Có người sinh ra có những điềm lành báo
trước, có người sinh ra đẹp trai hoặc tướng tốt, có người sinh ra trong
gia đình địa vị giàu sang. Còn tôi sinh ra trong gia đình chỉ đủ ăn đủ
mặc, không có điềm lành khi sinh, không đẹp trai hay tướng tốt, cũng
không giàu có sung sướng. Qua sự so sánh trên, đủ biết tôi sinh ra đời
kém phước, kiếp trước vụng tu nên kiếp này không được tốt đẹp như người.
Đó là nhân quả của mình, nhân nào quả nấy, mình làm mình chịu chứ than
trách ai.
Rồi thời gian cứ lặng lẽ trôi, hết Xuân tới
Hạ, hết ngày tới đêm, tôi cũng lớn lên trong sự thương yêu, đùm bọc của
cha mẹ. Đến khoảng năm 1966, có một sự việc xảy ra mà tôi vẫn còn nhớ
rõ. Thời đó, quân đội Mỹ còn đóng tại miền Nam Việt Nam. Ba tôi là lính
công binh liên đoàn 30 đóng tại Thành Ông Năm, Hóc Môn. Lúc đó, nhà tôi ở
mặt tiền đường, gần cổng nhà thờ Nam Hưng. Thỉnh thoảng, quân đội Mỹ
hành quân tại Củ Chi. Mỗi lần đi như vậy rất đông, nào là xe Jeep, xe
Cargo chở lính, xe thiết giáp chạy một dọc ầm ĩ trên đường. Khi nghe
tiếng xe thiết giáp, bọn con nít chúng tôi biết là quân đội Mỹ đi hành
quân, nên kéo ra bên đường đứng, tay cứ vẫy vẫy, miệng la “ô kê”, “ô
kê”. Quý vị có biết vẫy tay như vậy làm gì không? Không phải chúng tôi
vẫy tay chào mừng họ, con nít biết gì mà chào mừng, chẳng qua vẫy tay để
được lính Mỹ quăng cho bánh, kẹo hoặc đồ hộp. Khi họ quăng xuống như
vậy, bọn con nít chúng tôi nhào lại tranh giành, đôi khi vì muốn được
phải ẩu đả lẫn nhau. Thời đó, có nhiều đứa vì tranh giành bánh kẹo chạy
ra đường bị xe cán chết thật thê thảm.
Một hôm, sau khi quân đội Mỹ hành quân từ Củ
Chi trở về, đoàn quân dừng lại tạm nghỉ tại Thành Ông Năm, ngay phía
trước nhà tôi. Bọn con nít chúng tôi thấy vậy cũng kéo ra bu quanh họ để
kiếm bánh kẹo, nhưng có lẽ do họ đi hành quân về hết lương thực nên
không cho đám con nít chúng tôi cái gì cả. Lúc ấy, ngay trước nhà tôi có
đậu một chiếc xe Jeep, trên xe có hai ông lính Mỹ, một ông Mỹ đen và
một ông Mỹ trắng. Ông Mỹ đen ngồi lái xe, ông Mỹ trắng ngồi kế bên.
Chúng tôi lại gần để làm quen kiếm bánh, nhưng có lẽ do họ sợ điều gì
nên vẫy tay đuổi đi. Chúng tôi bèn đứng cách xa khoảng hai mét. Lúc đó,
tôi nhìn thấy một lon bia để bên hông xe, cạnh ông Mỹ đen. Nhìn lon bia,
tôi liền nghĩ đến ba mình mỗi ngày đi làm về, chiều nào ăn cơm cũng
uống một ly rượu đế, nếu được uống lon bia này chắc ngon lắm. Quý vị
biết thời đó bia lon rất hiếm, chỉ có bia chai thôi. Nhà giàu mới có
tiền mua bia lon uống, không như bây giờ nhìn thấy bia lon quá thường.
Vì muốn ba mình được uống bia lon, nên tôi mon men lại gần và chộp ngay
lon bia rồi chạy, nhưng không hiểu sao chạy được hơn ba mét bèn dừng lại
xem ông Mỹ đen có đuổi theo không. Lúc đó, tôi thấy ông Mỹ đen móc súng
ngắn ra định bắn thì ông Mỹ trắng cầm tay giữ lại, tôi thấy vậy hoảng
quá chạy một mạch vào nhà trốn. Thế là thoát chết. Nếu lúc đó ông Mỹ đen
mà bắn thì ngày nay chắc thân tôi thịt nát xương tan, thành đất hết
rồi. Đâu còn cơ hội để nói chuyện với quý vị hôm nay.
Sau đó, nhà tôi chuyển đi Sóc Trăng. Ở
khoảng ba năm rồi lại chuyển qua Long Xuyên. Long Xuyên thuộc vùng đồng
bằng sông Cửu Long, cho nên tôi rất thường đi mò ốc bắt cua hoặc câu cá.
Vào tháng mưa, tôi thường đi bắt cua ngoài ruộng. Trời mưa cua hay bò
ra ngoài hang. Khi gặp người nó liền bò nhanh vào trong hang. Tôi thấy
vậy chạy đến thò tay vào hang bắt. Có khi bị càng cua kẹp chảy máu tay.
Lúc bị nó kẹp chảy máu tay, tôi nổi sân lên quyết bắt giết cho bằng được
để trả thù. Quý vị thấy có vô lý không? Bắt nó bị nó kẹp là đúng rồi
lại còn trả thù. Mình bắt giết nó, nó trả thù mình là phải. Đằng này,
mình lại trả thù nó. Đúng là mạnh hiếp yếu. Khi bắt được khoảng 20 hay
30 con là được một nồi canh bún riêu cua. Tôi đem về nhà bóc mai cua bỏ,
còn thân nó thì cho vào cối giã. Lúc đó, nhà chưa có cối đá, lấy cái
nón sắt của quân đội làm cối để giã. Sau khi giã nát, vắt lấy nước nấu
canh. Khi nấu xong, riêu cua nổi lên cả mảng trông rất ngon. Canh cua mà
nấu với rau đay thì tuyệt. Hôm nào có canh cua rau đay tôi thích lắm,
ăn cơm nhiều hơn. Bình thường ăn ba chén cơm, có canh cua rau đay ăn bốn
chén.
