41. TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT
Trong kinh tạng Pàli, tôn giả Xá 
Lợi Phất chiếm địa vị quan trọng hàng đầu, chỉ đứng 
sau Phật. Nhiều kinh được mở đầu với câu cổ điển 
"như vậy tôi nghe" mà người thuyết kinh thay vì Ðấng 
Giác ngộ, thì lại chính là bậc Thánh đệ tử uyên bác ấy 
đại lao cho Ngài. Có khi đức Ðạo sư thăng pháp tòa, chỉ 
trình bày một bài kệ rất vắn tắt, rồi lui về am thất 
của Ngài. Trong những dịp như vậy, chúng ta thường gặp tôn 
giả Xá Lợi Phất xuất hiện khai diễn ý nghĩa lời dạy súc 
tích của Phật, và cuối cùng chính Phật đã xác chứng cho 
lối giải thích của tôn giả bằng một câu còn giá trị hơn 
tất cả những lời khen tụng: "Nếu các ông hỏi ta, ta cũng 
sẽ giải thích như Xá Lợi Phất".
Tôn giả Xá Lợi Phất (Sàrìputa, 
dịch nghĩa là Thu tử) là con trưởng của một gia đình 
thuộc thế cấp Bà la môn giàu nhất làng Upatissa, gần Nàlanda 
ngày nay. Upatissa cũng là tên được đặt cho ngài khi sơ sinh. 
Mẹ ngài tên là Sàrì. Trong bốn người con trai, ngài được 
mang tên của mẹ, trong khi một người em của ngài lại có tên 
của cha là Vagantaputra. Tôn giả có ba em trai và ba em gái, về 
sau đều theo ngài xuất gia đắc quả A La Hán. Những tiểu 
sử của các vị này đều được tìm thấy trong "Trưởng 
lão tăng kệ" và "Trưởng lão ni kệ".
Ba người em trai của Tôn giả có tên 
tuần tự như sau: Cunda (Thuần đà), Upasena và Revata (Ly Bà Ða). 
Ba em gái của Tôn giả là Càlà, Upacàlà và Sìsùpacàlà. Ly Bà 
Ða là vị đệ tử thiền định đệ nhất của Phật. Vì ngài 
là con út, bà mẹ rất cưng quí không muốn cho xuất gia nên tìm 
cách cưới vợ cho ngài rất sớm. Vào ngày hôn lễ, không may 
cho hai gia đình, cậu bé tình cờ thấy bà ngoại già 120 
tuổi của cô bé, và trực nhận lý vô thường, trong phút 
chốc cậu đâm ra chán ngấy tất cả cảnh hoa lệ giả dối 
của cuộc phù sinh, và muốn thoát ly bằng mọi giá. Ðược 
anh cả yểm trợ, cậu út chuồn ngã sau giữa lúc đám tiệc 
linh đình, và trực chỉ đi đến một ngôi tinh xá, xuống tóc 
xuất gia. Ít năm sau khi nhập đạo, vào một mùa an cư, trên 
đường đi bái yết Phật, tôn giả dừng chân ở một khu 
rừng cây Khadìra (cây gai) và tại đây ngài đắc quả, nên 
về sau ngài được hiệu là "Ly Bà Ða ở rừng gai". 
Ngài được Phật khen là người xuất sắc nhất trong những 
vị yêu thích độc cư ở núi rừng.
Em trai giữa của tôn giả là Upasena 
hay Vagantaputta, là vị tỳ kheo được Phật khen ngợi có 
hạnh hoan hỉ đệ nhất. Ngài từ trần sau khi bị rắn độc 
cắn, như được ghi trong một kinh của Tương ưng bộ.
Người em kế ngài là Cunda (Thuần 
Ðà) được mệnh danh là Tiểu Thuần Ða (Cula Cunda)ø, để phân 
biết với Trưởng lão Ðại Thuần Ðà. Khi tôn giả Xá Lợi 
Phất nhập diệt, chính vị này đã hầu cận ngài và mang di 
vật của ngài trở về thông báo với đức Phật và Thánh chúng.
Ba người em gái của tôn giả cũng 
xuất gia sau khi đã lập gia đình, mỗi người có một người 
con. Những người con trai này cũng đã theo tu học với tôn 
giả Ly Bà Ða. Chính tôn giả Xá Lợi Phất, vào một dịp đến 
viếng thăm người em út của ngài lâm bệnh, đã gặp các cháu 
và khen ngợi hạnh kiểm tốt đẹp của họ, như được tìm 
thấy trong Trưởng lão tăng kệ 42, phần luận sớ.
HẠNH NHẪN 
NHỤC
Mặc dù cả bảy anh em Tôn giả đều 
xuất gia theo Phật, bà mẹ của Tôn giả vẫn giữ đạo Bà 
la môn, và có thái độ thù nghịch đối với Phật giáo và 
tất cả những người xuất gia. Bà thù hận Sa môn Gotama đã 
cướp hết đàn con của bà. Vào một năm gặp thời đói kém, 
tôn giả Xá Lợi Phất đưa 500 trăm vị tỳ kheo đến khất 
thực tại nhà bà Sàrì. Bà vừa bày thức ăn vừa lầm bầm 
nguyền rủa. Ðể thực phẩm vào bát Tôn giả, bà mắng:
- Ngu đi là ngu! Nhà cao cửa lớn, 
ruộng vườn thẳng cánh cò bay thì không chịu ở, lại bỏ mà 
đi đầu đường xó chợ, ngủ bụi ngủ bờ, ăn cơm thừa 
canh vụn của người ta.
Tôn giả vẫn im lặng cùng chúng tăng 
thọ thực, ăn xong, ngài im lặng trở về tinh xá. Ðại Ðức 
La Hầu La nhỏ nhất trong tăng đoàn thóc mách thuật lại cho 
Phật nghe mọi sự đã được chứng kiến tại nhà bà thí 
chủ nọ. Phật nhân đấy thốt lời kệ sau đây, được ghi 
trong Kinh Pháp cú, phẩm Bà la môn:
Ðầy đủ đức 
hạnh không nóng giận,
giới thanh tịnh không dục nhiễm,
ngang thân này là cuối cùng,
không còn thọ thân sau
Ấy gọi là Bà la môn
(danh 
từ Bà la môn ở đây chỉ người cao thượng).
Hạnh nhẫn nhục của Tôn giả được 
Phật và những vị đồng phạm hạnh không ngớt tán dương. 
