Phần
II: Tâm Lý Học Phật Giáo
II.1 Chương 1 : Vài nét về lịch sử tâm
lý học Phật giáo
II.1.1 : Sự hình thành và phát triển tâm
lý học Phật giáo
Sự hình thành và phát triển tâm lý học
Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng
thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật. Ở đây,
diễn dịch là sự diễn đạt bản ý của Phật và xây dựng là sự kiến lập thành
hệ thống đặc thù của các vị Tổ sư, và luận sư Phật giáo trên cơ sở phù
hợp với những giáo huấn của Phật. Do đó, có thể phân chia các giai đoạn
về sự hình thành và phát triển của tâm lý học Phật giáo như sau :
1-Thời kỳ Đức Phật (563-463 B.C) và Phật
giáo Nguyên thủy
- Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) là
thời kỳ Đức Phật còn tại thế đến sau khi Ngài diệt độ khoảng 100 năm,
như vậy thời kỳ này chỉ kéo dài từ 150 đến 200 năm.
Trong thời kỳ này, những giáo lý của
Phật được xác định cụ thể trong giáo thuyết về 12 Nhân duyên hay Duyên
khởi (Paticcasamupàda), 5 uẩn (Skandhas) và 4 Thánh đế
(Cattàriàriyasaccàni) (bao gồm 37 phần hộ đạo hay Đạo đế).
Do đó, đứng về góc độ triết học và tư
tưởng, thì nội dung Phật giáo hàm chứa trọn vẹn trong 12 nhân duyên, 5
uẩn và 4 Thánh đế, bao gồm cả hai mặt nhận thức và hành động (tu tập),
thế gian và xuất thế gian. Nói khác đi, 12 nhân duyên, 5 uẩn và 4 Thánh
đế được biểu thị cả hai mặt phương tiện và cứu cánh, hay tương đối và
tuyệt đối trên cùng một thực tại-hiện hữu. Đây là nền tảng của cả tư
tưởng triết học và đời sống thực tiễn - Phật giáo.
Về nội dung của những giáo lý trên, Đức
Phật trình bày về con người và thế giới thực tại khách quan theo nguyên
lý Trung đạo (Majjhimà - patipadà) bất khả phân ly giữa Danh (tâm lý) và
Sắc (vật lý), hay giữa Chân lý công ước (Conventional truth) và Chân lý
tuyệt đối (Absolute truth). Nguyên lý này được Nagarjuna, qua "Trung
quán luận" (Màdhyamikasàstra) gọi là nguyên lý Nhị đế hay Bất nhị
(Advaya). Đây cũng là nguyên tắc thuyết giáo mà Đức Phật đã vận dụng
trong suốt cuộc đời hành đạo của Ngài.
Đặc biệt trong giáo lý 12 nhân duyên,
Đức Phật trình bày về con người như một tiến trình hiện hữu (process of
becoming) của vòng tròn sinh hóa của cả tâm lý và vật lý qua hình thức
của :
1/ Vô minh (Ignorance) : Sự mê muội, bất
giác và cuồng si của tâm thức.
2/ Hành (Karma-formations) : Cơ cấu của
các hoạt động tâm lý.
3/ Thức (Consciousness) : Tri giác -
hiện hữu (thức không thể hiện hữu ở quá khứ và vị lai).
4/ Danh - sắc (Corporeality and
mentality) : Danh là những gì thuộc về tâm lý, sắc thuộc về vật lý (vật
chất).
5/ Lục nhập (Six bases) : sự tương tác
và hội nhập giữa 6 quan năng (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức) với 6
đặc trưng của thế giới thực tại khác quan (6 trần) bao gồm : sắc (vật
chất), thanh (âm thanh), hương (hương thơm), vị (mùi vị), xúc (xúc giác,
xúc chạm) và pháp (tất cả sự có mặt của thế giới thực tại khách quan
của sự vật, hiện tượng).
6/ Xúc (impression) : sự giao thoa giữa
ba thế giới : (a) : các quan năng hay "căn" (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
và ý thức - thuộc chủ thể nhận thức). (b) : Các đối tượng của quan năng
hay "trần" (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp - thuộc đối tượng được
nhận thức) và (c) : sự sinh khởi của tri giác hay nhận thức thông qua sự
giao tiếp giữa chủ thể nhận thức (các quan năng) và đối tượng được nhận
thức (các trần cảnh - tức thế giới thực tại, khách quan) hay còn gọi là
"thức" (bao gồm : tai-nghe, mắt-thấy, mũi-ngửi, lưỡi-nếm, thân-cảm
giác, và ý thức- nhận biết hay lĩnh hội).