Có những lúc ban đêm trời mưa vừa dứt, ếch
nhái ra rất nhiều, mấy đứa bạn rủ đi đâm ếch về nấu cháo ăn. Chúng tôi
làm cái chỉa bằng căm xe đạp, mài thật nhọn, gắn vào đầu cây trúc. Ba
đứa cùng đi, một đứa cầm đèn pin soi, một đứa cầm chỉa, nếu thấy ếch
nhái là đâm, một đứa cầm sợi dây kẽm xỏ xâu ếch nhái lại. Đi khoảng hai
tiếng đồng hồ, bọn chúng tôi đã bắt được mấy xâu ếch nhái, khoảng năm
sáu chục con. Khi đem về nhà, không đứa nào dám làm thịt. Đứa này chỉ
đứa kia, đứa kia chỉ đứa nọ. Lúc đó, máu anh hùng của tôi nổi lên, chê
tụi nó là đồ nhát gan, liền đi vào bếp lấy dao ra cắt đầu từng con, rồi
lột da. Sau đó móc ruột bỏ đi, để lên thớt bằm cho nát thịt ra, trộn với
hành, muối tiêu xong bỏ vào nồi nấu cháo. Cháo chín, cả bọn chúng tôi
xúm lại ăn. Có những lúc đi câu được cá lóc đem về nướng trui. Mấy đứa
bạn mua thêm xị rượu đế về nhâm nhi. Tôi không uống được nhưng bạn bè ép
quá thì cũng phải uống cho tụi nó vui. Lúc đầu uống vào thấy cay cay
đắng đắng, nhưng uống một lát thấy cũng hay hay. May là việc uống rượu
này chỉ xảy ra một lần, nếu nhiều lần chắc cũng thành bợm nhậu.
Cuộc sống kinh tế gia đình tôi hơi khó khăn.
Ba đi lính, mẹ ở nhà nội trợ, không có phụ giúp làm kinh tế gì cả. Chỉ
chờ may mắn đến bằng cách đánh số đề, nhưng chờ mãi mà chẳng thấy đổi
đời gì cả, chỉ càng thêm nghèo. Do hoàn cảnh cuộc sống gia đình khó
khăn, nên tôi xin đi làm thêm để phụ giúp cho gia đình, vừa làm vừa học.
Tôi được một người bạn của ba giới thiệu vào làm một trong hai chỗ. Quý
vị có biết làm việc gì không? Đó là lò giết heo hoặc lò giết bò.
Ngày đầu, tôi được họ dắt đến lò giết heo
để thử việc. Do tôi là người mới nên họ chỉ cho làm việc lùa heo vào chỗ
giết, rồi sau đó dọn dẹp vệ sinh sạch sẽ. Có những con heo biết sắp bị
giết nên nó kêu la thảm thiết không chịu đi, chúng tôi phải đánh đập lôi
kéo nó vào lò. Lúc họ dùng dao đâm vào cổ heo, tôi để ý xem họ giết như
thế nào, mổ như thế nào để sau này làm, vì làm những việc này tiền công
cao hơn. Lúc đó, tôi rất mong được làm khâu giết mổ heo này để có được
nhiều tiền phụ giúp gia đình. Tôi chỉ làm từ 24 giờ đêm đến 5 giờ sáng.
Ngày hôm sau tôi được dẫn đến lò giết bò. Đến nơi giết bò, tôi thấy họ
cột 4 chân bò, 4 dây kéo về 4 góc, đầu bò ghịt vào một trụ cây trước
sân. Một người đứng trên chiếc ghế cao cầm búa tạ đập liên tục xuống đầu
bò. Nó đau đớn giãy giụa nhưng không cách nào thoát được, đành phải
đứng chịu trận. Quá đau đớn nước mắt nó chảy ra. Đập vài chục búa, bò
mới chết. Lúc đó tôi rất dửng dưng trước cái chết đau đớn của con bò,
trái lại trong tâm còn chê ông ta đập dở quá, đập gì mà cả vài chục búa
bò mới chết! Tôi nghĩ nếu sau này mình được làm khâu này chỉ đập chừng 5
búa là bò chết. Quả thật ý nghĩ đầy tội lỗi độc ác. Qua hai ngày đi làm
thử, ba tôi lại quyết định không cho đi làm. Lý do là thức khuya quá sợ
mất sức không học được. Cũng may nếu lò mổ heo, hay lò giết bò làm ban
ngày, có lẽ hôm nay tôi đã thành tên đồ tể đầy tội ác rồi. Quả báo đền
mạng không biết bao kiếp mới trả xong, thật là đáng sợ.
Không làm nghề giết heo, giết bò được, lúc
đó tôi cũng tiếc lắm, vì không có tiền để phụ giúp gia đình. Về sau, tôi
xin đi bán bánh mì rong. Quý vị có biết bán bánh mì rong là gì không?
Là mình đi bán chỗ này chỗ kia, không phải ngồi một chỗ tại cửa hàng.
Mỗi sáng vào lúc 3 giờ tôi phải thức dậy để đi lấy bánh mì. Với cái tuổi
mê ăn mê ngủ mà chịu thức sớm như vậy là cả một sự nỗ lực. Bình thường
thì ngủ 7, 8 giờ mới thức dậy. Từ nhà đến lò bánh mì phải đi bộ hơn hai
cây số. Tôi mua bánh mì tại lò rồi bỏ vào trong bao vải, bao này là bao
quân trang của quân đội thời đó. Bánh mì mới ra lò cho nên còn nóng, vác
lên lưng vừa nặng lại vừa nóng. Lúc đầu đi còn khỏe, càng đi xa càng
thấy nặng. Đã thế, vừa đi lại phải vừa rao: “Bánh mì đây, bánh mì nóng
dòn đây!”. Ngoài đường, xe chạy ồn ào, phải la lớn người ta mới nghe.
