minh hiện đại không có
một tài liệu cổ nào tương tự như thế. Những bia đá cổ với những tài
liệu khắc trên đó có nguồn gốc ban đầu từ đâu, có lẽ đến nay vẫn còn là
một câu hỏi khó. Bốn tấm bia đá cổ vẫn còn đó, đang được dựng lên ngay
trước mặt chúng tôi, và mỗi tấm bia hẳn là đáng giá cả một kho tàng lớn.
Câu chuyện tường thuật trên đây có vẻ hơi đi ra ngoài đề mục chính,
nhưng chúng tôi thấy cần phải trình bày một cách vắn tắt những chuyện
xảy ra ở nhiều vùng cách biệt nhau trên toàn thế giới, khi người ta tìm
thấy những tài liệu có liên hệ trực tiếp đến những nền văn minh cổ xưa
nhất thế giới.
Chúng tôi cũng sẽ nói sơ qua về những nền nghệ thuật và văn hóa của họ,
cùng những tư tưởng và động lực nào đã giúp cho những nền văn minh ấy
duy trì được sự sinh tồn ở một trình độ rất cao.
Vài nhóm người rất hiếm vẫn tiếp tục thực hành đời sống tâm linh cao cả.
Những nhóm người đó đã một phần nào trở nên những ngọn đuốc soi đường
cho nhân loại đang tiến hóa đến một cao điểm mới của lịch sử văn minh.
Hãy còn chờ xem phải chăng những thiếu sót lỗi lầm của một thiểu số,
được tăng cường bởi đa số nhân loại, có thể nào lại một lần nữa nhấn
chìm thế giới và lôi cuốn phần đông loài người vào quên lãng trong một
thời gian lâu dài.
Những quan sát của chúng tôi cho thấy rằng hiện tại có tiềm lực chứa
đựng tất cả tương lai. Chỉ có những công trình của hiện tại mới tạo nên
tương lai. Nếu hiện tại được toàn hảo, thì tương lai chắc chắn cũng sẽ
được toàn hảo. Không phải là sự toàn hảo của hiện tại được nối tiếp theo
trong tương lai, mà chính cái ý thức về sự toàn hảo hiện tại sẽ đưa đến
cái ý thức của một tương lai toàn hảo.
Dù cho chúng tôi đi đến đâu, chúng tôi cũng khám phá được những dấu tích
của một dân tộc, ở một thời kỳ nhất định nào đó, đã hoàn toàn sống
trong hiện tại. Trọn cái tương lai của dân tộc ấy hoàn toàn phù hợp đúng
đắn với những công trình hiện tại của họ, đến nỗi tương lai của họ
không thể nào cách biệt xa con đường toàn hảo. Đó tức là cái nguồn gốc
của lời răn “Các ngươi chớ có băn khoăn lo lắng gì về tương lai.” Họ áp
dụng giáo điều này: “Hãy sống với hiện tại một cách thành thật, rồi
tương lai cũng sẽ được tốt đẹp.” Tư tưởng ấy luôn luôn tái xuất hiện
trong những phong tục, tập quán, những bài dân ca, và những kinh cầu
nguyện của nhiều dân tộc khác nhau.
Chúng tôi cũng đã nghiên cứu những huyền thoại về âm binh của vùng “Biển
Cát,” theo như danh từ của người Trung Hoa thường gọi vùng sa mạc Gobi.
Ở nhiều nơi trên sa mạc, người ta nghe có những tiếng nói dị kỳ. Nhiều
khi người ta nghe trong khoảng không có tiếng người kêu gọi đúng tên họ
mình. Có khi người ta nghe thấy tiếng động ồn ào huyên náo của một đám
đông người dường như ở rất gần. Người ta cũng thường nghe được tiếng âm
nhạc do nhiều loại nhạc khí khác nhau, kèm theo với những giọng hát rất
dịu dàng thánh thót.
Chúng tôi đã từng nhìn thấy rất nhiều ảo ảnh và nghe tiếng động của
những cồn cát di chuyển. Chúng tôi chắc rằng những tầng lớp không khí ở
một chiều cao nhất định nào đó bên trên bãi sa mạc đã trở nên trong suốt
đến nỗi vào những lúc mà tất cả những điều kiện bên ngoài đều hoàn toàn
hòa hợp với nhau đến mức tối đa thì những lớp không khí ấy có tác động
giống như những “phòng ghi âm” kỳ diệu có khả năng dội lại những âm ba
rung động đã được phát ra từ quá khứ. Chúng tôi tin rằng những diễn biến
xảy ra từ thời Trung cổ cũng có thể đã được tái diễn lại bằng cách đó.
Chúng tôi bận rộn với công việc đến nỗi mất cả ý thức về ngoại cảnh, và
thời gian trôi qua rất nhanh. Dưới sự chỉ dẫn của vị Lạt-ma cao niên,
chúng tôi sao chép lại các tài liệu cổ trên các bia đá cùng nhiều tài
liệu khác nữa. Nhưng rồi cũng đến lúc chúng tôi phải chuẩn bị chia tay
để tiếp tục hành trình đã định.
Buổi sáng ngày chúng tôi lên đường, thời tiết rất sáng sủa, quang đãng,
và mọi việc đã sắp đặt sẵn sàng cho chuyến đi của chúng tôi đến
Shigatzé. Chúng tôi đã từ giã tất cả những nhân vật hầu cận đức Đạt-lai
Lạt-ma. Một đám đông dân chúng cũng tề tựu trên các đường phố để tiễn
đưa chúng tôi. Họ vẫy tay khắp nơi để ra dấu từ giã, hoặc chắp tay cầu
nguyện cho chúng tôi được bình an trên lộ trình.
