46. THẦY GIÁO ÐẠO
Vào thời thánh Hilarion còn sinh tiền, 
khi ngài đã khá cao tuổi, tại đô thị Gaza có gã thanh niên 
tên Josephus Famulus. Gã đã trên ba mươi, chuyên sống đời ăn 
chơi trác táng và nghiên cứu sách vở ngoại giáo. Nhưng 
bỗng một ngày kia, gã gặp một người đàn bà mà gã say mê; 
nàng dạy cho gã giáo lý tuyệt diệu của chúa Ki tô và 
những đức hạnh tốt lành của Ki tô giáo. Gã bèn xin rửa 
tội, từ bỏ những thói hư tất xấu, và trải nhiều năm, gã 
thường đến quỳ dưới chân những cha xứ. Gã theo dõi với 
sự chú ý đặc biệt, những mẩu chuyện về cuộc đời 
của những ẩn sĩ sùng tín trên sa mạc.
Cho đến một ngày nọ, vào lúc ba mươi 
sáu tuổi, gã khởi sự cuộc hành trình mà ngày xưa thánh 
Paul và Antoine đã làm, và kể từ đấy bao nhiêu linh hồn 
ngoan đạo đã theo gót. Gã trao hết tài sản cho những linh 
mục để phân phát cho người nghèo, từ biệt bạn bè ở 
cổng đô thị và ra đi vào sa mạc, xa hẳn cuộc đời xấu 
xa tội lỗi để sống đời của kẻ sám hối. Nhiều năm trôi 
qua, gã phơi mình dưới ánh mặt trời nung đốt, cọ xát đầu 
gối mình lên đá, lên cát trong khi đọc kinh. Gã nhịn đói 
cho đến khi mặt trời lặn mới ăn vài trái chà là. Ma quỷ 
quấy phá gã với những trò cám dỗ, nhạo báng, thử thách, 
nhưng gã đều dẹp được chúng bằng sự cầu nguyện, sám 
hối, quên mình, như ta thường nghe kể về cuộc đời của 
những tu sĩ thánh thiện. Suốt nhiều tuần, gã nhìn trừng 
trừng lên các vì sao, và ngay cả những vì sao cũng đem lại 
những cám dỗ và gây rối loạn cho gã. Gã theo dõi chúng, vì 
qua những vì sao, gã biết được những chuyện về thần linh 
và con người. Những linh mục rất ghét khoa này, nhưng gã thì 
còn bị ám bởi những tư tưởng, mộng mơ của những ngày 
nghiên cứu sách ngoại giáo.
Vào thời ấy, ẩn sĩ thường sống 
tại những chỗ có cây và nước trên sa mạc. Họ ở một mình 
hoặc quy tụ thành những nhóm huynh đệ như những bức tranh 
của Pisa mô tả. Họ thực tập sự khó nghèo và tình yêu 
huynh đệ. Họ đã trở thành những chuyên viên về nghệ 
thuật "chết dần chết mòn": hành thân hoại thể, 
chết đi với cuộc đời, đi qua cửa tử để đạt đến Người 
Cứu Chuộc. Họ được thiên thần và ma quỷ ở bên 
cạnh;họ sáng tác những bài thánh ca, trừ tà đuổi quỉ, 
chữa bệnh, ban phép lành. Dường như họ có bổn phận đền 
bù cho sự theo đuổi lạc thú, sự bạo tàn, dục vọng của 
nhiều đời quá khứ và vị lai bằng cách tạo ra một lối 
sống sùng tín cuồng nhiệt, lao mình vào sự từ bỏ, hi sinh. 
Nhiều người trong số ấy có lẽ ngày xưa đã từng quen 
thuộc với những lối tu luyện yoga ở Á đông, nhưng dần dà 
phép yoga và những lối tu tương tự không còn được áp 
dụng, vì Ki tô giáo bấy giờ càng ngày càng bài trừ những 
yếu tố ngoại giáo.
Với lối sống khổ hạnh ấy, 
nhiều nhà tu đã phát triển được một số khả năng đặc 
biệt như cầu nguyện có linh ứng, chữa bệnh bằng nhân điện, 
tiên tri, phù thủy, phê phán và trừng phạt, an ủi, ban phép 
lành. Với Josephus cũng vậy, một khả năng thần thông dần 
dần phát triển, và theo thời gian, khi tóc gã đã hoa râm, 
khả năng ấy cũng đến độ đơm hoa kết trái. Ðó là khả 
năng lắng nghe mỗi khi một sư huynh hay một đứa bé ngoài đời 
bị giao động tinh thần, đi đến nơi chàng để kể lể 
những việc làm, những nỗi khổ tâm, những sự cám dỗ, 
những lỗi lầm của họ, thuật chuyện đời của họ cho chàng 
nghe, nói về sự phấn đấu của họ để sống một đời thánh 
thiện, và những thất bại trong cuộc phấn đấu ấy. Và khi 
họ kể lể như vậy, thì Josepus biết cách lắng nghe, mở tai 
và mở lòng đón nhận lấy những khổ đau những nỗi niềm 
khắc khoải của người kia vào mình, giữ chúng lại, khiến 
cho người ấy ra về được nhẹ nhàng như vừa trút gánh. 
Dần dà, sau nhiều năm, công việc ấy đã tóm lấy chàng, 
biến chàng thành một công cụ, một lỗ tai được mọi người 
tin cậy.
Những đức tính của chàng là kiên 
nhẫn, thụ động, sẵn sàng đón nhận và kín đáo tột mức. 
Càng ngày càng có nhiều người đi đến chàng để thổ lộ 
tâm can, để vơi đi nỗi sầu khóa kín của họ. Nhưng có 
nhiều người, sau một hành trình dài để tìm đến túp lều 
của chàng, vẫn không đủ can đảm. Họ quằn quại trong hổ 
thẹn, câm nín không muốn nói, thở dài, và im lặng nhiều 
giờ.
Chàng đối xử mọi người như một, 
dù họ dốc hết lòng dạ hay nói một cách miễn cưỡng, dù 
họ lưu loát hay ngập ngừng, dù họ trút những bí ẩn của 
mình ra một cách giận dữ hay từ tốn. Chàng xem ai cũng như 
ai, dù họ gán tội cho thượng đế hay cho chính mình, dù họ 
phóng đại hay thu nhỏ tội lỗi và nỗi khổ đau của mình, 
dù họ khai ra một vụ giết người hay chỉ là một hành vi 
thô bỉ, dù họ đau khổ vì thất tình hay vì mất sự cứu 
rỗi. Josephus không mảy may xúc động khi nghe một người kể 
chuyện giao thiệp với ma quỷ. Chàng cũng không mất kiên 
nhẫn khi nghe một người kể lể vòng vo, mà rõ ràng y đang 
giấu nhẹm chuyện chính yếu. Chàng cũng không lấy làm bực 
bội khi có người bịa tội ra để xưng. Tất cả những 
lời than vãn, thú tội, buộc tội, những cơn dản vật lương 
tâm, được trút hết vào hai lỗ tai chàng như nước thấm vào 
cát sa mạc. Chàng không phê phán, không thương hại hay khinh 
rẻ người xưng tội. Vậy mà những người đến xưng tội 
với chàng không bao giờ có cảm tưởng mình nói vào khoảng 
trống. Họ được biến cải, được nhẹ nhàng, được cứu 
chuộc, sau khi kể lể và được chàng lắng nghe. Rất hiếm 
khi chàng trả lời với một sự khuyên răn hay cảnh cáo, 
lại càng không bao giờ ra lệnh. Dường như đó không phải 
việc của chàng, mọi người đến chàng đều cảm thấy 
thế. Việc của chàng là khơi dậy niềm tin tưởng, thụ động, 
kiên nhẫn lắng nghe đầy cảm thông, giúp người xưng tội 
hết ngập ngừng, khiến cho những gì giấu kín trong mỗi linh 
hồn được dịp tự nhiên tuôn chảy. Và khi nó đã đuợc 
tự nhiên tuôn trào, thì chàng đón nhận nó và gói kín nó 
trong im lặng.
Phản ứng chàng luôn luôn là vậy. 
Sau mỗi thời xưng tội - những tội lỗi ghê gớm cũng như 
những tội vụt vãnh vô hại, lời xưng tội chân thành cũng 
như giả dối - chàng thường bảo đương sự quỳ xuống bên 
cạnh mà đọc kinh Lạy cha. Rồi chàng để họ ra về, sau khi 
hôn lên trán họ. Bắt phải hành sám hay trừng phạt họ không 
phải là việc của chàng. Chàng còn không tự thấy đủ tư cách 
để làm chủ lễ sám theo đúng nghi thức tẩy tội. Phê phán 
hay tha thứ không phải công việc của chàng. Bằng cách lắng 
nghe, thông cảm, chàng như muốn san sẻ tội phạm với đương 
sự, giúp cho y có thể cưu mang nó. Bằng sự im lặng, chàng 
như muốn chôn lấp cái đã nghe, cho nó thuộc về dĩ vãng. Ðọc 
kinh với họ sau khi xưng tội, chàng muốn xem y như một người 
huynh đệ, nhận y làm bằng hữu. Khi hôn trán y, là chàng 
muốn chúc lành cho y trong tư thế một người anh em hơn là 
một kẻ bề trên - nghĩa là với tình thân ái hơn là nghi 
lễ.
Danh tiếng chàng được đồn khắp vùng 
Gaza và xa hơn. Ðôi khi chàng còn được nhắc nhở đồng lúc 
với vị ẩn tu vĩ đại, Dion Pugil, đã nổi tiếng trên mười 
năm trước, và có những khả năng khác hẳn chàng. Cha Dion 
nổi tiếng là đọc được tâm hồn người đối diện. Ông 
thường làm cho một người đang do dự không muốn thú tội, 
phải kinh ngạc, bằng cách nói toắc ra những tội lỗi mà y 
đang che giấu. Josephus đã nghe hàng trăm giai thoại về vị này, 
và không bao giờ chàng dám sánh với ông. Cha Dion còn là một 
cố vấn minh triệt đối với những linh hồn lạc lõng, một 
quan tòa công minh, một người sửa sai, trừng phạt. Ông đưa 
ra những hình phạt, như bắt phải đoạn nam căn, bắt đi hành 
hương, bắt phải kết hôn, buộc những kẻ thù phải giảng 
hòa. Tóm lại ông có cái uy quyền của một vị giám mục. 
Mặc dù ông cư trú gần Ascalon, những người ở mãi tận Jérusalem 
và xa hơn cũng tìm đến ông.