Những ngày đầu đi bán la khan cả tiếng. Khi
đi bán như vầy, quý vị biết hạnh phúc nhất là gì không? Là được nghe
người ta kêu mua bánh mì. Mỗi lần nghe kêu “bánh mì” là mừng lắm, mặc dù
mệt nhưng cũng cố chạy nhanh đến bán, vì mỗi sáng có rất nhiều đứa trẻ
cùng lứa đi bán, nếu mình không nhanh chân thì mất khách và phải bán lâu
hơn, đi xa hơn. Có những hôm bán sớm, nhiều nhà còn ngủ, nghe tiếng rao
của mình, họ mở cửa ra chửi và còn hâm dọa kêu cảnh sát bắt nữa. Nghe
vậy tôi sợ quá, chạy đi chỗ khác bán. Có những hôm bán đắt thì khoảng 6
giờ sáng là hết, nếu ế phải tới 7, 8 giờ. Bán xong, lời được đồng nào là
tôi đem về gia đình hết, không dám tiêu xài, trái lại còn mong cho được
nhiều tiền để phụ giúp gia đình. Có những đứa bạn cùng bán chung thấy
nó ăn xài nhiều quá, tôi bèn hỏi ăn như vậy thì tiền lời đâu còn bao
nhiêu, rủi cha mẹ có hỏi thì làm sao. Nó nói là bán 50 ổ thì nói dối là
bán 30 ổ, số tiền lời 20 ổ đó thì xài.
Thời gian cứ trôi qua, con người ngày một
lớn, tâm sinh lý cũng phát triển theo thể xác. Một đêm nọ, vào ngày thứ
bảy, tôi xin cha mẹ đi xem cải lương trong xóm. Thời điểm đó, gia đình
nào khá lắm mới mua nổi ti vi, mà ti vi trắng đen chứ chưa có ti vi màu
như ngày nay. Cả xóm chỉ vài nhà có ti vi. Những nhà này rất tốt, hàng
tuần vào tối thứ bảy có chương trình cải lương, họ đem ra phía trước nhà
cho mọi người đến xem. Dân miền Tây rất mê cải lương, cho nên cứ tối
thứ bảy họ đi xem rất đông, kẻ đứng người ngồi chật cả sân nhà, giống
như ngày nay chúng ta đi xem chương trình ca nhạc sống ngoài trời vậy.
Hôm đó, hai đứa bạn trai không xem cải lương rủ tôi đi dạo mát. Lúc đi,
tụi nó mới thổ lộ là sẽ rủ một con nhỏ hàng xóm cùng đi. Con nhỏ tuổi
khoảng 14, 15 nhưng đã hư, thường hay đi chơi đêm với những đứa con trai
khác. Nghe tụi nó bàn như vậy, tôi can ngăn sợ có chuyện gì xảy ra là ở
tù cả đám. Nhưng hai đứa kia cứ thuyết phục mãi. Vì tuổi trẻ bồng bột,
lại thêm vấn đề ái dục rất mạnh, nên tôi cũng xiêu lòng đồng ý. Lúc đó,
tôi và một đứa đi vào trong khu mộ nơi cánh đồng chờ đợi. Còn một đứa
quen con nhỏ đó có nhiệm vụ về dụ dỗ nó ra. Trước đây, khi đi ngang khu
mộ này, chúng tôi rất sợ ma, vì người ta đồn ma rất nhiều. Không hiểu
sao hôm đó chúng tôi lại không biết sợ ma, chắc có lẽ do sức mạnh của
tình dục chăng? Hai đứa vào đó ngồi chờ, nhưng chờ mãi đến hơn 22 giờ
đêm không thấy nó dắt con nhỏ kia ra. Lúc đó, chúng tôi thất vọng đi về,
sợ ngồi lâu hết cải lương về nhà sẽ bị cha mẹ rầy la. Quả đúng như dự
đoán, về đến nhà thì hết cải lương. Gia đình hỏi tại sao về trễ, phải
nói dối là trời nóng nực đi uống nước mía với bạn nên về trễ. Sáng hôm
sau gặp lại đứa bạn hỏi lý do, nó nói là hôm đó cải lương hay quá, con
nhỏ mê xem nên rủ mãi không chịu đi, ngồi dụ một hơi không được, thấy
cải lương hay quá thế là ngồi xem luôn. Quý vị nghe có tức không? Trong
khi mình ngồi ngoài mả đợi từng phút từng giây, nó ở nhà ngồi xem cải
lương. Lúc đó tôi tiếc lắm, nhưng bây giờ mới biết là may mắn. Nhờ trắc
trở như vậy mình mới không phạm vào tội lỗi. Kể từ đó đến nay tôi cố
gắng giữ mình không để phạm vào sắc dục. Nếu ngày đó vướng vào sắc dục,
có lẽ bây giờ cái giây oan nghiệt đó cột trói mình không biết bao giờ
thoát ra được. Thật là may mắn.
Trong thời gian nghỉ hè, vì rảnh rỗi nên tôi
lấy những quyển kinh sách ra đọc cho đỡ buồn. Những quyển sách này gia
đình tôi đem theo từ Hóc Môn, do Sư Tổ chùa Hoằng Pháp cho. Hồi đó, sách
Sư Tổ ấn tống rất nhiều và ai đến chùa Ngài cũng đều tặng. Ngoài những
sách của chùa Hoằng Pháp ra, còn có những sách của các sư. Sư Tổ chùa
Hoằng Pháp rất quý các sư Khất sĩ, thường hay mời pháp sư Giác Nhiên ở
Tịnh Xá Trung Tâm quận Gò Vấp về giảng. Mỗi lần đi giảng, pháp sư đều
mang theo kinh sách tặng cho Phật tử.