Một phái đoàn đại diện dân chúng đã đi trước mở đường cho chúng tôi trên
nhiều cây số đường trường, và năm chục người tiễn đưa chúng tôi đến tận
Shigatse, trên vùng thượng lưu sông Brahmaputra.
Trong khi chúng tôi đi gần tới thành phố này, tức là thành phố quan
trọng thứ nhì của xứ Tây Tạng sau thủ đô Lhasa, chúng tôi nhìn thấy tu
viện Tashi Lumpo rất lớn, nằm cách xa hai cây số ngoài thành phố.
Một phái đoàn các nhà sư của tu viện này đã đi bộ trên năm cây số để
tiếp đón chúng tôi và mời chúng tôi về nghỉ ngơi tại tu viện trong suốt
thời gian lưu trú tại đây.
Khi bước vào tu viện, chúng tôi cảm thấy một niềm an tĩnh thấm nhuần các
gian phòng như một sự hiện diện cao cả và vô hình. Thật vậy, đó là một
nơi nghỉ ngơi lý tưởng trước khi bước chân lên đoạn đường sẽ đưa chúng
tôi đến hồ Dolma và thị trấn Sansrawar.
Sau khi dùng bữa cơm chiều với các vị Lạt-ma, chúng tôi bàn luận về
những ngôi đền rất đẹp và rải rác khắp nơi trong thành phố. Kế đó, câu
chuyện xoay qua vấn đề khác biệt giữa các tín ngưỡng tôn giáo. Một vị
Lạt-ma rất cao niên nói:
– Các vị Lạt-ma và đạo sĩ yogi không cùng chia sẻ những tin tưởng giống
nhau. Người yogi không thể chấp nhận rằng giáo lý của bất cứ một người
nào đề xướng ra là có giá trị quyết định độc đáo. Tất cả mọi người phải
đạt tới sự thông suốt tự trong nội tâm của họ. Còn những tu sĩ Lạt-ma
giáo thì tuân theo một cách chặt chẽ giáo lý của đức Phật. Họ nghĩ rằng
mỗi người đều đang tiến lên trên con đường tu tập và cuối cùng rồi sẽ
đạt tới quả vị tối cao của Phật. Người Phật tử tinh tấn chắc chắn rồi sẽ
đắc quả vị Phật như đức Phật Thích-ca trước đây...
Chúng tôi thấy sáu vị Lạt-ma cầm đầu một nhóm tu sĩ gọi là các tu sĩ du
phương. Nhóm các vị sư này không sống cố định ở bất cứ nơi nào mà thường
xuyên đi du hóa khắp nơi. Họ không nhận tiền bạc cúng dường của bất cứ
ai, chỉ sống bằng cách khất thực hằng ngày. Họ giữ mối liên hệ thường
xuyên với nhau và với sáu vị Lạt-ma trưởng ở tại tu viện. Nhóm tu sĩ du
phương này chia làm ba toán, mỗi toán có một vị Lạt-ma cầm đầu. Như vậy,
ba vị Lạt-ma trưởng toán cùng với sáu vị ở tu viện tạo thành một cơ cấu
chỉ huy gồm chín vị Lạt-ma.
Ba vị trưởng toán thường ở ba nơi khác nhau, và mỗi vị sư du phương luôn
giữ mối liên hệ với vị trưởng toán của mình. Vị trưởng toán lại có
trách nhiệm giữ mối giao tiếp thường xuyên với sáu vị Lạt-ma trưởng ở tu
viện. Thông thường, các vị này giao tiếp với nhau bằng một phương pháp
mà chúng tôi tạm gọi là chuyển di tư tưởng, vì chưa có được một danh từ
nào chính xác hơn. Phương thức này sử dụng một kiểu năng lực tinh tế của
tâm thức giúp người ta có thể nhận biết được tư tưởng của nhau qua một
khoảng cách không gian bất kỳ, nhờ vào những rung động tương hợp của cả
hai tâm thức.
Hôm sau, chúng tôi được mời dùng bữa sáng với các vị Lạt-ma. Vị Lạt-ma
già cho chúng tôi biết rằng người sẽ đi theo chúng tôi đến tận đền
Poratat Sanga khi nào chúng tôi hoàn thành mọi công việc. Chúng tôi nhận
lời, vì vị Lạt-ma này là bạn thân của vị hướng đạo vừa dẫn đường vừa
làm thông dịch cho chúng tôi. Cả hai người sẽ giúp đỡ chúng tôi rất
nhiều trong việc nghiên cứu các tài liệu cổ.
Trong khi nói chuyện, vị Lạt-ma già nói một cách tự nhiên:
– Hai thành viên trong nhóm của các ông đã từ giã ra đi hôm thứ Hai vừa
rồi, sẽ đến Calcutta hôm nay vào lúc 11 giờ 30. Nếu các ông muốn giao
tiếp với họ thì chúng tôi có thể giúp.
Vị trưởng phái đoàn chúng tôi liền viết một bức thư ngắn bảo hai người
ấy hãy đến thẳng Darjeeling để thu xếp trước một công việc cần thiết, và
đợi chúng tôi đến đó vào ngày 24 tháng 8. Ông ta ghi rõ ngày tháng trên
bức thư, chép lại một bản sao và đưa bản chính cho vị Lạt-ma.