7/ Thọ (feeling) : sự cảm nhận, cảm thọ
về vui (lạc), buồn (khổ) và trung tính (không khổ, không lạc).
8/ Ái (Craving) : sự yêu thích và đam
mê...
9/ Thủ (Clinging) : sự lưu luyến, bám
víu, cố chấp ...
10/ Hữu (Process of becoming) : sự hiện
hữu của tiến trình "sinh tồn" trong tương quan giữa chủ thể và đối
tượng, giữa vật lý và tâm lý... theo một trong ba thể cách và trạng thái
của tâm lý, bao gồm : (a) Dục hữu (hiện hữu từ / về dục vọng, khát
vọng, ái dục, dục tính...), (b) Sắc hữu (hiện hữu từ / về thế giới sắc
tướng, vật chất, vật lý, (duy lý)...) và , (c) Vô sắc hữu (hiện hữu từ /
về thế giới phi vật thể, phi vật chất, (duy linh, phi tưởng)...)
11/ Sinh (Birth) : sự sinh thành, giáng
sinh, xuất sinh...
12/ Lão - tử (Old age - and - death) :
sự già nua, tử biệt hay biến dị và tan hoại....
Trên đây là nội dung của 12 chi phần
nhân duyên, và, khi một chi phần (như vô minh) hiện khởi thì toàn bộ 12
nhân duyên cùng khởi - đây là con đường duyên khởi (hay lưu chuyển).
Ngược lại, khi một chi phần (như vô minh) đoạn diệt thì toàn bộ 12 nhân
duyên đoạn diệt. Đây là con đường hoàn diệt hay còn gọi là Diệt đế
(Nirodha - àriyasacca) - Niết bàn. Tuy nhiên, Niết bàn không có nghĩa là
tiêu tan tất cả, mà trên cơ sở cơ bản nhất, đó là sự đoạn diệt tham,
sân, si hay là vô minh. Đức Phật chứng đắc Niết bàn tối thượng ngay khi
Ngài còn sống !
Như thế, qua nội dung của 12 nhân duyên,
ta có thể xác định thế nào là tâm lý học Phật giáo thời Nguyên thủy.
Nó quan trọng đến nỗi Đức Phật, trong
Tương Ưng I, tuyên bố rằng : "Nếu không liễu tri (biết rõ) về năm uẩn
hay 12 nhân duyên, thì không thể thoát ly sinh tử luân hồi". Ở đây, năm
uẩn bao gồm : sắc, thọ tưởng, hành, và thức. Nó tương tự như 12 nhân
duyên:
12 nhân duyên = Năm uẩn
Vô minh và hành = Hành uẩn
Thức = Thức uẩn
Danh sắc = Năm uẩn
Thọ = Thọ uẩn
Ái, thủ, hữu = Hành uẩn
Sinh, lão-tử = Năm uẩn
Như thế hệ thống tâm lý giáo dục Phật
giáo thời nguyên thủy được Đức Phật trình bày rất cụ thể và rõ ràng qua
giáo lý 12 nhân duyên và 5 uẩn theo nguyên tắc của 4 Thánh đế (Khổ đế
[kết quả], Tập đế [nguyên nhân], Diệt đế [kết quả] và Đạo đế [nguyên
nhân]). Đây là phần trọng tâm của giáo lý đạo Phật, cũng là phần giáo lý
nhất quán và xuyên suốt cả lịch trình tư tưởng Phật giáo, từ Nam truyền
đến Bắc truyền, từ nguyên thủy cho đến ngày nay với khoảng thời gian
hơn 25 thế kỷ qua.