Lần đầu, tôi đọc cuốn “Lược Sử Phật Tổ” do
chùa Hoằng Pháp ấn tống. Sau khi đọc xong, tôi bị thu hút bởi cuộc đời
cao quý của đức Phật. Tôi tự nghĩ: về gia tộc Phật sinh ra thuộc dòng
vua chúa; về thân thể Phật có 32 tướng tốt; về trí tuệ Phật thông minh
hơn người; về địa vị Phật là Thái tử con vua; về quả phước Phật hưởng
thụ đầy đủ mọi thứ hạnh phúc trên cuộc đời. Thế mà Ngài đã từ bỏ tất cả
địa vị, quyền thế, vợ đẹp, con ngoan, giàu sang, sung sướng để một thân
một mình vào rừng sâu tu hành khổ hạnh tìm cầu chân lý cứu độ chúng
sinh, thật là cao quý biết bao! Nếu đem bản thân mình ra xét thì tôi
chẳng có một thứ gì xứng đáng để bỏ cả. Vậy mình còn ham muốn làm chi
những thứ mà Ngài đã bỏ, để rồi lãng phí cả một đời người theo đuổi tìm
cầu!
Từ đó, tôi bắt đầu chuyển hướng cuộc đời,
dốc chí vào việc tìm hiểu Phật pháp, say mê tìm đọc những sách có sẵn ở
nhà như cuốn “Tứ Kệ Tĩnh Tâm”, “Ánh Nhiên Đăng” của pháp sư Giác Nhiên,
cuốn “Dưới Mái Nhà Xưa” của pháp sư Giác Tường, cuốn “Giác Huệ Thi Tập”
của pháp sư Giác Huệ v.v… Những cuốn sách này đã nằm im trong tủ gần 6
năm, được tôi đem ra đọc một cách trân trọng và mới biết là quý giá.
Đúng là pháp bảo. Của báu để trong nhà từ lâu mà không biết xài. Nhất là
khi đọc bài “Lời Thầy Dạy” của pháp sư Giác Nhiên trong cuốn “Ánh Nhiên
Đăng”, cứ như Ngài thúc giục tôi mau mau xuất gia:
Này đồ đệ lắng nghe thầy chỉ dạy
Việc tu hành
cố gắng hỡi này con!
Con muốn tu cho đạo quả vuông tròn
Hãy vâng
giữ y lời thầy dạy bảo.
Này con hỡi cuộc đời đầy huyên náo
Khổ
dương trần không thể kể cho cùng
Phật dạy rằng suối giọt lệ dồn chung
Từ
vô thủy, đến nay hơn nước biển
Lòng bác ái, nên thầy đây nhủ khuyến
Khêu
đèn từ đuốc huệ dắt dìu con
Này con ơi! Vạn vật chẳng thường còn
Mê
chi mãi, chôn cuộc đời tươi thắm.
Con chẳng rõ, nên con còn say đắm
Tưởng
đâu rằng tuổi thọ mãi tồn sinh
Tưởng đâu rằng hạnh phúc mãi cho mình
Không
không phải, này con ơi nên rõ
Ngôi Thái tử Tất Đạt Đa còn bỏ
Vào
rừng non tuyết lạnh để tu hành
Thấy cuộc đời toàn sinh tử bao quanh
Đau
khổ mãi có chi đâu hạnh phúc
Hoặc đoạn khác:
Này con hỡi cuộc đời
con có ngán
Ngán sao con chẳng chịu bước chân đi
Ngán sao con mê
mết mãi làm gì
Nước tới ngực con nhảy sao cho khỏi.
Danh với lợi
là xích xiềng cột trói
Bao anh hùng đắm lụy bởi tài hoa
Chữ ái
tình tiêu tan hết cửa nhà
Sắc xinh đẹp làm hư thân hoại thể.
Từ đó, tôi bắt đầu đi chùa để học hỏi thêm
giáo lý và mỗi đêm đều đến chùa tụng kinh. Thời đó, gần nhà tôi có một
nơi phổ biến giáo lý Hòa Hảo. Ở miền Tây, nhất là khu vực Long Xuyên, đa
số là tín đồ Phật giáo Hòa Hảo. Hằng ngày cứ vào lúc 5 giờ sáng và 17
giờ chiều họ đều đọc những bài sám giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ trên loa
phóng thanh. Những lời sám của Ngài theo thể thơ lục bát rất dễ đọc, dễ
hiểu. Họ đọc như ngâm thơ khi trầm khi bổng nghe rất hay, rất dễ đi vào
lòng người. Tới giờ họ phát thanh, tôi đều chăm chú lắng nghe, học tập
và thuộc lòng nhiều câu.
Càng tìm hiểu Phật pháp, tôi càng say mê.
Qua giáo lý nhân quả… dần dần tôi tập ăn chay 1 tháng 4 ngày, rồi đến 10
ngày và ăn chay trường. Lúc ăn chay trường, gia đình không cho nói là
sẽ mất máu, mất sức, nhưng lúc đó tôi quyết chí ăn. Nhiều lúc không có
gì ăn, chỉ có rau muống luộc chấm nước tương nhưng ăn lại rất ngon. Vì
gia đình không muốn cho ăn nên không mua thức ăn chay để tôi chán ngán
khỏi ăn. Nhưng lâu lâu có lẽ cũng thấy tội nghiệp nên mẹ mua cho một
miếng đậu hũ ăn. Hôm nào được ăn đậu hũ mừng lắm, như đứa nhà nghèo được
ăn bữa thịt heo quay vậy.