Vị này đọc xong, xếp tờ giấy lại cẩn thận và để sang một bên. Sau đó,
hai đoàn viên đã gặp lại chúng tôi tại Darjeeling vào ngày 24 tháng 8
đúng như kế hoạch. Họ đưa cho chúng tôi xem một bức thư viết tay được
chuyển giao đến tận tay họ sau khi họ đến Calcutta chưa được hai mươi
phút. Họ vẫn tưởng rằng người đem thư là một thư tín viên được gửi đi từ
trước với những chỉ dẫn rõ rệt. Nhưng bây giờ thì chúng tôi đã có bằng
chứng cụ thể về những năng lực thần giao cách cảm của các vị Lạt-ma Tây
Tạng. Và nếu họ đã có được năng lực siêu nhiên trên địa hạt này, chắc
hẳn họ cũng có thể phát triển nhiều năng lực khác nữa.
Chúng tôi hối hả lên đường đến Poratat Sanga vì một số đông khách hành
hương sẽ tụ họp tại đó vào mùa này vì thời tiết rất thuận tiện cho sự
hội họp đông đảo.
Chúng tôi đi ngang qua thị trấn Gyantse. Tại đây chúng tôi được cho biết
là sẽ gặp một vị tăng sĩ rất đặc biệt mà người ta thường gọi là vị “sư
cười”. Những giọng hát tiếng cười của vị sư này giúp cho người nghe có
thể quên hết mọi sầu khổ, và ông cũng giúp đỡ khách hành hương vượt qua
những đoạn đường gay go, khó khăn nhất trên lộ trình.
Khi chúng tôi bước vào.sân tu viện, một vị thanh niên tăng lực lưỡng
bước đến gần chúng tôi với những lời chào mừng nghinh tiếp. Ông ta cho
chúng tôi biết rằng các vị Lạt-ma muốn mời chúng tôi ở lại tu viện trong
thời gian lưu trú tại làng này. Chúng tôi nói rằng chúng tôi sẽ lên
đường ngay hôm sau, vì chúng tôi cần phải đi gấp lên truông Phari.
Vị tăng trẻ đáp:
– Chúng tôi biết rằng các bạn định đi tới Poratat Sanga. Tôi cũng trở về
đó vào sáng mai và rất sung sướng nếu được cùng đi với các bạn. Các bạn
vui lòng cho phép chứ?
Chúng tôi nhận lời. Với một chuỗi cười dài cởi mở, vị tăng trẻ nhanh
nhẹn đưa chúng tôi đến chỗ ngủ, trong gian phòng lớn của tu viện.
Sau khi đã xếp đặt cho chúng tôi được có đủ tiện nghi, vị tăng trẻ chúc
chúng tôi nghỉ yên giấc và kiếu từ, hứa sẽ gặp lại chúng tôi vào sáng
sớm hôm sau. Rồi ông ta vừa bước đi vừa hát vang bằng một giọng rất
trong trẻo. Khi ấy, chúng tôi mới biết đó chính là vị “sư cười”!
Sáng hôm sau, vị “sư cười” đến đánh thức chúng tôi dậy rất sớm bằng một
giọng hát vang lừng và loan báo rằng bữa ăn điểm tâm đã sẵn sàng.
Chúng tôi từ biệt các vị Lạt-ma, được các vị ban ân huệ trước khi lên
đường và nhận thấy mọi việc đã được chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi của
chúng tôi đến truông núi Phari.
Truông núi này đưa du khách qua khỏi các đỉnh núi Phari và Kang La. Nói
chung, đường đi rất cheo leo, nhưng ở những đoạn đường khó đi thì vị “sư
cười” luôn đi trước dẫn đường, vừa hát vừa cười làm cho chúng tôi quên
hết cả mệt nhọc. Trong những đoạn đường gồ ghề lồi lõm nhất, giọng hát
của ông ta vang rền và dường như nâng bước chúng tôi đi tới một cách dễ
dàng, êm ái.
Chúng tôi lên tới đỉnh truông núi vào lúc ba giờ chiều. Trạm nghỉ chân
sắp tới của chúng tôi là thị trấn Maha Muni với một ngôi đền rất lớn,
như một pháo đài.
Cũng như ở các nơi khác, tại đây chúng tôi được tiếp đón nồng hậu. Chúng
tôi được cho biết rằng người ta không cần giữ chúng tôi ở lại vì chân
sư Pouridji đã đi trước chúng tôi đến đền Poratat Sanga là nơi có rất
nhiều đạo sĩ yogi và tu sĩ các môn phái khác đã tề tựu rất đông tại đây.
Hôm sau, những người hành hương tụ họp rất sớm vì họ rất nôn nóng muốn
được gặp chân sư Pouridji. Họ cũng muốn chiêm ngưỡng ngôi đền Poratat
Sanga là một ngôi đền cao nhất thế giới, một tòa kiến trúc mỹ lệ dựng
trên một đỉnh núi rất cao.
Tất cả đoàn người hành hương và chúng tôi đều lên đường. Ngọn núi
Everest hùng vĩ nhô lên trước mặt chúng tôi dưới lớp áo tuyết trắng như
pha lê và phản chiếu ánh sáng êm dịu của mặt trời lúc bình minh. Cảnh
đẹp hùng vĩ của núi tuyết dường như thúc giục chúng tôi hãy cố gắng tiến
thêm vài bước, chỉ vài bước nữa thôi, rồi đưa tay ra trước để nắm lấy
mảnh áo tuyết đang bao phủ đỉnh núi. Nhưng mỗi khi chúng tôi tiến thêm
được một đoạn thì đỉnh núi lại như lùi lại một khoảng cách nữa, và vẫn
luôn nằm ngoài tầm tay của chúng tôi!
Chúng tôi đã vượt qua núi Chomolhari, một ngọn núi rất cao nhưng vẫn có
vẻ như một chú lùn so với ngọn Everest khổng lồ đang sừng sững ở trước
mặt.