Một hôm, một nhóm người đang đề cấp về các đức tính 
của Tôn giả.
- Trưởng lão Xá Lợi Phất của chúng 
ta có hạnh nhẫn nhục chẳng ai bì. Ngài chẳng tức giận ai 
bao giờ.
Khi nghe thế, một người Bà la môn lên 
tiếng:
- Vô lý! Ai mà khỏi có lúc tức 
giận. Ðấy là vì không ai khiêu khích ông ta thôi.
Mọi người phản đối:
- Không phải vậy đâu, cư sĩ.
Người Bà la môn kia nói:
- Ðể tôi có cách chọc ông ta tức 
giận cho coi.
Người ta đồng ý chờ xem. Ngờ đâu, 
người Bà la môn ấy chực khi Tôn giả vào thành Xá vệ 
khất thực, chạy theo đập một đập như búa bổ vào lưng Tôn 
giả. Tôn giả vẫn thản nhiên không quay lui, chỉ lên tiếng 
hỏi khẽ "Cái gì thế?" và tiếp tục bước. Người 
kia sanh tâm hối hận, đến trước tôn giả sặp lạy xin sám 
hối. Tôn giả hoan hỉ tha thứ ngay. Người kia bạch:
- Bạch tôn giả, nếu Ngài đã tha 
thứ cho con, xin thỉnh Ngài về nhà con thọ thực, từ hôm nay 
trở đi, xin Ngài cho con được cúng dường Ngài thường xuyên.
Nói xong y đỡ lấy bình bát trên tay 
Tôn giả và đưa Ngài về nhà. Nhưng có một bọn người đã 
vây quanh lấy người Bà la môn ấy, sẵn gậy gộc cầm tay, và 
bạch Tôn giả:
- Bạch Ngài, xin Ngài giao tên ác ôn 
đó cho bọn con sửa trị nó một mẻ.
- Tại sao?
- Bạch, nó đánh Tôn giả! Chúng con 
phải bửa đầu nó ra!
- Kẻ ấy đánh các ông, hay đánh ta?
- Bạch, đánh Tôn giả.
- Vậy thì y cũng đã xin lỗi ta rồi. 
Các ông hãy đi đi!
Vào một dịp, Phật ngự tại Kỳ viên 
tịnh xá, Tôn giả bị một tỳ kheo vu khống, vì vị này 
phẫn nộ bất mãn. Khi các tỳ kheo đến từ giã sau mùa an cư, 
Tôn giả luôn luôn gọi tên thân mật từng vị tỳ kheo, nhưng 
vị này lại không được tôn giả nhắc đến tên, do nhân 
duyên ấy, vị này nổi lên phẫn nộ bất mãn, nghĩ rằng: 
"Tôn giả đã không thăm hỏi ta như những người khác". 
Ðang lúc tức giận, Tôn giả đi ngang lại đụng chéo y vào 
người ông một cái, làm cho ông càng thêm tức, đến kiến 
với Phật:
- Bạch Thế tôn, Tôn giả Xá Lợi 
Phất luôn luôn nghĩ mình là đệ tử số một của Ðấng Ðạo 
sư, đã đánh con một cái tát gần điếc cả lỗ tai, thế mà 
không thèm nói gì, đã bỏ đi một nước.
Ðức Phật cho gọi tôn giả Xá Lợi 
Phất. Thay vì phủ nhận sự vu cáo, Tôn giả đã rống tiếng 
sư tử giữa hội chúng với một bài pháp hùng hồn xác 
chứng Ngài đã vĩnh viễn thoát ly sân hận, có sức chịu đựng 
những mạ lỵ phỉ báng như đất nhận đồ phế thải. Vị 
tỳ kheo ngập tràn hối hận, xin Ngài tha thứ tội lỗi. Trước 
đức Ðạo sư, Tôn giả thốt lên những lời đầy khiêm cung:
- Bạch Thế tôn, con tha lỗi vị đại 
đức, và con xin vị ấy tha lỗi cho con, nếu con có làm gì 
phật lòng vị ấy.
Ðức Phật bảo chúng đệ tử đang 
vây quanh Ngài:
- Này các tỳ kheo, Xá Lợi Phất và 
những người đã chứng đắc như ông không bao giờ ôm lòng 
hận thù ai. Tâm ông lớn như đại địa, vững như trụ đồng, 
và an tịnh như mặt nước ao thu.
LÒNG NHỚ ƠN
Trước khi xuất gia, Tôn giả nhờ trưởng 
lão Assaji mà ngộ đạo lý duyên sinh và tìm đến đức Phật 
để tham học. Tôn giả nhớ ơn ấy suốt đời. Khi cùng ở 
một tinh xá. Ngài luôn luôn đảnh lễ Assaji sau khi đãnh lễ 
đức Ðạo sư, và khi Assaji ở chùa khác, Tôn giả thường hướng 
về ngôi chùa ấy mà đảnh lễ sau khi đảnh lễ Phật.
Khi Phật ở Xá vệ trong Kỳ viên 
tịnh xá có một người Bà la môn nghèo khổ làm vườn, quét 
dọn để kiếm ăn. Phật quán thấy ông ta có thể đắc quả, 
nên hỏi trong đại chúng có ai nhớ đã chịu ơn người Bà 
la môn kia lần nào không. Ngài Xá Lợi Phất thưa rằng, có 
lần Ngài khất thực trong thành Vương xá, người Bà La môn 
kia đã sớt cho Ngài một muỗng đồ ăn của y đã xin được. 
Phật bảo: - Vậy ông hãy độ y xuất gia. Dưới sự hướng 
dẫn của tôn giả, chẳng bao lâu người ấy đắc quả A La Hán.
BẬC THIỆN 
TRI THỨC
Tôn giả Xá Lợi Phất là bậc 
thiện tri thức của tất cả mọi người. Ngài được tất 
cả yêu kính không những vì trí tuệ siêu phàm mà còn vì đức 
khiêm cung và lòng từ bi hiếm có. Ngài không bao giờ tỏ ra mình 
là bậc thượng thủ trong giáo hội của Phật. Trong tinh xá 
Kỳ đà lâm, tôn giả luôn luôn vấn an thăm hỏi những vị 
thượng tọa già yếu bệnh tật, và mỗi khi ra khỏi độc cư 
thiền tịnh Ngài thường đi một lượt quanh khu tinh xá, quét 
dọn lại những nơi bừa bãi, để du khách khỏi chê cười 
đệ tử Phật ở dơ. Mỗi khi theo Phật du hóa một vùng xa, tôn 
giả thường đi sau cùng, sau khi thu xếp cho những vị tỳ 
kheo yếu bệnh. Cũng vì lẽ ấy mà mà có bận Tôn giả đến 
nơi đã định khi đã quá nửa đêm; không còn chỗ nào dành 
cho Tôn giả, tôn giả đành ngồi nghỉ tạm ngoài trời, dưới 
một gốc cây. Khi đức Phật rõ biết việc này, Ngài liền 
chế định, phải dành chỗ sẵn cho các bậc tôn túc trưởng 
thượng.