Như phần đông những ẩn sĩ và 
những nhà khổ tu, Josephus đã sống những năm dài phấn đấu 
kiệt sức. Mặc dù chàng đã từ bỏ nếp sống Thế tục, 
bố thí nhà cửa, tài sản, và giã từ đô thị với những cám 
dỗ của nó, chàng vẫn còn nguyên vẹn cái bản ngã cũ của 
mình. Trong thể xác và linh hồn chàng, còn đủ tất cả 
những bản năng có thể đưa con người đến đau buồn và cám 
dỗ. Lúc đầu chàng chỉ phấn đấu cốt chống lại thể xác, 
nghiêm khắc với nó, bắt nó nhịn đói nhịn khát, lãnh sẹo 
và những vết chai sần, cho đến khi nó thành một cái thân tàn 
ma dại. Nhưng ngay trong cái vỏ khổ hạnh ấy, anh chàng Adam 
cố hữu vẫn tóm lấy chàng một cách vô sỉ, quấy rầy chàng 
với những thèm khát ngu ngốc, qua những chiêm bao mộng mơ. 
Ta đã biết quỷ sứ thường đặt cạm bẫy cho những người 
khổ tu, những người trốn khỏi cuộc đời.
Bởi thế, mỗi khi thỉnh thoảng người 
ta đến viếng chàng để tìm nguồn an ủi và để xưng tội, 
chàng xem sự ấy như một dấu hiệu của ơn trên, một niềm 
vui cho chàng trong cuộc đời khổ hạnh. Vì như vậy nó làm 
cho đời chàng mang một ý nghĩa: chàng đã được giao phó 
một công việc, có thể phụng sự Chúa bằng cách biến mình 
thành một dụng cụ để đưa những linh hồn đến với Ngài. 
Ðó là một cảm giác kỳ diệu, làm chàng lên tinh thần. Nhưng 
với thời gian, chàng thấy ngay cả những nguồn vui của tâm 
hồn ấy cũng thuộc vào thế tục, và có thể trở thành 
những cám dỗ, cạm bẫy. Vì mỗi khi một người lữ khách 
đi bộ hay cỡi ngựa dừng trước hang động của chàng để 
uống nước, rồi xin chàng nghe anh ta xưng tội, thì chàng 
lại cảm thấy một sự thỏa mãn, một lạc thú len vào tâm 
hồn. Chàng cảm thấy hài lòng với chính mình.
Vừa khi nhận ra sự tự hào rỗng 
tuếch này, chàng bị chấn động một cách sâu xa. Chàng quỳ 
xin Thượng đế tha thứ, và yêu cầu ngài đừng đưa những 
người thú tội đến nữa, vì chàng không xứng đáng. Nhưng, 
khi bẵng một dạo, không ai đến xưng tội, chàng cũng không 
thấy mình khá hơn chút nào. Và khi có một loạt người kéo 
đến như nước lũ trở lại, chàng lại bắt gặp mình phạm 
tội một lần nữa. Sau một thời gian, khi nghe xưng tội, chàng 
thấy mình đâm ra lạnh lùng, vắng bóng yêu thương, có khi còn 
khinh bỉ người xưng tội. Chàng cũng chấp nhận những cuộc 
phấn đấu này. Có những giai đoạn chàng tự sỉ nhục hành 
hạ mình sau một thời gian nghe xưng tội. Chàng lại đặt ra 
một quy luật là phải đối xử với mọi người không 
những như huynh đệ, mà còn phải có niềm kính trọng đặc 
biệt. Càng ít ưa người nào bao nhiêu, chàng phải kính 
trọng y bấy nhiêu, vì chàng xem mỗi người như một sứ 
giả Thượng đế gửi đến để thử mình. Một cách muộn màng, 
sau nhiều năm, khi gần về già, chàng mới đạt đến một 
mức độ bình an nào đó. Ðối với những người lân cận, 
chàng có vẻ là người không lỗi lầm, một người đã tìm 
thấy bình an trong Thượng đế.
Nhưng sự an bình chính nó cũng là 
một sinh thể, và như mọi đời sống, nó phải có thăng 
trầm, phải chịu những thử thách, những chuyển biến. Tình 
trạng an bình của Josephus cũng vậy. Nó không bền, lúc ẩn lúc 
hiện, khi thì gần như một cây nến cầm trong tay, khi lại xa 
vời vợi như một vì sao trong bầu trời đông. Và với thời 
gian, một loại tội lỗi cám dỗ khác xuất hiện, làm cho 
sự sống đối với chàng càng lúc càng cam go. Ðấy không 
phải là một cảm xúc đam mê mạnh mẽ như sự phẫn nộ hay 
một dục vọng bất chợït. Hoàn toàn trái lại. Ðó là một 
cảm giác rất dễ chịu đựng trong giai đoạn đầu, vì nó 
rất khó nhận ra, một tình trạng trong đó không có cơn đau 
khổ hay thiếu thốn đặc biệt nào, một tình trạng uể 
oải, hâm hẩm của tâm hồn mà ta chỉ có thể mô tả bằng 
những từ phủ định như một sự tan biến, một sự tàn 
tạ, và cuối cùng, là một sự hoàn toàn vắng bóng niềm vui.
Có những ngày trời không nắng mà cũng 
không mưa, bầu trời cứ lắng xuống một cách lặng lẽ, 
tự phủ kín lấy nó, nền trời xám mà không đen, âm u, nhưng 
không có cái vẻ căng thẳng báo hiệu một cơn giông gần 
kề. Những ngày của Josephus dần dần trở nên giống thế, 
khi chàng tiến đến tuổi già. Dần dần chàng khó thể phân 
biệt sáng với chiều, ngày lễ với ngày thường, giờ buồn 
với giờ vui. Mọi sự trôi lờ lững, nhạt phèo, chán ngấy. 
Tuổi già là như vậy, chàng buồn bã nghĩ. Chàng buồn, vì chàng 
đã tưởng rằng, tuổi già, với sự dập tắt những dục 
vọng, sẽ đem lại cho chàng một sự sáng sủa thoải mái hơn, 
đưa chàng gần hơn đến hòa điệu và an lạc nội tâm. Thế 
mà bây giờ tuổi già dường như làm chàng thất vọng, bịp 
chàng bằng cách cống hiến cho chàng không gì cả ngoài sự 
trống trải toàn một màu xám ngắt này, cảm thức ngấy chán 
triền miên này.
Nhất là ngấy chán: chàng ngấy chán 
hiện hữu rỗng tuếch, chán hơi thở ra vào, chán giấc ngủ 
về đêm, chán đời sống trong hang động sa mạc, chán cái 
xoay vần bất tận của chiều rồi sáng, chán những lữ khách, 
chán những người cỡi lạc đà và lừa, và trên tất cả, 
chàng vô cùng chán những người đến viếng chàng, những con 
người băn khoăn ngu ngốc, dễ tin đến độ ngây thơ, những 
người khao khát kể lể cho chàng nghe cuộc đời họ, những 
tội lỗi, cám dỗ, sự sợ hãi của họ. Ðôi khi chàng thấy 
mình như dòng nước nhỏ trong sa mạc chảy qua bãi cỏ một lúc, 
tạo nên một con suối nhỏ, rồi tiếp tục chảy vào bãi cát 
ở đó sau một hành trình ngắn ngủi, nó khô cạn và tan 
mất.
Cũng thế, tất cả những lời thú 
tội kể lể này, những cuộc đời này, những dằn vật lương 
tâm này, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc nghiêm trọng hoặc nhỏ 
nhặt, tất cả đều rót vào tai chàng, hàng tá, hàng trăm, càng 
lúc càng nhiều. Nhưng lỗ tai chàng không chết cứng như cát 
sa mạc. Nó đang sống, và nó không thể uống, nuốt, ngấm vào 
mãi được. Nó phải có lúc cảm thấy mệt mỏi, bị lạm 
dụng, bị ngập lụt. Nó mong cho cái dòng thác ngôn từ, xưng 
tội, lo âu, kể lể ấy hãy chấm dứt đi. Nó mong mỏi sự 
an bình, cái chết, sự tịnh lặng, thay cho dòng thác bất 
tận này.
Như thế đấy, chàng mong sự chấm 
dứt. Chàng đã mệt mỏi, đã ngấy chán, đã quá ngấy. Ðời 
chàng thành ra nhạt phèo, vô giá trị. Tình trạng đâm ra 
bết đến độ có những lúc chàng muốn chấm dứt, muốn 
tự trừng phạt, dập tắt mình đi, như kẻ phản chúa Judas 
đã làm khi tự treo cổ. Quỷ sứ ngày xưa ở đầu chặng 
đường tu, đã cám dỗ cho dục vọng len vào linh hồn chàng, 
thì ngày nay lại tấn công chàng bằng ước muốn tự hủy, làm 
cho chàng lúc nào nhìn cành cây cũng toan tính chuyện mắc vào 
đó một cái thòng lọng. Mỗi mỏm đá đều gợi ý cho chàng 
hãy leo lên đỉnh nó mà gieo mình xuống. Nhưng chàng chống 
lại cơn cám dỗ. Chàng phấn đấu, không nhượng bộ. Tuy 
thế, ngày như đêm, chàng sống trong ngọn lửa của sự tự 
ghét và mong được chết đi. Sự sống đối với chàng đã 
thành quá khả ố không thể chịu đựng.
Một ngày, khi Josephus đứng trên 
một mõm đá, chàng thấy xa xa giữa đất và trời nổi lên 
hai ba cái bóng. Rõ ràng đó là những người lữ hành, chắc 
là hành hương, cũng có thể là những người định tới 
viếng chàng với những lý do thường lệ. Bỗng chốc một 
nỗi khát khao không cưỡng được vụt tóm lấy chàng. Chàng 
muốn rời khỏi nơi này tức khắc, rời khỏi cuộc sống này, 
càng nhanh càng tốt. Nỗi khát khao quá mạnh đến nỗi nó quét 
tan ngay những suy tính lợi hại - làm sao một nhà khổ hạnh 
sùng tín có thể vâng theo một đà thúc đẩy bốc đồng mà 
lương tâm không ray rứt?
Nhưng chàng đã khởi sự bỏ chạy. 
Chàng lui về hang động, nơi chàng đã sống nhiều năm phấn 
đấu, đã trải qua nhiều nỗi hoan lạc và thất bại. Vội vàng, 
chàng thu nhặt vài nắm chà là, một bầu nước, nhét chúng vào 
tay nãi mang trên vai, lấy chiếc gậy đi đường, và từ giã 
khóm cây xanh an bình của am cốc nhỏ, ra đi như một kẻ đào 
tẩu, trốn chạy cho xa Thượng đế, xa con người, nhất là 
xa những gì trước kia chàng nghĩ là cái tốt nhất mà chàng 
có để cống hiến - việc làm, sứ mệnh của chàng.
Lúc đầu chàng chạy như ma đuổi, làm 
như thể những cái bóng đàng xa kia là những kẻ thù đang rượt 
theo chàng. Nhưng sau một tiếng đồng hồ dong ruỗi, cơn hấp 
tấp lắng xuống. Sự vận chuyển làm chàng mệt một cách thích 
thú. Chàng dừng lại nghỉ nhưng không ăn - chàng đã quen 
nhịn đói cho đến khi mặt trời lặn. Khi dừng lại nghỉ, lý 
trí chàng vốn quen phản tỉnh, trở lại nhìn vào cái hành động 
theo bản năng vừa qua, và tìm cách phê phán. Nhưng nó không 
chê, mặc dù hành vi ấy trông man rợ thật. Lý trí phán 
rằng, đây là lần đầu trong nhiều năm nay, chàng đã làm 
một việc vô tội, vô hại. Ðương nhiên đây là một sự đào 
tẩu đột ngột, nhưng không phải là đáng hổ thẹn. Chàng 
đã từ bỏ một chức vụ mà chàng không còn thích hợp.