Trước đây, chúng tôi vẫn cho rằng con đường mòn dọc theo sườn núi
Chomolhari thật là cheo leo hiểm trở, nhưng bây giờ chúng tôi phải đi
một cách vô cùng vất vả trên một con đường mà thường khi chúng tôi phải
bò với cả hai chân và hai tay! Tuy nhiên, những giọng hát và tiếng cười
sảng khoái của vị “sư cười” vẫn tiếp tục đưa chúng tôi đi tới một cách
nhẹ nhàng thoải mái như lướt trên hai cánh. Trong cơn hứng khởi, chúng
tôi quên cả sự hiểm nguy và dường như chúng tôi vượt qua những đoạn
đường khó khăn một cách dễ dàng nhanh chóng.
Chuyến đi ngày hôm ấy không có vẻ gì là quá lâu hay mệt nhọc đối với
chúng tôi. Suốt đoạn đường dài mà chúng tôi đều cảm thấy dường như chỉ
kéo dài trong chốc lát. Những âm ba rung động của sự thiêng liêng, an
tĩnh và điều hòa toát ra từ các ngôi đền luôn luôn hấp dẫn người du
khách đến những ngọn núi này. Thật không lạ gì mà thấy rằng dãy Tuyết
Sơn vẫn luôn gây nguồn cảm hứng tâm linh cho khách hành hương, và các
thi nhân vẫn luôn ca tụng sự huy hoàng hùng vĩ của nó.
Sau cùng, đến khi chiều tối thì chúng tôi đã vượt qua tất cả mọi nỗi khó
khăn trên đường và dừng chân trên một khoảnh đá bằng phẳng rộng lớn. Ai
nấy đến lúc này mới cảm thấy mệt nhoài và cùng nhau thở dốc.
Nhiều ngôi đền rải rác ở xa xa, nhưng đền Poratat Sanga đẹp như viên
ngọc nhô lên ở một độ cao khoảng bảy trăm thước so với chỗ chúng tôi và
chiếu một vầng ánh sáng rực rỡ, soi sáng tất cả các núi đá và đền miếu ở
vùng chung quanh.
Những người hành hương và chúng tôi cùng ngồi quây quần trong một hang
đá rộng lớn. Chúng tôi ngạc nhiên khi nhận thấy có cả phụ nữ trong số
người hành hương. Không có sự kỳ thị hay phân biệt nam nữ trong các
chuyến hành hương, ai muốn đi đều có thể xin gia nhập.
Các vị chân sư đã từng sống tại đây. Chân Sư Niri cũng từng đi qua những
con đường mòn mà chúng tôi vừa đi. Hôm nay, nhà đạo sĩ Santi cao cả,
khiết bạch và khiêm tốn đã ngồi tọa thiền tại hang đá này và đang đắm
chìm trong cơn đại định.
Chúng tôi đang lo lắng về việc làm sao tìm được nơi ăn chốn ở cho tất cả
những người hành hương đông đảo này. Vị “sư cười” biết được điều đó
liền... cười và cất tiếng hát:
“Đừng lo chi những vấn đề nhỏ nhặt.
Nơi đây luôn có đủ thức ăn,
Chỗ ngủ và áo quần,
Cho tất cả mọi người.”
Kế đó, ông ta lại hát lên bằng một giọng du dương, nhịp nhàng:
“Xin kính mời tất cả,
Mọi người hãy an tọa.”
Khi chúng tôi vừa ngồi xuống thì đã thấy có người mang ra những chén thức ăn nóng và bổ dưỡng.
Vị đạo sĩ Santi cũng đã xả thiền đứng dậy và cũng tham gia việc chuyển
thức ăn cho mọi người, với sự trợ giúp của vị “sư cười” và một số người
hành hương khác.
Khi ai nấy đều đã ăn uống no lòng, tất cả khách hành hương đều đứng dậy
và người ta đưa họ đi từng nhóm nhỏ đến các ngôi đền kế cận để nghỉ lại
trong đêm đó.
Vị “sư cười” đưa chúng tôi đến một ngôi đền tọa lạc trên một tảng đá
lớn, ngăn cách với chỗ chúng tôi vừa ở bởi một vách đá dốc đứng cao
chừng hai mươi lăm thước. Khi đến gần, chúng tôi mới nhận thấy có một
cây cột hình trụ dài, chân trụ chấm đất, còn ngọn thì đỡ lấy cái mõm đá
de ra ngay phía dưới ngôi đền.
Vì cây cột trụ này dường như là phương tiện duy nhất để lên tới ngôi
đền, nhóm chúng tôi tụ lại dưới chân trụ để tìm cách trèo lên. Trong một
lúc, hy vọng duy nhất để có chỗ ngủ ban đêm dường như tùy thuộc vào khả
năng của chúng tôi để trèo lên cây trụ ấy. Nhưng vị “sư cười” nói:
– Các bạn đừng hấp tấp. Vấn đề không thực sự khó khăn đến thế đâu.
Kế đó, ông ta bước lại gần vách đá hơn và vạch một bụi cây rậm rạp,
chúng tôi liền nhìn thấy một lối đi nhỏ ăn thông vào trong vách núi. Đó
là những nấc thang rất nhỏ, chỉ vừa đủ một người đi và chạy theo hình
xoắn ốc lên đến ngay phía trước sân đền. Vì lối đi ấy nằm ngay ở một chỗ
lõm vào của vách đá và có những bụi cây rậm che khuất ngay bên ngoài
nên đứng từ xa hầu như rất khó nhận ra.
Sau khi leo hết những bục đá, chúng tôi lên đến sân đền và được mời vào
nghỉ ngơi bên trong. Những người hành hương thuộc các nhóm khác cũng đã
được đưa đến các ngôi đền rải rác chung quanh đó và đều có chỗ nghỉ ngơi
thoải mái.