2- Thời kỳ Phật giáo Abhidhamma (271 B.C
- 200 AD)
Phật giáo Abhidhamma (luận thư) là thời
kỳ Phật giáo được phân chia theo nhiều hệ thống, bộ phái khác nhau. Theo
nhiều nguồn sử liệu, thời kỳ này Phật giáo được phân thành 20 bộ phái,
và đại biểu chính thức là Thượng tọa bộ (Sthaviravada) và Đại chúng bộ
(Màhasànghika). Sự phân hóa này diễn ra song song với các thời kỳ kết
tập kinh tạng Phật giáo. Có 4 thời kỳ chính như sau :
a) Lần thứ I : Sau Phật diệt độ khoảng
một tuần, đại hội kết tập này do ngài Đại Ca Diếp (Maha-Kacyapa) làm chủ
tọa, đại biểu gồm có 500 vị A La Hán, tập hội tại thành Vương Xá
(Ràjagaha), kinh đô nước M Kiệt Đà (Magadha)
b) Lần thứ II : Sau Phật diệt độ 100
năm, đại hội kết tập này do các ngài Revata, Sàmbhùta, Yasa Sumana,
Khùjjasobhita, Sàlha, Vàsabhagàmi, và Sabhakàmi làm chủ tọa đoàn, đại
biểu gồm có 700 vị A La Hán, tập hội tại thành phố Tỳ-xá-lỵ (Vesali).
Tại đại hội này, giáo đoàn Phật giáo chính thức được chia thành hai bộ :
Thượng tọa bộ và Đại Chúng Bộ (sau đó, từ hai bộ này tiếp tục phát sinh
ra 20 tiểu bộ).
c) Lần thứ III : Sau Phật diệt độ 218
năm (khoảng năm 325 trước Tây lịch), đại hội kết tập này do vua Asoka tổ
chức và tài trợ. Vua mời ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu
(Moggaliputa-tissa) tại núi Ahogànga làm chủ tịch hội nghị. Đại biểu gồm
có 1000 vị Tăng sĩ được tuyển chọn, và tập hội tại thành Hoa Thị
(Pataliputra).
d) Lần thứ IV : Sau Phật diệt độ 400 năm
(khoảng đầu thế kỷ thứ II Tây lịch), đại hội kết tập này do vua Kaniska
tổ chức và tài trợ, cùng với sự cộng tác của ngài Hiếp Tôn Giả
(Parsva). Đại hội này do ngài Thế Hữu (Vasumitra) làm chủ tịch, chủ tọa
đoàn gồm các vị Đại đức Dharmatràta, Ghosa, Baddhadeva, và Parsva. Đại
biểu gồm 500 vị đại học giả uyên bác, thông đạt cả tam tạng. Đại hội
được tổ chức tại tinh xá Hoàn Lâm (Kundalavana-Samgharàma) thuộc nước
Kasmitra.
Nguyên nhân của sự kết tập kinh điển và
phân hóa giáo đoàn thành các bộ phái là do quan điểm bất đồng, sai biệt
về giáo lý của Phật trong sự nhận thức của các vị đệ tử. (40)
Về khái niệm Phật giáo Abhidhamma
(A-tỳ-đạt-ma) hay Phật giáo Luận thư, là do các bộ phái Phật giáo có
những quan điểm khác nhau về giáo lý của Phật. Và những quan điểm đó
được trình bày thành hệ thống triết luận tư tưởng riêng biệt của từng bộ
phái. Do đó, đây là thời kỳ phát sinh các Luận thư - sự giải minh về
giáo lý của Phật theo quan điểm của các vị minh triết Phật giáo cách
thời Đức Phật một khoảng thời gian lâu dài, nên gọi là Phật giáo
Abhidhamma.
Về sự hình thành và phát triển của Phật
giáo Luận thư được học giả Kimura Taiken (41) ghi nhận như sau :
"A-tỳ-đạt-ma, tức là mục đích "đối pháp", có nhiệm vụ tập hợp các pháp
nghĩa (của Phật) lại, rồi đem phân loại, định nghĩa, giải thích và phân
biệt. Như vậy, các phương pháp nghiên cứu đó dù cho không có sự hưng
khởi của bộ phái, nó cũng có khả năng phát sinh. Không những thế, chính
trong khi áp dụng phương pháp nghiên cứu đó, tự nhiên đã đưa đến sự bất
đồng ý kiến làm nguyên nhân cho sự phân phái".