Bỏ chạy như thế này, chàng đã xác 
nhận sự thất bại với chính mình, và với Thượng đế đang 
soi xét. Chàng đã từ bỏ một cuộc phấn đấu vô vọng cứ 
trở lại với chàng mãi, và đã tuyên bố mình thua cuộc. Không 
có gì vĩ đại, hào hùng, thánh thiện trong hành vi này, lý trí 
phán, nhưng nó cũng khá thành thực, và dường như không thể 
tránh. Bấy giờ chàng ngạc nhiên tại sao mình đào tẩu quá 
muộn màng, tại sao mình đã đeo đẳng công việc quá lâu đến 
thế. Chàng thấy mình đã lầm khi đeo đẳng mợt chức vụ mà 
mình không xứng. Hay là tại cái ngã chấp cố hữu của chàng?
Bây giờ chàng thấy rõ sự đeo đẳng 
ấy đã đem lại những hậu quả xấu xa tai hại, đã gây ra 
sự phân hóa rã rời trong tâm hồn chàng, và ngay cả ám ảnh 
quỷ quái của khuynh hướng tự sát.
Chàng ngồi một lúc lâu đắm chìm 
trong tư duy, rầu rĩ và hối hận. Bây giờ, chàng nhìn cuộc 
đời đã qua với một ý thức trọn vẹn, cuộc đời khốn 
nạn của một người về già đã đi lạc hướng đến độ 
bị ám ảnh bởi cám dỗ muốn treo mình lên cành cây như kẻ 
phận chúa. Ý tưởng tự sát ấy thực kinh khủng, khi chàng ví 
với lễ tục hi sinh ngày xưa của ngoại giáo. Qua lễ tục 
ấy vị vua, bậc thánh hay người được chọn của bộ lạc 
phải tự sát vì lợi ích chung. Nhưng âm hưởng của những 
tập tục vô thần bị cấm chỉ trong Ki tô giáo ấy, chỉ là 
một phần nhỏ của sự kinh khủng. Cái điều khủng khiếp hơn, 
chính là tư tưởng cho rằng chung quy, cái chết của Ki tô trên 
Thập tự giá cũng chỉ là một tự nguyện hi sinh.
Khi chàng có ý tưởng ấy, chàng 
nhận ra rằng thực sự ý tưởng này đã manh nha trong nỗi khát 
khao tự hủy: đó là một khuynh hướng hi sinh theo gương Ðấng 
Cứu thế, và như vậy trắng trợn có nghĩa rằng sự cứu 
chuộc của Ngài vẫn chưa đủ. Chàng chấn động tâm can vì 
ý nghĩ ấy, nhưng cũng mừng vì đã thoát khỏi mối nguy. Chàng 
ngắm nhìn lại một lúc lâu gã Josephus con người thay vì 
bắt chước kẻ phản Chúa hay bắt chước Chúa, bây giờ đang 
đào tẩu, và như vậy một lần nữa anh ta tự đặt mình 
trong tay Chúa. Càng ngẫm đến cái địa ngục vừa thoát 
khỏi, chàng càng hổ thẹn đau buồn.
Dần dần nỗi đau khổ của chàng 
ứ đọng nơi cổ như mắc nghẹn, nó trở thành một cảm giác 
nặng nề làm chàng vô cùng khó chịu, và đột nhiên nó thoát 
ra trong một trận trào tuôn nước mắt, đã cứu chàng một cách 
nhiệm mầu. Ðã bao năm rồi, chàng không còn khóc được 
nữa. Những dòng lệ tuôn ra, mắt chàng mờ đi, nhưng cái 
cảm giác mắc nghẹn như ai bóp cổ ấy đã dịu xuống. Khi 
tỉnh lại, nếm vị mặn nơi môi, chàng nhận ra mình đã khóc 
một trận. Chàng như thấy mình bé bỏng trở lại, không 
biết gì đến sự xấu ác đau khổ. Chàng mỉm cười, hơi 
thẹn vì đã khóc.
Cuối cùng chàng đứng lên tiếp 
tục hành trình. Chàng không biết cuộc đào tẩu này sẽ đưa 
chàng đến đâu, chàng sẽ ra sao. Mình như một đứa bé, chàng 
nghĩ, trong mình không còn sự phấn đấu, không c òn ý chí nào 
nữa. Chàng bước một cách thoải mái, như được ai dẫn 
dắt, như thể một tiếng gọi từ ái xa xăm đang thúc giục, 
vỗ về chàng, như thể cuộc hành trình chàng đang làm không 
phải là một chuyện đào tẩu mà là một chuyện trở về quê 
hương. Bây giờ chàng đã thấm mệt, cả lý trí cũng đứng 
yên, an trụ, nghỉ ngơi, hay tự thấy nó không còn cần 
thiết.
Joseph nghỉ đêm tại một lỗ nước 
quanh đó nhiều nhóm lữ khách và lạc đà đang hạ trại. Vì 
trong số ấy có hai phụ nữ, nên chàng chỉ ra dấu chào, tránh 
bắt chuyện. Khi mặt trời lặn, chàng ăn một ít chà là, đọc 
kinh rồi nằm xuống nghỉ. Bỗng chàng nghe lõm câu chuyện 
giữa hai người đàn ông một già một trẻ, vì họ nằm 
gần. Chàng chỉ nghe một khúc trong cuộc đàm thoại, khúc sau 
chìm trong tiếng thì thào. Nhưng cái khúc ngắn này cũng đủ 
gợi tò mò làm chàng trằn trọc cho đến quá nửa đêm. Chàng 
nghe giọng người già bảo: "Ồ, anh muốn đến xưng tội 
với mấy thầy tu khổ hạnh thì cũng tốt. Những người đó 
biết nhiều chuyện, tôi bảo cho mà nghe. Có người biết làm 
phép ảo thuật nữa. Ông ta chỉ việc hô lên một tiếng, khi 
thấy một con sư tử phóng ra, tức thì con vật quì xuống, để 
cái đuôi vào giữa hai chân ông ta, rồi bỏ đi. Họ luyện 
được cả sư tử đấy, tôi bảo. Có ông tu hành thánh 
thiện tới nỗi con sư tử mà ông luyện thuần rồi ấy đào 
huyệt cho ông khi chết, đạp đất thành nấm mộ cho ông, và 
để hai con sư tử quỳ bên mộ suốt ngày đêm rất lâu sau 
đó. Nhưng không phải những người ấy chỉ luyện sư tử mà 
thôi đâu. Có một ông lại còn cho một tên đại đội trưởng 
một mẫu linh hồn của ông ta. Tên lính ấy là tên côn đồ 
khả ố nhất ở Ascalon. Nhưng nhà tu đã sửa cái tâm xấu xa 
của nó Thế nào mà nó chuồn mất, sợ hãi như một con 
chuột, và phải kiếm cái lỗ để dấu cái tâm ấy. Sau đó 
người ta không nhận ra nó nữa, nó đã thành hiền khô, 
lặng lẽ. Một chuyện nữa là, sau đó chẳng bao lâu thì 
ảnh chết - đó là điều đáng cho ta suy nghĩ." - Ai chết? 
Nhà tu thánh thiện? - Không! Tên lính. Hắn là Varo. Sau khi được 
nhà tu sửa trị xong, hắn ra thân tàn ma dại một cách mau chóng 
- lên cơn sốt hai lần, và ba tháng sau thì thành thây ma. Ôi 
thôi, hắn chết đi cũng không uổng gì cho lắm. Nhưng dù sao, 
tôi vẫn thường nghĩ rằng, không phải nhà tu chỉ có đuổi 
con quỷ ám ra khỏi xác của nó mà thôi. Có lẽ ông còn đọc 
một bài chú gì đó khiến cho hắn phải nằm xuống ba tấc 
đất. - Một người thánh thiện mà đi làm chuyện đó sao? Tôi 
không tin. - Tin hay không mặc kệ bạn, nhưng điều tôi biết 
là, từ ngày ấy trở đi, thằng chả thay đổi hẳn, như bị 
bỏ bùa, và ba tháng sau...
Im lặng một lúc. Rồi người trẻ 
gợi lại chuyện đàm thoại: "Có một nhà khổ tu rất thánh 
thiện nghe đồn như ở gần đây. Người ta bảo, ổng sống 
đơn độc cạnh một lạch nước nhỏ trên đường đi Gaza. Tên 
ông là Josephus Famulus. Tôi đã nghe nhiều chuyện về ông ấy." 
- "Thật sao? Bạn nghe thế nào?" - "Ông ta là một 
người thánh thiện kinh khủng, không bao giờ để mắt ngó 
một người đàn bà. Nếu tình cờ vài con lạc đà đi ngang 
chỗ ông ta, mà trong đám hành khách có một phụ nữ, thì 
bất luận nàng có trùm mặt kín mít đến đâu, ông ta cũng 
nhảy thót vào hang ngay. Khối người đến xưng tội với 
ổng - hàng ngàn người." - "Tôi chắc ông ta không 
nổi tiếng lắm đâu, vì nếu ổng nổi tiếng thì làm sao mà 
tôi không nghe đến ông? Ổng làm được cái thuật gì, cái 
ông Famulus của anh ấy? - "Thì bác cứ đến mà xưng tội 
với ổng xem. Tôi, thì tôi cho rằng người ta không hơi đâu 
mà đến ổng, nếu ổng không thánh thiện và không hiểu 
biết nhiều. Người ta kể rằng, ổng không nói gì cả, không 
rầy la, không xua đuổi ai, không ra hình phạt hay bất cứ gì. 
Nghe nói ổng rất hiền lành và khiêm tốn. -"Nhưng nếu 
ổng không rầy la, không trừng phạt, không mở miệng nói, thì 
ổng làm gì?" -"Người ta bảo, ổng chỉ lắng nghe, 
thở dài và làm dấu thánh." - "Tôi e rằng đấy là 
một lão thánh bịp. Bạn không điên tới nỗi đi viếng lão 
câm ấy chứ?" -"Tôi đang tính chuyện ấy. Tôi sẽ tìm 
đến ông ta. Chắc ổng ở không xa đây lắm. Bác biết, hồi 
chiều có một thầy tu khốn khổ đứng gần chỗ này. Sáng 
mai tôi sẽ hỏi ông ta. Mà chính ổng cũng giống như là một 
nhà ẩn tu thì phải."