Sau một đêm yên giấc, chúng tôi hầu như không còn giữ lại một dấu vết
nào của sự mệt nhọc. Đêm đó chúng tôi đã ngủ rất say và yên giấc như trẻ
con. Chúng tôi thầm nghĩ, nếu như có thể thường xuyên có được những
giấc ngủ bình an và vô tư như thế này thì có lẽ con người đã không phải
than vãn nhiều về kiếp sống.
Sáng hôm sau, khoảng bốn giờ thì giọng hát mạnh mẽ và sôi động của vị
“sư cười” đã đánh thức chúng tôi dậy. Tiếng hát lanh lãnh như vang vọng
khắp cả núi rừng, trời đất:
“Cõi thiên nhiên đã thức dậy.
Những người con của thiên nhiêni hãy thức dậy.
Bình minh của một ngày mới đã xuất hiện.
Sự tự do và bình an đang chờ đón các bạn.”
Chúng tôi lần theo những bậc thang nhỏ của con đường luồn trong vách núi
để trở xuống và gia nhập với các nhóm người hành hương khác, cũng đang
lục tục kéo đến từ các ngôi đền rải rác quanh đó. Sau đó, chúng tôi cùng
nhau thăm viếng tất cả những nơi thánh tích linh thiêng của vùng này.
Trong khoảng mười lăm ngày mà chúng tôi đã trải qua trong vùng này, mỗi
ngày chúng tôi đều được ăn những thức ăn nóng, ngon lành và bổ dưỡng, và
thức ăn dường như được cung cấp tùy theo nhu cầu của mỗi người, không
hề có sự giới hạn.
Vị “sư cười” và một bạn đồng hành khác bắt đầu dẫn đường cho chúng tôi
trèo lên ngọn núi Poratat Sanga. Đường đi khởi đầu bằng những nấc thang
được đục vào trong khối đá, không biết tự bao giờ nhưng đã bị những dấu
chân người trước đây làm cho nhẵn bóng. Kế đó, chúng tôi phải đi trên
những tấm sàn gỗ dày bắc ngang để nối liền các khe hở giữa hai vách núi,
với những vực sâu thăm thẳm được nhìn thấy ngay dưới chân mình.
Có những chỗ phải leo lên bằng dây, với một đầu dây được buộc chặt vào những mô đá nhô ra ở phía trên.
Sau hai giờ đồng hồ, những người leo núi chúng tôi vẫn chưa thể vượt qua
mõm đá thứ nhì khoảng một trăm bảy mươi lăm thước cao hơn điểm khởi
hành. Khi đó, chúng tôi mới nhận ra rằng không còn chọn lựa nào khác hơn
là buộc phải bỏ dỡ chuyến leo núi này.
Từ bên dưới, nhìn thấy dáng vẻ lưỡng lự và biết rõ vị trí khó khăn của chúng tôi, vị đạo sĩ liền Santi kêu to:
– Tại sao các anh không xuống đi?
Vị “sư cười” đưa hai tay lên miệng làm loa đáp vọng xuống:
– Chúng tôi đã thử đi xuống, nhưng đá trơn lắm, không xuống được!
Quả thật, chúng tôi đang rơi vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan.
Chúng tôi không còn đủ sức để tiếp tục leo lên, nhưng khi muốn quay lại
mới nhận ra cũng không dễ dàng chút nào. Ai đã từng trải qua kinh nghiệm
leo núi đều biết rõ, việc trèo lên một vách đá trơn láng thường là dễ
hơn... leo xuống!
Đạo sĩ Santi liền bảo chúng tôi hãy bình tĩnh, và bắt đầu hướng dẫn
chúng tôi những cách thức cần thiết để có thể leo xuống một cách cẩn
thận và an toàn. Khi đã xuống tới chân vách đá, chúng tôi đều thở phào
nhẹ nhõm. Vị đạo sĩ mỉm cười và bảo chúng tôi:
– Xem ra sự hứng khởi và nhiệt thành của tuổi trẻ trong các anh đã tàn lụi dần.
Chúng tôi không đáp lại câu nói nửa đùa nửa thật đó, mà tất cả đều ngước
nhìn lên đỉnh núi với những cặp mắt đầy mong ước. Một người nói:
– Nếu chân sư Pouridji đang ở trên đó, chúng tôi quả thật là không may
vì không thể gặp được ngài. Quả thật, cuộc leo núi này là quá khó khăn
đối với chúng tôi.
Vị đạo sĩ đáp:
– Các anh đừng buồn nản. Bằng cách này hay cách khác thì những nguyện
vọng của các anh rồi cũng sẽ được đáp ứng. Bây giờ, các anh hãy yên tâm
nghỉ ngơi. Tôi cho là các anh đã có một sự khởi đầu tốt đẹp rồi đó.
Trên đường trở lại chỗ nghỉ, chúng tôi tự hỏi trong sự ngạc nhiên, không
biết bằng cách nào mà người ta có thể xây cất một ngôi đền trên đỉnh
núi như ngôi đền Poratat Sanga, ở một nơi mà ngay cả việc muốn đến viếng
thăm như chúng tôi cũng đã là cực kỳ khó khăn!
Nhiều người trong chúng tôi lên tiếng than vãn rằng không biết đến bao
giờ mới có thể gặp được chân sư Pouridji. Vị đạo sĩ bỗng bất ngờ lên
tiếng đáp:
– Các bạn hãy yên tâm. Chiều nay các bạn sẽ được toại nguyện.