Lúc đó tôi rất muốn đi xuất gia nhưng xin
gia đình không cho. Tôi đem tâm nguyện xuất gia của mình thưa với quý
thầy trong chùa. Quý thầy nói cố gắng đi chùa tụng kinh, khi nào đủ nhân
duyên rồi sẽ đi được. Lúc đó tôi cũng lý luận lắm, hỏi lại thầy chừng
nào mới đủ duyên. Ngày xưa Thái tử Tất Đạt Đa xin xuất gia vua cha không
cho phải trốn đi, nếu nói đợi cho đủ duyên thì biết bao giờ Ngài mới
xuất gia được. Nếu Thái tử Tất Đạt Đa không trốn đi xuất gia thì ngày
nay làm sao có Phật Thích-ca dạy chúng ta tu hành. Quý thầy cười nói,
Phật khác còn con khác. Con có dám vào rừng ở tu như Phật không? Tôi trả
lời là dám. Quý thầy nói thôi đi ông ơi! Vào rừng ma nó nhát bỏ chạy về
không kịp.
Có lần, sư Giác Huệ ở Sài Gòn về Tịnh xá
Ngọc Giang thuyết pháp, tôi đến xin Sư xuất gia, nhưng Sư nói tuổi còn
nhỏ nên không nhận, vì xuất gia theo Khất sĩ rất cực, phải 18 tuổi trở
lên mới đủ sức theo. Lúc đó tôi đọc nhiều sách của hệ phái Khất sĩ, thấy
đường lối tu giống Phật nên thích lắm muốn tu theo Khất sĩ.
Do tâm nguyện xuất gia quá mãnh liệt, nên
tôi rủ một đứa bạn trốn đi. Hai đứa tính toán thời gian và địa điểm
xong, sáng hôm sau nó qua nhà tôi vào lúc 4 giờ, do ba tôi đang chuẩn bị
đi làm nên phải chờ tới 5 giờ ông đi rồi mới dám đi. Hai đứa hớn hở như
con chim được xổ lồng, nghĩ rằng mình được toại nguyện xuất gia. Chúng
tôi vừa đi qua khỏi cầu Cái Dung thì có một chiếc xe lôi chạy tới. Xe
lôi này là một chiếc xe Hon da hai bánh, kéo thêm một cái thùng xe phía
sau gọi là xe lôi. Trời mới tờ mờ sáng chúng tôi liền ngoắc xe lại để đi
Long Xuyên. Xe vừa dừng thì có một người đàn bà to béo từ trên xe nhảy
xuống chộp áo thằng bạn, rồi la tôi: “Mày dụ dỗ con tao đi tu phải
không?”. Tôi sợ quá nói: “Đâu có! Tự nó đi chứ con đâu có rủ”. Thế là bà
la tôi một lúc rồi lôi đứa con về nhà. Sau khi nó về, tôi thắc mắc
không biết tại sao mẹ của đứa bạn lại biết mà đi bắt nó. Không biết xui
xẻo thế nào lại đón đúng ngay xe của mẹ nó. Sau này dò hỏi mới biết là
sáng hôm đó, nó dậy sớm, gia đình sinh nghi, vì mọi ngày nó ngủ tới bảy
tám giờ sáng. Hằng ngày vào lúc 4 giờ sáng mẹ nó thường hay thắp nhang
cúng lạy nơi bàn thờ. Hôm nay thấy nó dậy sớm và có để tờ giấy gì trên
bàn thờ, lúc nó đi bà mới lấy ra xem và biết nó trốn đi tu, liền đón xe
đuổi theo. Tôi hỏi nó tại sao lại viết giấy? Nó nói vì sợ bà má không
biết mình đi đâu, rồi buồn khổ khóc lóc đi kiếm tội nghiệp.
Thua keo này bày keo khác, tôi về nhà suy
nghĩ: “Sao mình ngu quá, ban ngày thiếu gì cơ hội trốn đi, đi sớm làm gì
để bị bắt”. Lần sau, chúng tôi trốn đi vào lúc 12 giờ trưa, vì thời
điểm này gia đình không để ý. Sau khi ăn cơm trưa xong, tôi rủ đứa bạn
lần trước bị mẹ bắt lại nhưng nó không dám đi nữa. Thế là tôi phải rủ
đứa khác đi. Vì từ khi biết Phật pháp tôi cũng đã hướng dẫn được một số
bạn đi chùa thường xuyên, đem Phật pháp nói cho các bạn nghe, nên đứa
nào cũng mộ đạo. Do vậy rủ đứa này không đi thì rủ đứa khác. Lần này
chúng tôi trốn đi một cách êm xuôi. Chùa mà chúng tôi đến là do thầy trụ
trì chùa Hội Tông giới thiệu. Chùa nằm ở bên cù lao, chúng tôi phải đi
đò qua một con sông lớn mới tới. Sau khi được thầy trụ trì đồng ý cho ở
tu, chúng tôi mới gởi thư về báo cho gia đình biết. Được tin, vài ngày
sau mẹ tôi qua thăm và đồng ý cho ở chùa tu, nhưng ngược lại tôi thì đòi
về. Quý vị thấy con nít tánh khí bất thường, lúc này lúc khác. Không
hiểu do nhân duyên không hợp hay lúc đó tôi thích tu theo hạnh Khất sĩ
nên đòi về. Thế là mẹ tôi phải xin lỗi thầy trụ trì và đưa chúng tôi về.
Học vừa hết năm lớp 9, tôi xin về chùa Hoằng
Pháp xuất gia. Do sự tha thiết của tôi nên cha mẹ đồng ý cho đi. Mẹ tôi
đưa đi. Khi về Thành Ông Năm nhờ bà Phồn dắt vào giới thiệu với Sư Tổ,
Ngài nhận liền. Tôi ở lại chùa còn mẹ tôi ra ở tạm nhà người thân gần
nhà thờ Châu Nam, sáng hôm sau sẽ trở về Long Xuyên. Tôi ở chùa từ sáng
tới chiều một mình bơ vơ, không quen biết với ai, không được ai hướng
dẫn chỉ bảo, tôi cảm thấy buồn chán muốn trở về (ở đây chỉ nói riêng với
quý thầy). Đây là vấn đề tâm lý mà quý thầy cũng nên quan tâm lưu ý. Có
những người mới đến chùa hoặc mới đến xin xuất gia, nếu như họ đã từng
đến chùa mình thì sẽ không lo ngại bỡ ngỡ hoặc bị lạc lỏng. Đối với
người mới đến chùa lần đầu không quen biết ai, chưa biết gì hết tất cả
đều xa lạ với họ, nếu chúng ta không quan tâm hướng dẫn, họ sẽ bị lạc
lỏng bơ vơ, dễ bị thối thất tâm Bồ-đề. Điển hình như trường hợp của tôi.