Người già phản đối: -"Bạn phí 
thì giờ vô ích, bạn ơi. Một người chỉ có lắng nghe và 
thở dài, và lại sợ đàn bà thì không làm được cái thá gì 
đâu, không hiểu biết gì hết trọi. Không! Ðể tôi chỉ cho 
bạn nên đến người này. Người ấy ở cách đây hơi xa, nhưng 
ông ta là nhà ẩn sĩ, người giáo đạo tốt nhất Thế giới. 
Tên ông là Dion, người ta quen gọi ổng là Dion Pugil - có nghĩa 
là người thoi đấm, vì ổng đánh ngay vào ma quỷ, và khi người 
nào đến xưng tội, thì bạn ơi, Pugil không có thở dài đâu. 
Ổng sửa cho người kia một mẻ. Người ta đồn rằng ổng 
thật sự cho ăn đòn cho đến bầm tím, bắt quỳ gối trần 
trên đá suốt đêm, bắt bỏ tiền ra bố thí. Khi ổng nhìn 
bạn, bạn phải run bắn người lên, vì đôi mắt ổng xoáy vào 
người bạn. Không có chuyện thở dài. Nếu một người nào 
đó mất ngủ, hay bị ác mộng, thấy ma quỷ, Pugil sẽ chữa 
y khỏi ngay, tôi bảo. Không phải tôi chỉ nghe đồn mà thôi 
đâu nhé, tôi biết rõ, vì tôi đã đích thân đến nơi ông 
ta. Vâng, tôi đã đến. Có lẽ tôi là một thằng ngu, nhưng tôi 
đã đến nhà ẩn sĩ Dion, con người của Thượng đế. Tôi 
đến trong nỗi đau khổ, tội lỗi và hổ thẹn tràn đầy lương 
tâm, mà khi về tôi trở thành sáng sạch như ngôi sao mai một 
thứ. Ðó là chuyện thật một trăm phần trăm. Hãy ghi nhớ tên 
ông ta, Dion, thường gọi là Pugil. Bạn nên đến ổng càng 
sớm càng hay, rồi bạn sẽ ngạc nhiên kinh khủng. Những 
quận trưởng, cha xứ, giám mục cũng tìm đến ông ta để xưng 
tội nữa kia đấy. "
Người trẻ nói: - Vâng, lần khác 
ngang vùng đó tôi sẽ tính. Nhưng hôm nay là hôm nay, và chỗ 
này là chỗ này. Vì hôm nay tôi đã đi ngang chỗ này, mà nhà 
ẩn tu Josephus cư trú gần đây, và vì tôi đã nghe nhiều 
tiếng tốt về ổng... - Tốt à? Cái gì làm cho bạn thích ý 
nơi lão ấy? - Tôi thích cái kiểu ổng không rầy la quở trách 
ồn ào. Ðấy, tôi thích thế đấy. Tôi không phải là một tên 
đại đội trưởng, cũng không phải giám mục địa phận hay 
gì hết. Tôi chỉ là một con số không. Và tánh tôi cũng khá 
rụt rè, nhút nhát, tôi không chịu nổi sự quở trách phẫn 
nộ. Lạy chúa, tôi không có gì phản đối việc cư xử nhã 
nhặn. Trái lại, tôi chịu kiểu đó lắm.
- Ðối xử nhã nhặn! Chịu cái 
kiểu đó! Nếu bạn đã xưng tội, đã hành sám xong, đã 
chịu hình phạt và nhận lễ tẩy tội thì cũng có thể đối 
xử nhã nhặn với bạn được đi. Nhưng không thể nhã nhặn, 
lịch sự với bạn, khi bạn còn đầy tội lỗi, dơ dáy, hôi 
hám như một con chồn...
- Ðược rồi, được rồi, nói khẽ 
chứ. Người ta đang ngủ kìa. Bỗng chốc, người đàn ông 
trẻ cười khúc khích: - Ồ, nhân tiện, tôi cũng vừa nhớ ra 
một chuyện ngộ nghĩnh, tức cười về ông ta. - Ông nào? - 
Ông Josephus ấy. Bác biết, sau mỗi lần nghe xưng tội xong, ông 
thường bảo đương sự quỳ xuống đọc kinh, ban phép lành 
cho y, và trước khi từ biệt, ổng còn hôn lên má hay trán y 
một cái. - Thật sao? Vậy thì chắc chắn ổng mắc phải 
những thói tất kỳ cục. - Và bác biết không, ổng rất 
ngại phụ nữ. Người ta kể, có dạo một cô gái điếm ở 
vùng lân cận cải nam trang đến viếng ông ta, ổng không để 
ý, cứ lắng nghe nàng tán dóc về những tội lỗi bịa đặt, 
và khi nàng chấm dứt, ổng cúi chào nàng rồi trịnh trọng 
đặt lên má cô ả một chiếc hôn."
Người đàn ông già bật cười thích 
ý, người kia phải vội vàng xuỵt cho ổng cười nhỏ bớt, 
rồi sau đó Josephus không nghe thêm được gì ngoại trừ 
chuỗi cười bị dồn nén còn tiếp tục một lúc.
Chàng nhìn lên trời: Vừng trăng lưỡi 
liềm treo lơ lửng, mảnh mai và sắc cạnh ở bên kia những 
ngọn dừa. Chàng run bật vì khí đêm rét buốt. Thật lạ lùng, 
- như là soi mặt vào một tấm gương méo lệch - khi nghe 
những người lái lạc đà này kháo chuyện về chàng và công 
việc chàng làm, mà chàng vừa từ bỏ. Lạ, song nó cũng dạy 
cho chàng rất nhiều. À, thì ra một gái điếm đã chọc quê 
chàng như thế đấy. Ðiều ấy tuy vậy vẫn chưa phải là cái 
điều tệ nhất, mặc dù nó cũng khá tệ thực. Chàng nằm 
một lúc lâu, suy nghĩ về cuộc đối thoại giữa hai người 
đàn ông vừa rồi. Mãi đến quá khuya, chàng mới nhắm mắt 
ngủ được, sau khi đã đi đến một quyết định. Với 
quyết định này dán chặt trong tâm, chàng đã ngủ thiếp cho 
tới sáng.
Quyết định đó là, chàng sẽ làm cái 
việc mà người đàn ông trẻ không chịu làm - theo lời khuyên 
của người bạn già, đến viếng Dion, người mà chàng đã 
nghe danh tiếng nhiều năm nay, người mà suốt đêm qua chàng 
nghe được người kia tán dương nhiệt liệt. Vị thầy giáo 
đạo, vị cố vấn, quan tòa nổi tiếng ấy chắc chắn sẽ 
khuyến cáo, phê phán, trừng phạt chàng, chàng sẽ xem ông ta 
như phát ngôn nhân của Thượng đế, và sẽ tuân phục bất 
cứ mệnh lệnh nào của ông ta.
Chàng ra đi khi hai người kia còn 
ngủ, và sau một hành trình mệt nhọc, chàng đến một nơi có 
nhiều nhà ẩn tu đang cư trú. Từ chỗ này chàng hi vọng có 
thể đi đến Ascalon.
Nơi chàng ghé vào lúc sẩm tối là 
một cụm rừng nhỏ trong sa mạc. Chàng trông thấy những cây 
cao lớn, nghe tiếng dê kêu, và nhận ra dạng những mái nhà 
giữa những bóng cây xanh. Chàng cũng cảm thấy có sự hiện 
diện của con người. Khi ngập ngừng tiến đến, chàng có cái 
cảm giác như đang bị người dòm ngó, theo dõi. Chàng dừng 
lại, nhìn quanh. Dưới một cây cao, chàng trông thấy một người 
ngồi, lưng thẳng đuột. Ðó là một ông già râu bạc, gương 
mặt khả kính nhưng nghiêm nghị khắc khổ, đang nhìn chàng 
chòng chọc. Rõ ràng người ấy đã nhìn chàng từ lâu. Ðôi 
mắt ông sắc bén, cứng cỏi, nhưng không biểu lộ điều gì. 
Ðó là đôi mắt của một người có thói quen quan sát không 
vì tò mò hay tình cảm, mà chỉ nhìn người và vật để tìm 
ra bản chất thực của chúng, không mời mọc cũng không lôi 
cuốn ai.
- Kính Chúa trọn lành! Josephus thốt 
lên.
Ông già đáp lại bằng một tiếng 
thì thầm. Joseph hỏi:
- Xin lỗi ngài, ngài là một lữ khách, 
hay ngài ở ngay tại khóm rừng đẹp này?
- Khách.
- Vậy thưa ngài, có lẽ ngài có 
thể cho con biết, từ đây có thể đi đến Ascalon chăng?
- Có thể.
Ông già đứng lên, khổ người ông 
cao lớn khổng lồ. Ông nhìn ra khoảng trống mênh mông của 
sa mạc. Joseph đoán ông già khổng lồ này không thích chuyện 
vãn, nhưng chàng vẫn đánh bạo hỏi thêm:
- Xin đức Cha cho con hỏi thêm, chỉ 
một câu nữa thôi, thưa đức Cha. Chàng lễ phép nói, và 
thấy đôi mắt ông xoay vào, tập trung nhãn lực nơi chàng, nhìn 
một cách lạnh lùng, chăm chú. "Ðức Cha có tình cờ 
biết đức Cha Dion, thường gọi là Pugil, hiện giờ ở đâu 
không?"
Ðôi mày người lữ khách nhíu lại, 
và tia mắt ông lạnh lùng thêm một chút. Ông đáp cộc lốc:
- Tôi biết y.
Joseph la lên:
-Ðức Cha biết được vị ấy à? 
Ồ, xin đức Cha bảo cho con, vì chính con đang muốn tìm đến 
nơi Người.
Từ chiều cao khổng lồ, ông già nhìn 
xuống chàng từ đỉnh đầu đến gót chân. Ông không vội 
trả lời. Cuối cùng, ông bước lui về gốc cây ban nãy, từ 
từ ngồi xuống tựa vào thân cây trong tư thế như cũ. Ông 
phác một cử chỉ ra hiệu cho Joseph ngồi xuống. Chàng vâng 
theo. Khi ngồi xuống, chàng cảm thấy hai chân rã rời, nhưng 
vội quên đi cảm giác ấy để chú mục trọn vẹn vào ông 
già đang đăm chiêu trong thiền định. Trên gương mặt khả kính 
ấy có một vẻ gì nghiêm khắc, thiếu thân mật, nhưng ngoài 
vẻ ấy ra còn có một vẻ khác, gần như một gương mặt khác, 
một chiếc mặt nắ trong suốt được chồng lên. Ðó là bóng 
đáng một nỗi đau khổ cô đơn cổ kính, mà vì kiêu hãnh và 
vì vai vệ ông, ông không tiến bày tỏ cho ai.
Một lúc lâu, đôi mắt ông già mới 
quay nhìn chàng. Ông trở lại cái nhìn xoi mói, và bật hỏi 
với một giọng đầy oai vệ:
- Ông là ai?
- Con là một kẻ khổ tu đã nhiều năm 
từ bỏ thế tục.