Thật vậy, chân sư Pouridji đã đến gặp chúng tôi trong bữa cơm chiều.
Chúng tôi có nhắc đến việc leo núi bị thất bại. Chân sư mỉm cười và nói:
– Tuy vậy, các anh cũng đã thành công trong việc dám đặt mình trước một sự thử thách khó khăn đến thế.
Khoảng bốn giờ chiều ngày hôm sau, tất cả chúng tôi đều tụ họp trong
hang đá ở phía dưới ngôi đền. Đạo sĩ Santi bảo tất cả chúng tôi:
– Hôm qua tôi có nói là nguyện vọng của các anh sẽ được đáp ứng. Bây giờ, tôi sẽ thực hiện điều đó.
Rồi ông nhanh nhẹn dẫn đường đi trước, đưa tất cả chúng tôi theo một con
đường vòng ra sau vách núi. Tại đây, chúng tôi nhận ra có một đường mòn
rất nhỏ, quanh co khúc khuỷu nhưng vẫn dễ đi hơn nhiều so với việc phải
leo qua vách núi như hôm qua.
Sau hơn hai giờ đồng hồ đi loanh quanh, thỉnh thoảng phải chậm lại ở
những khúc đường quá hẹp, cuối cùng rồi chúng tôi cũng vượt qua được tất
cả những bậc thang bằng đá để lên đến sân sau của ngôi đền.
Sau một lúc nghỉ ngơi, chúng tôi tập hợp lại và xếp thành hàng ngay ngắn
để cùng nhau vào lễ bái trong đền. Ngôi đền rộng đến nỗi tất cả chúng
tôi đều đứng thành hàng trong chánh điện nhưng chỉ chiếm một phần rất
nhỏ của khoảng sân lễ. Các vị chân sư dạy cho mọi người cách đọc tụng
thánh ngữ Ohm. Rồi tất cả chúng tôi cùng đồng thanh cất giọng tụng đọc
theo các ngài. Trong khoảnh khắc, tiếng tụng đọc của chúng tôi vang rền
trong ngôi đền lớn và tạo ra một bầu không khí vừa kỳ bí vừa an ổn khó
tả. Dường như chúng tôi có cảm giác rằng sẽ không có bất kỳ điều gì có
thể làm tổn hại đến chúng tôi trong giờ phút thiêng liêng này. Chúng tôi
đang được che chở và bảo vệ bởi một sức mạnh vừa thiêng liêng huyền bí
vừa gần gũi thân thiết vô cùng.
Sau buổi lễ, chúng tôi ra sân và chia nhau ngồi quanh các phiến đá lớn.
Khi mọi người đã ngồi yên, chân sư Pouridji cất giọng trầm trầm nói với
chúng tôi:
– Nhiều người trong các bạn chưa hề nhìn thấy những hiện tượng nhiệm mầu
xảy ra trong đời sống, nhưng một số khác có thể đã được chứng kiến
trong những trường hợp nhất định nào đó. Thật ra, trong thế giới tự
nhiên hàm chứa rất nhiều điều mà các bạn có thể gọi là mầu nhiệm, nhưng
lại không có gì là huyền bí cả. Khi các bạn chưa từng chứng kiến và
không thể giải thích được một hiện tượng kỳ bí nào đó, các bạn thường
xem đó như là một phép lạ. Nhưng thật ra đó cũng chỉ là những chuyển
biến rất tự nhiên trong vũ trụ, và con người hoàn toàn có thể nắm hiểu
được những sự chuyển biến đó.
Khi chúng tôi được truyền thụ pháp môn yoga cổ truyền, chúng tôi cũng đã
từng kinh ngạc trước vô số những điều mầu nhiệm được thực hiện bởi các
bậc thầy. Nhưng với sự tu tập nỗ lực, dần dần chúng tôi không còn xem đó
là những điều kỳ lạ nữa, cũng như chúng tôi không còn thấy hứng thú
trong việc nhìn thấy hay tự mình thực hiện những điều đó. Có ý nghĩa gì
khi các bạn có thể có được vô số những quyền năng mầu nhiệm nhưng vẫn
không thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi? Có ý nghĩa gì khi các bạn có thể
kêu mưa gọi gió nhưng lại không tự kiềm chế và chuyển hóa được một cơn
giận dữ của bản thân? Vì thế, chúng tôi nhận ra một sự thật là, con
đường tu tập chân chính là luôn hướng đến sự giải phóng tự thân ra khỏi
mọi sự trói buộc của những tham lam, sân hận và si mê, chứ không phải là
nhằm đạt đến những năng lực siêu nhiên hay phép mầu huyền bí.
Các học thuyết và triết lý của các bạn đều ca ngợi tự do. Đôi khi các
bạn sẵn sàng tham gia vào những cuộc đấu tranh dai dẳng và gian khổ chỉ
để dành cho bằng được sự tự do. Thế nhưng, nếu các bạn chịu bình tâm suy
xét kỹ, các bạn sẽ thấy là suốt đời hầu như các bạn chẳng bao giờ có
được một giây phút nào thực sự được tự do cả! Mọi hành vi, tư tưởng của
các bạn đều chịu sự sai khiến của sự tham muốn, sân hận và si mê. Với sự
trói buộc của những tâm niệm xấu xa, các bạn không thể nào có được dù
chỉ là một phút giây thanh thản. Và nếu trong lòng bạn vốn đã không có
sự tự do, thì mọi sự cải thiện hoàn cảnh bên ngoài liệu có ích gì?