Khi ở nhà muốn đi tu cho bằng được, đến chùa rồi lại chán nản muốn trở
về. Chiều hôm đó tôi xin Sư Tổ ra gặp mẹ. Sư Tổ có lẽ biết tôi muốn về
nên không cho đi, tôi năn nỉ mãi với lý do ra tiễn mẹ về quê rồi sẽ trở
lại. Thật ra trong lòng muốn về luôn. Cuối cùng Sư Tổ cũng đồng ý. Khi
tôi ra gặp mẹ và xin trở về, bị bà la cho một trận. Sau đó bà dụ cố gắng
ở hết kỳ hè bà sẽ lên rước về. Thế là lúc này tôi bị tu chứ không phải
muốn tu như trước nữa. Quý vị thấy có buồn cười không! Tôi miễn cưỡng
vào chùa tu một thời gian. Sau đó, quen người quen chỗ rồi tôi mới lấy
lại ý chí và nghị lực, vui vẻ tu học. Bây giờ nghĩ lại, nếu như lúc đó
không bị mẹ la, bắt buộc ở lại tu chắc có lẽ không còn cơ hội để xuất
gia nữa.
Nếu ngày đó tôi không hiểu Phật pháp, không
xuất gia tu hành thì bây giờ không biết mình đang làm gì? Có thể làm
Giám đốc một Công ty nào đó, hoặc làm thuê làm mướn, hoặc có thể là tên
bợm nhậu, hoặc tên ăn trộm v.v… Làm Giám đốc Công ty thì không thể có
rồi, bởi tôi biết mình không có tài, học thì dở; làm thuê làm mướn, hoặc
đạp xích lô, ba gác thì nắm chắc, cũng có thể trở thành tên ăn trộm ăn
cướp. Vì ở ngoài đời phải lấy vợ, không những lấy một vợ mà còn có thể
lấy nhiều vợ, rồi có nhiều con; nhà nghèo đói khổ vì thương vợ, thương
con làm liều đi ăn trộm để có tiền nuôi vợ, nuôi con, rồi bị ở tù.
Tôi cũng không biết ở ngoài đời mình sống có
được hạnh phúc không? Giàu có hay đói khổ? Nếu giàu có thì sinh tật ăn
chơi, vợ nhỏ vợ bé, sát sinh hại vật để bồi bổ xác thân, theo bạn bè làm
ăn nhậu nhẹt say sưa. Nếu nghèo khổ thì tìm mưu nọ chước kia để lừa gạt
người, hoặc trộm cắp để có tiền nuôi vợ nuôi con. Giàu hay nghèo gì
cũng có thể sa đọa, gây tạo tội lỗi. Nghĩ đến đây tự nhiên tôi sợ quá.
A-di-đà Phật, nếu không nhờ Phật pháp, không xuất gia tu hành thì ngày
nay sẽ làm gì, ở đâu, hạnh phúc hay đau khổ, giàu có hay nghèo đói, tự
do hay tù tội, một vợ hay nhiều vợ, thành người tốt hay thành bợm
nhậu... Tôi chắc chắn rằng với những hành động mà mình đã phạm khi nhỏ,
lớn lên sẽ ngày một tăng thêm. Quý vị nhìn mặt chúng tôi xem có hiền
không? Cũng hiền phải không, nhưng cũng đủ thứ tệ hết, nào là: sát sinh,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu không thiếu thứ gì. Ngay lúc nhỏ
vì thương cha muốn cho cha uống bia đã cả gan ăn cắp của ông Mỹ đen một
lon bia, từ nhân này có thể về sau vì thương vợ thương con đi cướp của
giết người. Lúc nhỏ đã đi mò ốc, bắt cua, đâm ếch đâm nhái, cắt đầu lột
da súc sinh, lớn lên chắc chắn vì muốn thỏa mãn khẩu vị sẽ sát sinh hại
vật nhiều hơn, hoặc vì đồng tiền có thể trở thành tên đồ tể đâm heo, đập
đầu bò. Tuổi còn trẻ đã bị bạn bè rủ rê ăn nhậu, lớn lên vì làm ăn xã
giao có thể trở thành bợm nhậu, hư thân mất nết, làm khổ vợ con, làm ảnh
hưởng đến trật tự xã hội. Còn nhỏ mà đã bị bạn rủ đi dụ dỗ con gái
người ta, nếu lớn lên vì đắm mê sắc dục sẽ làm những chuyện tồi bại hơn.
Không nói chi nhiều, chỉ một việc ăn thôi. Trong 30 năm qua nếu tôi
không xuất gia, không trường chay, thử tính xem mình đã ăn thịt biết bao
nhiêu chúng sinh. Lấy cá làm thí dụ thôi, mỗi ngày ăn một con, đó là
loài cá lớn, nếu tính loại cá cơm thì cả trăm con. Vậy một năm ăn bao
nhiêu con, rồi 10 năm cho đến 30 năm biết bao nhiêu sinh mạng chết vì
cái thân giả tạm của mình!