Thông thường, những người quá thông 
minh xuất chúng phải trả giá thiên tài của họ bằng nỗi cô 
đơn. Nhưng Tôn giả Xá Lợi Phất lại là một ngoại lệ. Ngài 
có rất nhiều bạn, có thể nói Ngài là bạn của tất cả, 
kể từ đức Phật trở xuống.
Nhiều kinh điển Pali đã ghi lại 
những cuộc luận đàm kỳ thú giữa Tôn giả Xá Lợi Phất 
với những bậc Thánh đệ tử khác. Chính đức Ðạo sư dường 
như cũng ưa nói chuyện với Tôn giả hơn với những người 
khác. Ngài thường gọi: "Này Xá Lợi Phất" mỗi khi 
thuyết pháp. Thật là một địa vị đáng thèm!
Ðức tín thứ nhất làm cho mọi người 
yêu kính tôn giả, là ngài biết thấy ưu điểm của người 
khác. Một lần, khi tôn giả đang thiền định ngoài khoảng 
trống, có một con quỷ chơi xấu, đến đánh một cú như 
trời giáng vào đỉnh đầu. Nhưng do định lực sâu xa, tôn 
giả không bị giao động. Khi ngài xuất định, Tôn giả Mục 
Kiền Liên đến hỏi:
- Hiền giả có hề gì không?
Xá Lợi Phất đáp:
- Không sao cả thưa hiền giả. Tôi 
chỉ bị nhức đầu chút ít.
- Kỳ diệu thay! Thật kỳ diệu thay 
định lực của hiền giả. Vừa rồi có một con quỷ đến 
phá hiền giả, mặt mày con quỷ hết sức dữ tợn, nó đánh 
một búa vào đầu hiền giả, tưởng chừng núi đá cũng có 
thể vỡ ra!
Tôn giả Xá Lợi Phất đáp lại 
bằng một lời khen ý nhị:
- Kỳ diệu thay! Thật kỳ diệu thay 
năng lực thần thông siêu việt của hiền giả Mục Kiền Liên, 
có thấy được mặt mày con quỷ dữ ấy.
Tôn giả Mục Kiền Liên và Tôn giả 
Xá Lợi Phất là đôi bạn chí thiết từ nhỏ, ra đời cùng 
một ngày, trưởng thành trong một môi trường sang quý như 
nhau. Trong lúc tham dự cuộc vui huyên náo kéo dài nhiều đêm, 
đôi bạn cùng một lúc khởi tâm nhàm chán cuộc sống thế 
tục với những lớp sơn lừa phỉnh của ngũ dục tạm bợ và 
cùng nhau đi tìm thầy học đạo. Trước hết, họ theo Sanjaya, 
một du sĩ ngoại đạo nổi danh ở thành Vương xá. Với sự 
gia nhập của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, uy tín của 
Sanjaya càng tăng gấp bội, và những thanh niên thuộc danh gia 
vọng tộc nối gót hai ngài đến thụ giáo với Sanjaya. trong 
một thời gian ngắn, đôi bạn đã học xong tất cả những gì 
Sanjaya có thể trao truyền, nhưng vẫn không tìm thấy đâu là 
con đường đưa đến giải thoát. Họ phải giã từ Sanjaya, và 
sau này, khi gặp được Phật, nghe giáo lý của Ngài, họ sung 
sướng trở về khuyên Sanjaya theo Phật. Khi ấy Sanjaya nói 
một câu điển hình của hạng thầy dốt:
- Ðịa vị của ta không cho phép ta làm 
một học trò được. Ngươi tốt hơn hết nên ở lại với 
ta, ta sẽ chia cho một nửa đồ chúng mà lãnh đạo.
Xá Lợi Phất thưa:
- Thưa thầy, tôi không hiềm gì 
phải làm một người học trò suốt cả đời, bao lâu chưa tìm 
ra được con đường giải thoát sinh tử. Và một Ðấng giác 
ngộ không dễ gì được gặp! Xin thầy hãy cùng đi với chúng 
tôi!
- Trong thiên hạ kẻ ngu nhiều hơn 
hay người trí nhiều hơn?
- Thưa thầy, kẻ ngu bao giờ cũng 
nhiều hơn người trí.
- Vậy thì hãy để người trí đến 
với sa môn Gotama, còn kẻ ngu sẽ theo ta.
Khi đôi bạn ra đi, một nửa đồ chúng 
của vị thầy cũng đi theo họ đến quy y Phật, Sanjaya tức 
đến thổ huyết. Trong tăng đoàn của Phật, hai vị tôn giả 
trở thành đôi cánh của một con chim đại bàng. Hai vị đối 
với Ðấng Ðạo sư là hai cánh tay đắc lực trên đường 
hoằng pháp đến nỗi khi hai ngài nhập Niết bàn, đức Phật 
đã thốt ra:
-"Hội chúng từ nay đối với ta 
thật trống rỗng".
Qua lời dạy ấy, chúng ta có thể 
hiểu rõ tầm quan trọng của hai bậc Thánh đệ tử đối 
với đức Ðạo sư và đối với chánh pháp.
Một đức tính khác làm cho tôn giả 
Xá Lợi Phất được tất cả đồ chúng của Phật yêu kính, 
là Ngài biết tôn trọng ý kiến của mọi người. Ngài không 
bao giờ tự cho là trí tuệ đệ nhất để áp đảo kẻ khác 
bằng lý luận. Trong những cuộc luận đàm tôn giả thường 
hỏi ý kiến từng người, để họ tự do phát biếu, và khi 
có sự bất đồng Ngài rủ mọi người cùng đi đến yết 
kiến Phật để xin đức đạo sư giải quyết, chứ không bao 
giờ tự cho ý kiến mình đúng, thiên hạ đều sai.