Vì thế, hôm nay tôi mong rằng các bạn hãy suy gẫm và nhận thức lại vấn
đề này. Con đường tu tập là con đường giải thoát, con đường đưa đến sự
tự do thực sự, giải phóng hoàn toàn cả về mặt tinh thần và thể chất. Tôi
rất cảm ơn sự ngưỡng mộ và tôn kính mà các bạn đã dành cho tôi, và
chính vì sự tôn kính đó mà các bạn đã phát khởi tâm nguyện muốn được
tiếp xúc, gặp gỡ tôi tại nơi này. Nhưng nếu các bạn có thể hiểu được
những gì tôi vừa nói, thì cho dù các bạn không cần cất công lên tận đỉnh
núi này, các bạn vẫn có thể nhận biết được sự hiện diện của tôi ngay
bên cạnh các bạn trong từng giây phút. Bởi vì đối với những tâm thức
thực sự tự do thì những khoảng cách không gian và thời gian đều không
thực sự hiện hữu.
Kế đó, chân sư Pouridji còn thuyết giảng cho tất cả chúng tôi nghe về ý
nghĩa thiêng liêng của thánh ngữ Ohm và hướng dẫn những cách hành trì
đơn giản nhưng không kém phần hiệu quả, thích hợp với đời sống của những
người đệ tử đang sống đời thế tục.
Sau buổi giảng pháp, ngài mời chúng tôi cùng đi theo ngài đến một động
đá rất lớn nằm sâu trong hang núi. Tại đây, chúng tôi thấy có nhiều vị
tu sĩ đang tọa thiền nhập định.
Chúng tôi lưu lại ngôi đền và trong động đá này chín ngày. Chúng tôi
được biết có nhiều vị tu sĩ yoga đã từng sống trong động đá này suốt
nhiều năm, và sau khi rời khỏi nơi vắng vẻ cô liêu này, tất cả đều trở
thành những bậc chân sư cao cả, tỏa ra khắp nơi từ đỉnh núi này để dẫn
dắt vô số người đi vào con đường tốt đẹp về mặt đạo đức và tâm linh.
Chúng tôi được biết rằng sau cuộc hội họp này thì có nhiều vị chân sư sẽ
trở về Ấn Độ theo con đường đến hồ Sansrawar và Mouktinath. Từ
Mouktinath, chúng tôi có thể dễ dàng đi đến Darjeeling. Đó là một tin
tốt lành, và triển vọng được cùng đi trên suốt chặng đường này với các
đấng cao cả làm chúng tôi rất hãnh diện.
Trong suốt thời gian lưu trú nơi đây, chúng tôi đi từ động này đến động
khác và nói chuyện với rất nhiều tu sĩ. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên mà
thấy nhiều vị trong số đó đã sống tại đây mùa đông cũng như mùa hè.
Chúng tôi hỏi họ có bị rét lạnh vì tuyết xuống nhiều vào mùa đông hay
không. Họ đáp rằng tuyết rơi và không khí giá lạnh là điều hoàn toàn tự
nhiên, nhưng họ có một pháp môn yoga gọi là “nội hỏa” có thể giúp cho
người hành trì ngồi giữa trời giá lạnh mà thậm chí không cần đến một
manh áo che thân. Pháp môn ấy giúp tạo ra một luồng hơi nóng từ bên
trong thân thể và rồi luân lưu khắp châu thân, bảo vệ hành giả chống lại
môi trường giá lạnh quanh mình. Các vị cũng cho biết, nếu không có pháp
môn này, những đại sư Tây Tạng cũng như Ấn Độ từ xưa đến nay hẳn đã
không thể chọn những vùng núi cao đầy băng tuyết để tu tập hành trì.
Thời gian dường như trôi qua rất nhanh, thoắt đó mà chúng tôi đã đến
ngày chúng tôi phải lên đường. Vào sáng ngày hôm đó, tất cả đoàn người
đều thức dậy từ rất sớm do tiếng hát vang của vị “sư cười”. Chúng tôi
nghĩ là chắc có xảy ra chuyện gì khác thường, vì ngay sau đó ông ta lên
tiếng mời tất cả chúng tôi hội họp lại trong một lúc.
Trong khi chúng tôi bước ra ngoài, ánh sáng từ đền Poratat Sanga hắt ra
sáng rực, đến nỗi hầu như cả vùng chung quanh đều có thể nhìn thấy. Vị
“sư cười” đứng ở một góc đền và đề nghị chúng tôi đứng im lặng trong một
lát để chiêm ngưỡng cảnh đẹp hùng vĩ của đền trong khung cảnh hoàn toàn
yên tĩnh của buổi bình minh chưa lố dạng.
Cảnh tượng khi ấy thật là khó tả. Mỗi người chúng tôi đều đứng yên lặng
và đều nhìn thấy rõ hàng trăm người khác cũng đứng yên như những pho
tượng in bóng lên nền sương mờ buổi sáng, hai tay đưa lên ra phía trước
trong tư thế cầu nguyện mà các vị chân sư đã hướng dẫn.
Sau một lúc lâu, cơn im lặng kéo dài đó được chấm dứt khi giọng nói của vị “sư cười” vang lên:
– Xin chào tất cả các bạn! Chân sư Pouridji mời tất cả các bạn cùng tham gia tụng thánh ngữ Ohm.
Trong chốc lát, hàng trăm âm hưởng khác nhau đã cùng lúc cất cất lên phụ
họa với giọng đọc trầm ấm của vị chân sư. Âm thanh kỳ diệu đó vang dội
trong cảnh núi rừng yên tĩnh của buổi sáng sớm, và bầu không khí mát
lành dường như cũng muốn giữ chặt lấy giọng đọc thánh ngữ không để cho
tan biến đi, khiến tất cả chúng tôi đều cảm thấy một trạng thái lâng
lâng siêu thoát, như hòa nhập vào với khối âm thanh nhiệm mầu đang vang
dội, quyện chặt vào từng gốc cây ngọn cỏ trong thiên nhiên bao la quanh
đó.