- Chuyện đó ta cũng thấy được. Ta 
hỏi ông là ai?
- Tên con là Josephus Famulus.
Khi chàng khai tên, ông già không cử 
động, nhưng hai mày ông nhíu lại gần nhau hơn, đến nỗi đôi 
mắt ông gần như biến dạng. Ông có vẻ kinh ngạc, xao 
xuyến hay thất vọng vì cái mẩu tin mới vừa nhận, hay chỉ 
vì ông mỏi mắt như những người già thường bị? Dù sao, 
ông vẫn ngồi hoàn toàn bất động, nhắm mắt một hồi, và 
khi ông mở ra lại, thì tia nhìn dường như đổi mới, trông 
già hơn, cô độc hơn, đau đớn hơn. Từ từ, ông mở miệng 
hỏi:
- Ta đã nghe về ông. Có phải ông là 
người mà mọi người tìm đến để thú tội không?
Joseph ngượng ngùng đáp phải. Chàng 
cảm thấy sự nhận diện này không mấy tốt đẹp. Lần 
thứ hai trên đường đi, chàng phải xấu hổ chạm mặt với 
danh tiếng mình.
Ông già lại hỏi, với cái lối nghiêm 
nghị cố hữu:
- Thế ra bây giờ ông lại tìm đến 
Dion Pugil à? Ông muốn gì nơi lão ấy?
- Con muốn xưng tội với Người.
- Ông mong được cái gì từ nơi 
việc làm ấy?
- Con không biết. Con tin tưởng nơi 
Người. Dường như một tiếng gọi trên cao đã giục con đến 
nơi Người.
- Sau khi ông thú tội với Người, thì 
sao nữa?
- Thì con sẽ làm bất cứ điều gì 
mà Người khuyến cáo, con sẽ tuân theo mệnh lệnh Người.
- Nhưng nếu Người khuyến cáo sai, 
ra lệnh sai?
- Con sẽ không đặt vấn đề đúng 
sai, mà chỉ có tuân phục.
Ông già không nói gì thêm nữa. Mặt 
trời đã lặn, một con chim kêu lên trong khóm lá. Vì ông già 
cứ im lặng mãi, Joseph bèn đứng lên. Chàng ngập ngừng trở 
lại câu hỏi ban nãy:
- Ðức Cha bảo rằng Ngài có biết 
chỗ ở của đức Cha Dion. Ðức Cha có thể chỉ đường cho 
con đi đến đấy?
Môi ông già nhíu lại trong dáng một 
nụ cười yếu ớt. Ông hỏi:
- Ông có nghĩ rằng Người sẵn sàng 
đón tiếp ông?
Hơi ngạc nhiên trước câu hỏi ấy, 
chàng không trả lời, chỉ luống cuống đứng đấy một lúc. 
Cuối cùng chàng nói:
- Con có thể hi vọng gặp lại đức 
Cha?
Ông già gật.
- Ta sẽ ngủ đây, và lưu lại một 
lúc sau khi mặt trời mọc. Bây giờ, ông hãy đi đi, trông ông 
đã mệt và đói.
Chàng kính cẩn cúi chào và tiếp 
tục đi. Khi đêm đến, chàng xin trú ẩn nơi trú xứ của 
một nhóm sư huynh sống đời khó nghèo để trầm tư mục tưởng. 
Chàng được cho nước uống, thức ăn và một chỗ ngủ. Vì 
chàng quá mỏi mệt, các sư huynh tha hỏi chuyện chàng. Một 
vị đọc kinh trong khi những vị khác quỳ xuống, rồi tất 
cả đồng thanh nói "Amen".
Vào một lúc khác, thì có lẽ cộng 
đồng nhưng sư huynh khổ tu này đã là một nguồn vui đối 
với chàng, nhưng bây giờ, chàng chỉ có một mục đích trong 
tâm trí, nên khi trời sáng, chàng đã vội vã trở lại chỗ 
ông già. Ông đang nằm ngủ trên đất, cuộn người trong 
một chiếc chiếu mỏng. Chàng ngồi xuống một gốc cây bên 
cạnh chờ ông thức dậy. Ông già tỉnh giấc, ra khỏi chiếu, 
và đứng lên một cách vụng về, duỗi thẳng tay chân rồi 
lại quỳ xuống đọc kinh. Khi ông đứng lên, chàng đến 
gần lặng lẽ cúi chào. Ông hỏi:
- Ông đã ăn cái gì chưa?
- Thưa không. Con thường chỉ ăn ngày 
một bữa, sau khi mặt trời lặn. Ðức Cha có đói không, thưa 
đức cha?
- Chúng ta đang đi đường dài, mà ông 
và tôi không còn là thanh niên nữa. Tốt hơn ta nên ăn cái gì 
trước khi tiếp tục.
Chàng mở bao lấy ra một ít chà là 
và khúc bánh chàng nhận được từ các sư huynh đã cho chàng 
nghỉ đêm. Hai người cùng ăn, và sau khi ăn xong, ông già 
bảo:
- Bây giờ, chúng ta có thể lên đường.
Josephus vui mừng kêu lên:
- Ồ, đức Cha cùng đi với con?
- Ðương nhiên. Ông đã bảo tôi 
dẫn ông đến Dion mà. Ði.
Joseph ngước nhìn ông, ngạc nhiên 
sung sướng: "Cha tử tế quá." Chàng toan tìm những 
lời trịnh trọng để cám ơn, nhưng ông già khoác tay:
- Chỉ có Thượng đế là nhân từ, 
tử tế. Và yêu cầu ông đừng gọi tôi là Ðức cha, là Ngài 
nữa đi. Có gì phải lịch sự, lễ phép giữa hai ẩn sĩ già 
nua như chúng ta?
Ông già bước những bước dài, và 
chàng phải cố để theo kịp ông. Mặt trời đã lên cao. Người 
hướng đạo này như đã rành đường lối, và hứa với chàng 
rằng đến trưa, họ sẽ tới một nơi im mát để nghỉ vào 
những giờ oi ả nhất trong ngày. Rồi hai người im lặng bước.
Sau nhiều giờ đi dưới mặt trời nóng 
cháy, họ đến một chỗ nghỉ ngơi, và nằm xuống trong bóng 
cây. Josephus lại hỏi người dẫn đường, còn đi bao nhiêu 
ngày nữa họ mới đến được nơi cha Dion. Ông già nói:
- Chuyện ấy tùy thuộc nơi ông.
Chàng kêu lên:
- Tùy nơi con ư? Thế thì con muốn đứng 
trước mặt Người ngay bây giờ!
Ông già có vẻ không muốn nói 
chuyện nữa, nên đáp cộc lốc: "Ta sẽ xem" rồi 
nằm nghiêng lại, nhắm mắt. Josephus không muốn ở trong tư 
thế quan sát ông trong lúc ông ngủ, nên chàng lặng lẽ quay 
sang phía khác, nằm xuống ngủ thiếp. Ðêm qua chàng đã 
thức trắng. Ông già thức chàng dậy khi tới lúc khởi hành. 
Xệ trưa, họ đi đến một noi có nước, cây cối và bãi 
cỏ. Họ uống nước, tẩy trần xong, ông già quyết định 
dừng chân. Josephus rụt rè phản đối:
- Cha bảo rằng chỉ tùy thuộc nơi 
con, cái việc con muốn gặp cha Dion sớm hay muộn. Vậy, con 
muốn tiếp tục đi nhiều giờ nữa, để con có thể gặp Người 
ngay hôm nay hoặc ngày mai.
Ông già nói:
- Không, hôm nay ta đã đi khá nhiều 
rồi.
Josephus nói:
- Xin Cha tha thứ, nhưng lẽ nào Cha không 
thấy được sự nôn nóng của con?
- Ta thấy, nhưng nôn nóng cũng vô ích 
mà thôi.
- Vậy thì tại sao Cha bảo chỉ tùy 
thuộc nơi con?
- Chính thế. Khi ngươi đã chắc 
chắn muốn xưng tội, thì ngươi có thể làm ngay.
- Ngay hôm nay?
- Ngay hôm nay.
Ngạc nhiên, Josephus nhìn chòng chọc 
vào gương mặt già nua an tịnh. Chàng kêu lên:
- Có lẽ nào! Thì ra chính Cha là Cha 
Dion?
Ông già gật, và nói với giọng từ 
ái:
- Hãy nghỉ lại đêm dưới gốc cây, 
nhưng đừng ngủ. Ngươi cần định tịnh lại, và ta cũng 
sẽ nghỉ ngơi và định thần. Rồi ngươi có thể nói cho ta 
nghe những gì ngươi muốn nói.
Thế là Josephus đột nhiên thấy mình 
đã tới đích. Bây giờ, chàng ngạc nhiên sao mình không 
nhận ra người ấy sớm hơn, trong khi đi bên ông suốt cả ngày. 
Chàng bước lui ra quỳ gối đọc kinh, và làm lắng xuống 
những tư duy. Sau một tiếng đồng hồ, chàng trở lại và 
hỏi Dion đã sẵn sàng chưa.
Và bây giờ chàng có thể xưng tội. 
Tất cả những gì chàng trải qua bao nhiêu năm nay, những gì 
từ lâu như đã mất hết ý nghĩa, bây giờ tuôn ra trong lời 
kể lể, than phiền, tự buộc tội - đó là toàn thể cuộc 
đời chàng, một nhà khổ hạnh Ki tô giáo, một cuộc đời 
chàng định dùng cho sự thanh luyện bản thân, sự thánh hóa, 
nhưng rốt cuộc chỉ thành một mớ bòng bong, rối ren mờ 
mịt, đầy những thất vọng, chán chường. Chàng nói đến 
kinh nghiệm mới nhất của mình: sự đào tẩu, cảm giác 
nhẹ nhõm, niềm hi vọng mà cuộc đào tẩu đã đem lại cho 
chàng, làm thế nào chàng đã quyết định tìm đến cha Dion; 
kể chuyện gặp gỡ đêm trước, cảm tưởng yêu thương và 
tin cậy của chàng đối với ông già, mà đôi khi chàng thấy 
hơi lạnh lùng, quái đản.
Mặt trời đã thấp khi chàng chấm 
dứt. Cha Dion đã lắng nghe chăm chú từ đầu đến cuối, không 
một lần ngắt lời hay đặt câu hỏi. Ngay cả khi cuộc xưng 
tội đã chấm dứt, ông cũng không thốt lời nào. Ông từ 
từ đứng lên, nhìn chàng một cách thân mật, rồi cúi 
xuống hôn chàng và làm dấu thánh giá trên người chàng. 
Chỉ về sau, chàng mới nhận ra đó là những điều mà chính 
chàng đã làm cho những người đến xưng tội với chàng trước 
kia.
Sau đó họ cùng ăn uống, đọc kinh 
và nằm xuống ngủ. Josephus suy nghĩ một lúc. Thực tình, chàng 
đã tưởng mình sẽ nghe một bài thuyết giảng nghiêm khắc, 
nhưng sự thể vừa rồi cũng không làm chàng khó chịu hay 
thất vọng. Cái nhìn và cái hôn thân mật của cha Dion đã nâng 
đỡ chàng. Chàng cảm thấy nội tâm an tịnh, và đánh một 
giấc ngủ bình an.