Một kinh của Trung bộ III kể, vào 
một đêm rằm trăng sáng chiếu xuống khu vườn cây sala nơi 
tôn giả đang trú ngụ. Ðêm khuya, trăng tỏ, hương hoa đang mùa 
rộ nở cùng với sương đêm tỏa ngát không gian. Cảnh thật 
xứng với người: một cuộc hội kiến giữa các bậc thượng 
thủ đến thăm tôn giả Xá Lợi Phất. Tôn giả mở màn cho 
cuộc pháp thoại bằng một câu hỏi, cũng vừa là một lời 
chào:
- Ðêm thanh, trăng tỏ, vườn sa la 
khả ái thơm nức một mùi hương như thiên giới. Chư hiền 
nghĩ sao, vị tỳ kheo nào, theo ý kiến chư hiền, sẽ là người 
làm sáng chói khu vườn? (tức một mẫu tỳ kheo lý tưởng 
trong Phật giáo phải như thế nào?)
Tôn giả A nan đáp:
- Theo tôi, một vị tỳ kheo làm sáng 
chói khu vườn là vị nào đa văn đệ nhất.
Tôn giả Ca Diếp:
- Vị tỳ kheo sáng chói khu vườn là 
vị trì khổ hạnh đầu đà đệ nhất.
Tôn giả Mục Kiền Liên:
- Tôi thì cho rằng vị tỳ kheo làm sáng 
chói khu vườn, chính là vị nào thành tựu biện tài số 
một.
Tôn giả Ly Bà Da:
- Ý kiến tôi thì, vị tỳ kheo làm sáng 
chói khu vườn phải là người thiền định bậc nhất.
Khi tất cả mọi người đều cho ý 
kiến, Tôn giả Mục Kiền Liên giục bạn:
- Hiền giả nghĩ sao? Ý kiến của người 
nào đúng? Và ý hiền giả như thế nào về một vị tỳ kheo 
làm sáng chói khu vườn?
Tôn giả Xá Lợi Phất đáp:
- Vị tỳ kheo nào chế phục được 
tâm, không bị tâm chế phục. Vị tỳ kheo nào, buổi sáng 
muốn trú tâm như thế nào, có thể an trú tâm như thế ấy vào 
buổi sáng. Buổi trưa vị ấy muốn an trú tâm thế nào, vị 
ấy cũng có thể làm như ý muốn vào buổi trưa. Buổi chiều, 
buổi tối cũng vậy.
Như một vị vua hay đại thần có 
một tủ đầy áo đẹp, và sáng muốn mặc cái áo nào, trưa 
muốn mặc cái nào, chiều muốn mặc cái nào, đều có thể làm 
theo ý muốn của mình. Cũng thế, đối với một vị tỳ kheo 
đã chế phục được tâm ý, không bị tâm chế phục. Một 
vị tỳ kheo như thế, này hiền giả, sẽ làm sáng chói khu 
rừng sa la khả ái này. Nhưng này chư hiền, chúng ta hãy đi 
đến đảnh lễ Ðấng Ðạo sư để thỉnh giáo về vấn đề 
này.
Khi đức Phật nghe thuật lại ý 
kiến của từng vị, Ngài dạy rằng mọi người đều trả 
lời đúng theo địa vị và khả năng của mình. Tuy nhiên Ngài 
thêm ý kiến của Ngài như sau:
- Vị tỳ kheo sáng chói khu vườn chính 
là vị nào sau khi đi khất thực về, sau khi chánh niệm thọ 
thực xong, rửa chân rồi trải tọa cụ ngồi thiền cho đến 
khi nào không còn lậu hoặc móng khởi.
Ðiểm lý thú trong kinh này là ở 
chỗ khi mới nghe qua, chúng ta thấy dường như mỗi vị tự 
đề cao cá nhân, song kỳ thật không thế. Mỗi người phát 
biểu cái lý tưởng mình muốn đạt, cho nên ngài A Nan, con người 
ưa đa văn, tôn trọng học vấn, đương nhiên phải cho đa văn 
là nhất. Ngài Ca Diếp thì cho hạnh đầu đà là lý tưởng 
của xuất gia, nên ngài mới chuyên môn hạnh ấy. Mục Kiền 
Liên yêu thích biện tài, muốn phát triển mặt ấy, nên cho 
rằng thành tựu biện tài là nhất. Ly Bà Ða chú trọng 
thiền định cũng thế, vì cho thiền định là lý tưởng. Câu 
đúc kết của Phật rất ý vị ở chỗ, cái điều Ngài cho là 
lý tưởng chính là những việc làm rất thường, không có gì 
quái dị phức tắp, thế mà lại rất khó, chỉ có Phật 
mới thành tựu trọn vẹn được. Ðó là những việc như ăn 
cơm, mặc áo, rửa chân, trải tọa cụ ra ngồi... những 
việc Phật làm khi mở đầu kinh Kim Cương. Như vậy, ta thấy 
rõ Phật muốn ám chỉ đạo là rất giản dị, đó là cái tâm 
bình thường (bình thường tâm thị đạo); nhưng đồng thời, 
quả thật cái việc "thường" ấy lại khó khăn gấp 
bội những việc "phi thường" của các bậc đa văn, 
biến tài, trí tuệ.
Tôn giả Xá Lợi Phất lại còn một 
đức tính khác thu hút tất cả những bậc đồng phạm hạnh, 
ấy là khiêm tốn và hâm mộ những tài đức khác. Kinh Trạm 
xe (Trung Bộ II) kể, có vị tôn giả là Phú Lâu Na được 
Phật và chúng tỳ kheo ở chung luôn tán thán về giới hạnh 
không thiếu sót, yêu thích độc cư, tinh tấn, tri túc, thiểu 
dục, đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát 
tri kiến và là người thường khuyến khích người khác tu 
những hạnh kể trên. Khi nghe như vậy tôn giả Xá Lợi Phất 
vô cùng hoan hỉ mong muốn có ngày sẽ gặp được Tôn giả. 
Một hôm Phú Lâu Na đến yết kiến Phật và lui về ở một 
nơi lân cận. Các vị tỳ kheo báo tin cho ngài Xá Lợi Phất 
biết để đi thăm. Ðến nơi, tôn giả bắt đầu hỏi 
chuyện:
- Hiền giả, hiền giả vì mục đích 
gì mà sống phạm hạnh dưới đức Ðạo sư? Phải chăng vì 
mục đích thành tựu giới thanh tịnh?
- Không phải vậy, hiền giả.
- Vì mục đích kiến thanh tịnh?
- Không phải vậy, hiền giả.