Và Kimura Taiken trình bày về hướng phát
triển của Phật giáo Luận thư, có thể tóm tắt như sau :
a) Nguồn gốc và sự hình thành
Luận thư, trước hết, phát sinh từ những
lời giáo huấn rõ ràng, trong sáng, rất minh bạch, dung dị... của Phật và
đời sống minh triết, thánh thiện của Ngài. Luận thư lúc đầu vốn được
xem là phương pháp nghiên cứu giáo huấn của Phật, do đó, đối tượng
nghiên cứu là kinh - hay lời dạy được nói ra bởi chính Đức Phật. Ở đây,
Luận thư không có địa vị độc lập mà hoàn toàn phụ thuộc vào kinh. Luận
thư có thể được xem như là kinh được diễn đạt rộng bởi các vị đệ tử của
Phật. Tuy nhiên, về mặt lịch sử kết tập, thì chỉ có Kinh và Luật là rõ
ràng, còn Luận thư thì ít được đề cập đến, chỉ có cá nhân san định hoặc
trứ tác.
b) Sự phát triển
Theo đánh giá của Kimura Taiken (42), có
thể chia sự định hình của Luận thư Abhidhamma qua bốn giai đoạn :
* Giai đoạn kết tập : là giai đoạn luận
thư hóa kinh (giáo huấn của Phật) qua phương pháp biên tập thời đó của
Giáo hội, chẳng hạn như bộ Tăng Nhất A Hàm, Tạp A Hàm, v.v... Nói chung,
ở giai đoạn kết tập, thì Luận thư vẫn giữ hình thức của khế kinh.
* Giai đoạn giải minh giáo huấn của Phật
:
Giai đoạn này Luận thư không còn ở hình
thức khế kinh nữa, mà đã chuyển sang định nghĩa, phân loại, phân biệt và
chú giải giáo huấn của Phật. Lúc này, khế kinh chỉ đóng vai trò bối
cảnh, tuy nhiên, Luận thư vẫn chưa độc lập bởi những kiến giải
(deconstructions) mới, mà chỉ tập chú vào nội dung như đã được nói trong
khế kinh.
* Giai đoạn độc lập hóa :
Giai đoạn này, Luận thư đã rời bỏ khế
kinh, không còn thảo luận về những lời giáo huấn của Phật một cách riêng
lẻ nữa, mà đã đi sâu vào thể tài độc lập, lấy các đề mục của kinh làm
chủ đề và phân tích, biện giải, giải minh theo qui tắc của Luận thư
(nghiên cứu và phân tích văn bản). Đây là lý do phát sinh nhiều quan
điểm, nhiều luận giải độc đặc, đa thù theo tính cách và chủ trương của
mỗi bộ phái.
* Giai đoạn học thuyết hóa :
Đó là giai đoạn toát yếu hóa và cương
yếu hóa về những luận giải của Luận thư, làm cho chủ trương của mỗi bộ
phái rõ ràng, minh bạch, và mỗi bộ phái thì có những học thuyết riêng -
như "Thắng pháp tập yếu luận" của Anuttara, "Câu xá luận" của Vasubandhu
v.v... Giai đoạn này diễn ra khoảng thế kỷ thứ II, thứ III sau Tây
lịch, cũng là thời kỳ các bộ phái Hinayàna được thành lập.
c) Phương pháp xử lý của Luận thư :
Lúc đầu, Luận thư là sự tập hợp các câu
kinh và các giải thích về các câu kinh đó. Ở thời điểm này, kinh (lời
dạy cụ thể của Đức Phật) được xem là chứng lý tối thượng và tuyệt đối
của Luận thư. Tuy nhiên, Luận thư không chỉ được dừng lại ở đó mà nó còn
đi xa hơn nữa là giải minh toàn bộ tư tưởng được hàm chứa trong một
hoặc nhiều câu kinh cụ thể. Do đó, phương pháp xử lý này đưa đến sự đi
sâu vào phê phán hoặc phân tích, đánh giá, thẩm định... về nội dung của
kinh. Sự kiện này một mặt vừa làm cho kinh trở nên phong phú, nhưng mặt
khác có lúc nó cũng đi quá đà và thoát ly hẳn ý kinh. Đây là lý do "Luận
Đại tỳ bà sa" (Abhidhamma - màhavibhàsà - sàstra) quyển 51 của Hữu Bộ
nói rằng: "Kẻ nào chấp chặt vào từ lời kinh mà không thông đạt được chân
lý của nó thì gọi là trư văn Sa môn (kẻ chấp vào văn tự)". (43) (xem
tóm tắt một số nội dung của luận thư ở phần sau).