Không phí lời, sáng hôm sau ông già 
đưa chàng đi theo. Hôm ấy họ đi một quãng đường khá xa, 
và sau bốn năm ngày đường họ tới căn lều của Dion, nơi 
đây họ lưu trú. Josephus giúp Dion trong những công việc hàng 
ngày, và dần dần quen thuộc với chương trình hàng ngày 
của ông và san sẻ với ông chương trình ấy. Nó không khác 
gì lắm với đời sống mà chàng đã sống trong nhiều năm 
qua, chỉ trừ một điều là bây giờ chàng không còn ở một 
mình. Chàng sống dưới bóng mát che chở của một người khác, 
và chính vì lẽ đó, đời sống này hoàn toàn khác hẳn. Từ 
những vùng lân cận, từ Ascalon và những nơi xa xôi, những 
người hành hương lũ lượt kéo đến xưng tội. Lúc đầu, 
Josephus vội vàng rút lui khi thấy những người ấy đến, và 
chỉ xuất hiện sau khi họ đã ra về. Nhưng cha Dion thường 
gọi giật chàng lại, sai mang nước hoặc làm những việc 
vặt ở quanh quẩn, ông sai chàng như người ta sai đầy tớ. 
Sau một thời gian, chàng dần quen thuộc với sự tham dự 
những lễ xưng tội và nghe kể lể, trừ khi chính người xưng 
tội phản đối sự hiện diện của chàng. Nhưng phần đông 
những người ấy đều vui mừng, mỗi khi không phải ngồi 
hay quỳ trước mặt một mình ông già Pugil đáng sợ kia. Họ 
cảm thấy an tâm khi có mặt người phụ tá lặng lẽ từ bi 
của ông. Bằng cách ấy, Josephus dần quen với kiểu làm 
việc của Dion, cách ông lắng nghe người thú tội, cách ông 
khuyên nhủ, quở trách, trừng phạt, can thiệp, cố vấn. 
Họa hoằng lắm chàng mới đánh bạo đặt câu hỏi với 
Dion, như chàng đã làm một ngày kia, sau khi một người trí 
thức đến thăm viếng họ, nhân dịp đi ngang qua đấy.
Người ấy, như ta thấy rõ qua câu 
chuyện của y, thường giao tiếp với những nhà chiêm tinh và 
phù thủy. Anh ta nói năng hùng hồn, lưu loát về những vì 
sao, về cuộc hành trình mà tất cả mọi người và thần thánh 
đều phải thực hiện suốt đời kiếp, qua mười hai cung hoàng 
đạo. Gã nói về Adam, con người đầu tiên, và chủ trương 
rằng ông ta với chúa Kitô bị đóng đinh chỉ là một; gã 
gọi sự cứu rỗi là "Cuộc di chuyển của Adam từ cây 
Tri thức đến cây Nhân sinh", còn con rắn ở thiên đường 
thì gã bảo đó là kẻ chăn giữ dòng suối thiêng, từ 
nguồn nước đen sâu thẳm của nó đã phát sinh tất cả hình 
tượng, thần linh, người và vật.
Dion lắng nghe gã một cách chăm chú, 
gã xổ tiếng Hi lạp khá nhiều. Josephus ngạc nhiên trước 
sự kiên nhẫn của ông già. Quả thế, chàng lấy làm khó 
chịu vì Dion không quạt cho gã một trận, mà lại chịu khó 
ngồi nghe gã lập luận một cách sai lạc vô thần. Anh chàng 
độc diễn láu cá này dường như lại còn được cảm tình 
của ông lão, làm ông khoái chí nữa là khác. Vì không những 
ông nghe gã một cách say sưa, mà thỉnh thoảng còn gật gù 
mỉm cười tỏ vẻ hài lòng.
Sau khi gã ra về, Josephus hăng hái 
hỏi ông, với giọng hơi trách móc:
- Tại sao cha có thể lắng nghe một 
cách bình tĩnh , lý thuyết sai lạc của kẻ vô thần bất tín 
đó? Con thấy cha không những kiên nhẫn nghe hắn, mà còn hơi 
có thiện cảm và tán đồng nữa. Tại sao cha không cãi lại 
y, không bài xích y, đập cho tan những luận điệu sai lầm 
của y, và kéo y trở về đức tin vào Ðấng Cứu Thế của 
chúng ta?
Ông già lắc chiếc đầu hói trên 
cần cổ nhăn nheo:
- Ta không bài xích y vì vô ích, hay 
đúng ra, vì ta không thể bài bác y được. Về tài ăn nói, 
lập luận, về kiến thức thần bí và về khoa chiêm tinh, người 
ấy vượt hẳn ta. Ta không thể nào thắng gã trong cuộc tranh 
biện. Và hơn nữa, này con, không phải việc của chúng ta để 
đi bài xích những tin tưởng của người khác, bảo cho y 
biết điều y tin tưởng là sai lầm, láo khoét. Ta công nhận 
đã nghe y với niềm tán thưởng. Ta thích cái kiểu nói năng 
hoạt bát của y. Y hiểu biết khá nhiều chuyện, và nhất là 
y gợi cho ta nhớ lại thời trẻ trung, ta cũng đã dành khá 
nhiều thì giờ để nghiên cứu những chuyện ấy. Những 
chuyện thần thoại mà y say sưa bàn đó không bí hiểm gì. 
Ðó là những ý tưởng và ẩn dụ của mợt tôn giáo mà chúng 
ta không còn cần đến, vì chúng ta đã có được đức tin vào 
Chúa Kitô, Ðấng Cứu thế duy nhất. Nhưng đối với những 
người chưa tìm được đức tin của chúng ta, mà có lẽ không 
bao giờ tìm được, thì những tin tưởng của họ phát xuất 
từ nền minh triệt cổ truyền của tổ tiên họ, cũng đáng 
được kính trọng. Dĩ nhiên đức tin của chúng ta hoàn toàn 
khác họ. Ðức tin chúng ta không cần đến những lý thuyết 
về tinh tú, về thời kiếp, về nguồn nước đầu tiên, về 
những bà mẹ vũ trụ và những biểu tượng tương tự. Nhưng 
thế không có nghĩa là những lý thuyết kia đều sai lạc, 
lừa dối.
Josephus cãi:
- Nhưng đức tin của chúng ta cao hơn, 
và chúa Kitô chết cho tất cả. Bởi thế kẻ nào đã được 
biết Ngài đương nhiên phải chống lại những lý thuyết 
lỗi thời và thay Thế bằng nền giáo lý đúng, mới.
- Chúng ta đã làm chuyện ấy lâu xa 
về trước, con, ta và nhiều người khác đã làm. Chúng ta có 
đức tin, chúng ta tin vào quyền năng Ðấng Cứu Thế và cái 
chết của ngài để cứu rỗi tất cả. Nhưng những người xây 
dựng huyền thoại và nền thần học từ những thuyết cựu 
truyền, thì không tin vào quyền năng ấy, hay chưa tin, và ta 
không thể bắt buộc họ phải tin. Này Joseph, con có thấy anh 
chàng say mê huyền thoại ấy nói chuyện khéo léo, đặt ví 
dụ một cách tài tình không? Và có thấy y rất hài lòng về 
kiến thức của y đối với những hình ảnh và biểu tượng? 
Ðó là dấu hiệu chứng tỏ y chưa bị nỗi đau khổ nào áp 
bức, y đang thỏa mãn, mọi sự đối với y đều tốt đẹp. 
Chúng ta không có gì để nói với những người mà đối 
vối họ, mọi sự đang thuận buồm xuôi gió. Muốn cho một 
người cần tới sự cứu rỗi và đức tin cứu rỗi, muốn 
cho y rũ bỏ niềm tin cũ mà đặt cọc hết những gì y có, vào 
ván bài tin tưởng ở Phép lạ cứu rỗi, thì y phải từng 
trải một cơn đau khổ ê chề, quả vậy, y phải đến bước 
đường cùng. Y phải trải qua buồn đau, thất vọng, chua cay, 
chán nản. Nước phải ngập cho tới cổ y mới được. Không, 
Josephus, ta phải để cho nhà bác học vô thần kia ở yên 
trong hạnh phúc của y, với những tư tưởng, triết lý, tài 
hùng biện của y. Có lẽ ngày mai, hay một năm sau, hay mười 
năm sau, một biến cố gì xẩy đến đập tan tành những 
triết lý, nghệ thuật của y, như bị người yêu phụ tình 
hoặc con trai độc nhất của y bị giết hay y lâm vào cảnh 
khốn cùng bệnh tật. Khi ấy, nếu gặp lại y, ta sẽ cố giúp 
y, nói cho y rõ làm thế nào chúng ta đã chiến thắng được 
đau khổ. Và nếu y có hỏi tại sao ông không bảo tôi hôm 
qua, hay mười năm về trước, thì ta sẽ đáp: "Tại vì lúc 
ấy bạn đang may mắn."
Ông chìm vào im lặng một lúc. Ðoạn, 
như thể gợi lại mộng mơ thời dĩ vãng, ông thêm:
- Chính ta cũng đã từng chơi với 
những nền triết học, ngay cả sau khi ta đã đi trên con đường 
của Thập tự giá, thần học cũng cũng thường làm ta khoái 
thích, mà cũng đem lại cho ta khá nhiều đau buồn. Ta thường 
suy nghĩ về thuyết Sáng thế. Ta nghĩ rằng, sau công cuộc sáng 
tạo thế giới, mọi sự đáng lẽ phải tốt đẹp, vì Thánh 
kinh bảo: "Thượng đế ngắm nhìn mọi thứ Ngài đã 
tạo ra và ô kìa, tất cả đều rất tốt đẹp." Thế nhưng 
kỳ thực nó chỉ tốt đẹp một lúc đầu, cái giai đoạn 
thiên đường. Ngay giai đoạn kế đó, tội lỗi và sự rủa 
nguyền đã len lỏi vào sự toàn hảo, vì Adam đã ăn trái 
từ cây cấm. Có những bậc Thầy bảo: Ðấng thượng đế 
tạo ra thế giới mà đồng thời còn tạo thêm Adam với cây 
Tri thức thì không phải là một với Ðấng thượng đế duy 
nhất, mà chỉ là một phần của Ngài, một vị thần thấp hơn, 
một Giả thượng đế. Sự sáng thế không tốt đẹp gì 
cả, họ bảo, mà chính là một sự thất bại, và bởi thế 
sinh vật được sáng tạo phải bị rủa sả, bị sự Ác 
thắng lướt trong một thời gian dài cho đến khi vị Thượng 
đế thật duy nhất quyết định chấm dứt thời gian bị 
nguyền rủa ấy bằng cách gửi xuống trần Người con của 
Ngài. Sau đó, họ bảo, và ta cũng đã nghĩ như họ- vị Giả 
thượng đế cùng với sự sáng tạo của ông ta khởi sự tàn 
tạ, thế giới sẽ suy sụp dần cho đến một thời kiếp 
mới trong đó không còn sự sáng thế, không có thế giới, không 
có xác thịt, dục vọng và tội lỗi, không còn sinh, chết, 
một thế giới tâm linh thuần túy, toàn hảo. Một thế giới 
được cứu chuộc sẽ khởi sinh, hoàn toàn không có sự 
nguyền rủa Adam, không có sự vịnh viễn lưu đày ở Hỏa 
ngục, không có những cám dỗ của tham lam, truyrền giống, 
sinh và tử. Chúng ta trách cứ vị Giả thượng đế nhiều hơn 
là trách cứ Adam, con người đầu tiên, chính vị ấy phải 
chịu trách nhiệm vì những xấu xa hiện tại trong thế 
giới. Chúng ta nghĩ, nếu vị ấy là Thượng đế thực, thì 
ngài phải tạo ra một Adam khác hẳn, hoặc tránh cho y những 
cám dỗ. Và bởi thế, sau khi lập luận, ta có đến hai thượng 
đế: một thượng đế sáng tạo, và một thượng đế thu?n 
túy tâm linh.