- Vì mục đích đoạn nghi thanh tịnh?
- Không hiền giả.
- Vì mục đích đạo phi đạo tri 
kiến thanh tịnh?
- Cũng không, hiền giả.
- Khi ấy tôn giả Xá Lợi Phất nói:
- Hiền giả, tôi hỏi cái gì hiền 
giả cũng đáp không phải vì mục đích ấy mà hiền giả 
sống phạm hạnh. Vậy thì, hiền giả sống phạm hạnh vì 
mục đích gì?
- Hiền giả, với mục đích vô thủ 
trước Niết bàn.
Xá Lợi Phất hỏi tiếp:
- Có phải giới thanh tịnh là vô 
thủ trước Niết bàn?
Phú Lâu Na đáp không. Hỏi tâm thanh 
tịnh, cũng đáp không, lần lượt hỏi bảy thanh tịnh, cũng 
đáp không phải là vô thủ trước Niết bàn. Khi ấy, Xá 
Lợi Phất lại hỏi:
- Trong bảy thanh tịnh, hiền giả đều 
nói không có cái gì là vô thủ trước Niết bàn, nghĩa là làm 
sao?
Phú Lâu Na đáp:
- Hiền giả, nếu Thế tôn dạy 
giới thanh tịnh là vô thủ trước Niết bàn thì vô thủ trước 
ấy cũng đồng đẳng với hữu thủ trước (chấp vào giới), 
về sáu thanh tịnh kia cũng vậy. Và nếu Thế tôn dạy cái gì 
ở ngoài bảy pháp ấy là vô thủ trước Bát Niết bàn, thì 
kẻ phàm phu cũng gọi là Bát Niết bàn, vì phàm phu không có 
bảy pháp ấy. Hiền giả, tôi lấy một ví dụ. Như vua Ba Tư 
Nặc đi xe từ Xá Vệ đến Saveta qua bảy trạm xe. Khi vua đến 
nơi bằng chiếc xe của trạm thứ bảy, đình thần ra đón và 
hỏi có phải nhờ chiếc xe này mà vua đi từ Xá vệ đến 
hay không. Khi ấy vua phải trả lời thế nào mới đúng?
Xá Lợi Phất đáp:
- Dĩ nhiên vua phải nói, đã đi từ 
trạm xe thứ nhất đến trạm xe thứ hai bằng một cỗ xe khác, 
lần lượt đổi xe ở mỗi trạm cho đến cỗ xe cuối cùng này.
- Hiền giả, cũng như vậy với bảy 
thanh tịnh. Giới thanh tịnh chỉ có mục đích đạt được tâm 
thanh tịnh, tâm thanh tịnh là để đạt đến đoạn nghi thanh 
tịnh, đoạn nghi thanh tịnh là để đạt đến đạo phi đạo 
tri kiến thanh tịnh, đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh là để 
đạt đến đạo tri kiến thanh tịnh, đạo tri kiến thanh 
tịnh là để đạt đến tri kiến thanh tịnh. Tri kiến thanh 
tịnh là để đạt đến vô thủ trước Bát Niết bàn.
Nghe xong tôn giả Xá Lợi Phất hỏi 
tôn giả Phú Lâu Na:
- Tôn giả tên gì? Các vị đồng 
phạm hạnh gọi tôn giả như thế nào?
- Tên tôi là Phú Lâu Na, các bạn 
gọi tôi là Di Ða La Ni Tử.
- Thật vi diệu thay, hiền giả! 
Những câu hỏi sâu kín đã được một bậc đệ tử đa văn 
của Ðấng Ðạo sư giải, và vị ấy là tôn giả Phú Lâu 
Na. Thật hạnh phúc cho chúng tôi được thân cận thăm viếng 
Tôn giả.
Khi ấy, tôn giả Phú Lâu Na hỏi 
lại:
- Còn hiền giả tên chi, các vị đồng 
phạm hạnh gọi hiền giả như thế nào?
- Tên tôi là Tích Sa, các vị đồng 
phạm hạnh gọi tôi là Xá Lợi Phất.
Một bất ngờ kỳ thú! Tôn giả Phú 
Lâu Na muốn bật ngửa người vì ngạc nhiên, không ngờ nãy 
giờ mình đã múa rìu qua mắt thợ! Nhưng ông thợ này quá 
khiêm tốn dễ thương. Ngài Phú Lâu Na ngợ đi một một hồi 
mới bảo:
- Tôi đang nói chuyện với bậc đệ 
tử được xem ngang hàng với đức Ðạo sư mà không biết! 
Nếu tôi biết Ngài là Tôn giả Xá Lợi Phất, thì tôi đã không 
nói nhiều như vậy
NHỮNG NGÀY 
CUỐI CÙNG
Sau một mùa an cư ở làng Beluva gần 
Vesàlì, đức Thế tôn tuần tự trở về Xá vệ. Tôn giả Xá 
Lợi Phất đến đảnh lễ đức Ðạo sư rồi trở về độc 
cư thiền tịnh. Khi tôn giả an lành xuất định, Ngài khởi lên 
ý nghĩ: "Thông thường các Ðấng Giác ngộ nhập Niết bàn 
trước hay các đệ tử trưởng nhập trước?" Rồi quán 
sát nội lực của tự thân, Ngài thấy thân dư báo chỉ còn 
tồn tại bảy ngày. Kế đó Tôn giả tự hỏi: "Không 
biết ta sẽ xả bỏ báo thân ở chỗ nào? La Hầu La thì 
nhập diệt ở cõi Tam thập tam thiên, Tôn giả Kiều Trần Như 
ở trên đỉnh núi Hy mã lạp. Còn ta, thì chỗ nào?" 
Nghị đi nghĩ lại, Ngài bỗng nhớ đến mẹ. "Mẹ ta, 
mặc dù là Mẹ của bảy vị A La Hán, bà vẫn không có lòng 
tin đối với Phật, Pháp Tăng. Bà còn chút duyên nào để 
sanh khởi tịnh tín chăng?" Tôn giả quán sát một hồi và 
thấy rằng Mẹ có thể chứng quả Dự Lưu. Rồ Ngài tự 
hỏi do ai mà bà sẽ được chứng quả? Quán sát bằng thiên 
nhãn thuần tịnh, Ngài thấy chính do mình mà Mẹ đắc quả. 