Nếu không biết Phật pháp, không xuất gia tu
hành thì 30 năm qua tôi gây tạo thêm biết bao tội lỗi. Nhờ tu hành mà 30
năm qua tôi không sát sinh hại vật để ăn thịt, không nói dối để lừa đảo
ai, không trộm cắp của ai, không uống một giọt rượu bia nào, không dụ
dỗ ai để thỏa mãn sắc dục. Nói chung, nhờ Phật pháp mà 30 năm qua tôi
không gây khổ cho ai, có chăng là do vô tình chứ không cố ý, như vấn đề
tình cảm chẳng hạn. Vấn đề này là do người ta chứ không phải mình chủ
động gây khổ. Thí dụ có cô nào đó thương mình, họ âm thầm hay thổ lộ
tình cảm với mình, nhưng vì đã xuất gia nên không thể đáp lại tình yêu
đó nên họ khổ. Thật ra đã là con người, ai cũng biết yêu thương, ai cũng
có đầy đủ thất tình lục dục. Vì con người cũng là loài động vật cho nên
có đầy đủ tính chất con vật. Nhưng do mình biết tu nên chuyển hóa tình
yêu vị kỷ thành tình yêu vị tha. Chúng tôi còn nhớ một bài thơ của sư
Giác Huệ trong cuốn “Giác Huệ Thi Tập”:
Hỏi người tu có tình yêu không nhỉ
Nếu nói
không là những kẻ vô tri
Nếu nói có là những kẻ tình si
Không với
có xin ai dùm giảng giải?
Đây đáp lại những lời trên vừa hỏi
Có mà
không, không mà có mới lạ kỳ
Không là không cái tình ái li ti
Có
là có cái tình yêu đại hải.
Hoặc như một bài khác:
Ta có tình yêu
rất đậm nồng
Yêu đời yêu đạo lẫn non sông
Tình ta chan chứa trong
hoàn vũ
Ta chẳng yêu riêng khách má hồng.
Nếu khách má hồng muốn
được yêu
Vậy thì tâm trí phải xoay chiều
Hướng về phụng sự cho
nhân loại
Sẽ gặp tình ta trong khối yêu.
Đối với tôi nói riêng với người xuất gia nói
chung, nhiều khi các cô thấy người tu hành hiền lành dễ thương, không
uống rượu, không ăn chơi hoặc học giỏi, thuyết pháp hay rồi đem lòng
thương yêu muốn chiếm đoạt làm của riêng. Mơ tưởng đến một tương lai đầy
hạnh phúc với người mình thương. Khi tình cảm phát sinh thì thường trái
tim làm chủ lý trí, dẫn đến si mê. Nghĩ rằng tình yêu của mình là đẹp,
là hạnh phúc. Đâu biết rằng ái tình giống như những hạt sương lấp lánh
trên ngọn cỏ khi mặt trời vừa mọc, xa xem nó lấp lánh như những hạt kim
cương, nhưng khi đến gần nó chỉ là những giọt lệ đau thương. Bởi vì sao?
Vì người xuất gia ở chùa từ nhỏ chỉ biết lo tu học không có nghề nghiệp
gì cả, dù có học giỏi, có bằng cấp Tiến sĩ Phật học đi nữa thì khi ra
đời cũng không xài được, không tranh giành hơn thua với người thế gian
được, không thể đi thuyết pháp cho người ta nghe. Khi xuất gia thuyết
pháp người ta còn nghe, ra đời thuyết pháp ai mà nghe. Lúc đầu mới yêu
cứ nghĩ là chỉ cần một túp lều tranh với hai quả tim vàng là đủ hạnh
phúc. Nhưng khi làm không ra tiền, nghèo đói quá không đủ sức yêu thì
hạnh phúc chỉ còn là những giọt lệ đau thương mà thôi. Cành hoa hồng chỉ
để ngắm thì rất đẹp, nếu muốn chiếm đoạt nó, nắm giữ nó coi chừng sẽ bị
gai đâm chảy máu.
Cho nên, nếu có ai lỡ thương người xuất gia
thì hãy chuyển tình yêu vị kỷ thành tình yêu vị tha. Hy sinh tình cảm cá
nhân để cùng nhau phụng sự nhân loại. Chỉ có tình yêu đó mới là hạnh
phúc chân thật. Còn tình yêu vị kỷ chỉ đem đến đau khổ cho nhau mà thôi.
Tóm lại, nhờ Phật pháp mà tôi xuất gia tu
hành, 30 năm qua không gây đau khổ cho ai, trái lại còn làm được những
việc lợi ích tốt đẹp cho người. Tôi rất biết ơn chư vị tôn túc đã có tâm
nguyện hoằng pháp, đã ấn tống kinh sách cho mọi người đọc, trong đó tôi
cũng nhờ những cuốn sách ấn tống này mà hiểu biết Phật pháp, giác ngộ
thế gian vô thường, thân người giả tạm để xuất gia tu hành. Tôi cũng
phát nguyện sẽ noi gương các vị Tổ sư, ấn tống kinh sách để tặng cho
những người vùng sâu vùng xa. Ngày xưa, nhờ đọc sự tích đức Phật
Thích-ca mà tôi giác ngộ, chuyển hướng cuộc đời, xuất gia tu học. Do
vậy, ngày nay tôi nguyện sẽ ấn tống thật nhiều cuốn “Lược Truyện đức
Phật Thích-ca” để phổ biến cho nhiều người đọc. Hy vọng họ sẽ giác ngộ
và chuyển hướng cuộc đời phát tâm xuất gia tu học như tôi. Hiện nay tôi
tiếp tục ấn tống cuốn “Lược truyện đức Phật Thích-ca”, cuốn sách dầy
khoảng 150 trang, ngắn gọn nhưng thể hiện được những nét chính cuộc đời
của đức Phật, dễ đọc, dễ hiểu, dễ phổ cập trong quần chúng. Tôi rất mong
quý Phật tử thấy được sự lợi ích của pháp bảo, hãy góp phần cùng tôi
phổ biến cuộc đời đức Phật, phổ biến Phật pháp để lợi lạc cho mọi người.