Lại có một số bạn bè ta thuở đó 
còn đi xa hơn, lập luận rằng sự Sáng tạo không phải là tác 
phẩm của Thượng đế gì cả, mà chính là của quỷ sứ. Chúng 
ta tưởng những lý luận sắc bén của mình sẽ thuận lợi 
cho việc xuất hiện của Ðấng Cứu rỗi và thời kiếp tâm 
linh sắp đến, nên cứ bàn bạc cho ra những thượng đế, 
những thế giới và kế hoạch vũ trụ. Chúng ta tranh luận sôi 
nổi về thần học cho đến một ngày kia ta ngã bệnh nguy 
kịch. Trong cơn mê sảng, vị Giả thượng đế vẫn ám ảnh 
tâm trí ta, ta gây chiến với ông và thổ huyết. Những ảo tượng 
và ác mộng càng lúc càng ghê rợn, tới nỗi có một đêm cơn 
sốt hoành hành, ta nghĩ ta phải giết mẹ để cởi bỏ cái 
nguồn gốc xác thịt của ta đi. Quả thế, khi ta mê sảng, 
quỷ sứ đã chặp lên ta tất cả những móng vuốt của nó. 
Nhưng rồi ta bình phục, và bạn bè ta thất vọng mà thấy ta 
sau khi chết đi sống lại đã hóa thành một người câm 
lặng, ngu đần, không ham lý luận nữa. Suốt những ngày đêm 
trong thời gian phục hồi sức khỏe, ta ngủ thật nhiều, và 
mỗi khi thức dậy ta luôn luôn thấy Ðấng Cứu chuộc đang 
đứng bên ta. Ta cảm thấy sức mạnh tuôn ra từ Ngài rót vào 
trong ta, và khi trở lại khỏe mạnh, ta vô cùng buồn bã vì 
không còn cảm thấy sự hiện diện của Ngài. Ta có niềm khát 
khao mãnh liệt được thấy lại Ngài, và xem nỗi khát khao 
ấy như là cái gì quý báu nhất ta từng có. Nhưng khi ta 
khởi sự nghe lại những cuộc thảo luận, ta cảm thấy nỗi 
khát khao ấy bị lâm nguy, nó muốn tan biến, chìm vào trong tư 
tưởng, ngôn từ như nước ngấm vào cát. Tóm lại, đó là 
kết thúc của sự khôn lanh tri thức và nền thần học nơi 
ta. Kể từ đấy, ta là một linh hồn giản dị, ngu ngốc. Nhưng 
ta không khinh bỉ, cũng không quyến rũ những người giỏi lý 
luận và đang chơi những trò chơi mà chính ta cũng đã từng 
say mê. Cũng như ta đành để mối liên hệ khó hiểu giữa 
Giả thượng đế và Thượng đế tâm linh thuần tuý, giữa 
sự sáng tạo và Cứu chuộc, mãi mãi vẫn là một bí ẩn, cũng 
vậy, ta phải đành chịu, không thể cải hóa những nhà 
triết lý thành những tín đồ. Ðó không phải địa hạt 
của ta.
Một ngày, sau khi có người đến thú 
tội sát nhân và ngoại tình, Dion nói với người Phụ tá 
của ngài:
- Sát nhân và ngoại tình, nghe ra có 
vẻ tàn bạo thực, quan trọng thực, mà dĩ nhiên cũng khá 
tệ thực đấy, ta cam đoan với con. Nhưng ta bảo con, này 
Josephus, thất tình, những người thế tục ấy không phải là 
những kẻ phạm tội. Mỗi khi thử đặt mình vào tâm can 
những người ấy, ta thấy họ hoàn toàn như con nít. Họ không 
đàng hoàng, tử tế hay cao thượng gì, họ ích kỷ, tham lam, 
ngã mạn, sân si, nhưng kỳ thực, tự căn đế họ rất ngây 
thơ.
- Vậy mà Cha vẫn thường làm cho 
họ khốn đốn, vẽ ra một cảnh hỏa ngục thật sống động.
- Chính thế, họ đều là trẻ con, và 
khi họ bị lương tâm cắn rứt, đến xưng tội, thì họ 
muốn ta phải xem chuyện đó rất nghiêm trọng, phải quở trách 
họ thật nặng nề. Ít nhất, đó là quan điểm c?a ta. Con thì 
đối xử cách khác, con không rầy la, trừng phạt, ra lệnh, mà 
thân mật để họ ra về với một cái hôn bằng hữu. Ta không 
chỉ trích con, nhưng ta không làm kiểu ấy.
Josephus ngập ngừng hỏi:
- Nhưng xin Cha cho con biết tại sao, 
sau khi con xưng tội, cha lại không xử với con như với 
những kẻ khác, mà lại im lặng hôn con và không nói gì đến 
việc tẩy tội?
Dion trừng mắt nhìn chàng mà hỏi:
- Những gì ta đã làm không đúng à?
- Con không bảo nó không đúng. Dĩ 
nhiên nó rất đúng, vì nếu không, thì cuộc xưng tội đã không 
đem lại cho con nhiều bằng an đến thế.
- Vậy thì được rồi, hãy để yên 
chuyện đó. Dù sao ta cũng đã gán cho con một hình phạt 
nặng nề dài lâu đấy chứ, chỉ có điều ta không gọi nó 
là hình phạt đấy thôi. Ta đã đem con theo ta, đối xử với 
con như tôi tớ, đem con trở về với bổn phận, buộc con 
phải nghe xưng tội, trong khi con muốn tránh né.
Ông quay đi, câu chuyện đã quá dài 
với ông. Nhưng Josephus khẩn khoản:
- Cha đã biết trước rằng con sẽ vâng 
lệnh cha, vì con đã tuyên hứa như thế trước khi xưng tội, 
ngay cả trước khi con được biết cha là ai. Không, xin cha hãy 
nói cho con biết, có thực vì lẽ ấy mà cha đã đối xử 
với con như bấy lâu nay?
Dion Pugil đi tới đi lui vài bước, 
đoạn ông dừng lại trước mặt Josephus và thân mật đặt 
tay lên vai chàng:
- Những người thế tục đều là 
trẻ con. Còn những bậc thánh thì - ồ, họ không đến xưng 
tội với chúng ta. Nhưng con và ta, và những người như chúng 
ta, những nhà khổ tu, những ẩn sĩ, người tin Thượng đế 
- chúng ta không phải là trẻ con, không ngây ngô, không dễ gì 
được trấn an bằng những bài giảng đạo đức. Chúng ta 
mới là những kẻ phạm tội thực sự, những người có 
hiểu biết, có suy nghĩ, những người đã lỡ ăn phải trái 
cây Tri thức. Chúng ta không nên đãi nhau như trẻ con, cho vài 
cú roi vọt rồi thả về đường cũ. Sau khi xưng tội và hành 
sám, chúng ta không chạy trở lui về cuộc đời ở đó bọn 
trẻ con cử hành lễ lạc, tiệc tùng, làm ăn mua bán, và 
thỉnh thoảng giết nhau. Chúng ta không kinh quá tội lỗi như 
trải qua một cơn ác mộng ngắn ngủi có thể được thổi 
tan bằng lễ xưng tội và tẩy tội. Chúng ta "cư 
ngụ" trong tội lỗi. Chúng ta không bao giờ là những kẻ 
vô tội, mà luôn luôn là kẻ phạm tội, chúng ta sống mãi 
trong sự phạm tội và trong ngọn lửa của lương tâm, và chúng 
ta biết không bao giờ có thể trả món nợ lớn lao của mình 
trừ khi chết, Thượng đế khoan hồng nhìn ta và đón ta vào 
ân sủng của Ngài. Ðó là lý do ta không thể giảng đạo và 
ra hình phạt cho con và cho ta. Chúng ta không phải vướng vào 
sai lầm này sai lầm nọ, tội nọ tội kia, mà luôn luôn, vĩnh 
viễn chúng ta vướng vào chính tội lỗi nguyên ủy. Bởi 
thế mà chúng ta chỉ có thể trấn an nhau rằng, chúng ta cùng 
san sẻ một hiểu biết, một tình huynh đệ, không ai có thể 
chữa trị ai bằng hình phạt. Chắc con đã biết điều này?
Josephus khẽ đáp:
- Thưa vâng, con đã biết.
- Thế thì, chúng ta đừng phí lời 
thêm nữa.
Ông già quay về tảng đá trước túp 
lều, nơi ông thường đọc kinh.
Nhiều năm trôi qua. Thỉnh thoảng cha 
Dion lại bị những cơn suy yếu, đến nỗi Joseph phải đỡ 
ông. Sau đó ông ngồi suốt ngày nhìn chòng chọc vào khoảng 
trống trên sa mạc. Tình trạng ấy xẩy đến liên tiếp trong 
vài ngày, rồi ông lại xoay xở được để đứng lên một mình. 
Ông cũng không thể nghe xưng tội hàng ngày được nữa, và 
đôi lần, sau khi Joseph đã thay ông nghe xưng tội xong, ông 
ngỏ ý muốn nói với khách, gọi y đến bảo:
- Ta đã gần kề cái chết, con hãy 
đi loan báo với mọi người rằng Josephus đây sẽ là người 
kế vị ta.
Khi Joseph tỏ vẻ phản đối trước 
những lời lẽ ấy, ông già lại nhìn chàng với cái nhìn 
kinh khủng, xoáy sâu vào chàng như một tia băng giá.
Một ngày kia, ông có vẻ khỏe 
khoắn. Ông gọi Joseph, dẫn chàng đến một chỗ đất ven 
khoảnh vườn nhỏ của họ.
- Ở đây con sẽ chôn xác ta. Chúng 
ta sẽ cùng đào huyệt. Ta nghĩ rằng, chúng ta còn một ít thì 
giờ. Hãy lấy xẻng lại đây.