Do đó Ngài quyết định trở về quê cũ để nhập diệt. Tôn 
giả Thuần Ðà, em ruột Ngài, cùng với 500 đồ chúng của Ngài 
được lệnh thu xếp để theo Ngài về Nàlaka. Ði đến bái 
biệt đức Ðạo sư lần cuối, Ngài tác bạch:
- Bạch Thế tôn, xin Ðấng Thiện 
Thệ hứa khả cho con: thời gian nhập Niết bàn của con đã 
đến. Từ đây sẽ không còn luân hồi sinh tử với con. Ðây 
là lần cuối cùng con đến đảnh lễ Thế tôn. Bảy ngày 
nữa, con sẽ đặt thân xác này xuống, sẽ quăng bỏ gánh 
nặng này. Xin Ðấng Ðạo sư hứa khả.
Ðức Thế tôn im lặng. Nếu Ngài tán 
thành bằng một câu: "Ðược, ông, hãy nhập Niết bàn đi", 
người ta sẽ cho rằng Ngài khuyến khích sự chết. Nếu Ngài 
bác bỏ rằng "Ông đừng nhập Niết bàn", người ta 
sẽ cho Phật tán thán sự sống. Cho nên Phật im lặng. Ngài 
chỉ từ tốn hỏi lại:
- Ông sẽ nhập Niết bàn tại chỗ nào?
Tôn giả thưa:
- Bạch Thế tôn, tại xứ Ma Kiệt 
Ðà, trong làng Nàlaka, ở ngay trong cái nhà con đã ra chào đời, 
con sẽ nhập Niết bàn tại đó.
Khi ấy, Thế tôn dạy:
- Ông hãy làm những gì ông nghĩ là 
phải thời. Nhưng từ nay các huynh đệ của ông trong Tăng chúng 
sẽ không còn được thấy một vị tỳ kheo như ông nữa. Hãy 
thuyết pháp cho họ lần cuối cùng.
Tôn giả vâng lệnh, thăng pháp tòa. 
Với giọng nói trầm tịnh mà hùng hồn, đáng điệu uy nghiêm 
khả kính, tôn giả ban bố pháp vũ cho đại chúng một lần 
cuối cùng. Khi thì ngài đưa tâm hồn cử tọa lên đến 
những đỉnh cao tuyệt vời của chân đế, khi thì pháp âm 
bay lượn là đà xuống tục đế với những thí dụ trước 
mắt. Khi thì Ngài thuyết pháp bằng cách trực chỉ, khi thì 
ngài dùng ẩn dụ. Thuyết xong thời pháp, Tôn giả đến đảnh 
lễ dưới chân đức Thế tôn. Ngài ôm chân Phật bạch rằng:
- Chính vì ước nguyện được đảnh 
lễ đôi chân này mà con đã hoàn thành các pháp ba la mật 
trải qua vô lượng kiếp. Nguyện ước của con nay đã thành 
tựu. Từ nay sẽ không còn gặp gỡ, bạch Thế tôn, nếu con 
có lời nói hay việc làm nào không vừa ý Thế tôn, xin Thế 
tôn tha thứ cho con! Bây giờ đã đến lúc con phải ra đi.
Phật đáp:
- Ta tha thứ cho ông, Xá Lợi Phất. 
Nhưng ông không có lời nói hay việc làm nào không vừa ý ta. 
Ông hãy làm những gì ông thấy phải thời.
Ngay khi Tôn giả đứng lên từ biệt 
Phật, đại địa chấn động, trời nổi sấm sét, một đám 
mây đen lớn trùm khắp như một chiếc khăn tang của hoàn vũ, 
và một trận mưa ào ào trút xuống, như òa khóc trước 
cảnh ra đi của một bậc Chúng Trung Tôn.
Ðức Thế tôn bảo đồ chúng vây 
quanh:
- Bây giờ, các con hãy ra đi đưa 
tiễn bậc huynh trưởng của các con lần cuối.
Toàn thể tứ chúng đều rời Kỳ viên 
tinh xá, chỉ còn một mình đức Phật. Họ đi theo Tôn giả 
từng đoàn từng đoàn lũ lượt càng lúc càng đông vì dân 
thành Xá vệ cũng tiếp theo đoàn đưa tiễn, với đầu tóc 
nhúng nước rũ rượi (dấu hiệu tang lễ thời ấy), họ theo 
khóc lóc ta thán. Tôn giả ủy lạo quần chúng đang rên siết.
- Ðây là một đoạn đường mà không 
ai tránh khỏi.
Và Ngài bảo họ trở về. Quay lại 
tăng chúng ở Kỳ viên đang theo đưa tiễn Ngài, Tôn giả căn 
dặn:
- Bây giờ, chư hiền hãy trở lại 
tinh xá đi. Hãy nhớ chăm sóc Ðấng Ðạo sư!
Còn lại 500 đồ chúng, Tôn giả 
tiếp tục cuộc hành trình. Cuộc du hành kéo dài cả tuần 
lễ, khiến nhiều người được dịp chiêm bái Tôn giả lần 
cuối cùng. Khi về đến làng quê, trời đã tối. Tôn giả 
dừng chân dưới một gốc đa đầu làng. Tình cờ, một ngưòi 
cháu của Tôn giả đi mua đồ, thấy Tôn giả, đến gần chào 
Ngài. Ngài hỏi:
- Bà ngoại con có nhà không?
- Bạch Tôn giả, có.
- Con hãy trở về báo tin có chúng ta 
đến. Thưa bà rằng chúng ta sẽ ở lại trong làng một ngày, 
và xin bà dọn chỗ cho ta trong phòng ta đã ra chào đời, và 
sắp đặt chỗ nghỉ cho 500 vị tỳ kheo.
Cậu bé trở về thuật lại cho thân 
mẫu Tôn giả. Nghe xong, bà ngẫm nghĩ: "Tại sao con ta 
trở về? Tại sao y bảo dọn chỗ cho đông người quá vậy? 
Sao lại muốn ở trong phòng ra chào đời? Bộ muốn hoàn tục 
hay sao?". Bao nhiêu câu hỏi xoay vần trong đầu óc bà cụ. 
Nhưng bà vẫn làm theo lời dặn.