Chúng ta hãy cứu nhân sinh bằng Phật pháp. Vì Phật pháp có thể chuyển
hóa khổ đau, chuyển hóa cuộc đời hiện tại và tương lai ngày một tốt đẹp
hơn. Nếu chúng ta bố thí tài vật cho người đói khổ thì chỉ giúp họ vượt
qua cơn đói kém hiện tại,nhưng tương lai họ vẫn tiếp tục nghèo đói khổ
sở. Vì sao? Vì ngày nay họ chịu quả cay đắng là do quá khứ gieo nhân cay
đắng. Muốn sau này ăn quả ngọt thì bây giờ phải gieo nhân ngọt. Đó là
nhân quả rõ ràng. Bố thí pháp là giúp cho họ hiểu biết nhân quả, tự họ
chuyển biến cuộc đời của họ để hiện tại và tương lai được tốt đẹp hơn.
Có người cho rằng kinh sách tặng cho người
ta không quý không đọc. Bán họ bỏ tiền ra mua, họ mới quý mới đọc. Điều
này chưa đúng lắm. Bởi lẽ đối với người đã hiểu Phật pháp thì họ mới tìm
mua kinh sách để đọc, để hiểu biết thêm. Còn đối với những người chưa
hiểu Phật pháp, sẽ không thiết mua kinh sách để làm gì. Đối với những
người nghèo lại càng không dám bỏ tiền ra mua kinh sách, tiền không có
ăn lấy đâu mua kinh sách. Nhất là ở vùng sâu vùng xa, có cửa hàng nào
bán kinh sách đâu mà mua, có tiền cũng không mua được. Do vậy, chúng ta
nên phát tâm in kinh sách tặng không cho mọi người. Nếu họ không đọc thì
đời con đời cháu của họ cũng sẽ đọc, không mất đâu mà lo. Chúng ta thử
tính xem cả thế giới có bao nhêu người? Lấy con số tượng trưng là 5 tỷ.
Vậy bao nhiêu người biết Phật pháp? Tối đa là 2 tỷ người, đây là chúng
ta phỏng chừng vậy thôi, chưa chắc có được số lượng như vậy. Còn 3 tỷ
người chưa biết Phật pháp, chưa biết tu hành. Chúng ta muốn chuyển hóa
thế giới này hết khổ đau, hết chiến tranh, hết tội lỗi thì phải làm sao
cho 3 tỷ người còn lại hiểu biết Phật pháp, tin sâu nhân quả, biết tu
hành.
Đây là vấn đề mà người Phật tử chúng ta phải
suy nghĩ và phải có trách nhiệm phổ biến Phật pháp cho mọi người. Họ
biết tu, họ có tốt thì thế gian này mới tốt và chúng ta mới yên. Họ
không biết tu, họ làm điều xấu ác thì thế gian này cũng xấu và chúng ta
cũng không yên. Không nói chi thế giới, chúng ta chưa có khả năng làm
việc lớn lao đó, chỉ tính đến trong nước Việt Nam thôi, hiện nay có
khoảng 60 triệu dân. Thử tính coi có bao nhiêu người biết Phật pháp,
biết tu hành! Chúng ta cứ cho là có 30 triệu người theo đạo Phật, nếu
biếu cho mỗi người một cuốn sách thôi, thì phải 30 triệu cuốn. Nếu rút
lại mỗi nhà một cuốn thì cũng khoảng 10 triệu hộ, phải hết 10 triệu
cuốn. Từ trước đến nay tôi in kinh sách biếu tặng nhiều lắm cũng chỉ
300.000 cuốn, so với 10 triệu hộ thì chưa thấm vào đâu, cho nên tôi rất
ưu tư về vấn đề này. Hiện nay, các chùa ở vùng sâu vùng xa đến chùa
Hoằng Pháp thỉnh sách về phát cho Phật tử địa phương, chúng tôi rất hoan
hỷ, nhưng rất tiếc là không đáp ứng hết. Tôi rất mong quý Phật tử thấy
được sự lợi ích của việc hoằng pháp lợi sinh, hãy góp sức cùng tôi thực
hiện pháp thí.
Qua kinh nghiệm gia đình tôi thì những cuốn
sách đạo đức hoặc Phật pháp cất chứa trong nhà rất có lợi. Nếu trước đây
trong những lúc hè rảnh rỗi, tôi đọc phải những cuốn sách tiểu thuyết
tình cảm nhảm nhí đồi bại, có lẽ bây giờ tôi cũng đã đắm chìm trong dục
lạc. Tuổi trẻ thường dễ bắt chước, giống như những tờ giấy trắng, nếu
chúng ta nhuộm màu gì sẽ ra màu đó. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Quý Phật tử nên lưu ý hãy đem kinh sách để trong nhà mình, đó là đem
của báu để trong nhà. Một ngày nào đó con cháu chúng ta sẽ đọc và sẽ
thấm nhuần Phật pháp, sống có đạo đức, tránh các việc ác, làm các việc
lành, tạo hạnh phúc cho mình và người, được như vậy còn quý hơn là để
của cho con. Nếu nó giác ngộ đi xuất gia tu học thì đại phước cho gia
đình, cho bản thân nó và cho tất cả chúng sinh. Một người mà tu hành đắc
đạo thì tất cả chúng sinh đều được thấm nhuần mưa pháp.
Phật pháp đã cứu đời tôi. Nhờ Phật pháp mà
hôm nay tôi biết tu hành, có được an vui hạnh phúc. Tôi cầu nguyện Tam
Bảo gia hộ cho mọi người thấm nhuần Phật pháp để có được an vui hạnh
phúc. Và tôi cũng xin phát nguyện sẽ đem hết khả năng của mình để hoằng
dương Phật pháp, nguyện sẽ tiếp tục ấn tống kinh sách phổ biến các nơi
hầu đền ơn Tam Bảo, ơn thầy tổ, ơn cha mẹ và ơn đàn na tín thí.
Buổi nói pháp của chúng tôi đến đây đã hoàn
mãn, thành tâm cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho toàn thể quý Phật tử thân
tâm thường lạc, đạo tâm kiên cố, tinh tấn trên con đường tu học!
Nam mô Bổn sư Thích-ca
Mâu-ni Phật!