Từ hôm ấy trở đi, mỗi sáng ông 
bảo Joseph đào một ít. Khi ông hơi khỏe, ông lại đích thân 
cuốc vài lát đất một cách rất khó nhọc, nhưng cũng rất 
vui vẻ, như thể ông khoái việc ấy lắm. Rồi trọn ngày hôm 
ấy, niềm vui vẫn còn mãi nơi ông. Từ khi ông khởi sự chương 
trình đào huyệt, ông luôn luôn hoan hỉ. Một ngày, khi đang 
đào, ông bảo:
- Con sẽ trồng một cây dừa lên 
mộ ta. Có lẽ con sẽ còn sống cho đến khi ăn trái của nó. 
Nếu không, người khác sẽ ăn. Thỉnh thoảng, ta cũng có 
trồng một vài cây, nhưng quá ít. Người ta bảo rằng không 
nên chết đi mà không trồng một cây gì, và không để lại 
một đứa con trai. Vậy là ta để lại một cây trồng, và để 
lại con. Con là con ta.
Ông bình an và vui vẻ hơn bao giờ 
hết, kể từ ngày Joseph gặp ông. Và càng ngày ông càng vui tươi 
hẳn lên. Một buổi chiều, sau khi ăn và đọc kinh xong, ông 
gọi Joseph đến ngồi bên chiếu ông. Trông ông tỉnh táo và 
không mệt chút nào. Ông vui vẻ bảo:
- Ta muốn kể cho con nghe một chuyện 
này. Joseph, con có nhớ cái ngày con rất khốn khổ trong hang 
trú của con ở Gaza, khi con đâm chán chường nếp sống của 
mình? Rồi con đào tẩu, và quyết định đi tìm lão già Dion 
để trút hết tâm can? Rồi tại trú xứ kia, con đã gặp ông 
lão mà con yêu cầu dẫn con đến Dion? Hẳn là con nhớ. Và có 
phải thật là một phép mầu, khi ông lão ấy lại chính là 
Dion, người con đang tìm kiếm. Bây giờ, ta muốn kể cho con 
nghe làm thế nào chuyện lạ lùng ấy đã xẩy ra. Bởi vì con 
thấy, đối với ta, chuyện ấy cũng thật là một phép mầu.
"Con biết sự thể nó ra thế nào, 
đối với một nhà ẩn tu làm thầy giáo đạo, khi trở về 
già, khi đã lắng nghe quá nhiều cuộc xưng tội từ những 
kẻ phạm tội cứ tưởng ông ta là một bậc thánh vô tội, 
mà không biết rằng ông ta là một kẻ phạm tội còn vĩ đại 
hơn. Vào những lúc như vậy, thì toàn thể công việc của ông 
ta dường như vô ích, trống rỗng đối với ông, mọi sự mà 
ông từng cho là thiêng liêng, quan trọng - như chuyện Thượng 
đế đã biệt phái y đến nơi này, cho y cái vinh dự làm công 
việc tẩy sạch những linh hồn cho hết cấu uế - tất cả 
chuyện ấy đối với y trở thành một sự gán ép quá nặng 
nề. Y còn xem nó như một sự nguyền rủa, và phải rùng mình 
trước mỗi linh hồn đến viếng y với những tội lỗi trẻ 
con của họ. Y muốn xua đuổi kẻ xưng tội, muốn xua đuổi 
cả chính mình, dù phải làm việc ấy bằng cách treo cổ lên 
cành cây. Ðó là cảm tưởng của con trong thời gian ấy. Và 
bây giờ, cái giờ phút xưng tội cũng đã đến với ta, và 
ta xin thú thật với con: ta đã trải qua một giai đoạn y 
hệt. Ta cũng đã tự thấy mình vô dụng, đã chết ở trong 
linh hồn. Ta nghĩ rằng ta không thể chịu đựng cái sự 
việc mọi người cứ lũ lượt đến nơi ta một cách đầy tín 
ngưỡng như vậy, đem trút cho ta tất cả những dơ dáy hôi hám 
của kiếp người, mà họ không thể cưu mang, và ta cũng không 
thể cưu mang.
"Ta đã thường nghe nói đến 
một ẩn sĩ tên Josephus Famulus. Người ta cũng kéo đến ngài 
để xưng tội, ta nghe đồn, và nhiều kẻ khoái Người hơn 
ta, vì Người nổi tiếng hiền lành, khoan hồng không đòi 
hỏi gì nơi họ, không mắt sát họ mà đối xử với tình 
huynh đệ, chỉ lắng nghe và từ giã với một chiếc hôn. 
Ðó không phải kiểu làm của ta, như con đã biết rõ, và lúc 
đầu khi nghe những mẫu chuyện về cha Josephus, ta thấy phương 
pháp của Người hơi trẻ con và điên rồ. Nhưng khi ta đâm 
nghi ngờ chính ta, thì ta nghĩ, không nên phê phán cách xử 
sự của Người, không nên cho rằng cách của ta cao vượt hơn. 
Ta tự hỏi không biết người có những năng lực như thế nào. 
Ta biết Người trẻ hơn ta, song cũng đã cao tuổi. Ðó là điều 
làm ta an tâm, vì ta sẽ thấy khó tin được một người còn 
trẻ. Nhưng quả tình, ta muốn đi đến cha Josephus ấy. Do đó, 
ta quyết định làm một chuyện hành hương đến nơi trú ẩn 
của Người, thú hết nỗi khổ của ta cho Người, và xin Người 
một lời khuyên bảo. Hoặc nếu Người không cố vấn cho ta, 
thì có lẽ ta cũng sẽ nhận từ Người một niềm an ủi, 
tiếp sức. Cái quyết định ấy cũng đủ làm ta sung sướng, 
như trút được gánh nặng ngàn cân.
"Ta khởi hành, và tiến về hướng 
mà ta được nghe nói là trú xứ của Người. Nhưng trong lúc 
ấy, sư huynh Josephus cũng đang nếm trải một kinh nghiệm y 
hệt như ta, và cũng đang làm cái điều ta đang làm: Y đã đào 
tẩu để tìm đến ta, mong ta làm cố vấn cho y. Khi ta chạm 
mặt với y trong một hoàn cảnh thật lạ lùng, ta thấy y đúng 
là con người mà ta mong gặp, và có thể nhận ra ngay. Nhưng y 
đang trốn chạy, mọi sự hóa ra đã quá bết đối với y cũng 
như đối với ta. Trái lại, y đang nóng lòng muốn phát lồ 
tội lỗi, muốn trút hết những đau buồn của y vào một người 
khác. Ðiều đó là một thất vọng lớn cho ta, làm ta buồn vô 
hạn. Vì nếu gã Joseph này - gã lúc ấy không nhận ra ta - mà 
cũng đâm mệt mỏi với công việc làm và đang tuyệt vọng 
về ý nghĩa cuộc đời y, thì phải chăng điều ấy có nghĩa 
rằng cả hai chúng ta đều chẳng có ra gì, đều đã sống 
một đời vô ích, đều là những cuộc thất bại?
"Ta đang kể cho con nghe những gì 
con đã biết - thôi để ta nói vắn tắt. Ta đã ở lại một 
mình đêm ấy trên sa mạc, trong khi con đến ngủ trọ nơi các 
sư huynh khổ tu. Ta trầm tư, và tự đặt mình vào địa vị 
Josephus. Ta nghĩ, y sẽ làm gì nếu ngày mai, y biết được 
rằng cuộc tìm kiếm của y vô ích, rằng y đã vô lối đi đặt 
niềm tin vào Pugil, nếu y biết ra rằng chính lão Pugil ấy cũng 
đang đào tẩu, cũng bị cám dỗ tự sát? Càng đặt mình vào 
hoàn cảnh y, ta càng buồn cho y, và càng thấy rằng dường như 
Thượng đế đã gởi y đến với ta, để ta có thể cảm thông, 
chữa trị cho y và đồng thời chữa trị cho chính ta nữa. 
Sau khi đi đến quyết định này, ta mới ngủ được, khi đã 
quá nửa đêm. Sáng hôm sau con đã theo ta, và trở thành con 
ta.
Ta muốn kể cho con nghe câu chuyện đó. 
Ta nghe tuồng như con đang khóc thì phải. Cứ khóc đi, nước 
mắt sẽ làm cho con dễ chịu. Và vì ta đã rơi vào cái đà 
ba hoa này, con hãy vui lòng nghe ta một lát nữa, và hãy ghi 
nhớ lời ta đang nói đây, hãy khắc vào tim con: "Tâm con 
người ta thật lạ lùng, không thể nào tin cậy được. Bởi 
thế, không phải là chuyện không thể xẩy ra nếu có ngày, 
những đau khổ, những cám dỗ ấy trở lại đe dọa quật ngã 
con. Khi ấy, ta mong cha chúng ta sẽ gởi xuống cho con một bề 
tôi, một người con tử tế nhẫn nại làm niềm an ủi cho 
con, như Ngài đã đem con đến cho ta. Nhưng về cành cây và cái 
chết của Judas kẻ bội Chúa, những ám ảnh mà quỷ cám dỗ 
đã gây cho con ngày xưa, ta có thể đoan chắc với con một điều: 
tự giáng cho mình một cái chết như thế không những là 
việc điên rồ, tội lỗi - về tội lỗi ấy thì Ðấng cứu 
chuộc vẫn có thể tha thứ - mà trên tất cả, nó còn là 
một điều ghê gớm khi con người phải chết trong tuyệt 
vọng. Thượng đế gởi cho ta những đau buồn không phải để 
giết chết ta, mà để làm khơi dậy mạch sống trong tim ta. 
Trái lại, khi Ngài gởi cái chết đến cho ta, khi Ngài giải 
thoát ta ra khỏi trái đất, khỏi thể xác này và gọi ta 
trở về bên Ngài, thì đó là một niềm vui lớn. Khi ta đã 
mệt mà được phép ngủ, mang gánh nặng đã quá lâu mà được 
phép đặt gánh xuống, thì đấy quả là một điều quý báu 
kỳ diệu. Từ ngày chúng ta đào xong huyệt - con đừng quên 
trồng một cây dừa lên đấy - ngay từ khi khởi sự đào, ta 
đã sung sướng, hài lòng hơn bao giờ trong suốt nhiều năm 
nay.
"Ta đã nói quá nhiều, chắc con 
đã mệt. Thôi đi ngủ, con hãy trở về chòi đi. Thượng đế 
che chở con!"
Ngày hôm sau, Dion không ra cầu kinh, cũng 
không gọi Joseph. Khi chàng đâm hoảng, đến dòm vào chòi 
của Dion, thì thấy ông đang ngủ giấc ngủ cuối cùng. Gương 
mặt ông ngời sáng trong một nụ cười hồn nhiên.
Joseph chôn xác ông, chàng trồng cây 
trên mộ và sống cho đến ngày nó bắt đầu kết trái