Khi Tôn giả về đến nhà, Ngài vào 
phòng dành sẵn, và bảo các tỳ kheo hãy đi đến khu vực dành 
cho họ. Chúng tỳ kheo vừa đi khỏi, Tôn giả phát đau bụng 
dữ dội, quặn thắt cả ruột. Ngài đi cầu không ngớt, 
thị giả đem thùng vào rồi lại đem ra. Bà mẹ lo âu, thầm 
nghĩ: "Cha chả, bộ con mình gặp nguy rồi". Và bà 
cụ cứ đứng như vậy nhìn về phòng Tôn giả suốt đêm, nhưng 
không dám đến gần. Trong lúc ấy Tứ Thiên vương bằng thiên 
nhãn thấy bậc đại tuệ Xá Lợi Phất sắp nhập diệt, bàn 
nhau xuống trần để viếng thăm Ngài. Giữa đêm khuya, gian phòng 
sáng rực vì dung sắc của các vị Thiên vương chiếu ra. Tôn 
giả hỏi:
- Ai thế?
- Bạch Tôn giả chúng tôi là những 
vị trời Tứ thiên vương.
- Các Ngài đến đây làm gì?
- Chúng tôi muốn hầu hạ Tôn giả 
trong cơn bệnh.
- Cảm ơn, tôi đã có thị giả. Các 
ngài đi đi.
Sau khi Tứ thiên vương từ biệt, đến 
lượt Ðế thích và Ðại phạm thiên đến viếng thăm Tôn 
giả. Tôn giả đều cảm ơn bảo họ lui về. Bà cụ suốt 
buổi quan sát dung sắc thù thắng của những vị khách cõi 
trời mà lòng cảm thấy quái lạ. Bà tự hỏi: "Ai vậy? 
Ai mà đối với con ta có vẻ cung kính Thế nhỉ?" Rồi, 
không cản nổi cơn tò mò, bà đến tấn cửa phòng Tôn giả. 
Tôn giả Thuần Ðà báo tin cho sư huynh. Tôn giả hỏi:
- Tại sao Mẹ đến vào giờ khuya 
khoắt Thế này?
- Ðể thăm con, con ạ! Này, con hãy nói 
cho mẹ nghe, những người đến đầu tiên là ai Thế?
- Thưa Mẹ, đó là Tứ Thiên vương.
Bà mẹ trố mắt :
- Ồ ra, con còn lớn hơn cả Tứ Thiên 
vương nữa à?
Tôn giả đáp:
- Họ cũng như những người giữ chùa. 
Từ ngày đức Thế tôn đản sinh, họ luôn luôn canh gác đêm 
ngày, gươm đeo lủng lẳng.
- Và kế tiếp họ là ai thế?
- Ðó là Ðế thích, vua của những 
vị Trời.
- Vậy thì con lại lớn hơn cả Ðế 
thích kia à?
- Ông ấy cũng như chú tiểu ôm y bát 
theo hầu các tỳ kheo. Khi Ðấng Ðạo sư lên cõi trời Ba Mươi 
Ba, chính Ðế thích đã ôm y bát theo hầu ngài trở về trần 
thế.
- Ồ còn sau Ðế thích là ai nữa 
vậy?
- Ðó chính là Phạm thiên mà mẹ 
thờ.
- Ui chao! Thế ra con còn hơn cả vị 
trời Ðại Phạm của mẹ nữa sao?
- Vâng thưa mẹ. Vào ngày Ðấng Ðạo 
sư đản sanh, chính bốn vị trời Ðại Phạm đã đưa lưới 
báu cõi trời đỡ lấy Thánh nhi.
Khi nghe thế, bà cụ suy nghĩ: 
"Nếu con ta đã có oai thần như vậy, thì bậc thầy của 
con ta còn oai thần đến bậc nào". Và khi nghĩ thế, một 
niềm hoan hỉ tràn ngập thân tâm bà. Tôn giả quán thấy mẹ 
mình đã phát sinh hỉ lạc đối với Tam bảo, và đã đến lúc 
nên thuyết pháp cho bà. Ngài hỏi:
- Mẹ nghĩ gì thế?
- Tôi đang nghĩ rằng, nếu con tôi có 
oai thần như vậy, thì Ðấng Ðạo sư của người còn oai 
thần tới mức nào.
Tôn giả Xá Lợi Phất đáp:
- Vào lúc Ðấng Ðạo sư đản sinh, 
lúc Ngài xuất gia, lúc đắc đạo và chuyển pháp luân lần 
đầu, vào tất cả những dịp ấy, mười phương Thế giới 
đều rung chuyển. Không có ai sánh được với Ngài về phương 
diện giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến.
Rồi Tôn giả giải thích cho mẹ nghe 
vì sao đức Ðạo sư đã được tôn xưng là Ðấng Như Lai, 
Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế 
gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân 
sư, Phật, Thế tôn. Nghe xong thời pháp, bà cụ đắc quả 
Dự lưu. Bà hỏi Tôn giả:
- Tại sao, này con Tích Sa yêu dấu, 
tại sao suốt nhiều năm ròng, con đã không ban bố cho mẹ pháp 
vị cam lồ này?
Tôn giả nghĩ thầm: "Thế là ta 
đã báo đền ơn dưỡng dục". Và ngài bảo mẹ:
- Bây giờ, tín nữ hãy về nghỉ đi.
Khi bà cụ đi khỏi, Tôn giả hỏi 
Thuần Ðà:
- Bây giờ khoảng canh mấy?
- Bạch Tôn giả, gần tảng sáng 
rồi.
- Hãy triệu tập chúng tỳ kheo.
- Thưa vâng, bạch Tôn giả.
Khi chúng tỳ kheo đến, Tôn giả 
bảo Thuần Ðà:
- Hãy đỡ ta ngồi dậy, Thuần Ðà.
Sau khi ngồi dậy, Tôn giả nói với 
chúng tỳ kheo:
- Này chư hiền, tôi đã sống, du hành 
với chư hiền trong 40 năm. Trong thời gian ấy, nếu tôi có làm 
gì, nói gì không vừa ý chư hiền, xin chư hiền hãy tha thứ 
cho tôi.
Tất cả đồng thanh bạch:
- Thưa Tôn giả, không có một điều 
bất mãn nhỏ nào Tôn giả đã gây cho chúng con, những người 
theo Tôn giả như bóng theo hình. Nhưng bạch Tôn giả, xin Tôn 
giả hãy tha thứ cho chúng con!
Kế đó, Tôn giả quấn y quanh mình 
trùm cả mặt, nằm xuống hông bên phải. Rồi cũng như đức 
Thế tôn sẽ làm khi Ngài nhập Niết bàn, Tôn giả lần lượt 
nhập và xuất chín tầng lớp thiền định rồi trở lại 
nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Sau tứ 
thiền, Ngài hoàn toàn nhập Niết bàn Vô dư y. Ðó là ngày 
rằm tháng Kattika tức vào khoảng giữa tháng 10 và 11 dương 
lịch.