Tiếng đọc thánh ngữ Ohm của tất cả chúng tôi vang dội trong ít nhất là
mười phút. Khi ấy, dường như có tiếng cồng của điểm giờ khắc của ngôi
đền vang lên.
Tất cả những người hành hương đều đã tề tựu trong hang đá ở phía dưới
ngôi đền. Khi chúng tôi đã ngồi xuống, đạo sĩ Santi đưa tay lên và tất
cả mọi người im lặng. Ông nói mấy lời từ biệt và chúc chúng tôi lên
đường bình an cũng như sẽ có được một cuộc sống tốt lành hơn khi trở về
nhà.
Kế đó, vị “sư cười” lên tiếng nói:
– Đã đến lúc chúng tôi phải từ giã các bạn. Chúng tôi gửi đến các bạn
những lời chúc tốt lành và tình thương yêu sâu đậm nhất. Chúng tôi mong
các bạn hãy dành cho chúng tôi niềm vinh dự sẽ được tiếp đón các bạn một
lần nữa. Chúng tôi rất buồn khi phải chia tay với các bạn. Chúng tôi
mong ước các bạn sẽ trở lại vào một ngày không xa lắm để tái ngộ cùng
chúng tôi. Cầu xin cho các bạn luôn nhận được những ân huệ tốt lành và
mọi sự may mắn.
Kể từ khi gặp gỡ vị “sư cười” cho đến nay, có vẻ như đây là lần đầu tiên
chúng tôi thấy ông thốt ra những lời với một vẻ nghiêm trang và chân
thành như vậy! Câu trả lời cho bài diễn văn đầy xúc động của ông dường
như đã được một người trong nhóm chúng tôi phát biểu ngay:
– Các bạn thân mến, chúng ta đã được gặp gỡ nhau trong một hoàn cảnh vô
cùng tốt đẹp và đầy ân huệ. Với những gì đã nhận được từ chuyến đi này,
chúng ta sẽ không bao giờ cách biệt nhau nữa, cho dù mai đây các bạn và
tôi có thể mỗi người một ngã và trôi giạt đến tận những nơi góc bể chân
trời, nhưng những khoảng cách không gian đó không thể tạo thành sự ngăn
cách thực sự trong tâm thức chúng ta.
Chúng tôi đã đi được một quãng đường khá dài mà bên tai vẫn như còn nghe
vang vọng tiếng tụng đọc thánh ngữ. Những bước chân dong ruổi trên
đường đưa chúng tôi đi xa dần, nhưng lòng chúng tôi như vẫn còn ở lại
Poratat Sanga. Chúng tôi bắt đầu cảm nhận được rằng quả thật không hề có
sự biệt ly, chia cách, và chúng tôi không hề cảm thấy rằng đã rời khỏi
nơi thánh điện tôn nghiêm đó.
Trên đường về, vị “sư cười” dẫn đường cho chúng tôi vẫn luôn cất tiếng
hát vang và cười rất vui vẻ. Cũng như lần trước, giọng hát phấn khởi và
tiếng cười sảng khoái hồn nhiên của ông ta giúp chúng tôi vượt qua dễ
dàng tất cả những đoạn đường khó khăn gập ghềnh.
Vào khoảng hai giờ trưa, chúng tôi đi qua thị trấn Maha Muni, nhưng thay
vì dừng chân tại đây để nghỉ ngơi, chúng tôi vẫn tiếp tục đi thêm nhiều
giờ đồng hồ nữa và vượt qua cả một chặng đường dài. Tuy vậy, chúng tôi
không hề cảm thấy mệt nhọc chút nào, và cuộc hành trình vẫn tiếp tục như
thế cho đến bờ hồ Sansrawar. Tại đây, người ta đưa chúng tôi đến nghỉ
tại một ngôi đền rất mỹ lệ ở gần bên bờ hồ.
Chúng tôi nghỉ ngơi hai ngày trước khi tiếp tục lộ trình đi qua truông
núi trên dãy Tuyết Sơn. Địa điểm này phong cảnh u nhã và có vẻ rất thần
tiên. Hồ nước phẳng lặng và xanh biếc như viên ngọc nằm giữa một khung
cảnh núi non hùng vĩ bao bọc chung quanh. Các loài chim hót líu lo trên
những cây cổ thụ tỏa bóng mát quanh hồ. Nhiều vị trong số các chân sư
cùng đi với chúng tôi cư ngụ tại đây.
Chúng tôi tiếp tục lộ trình đến Mouktinath cùng với đạo sĩ Santi. Đường
đi vượt qua rất nhiều đoạn cheo leo hiểm trở và chuyến du hành kéo dài
suốt nhiều ngày, nhưng chúng tôi đi đường một cách dễ dàng suôn sẻ và
đến Mouktinath đúng ngày giờ đã định.
Tại đây, chúng tôi được sự tiếp đón nồng nhiệt của đức Tuệ Minh và nhiều
vị chân sư khác. Quả thật không thể dùng bất cứ lời nào để diễn tả được
hết sự vui mừng vô hạn của chúng tôi trong dịp tái ngộ này. Chúng tôi
đã đi đến tận những vùng xa xôi cách trở, đã được dành cho một sự tiếp
đãi trọng hậu và khả ái nhất đời, và đã học hỏi được rất nhiều điều quý
giá mà có khi người ta phải mất cả một đời người mới có được. Tuy nhiên,
chính tại đây mà chúng tôi mới cảm thấy mình đã thật sự “trở về nhà”!