Khi được tin, bà cụ không ngớt 
than khóc cho tới khi mặt trời mọc. Bà mở kho xuất nhiều vàng 
bạc để làm tang lễ. Quần chúng khắp làng đến nghe 
thuyết pháp và đảnh lễ thi hài Tôn giả. Bảy ngày sau, lễ 
trà tỳ được cử hành. Thi hài Tôn giả đặt trên một giàn 
hỏa lớn bằng gỗ trầm. Sau khi hỏa táng, Tôn giả A Nâu Lâu 
Ðà rưới nước thơm dập tắt ngọn lửa.
Tôn giả Thuần Ðà thâu nhặt xá 
lợi bọc vào trong một mảnh y. Liền sau đó, Tôn giả trở 
về Xá vệ bạch Phật, mang theo y bát và xá lợi của vị sư 
huynh. Ðến nơi, Thuần Ðà bái yết thị giả A Nan trước và 
tác bạch:
- Bạch Tôn giả, Tôn giả Sàriputta 
đã nhập Niết bàn. Ðây là y và bát của Ngài.
- Hiền giả, về việc này ta phải 
đi đến Ðấng Ðạo sư.
- Thưa vâng bạch Tôn giả.
Rồi cả hai cùng đi đến đức 
Phật. Sau khi đảnh lễ Phật, họ ngồi qua một phía. Tôn 
giả A Nan bạch:
- Bạch đức Thế tôn, chú tiểu 
Thuần Ðà nói với con rằng Tôn giả Xá Lợi Phất đã nhập 
Niết bàn. Ðây là y và bát của Tôn giả. Khi nghe vậy bạch 
Thế tôn, con bủn rủn tay chân, vạn vật xung quanh con trở nên 
mờ mịt. Con không còn trông rõ cái gì ra cái gì nữa, khi 
nghe Tôn giả Xá Lợi Phất từ trần!
- Sao vậy, A Nan? Khi Xá Lợi Phất 
từ trần, ông ấy có đem bớt đi phần nào giới, định, 
tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của ông chăng?
- Không phải vậy bạch Thế tôn. Khi 
Tôn giả Xá Lợi Phất từ trần, tôn giả đã không đem theo 
bớt phần nào giới, định, tuệ của con. Nhưng bạch Thế tôn, 
Tôn giả đối với con là một vị hướng đạo, một bậc đàn 
anh, một người đã thường khích lệ, làm con hoan hỉ, phấn 
khởi, một người giảng pháp không biết mỏi mệt, một người 
giúp đỡ những kẻ đồng phạm hạnh. Chúng con nhớ xiết 
bao những lời chỉ giáo bổ ích, linh động và thú vị của 
Tôn giả!
- A Nan, há tôi đã không dạy cho ông 
rằng sớm muộn, chúng ta đều phải chịu sự chia ly với 
những gì thân yêu gần gũi? Cái gì đã sinh thành tất phải 
hoại diệt, tan rã. Không phân ly là điều không thể có. Này 
A Nan, cũng như cành lớn của một đại thụ vững mạnh đã 
gãy xuống, Xá Lợi Phất nhập diệt đối với chúng tỳ kheo 
thanh tịnh này cũng vậy. Quả thế, A Nan, có hội tụ tất 
phải có phân ly. Không phân ly là điều không thể có. Bởi 
thế, này A Nan, hãy tự mình làm một hòn đảo, một chỗ nương 
cho chính mình, đừng tìm chỗ nương tựa bên ngoài. Hãy lấy 
chánh pháp làm hòn đảo, lấy chánh pháp làm chỗ nương, đừng 
tìm chỗ nương nào khác.
Rồi đức Thế tôn đưa tay đỡ 
lấy di cốt của vị thánh đệ tử thân yêu, và bảo đại 
chúng:
- Này các tỳ kheo, đây là di cốt 
trắng như vỏ ốc của vị tỳ kheo cách đây không lâu đã 
xin phép ta để nhập Niết bàn.
Vị tỳ kheo ấy là người thành 
tựu các hạnh Ba la mật trải qua vô lượng kiếp. Vị tỳ 
kheo ấy là người đã giúp ta chuyển bánh xe pháp. Vị tỳ 
kheo ấy là người được chỗ ngồi bên cạnh ta. Vị tỳ 
kheo ấy là người trong cõi Tam thiên Thế giới không có ai sánh 
kịp về phương diện trí tuệ, chỉ trừ đức Như Lai. Vị 
tỳ kheo ấy là ngưòi có trí tuệ lớn, có trí tuệ rộng, có 
trí tuệ sáng, có trí tuệ sắc bén, có trí tuệ sâu xa. Vị 
tỳ kheo ấy ít muốn, biết đủ, thích độc cư, không thích 
đám đông, đầy nghị lực. Vị tỳ kheo ấy là bậc khích 
lệ những bậc đồng phạm hạnh, sẵn sàng chỉ điểm 
những lỗi lầm. Vị tỳ kheo ấy khi xuất gia đã từ bỏ 
một gia sản lớn lao có được nhờ công đức tích lũy từ 
500 đời trước. Vị tỳ kheo ấy là người có hạnh nhẫn 
nhục như đại địa. Vị tỳ kheo ấy có tâm bất hoại, như 
một con trâu đực đã cưa hai sừng. Vị tỳ kheo ấy có tâm 
khiêm hạ như đồng tử.
Này các tỳ kheo, hãy nhìn đây xương 
trắng tro tàn của bậc Ðại tuệ, bậc Quảng tuệ, bậc 
Lợi tuệ, bậc Minh tuệ, con người ít muốn biết đủ ấy, 
con người ưa thích độc cư, con người đầy nghị lực ấy! 
Nhìn đây, xương tàn của một tỳ kheo đã khích lệ, làm cho 
phấn khởi chúng tỳ kheo, sẵn sàng chỉ điểm lỗi lầm cho 
chúng tỳ kheo.
Bên bờ sông Hằng, không lâu sau khi 
hai Ðại đ? tử của Ngài nhập diệt, một hôm đức Thế tôn 
đưa mắt im lặng nhìn khắp tất cả đại chúng vây quanh 
rồi dạy:
- Hội chúng này, hỡi các tỳ kheo, 
đối với ta bây giờ quả thật trống rỗng, khi Xá Lợi 
Phất và Mục Kiền Liên không còn!