3- Thời kỳ Phật giáo Mahayama (Đại
thừa)
Sau Phật diệt độ khoảng 800 năm, tức vào
khoảng thế kỷ thứ III Tây lịch, có các bậc Đại luận sư như ngài
Nagarjuna (Long Thọ), Nàgasena (Na Tiên), Vasumitra (Thế Hữu) và
Asvaghosa (Mã Minh) v.v... ra đời; và đây là những gương mặt vĩ đại phát
huy giáo nghĩa Mahayana (Đại thừa) trong lịch sử tư tưởng, triết học
Phật giáo. Đến khoảng cuối thế kỷ thứ IV Tây lịch, có ngài Asanga (Vô
Trước) và Vasubandhu (Thế Thân). Đây là hai vị Đại luận sư (anh em ruột)
tiêu biểu cho dòng triết học Duy thức - tức tâm lý học Phật giáo -
Mahayàna.
Đặc điểm của thời kỳ này là sự ra đời
của hàng loạt các bộ kinh lớn như Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Pháp Hoa, Niết
Bàn v.v... cũng như các bộ Luận thư trứ danh như : "Du già sư địa luận"
(Yogàcarya-bhùmi-sàstra), "Nhiếp Đại thừa luận"
(Mahàyànasampari-graha-sàstra), "Duy thức tam thập tụng luận"
(Vidyàmàtrasiddhi-tridasa-sàstra-kàrika) v.v...
Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản của
Phật giáo Mahayana và thời kỳ Hinayana (bao gồm thời kỳ Abhidhamma) là
các luận thư và kinh tạng của Phật giáo Mahayana hoàn toàn không mâu
thuẫn, khác biệt nhau về nội dung giáo lý. Sự giống nhau về ý nghĩa (hay
bản ý của Phật) trong kinh tạng và luận thư của Mahayana là điểm độc
đáo và rất sáng tạo của các nhà Đại thừa (Mahayanists).
Ở đây, cần ghi nhận rằng, tính chất cơ
bản trong nội dung giáo lý như được trình bày trong các hệ thống kinh
tạng và luận thư của Phật giáo Mahayana cũng là những gì được hàm chứa
trong nội dung giáo lý của Phật giáo thời Nguyên thủy (Theravada), hay
nói cụ thể là trong kinh tạng Nikaya và A Hàm; đây là điểm nhất quán và
xuyên suốt trong hệ thống tư tưởng Phật giáo. Và điểm khác biệt duy nhất
của tạng - thư Mahayana so với tạng - thư của Theravada là cách trình
bày và sự mở rộng ý nghĩa về Phật - Pháp và Tăng theo quan điểm phóng
khoáng và đa thù giữa chân đế và tục đế ; cả hai xuất hiện như một tổng
thể bất khả phân ly. Do đó, ở tạng - thư của Mahayana không có sự chống
trái về mặt nội dung tư tưởng.
Một điểm đặc sắc khác được phô diễn
trong tạng-thư của Mahayana là giữa kinh tạng và luận thư bổ sung cho
nhau và cùng tập chú về một thế giới tâm lý của cả sự thanh tịnh và cấu
uế. Điều này được cụ thể qua các học thuyết trung tâm của kinh tạng và
luận thư. Tỉ dụ, kinh Bát Nhã lấy "Vọng tâm Duyên khởi" làm tiền đề đi
vào hiện quán, kinh Hoa Nghiêm thì lấy "Thanh tịnh tâm duyên khởi" làm
tiền đề, Duy thức học thì đi trực tiếp và bao quát các vấn đề về tâm lý
v.v... Sự bổ sung và cùng chuyên chú vào thế giới của TÂM trong kinh
tạng và luận thư Mahayana này cho thấy tính chất phong phú và đa dạng về
hệ thống phân tích tâm lý học Phật giáo trong tư tưởng Mahayana.
4- Sự tập thành của Luận thư
(Abhidhamma)
Như đã trình bày, luận thư Phật giáo ra
đời song song với quá trình kết tập kinh tạng và phân hóa giáo đoàn. Tuy
nhiên, vào thời kỳ kết tập lần thứ nhất, luận thư chưa xuất hiện. Đến
thời kỳ kết tập lần thứ hai, luận thư đã xuất hiện nhưng chưa độc lập
thành một hệ thống riêng biệt, còn tùy thuộc nhiều về kinh tạng. Cho đến
khi Thượng tọa bộ chính thức ra đời, thì luận thư mới thực sự được
thành lập thành một tạng riêng biệt (trong ba tạng Kinh - Luật - và
Luận) của Phật giáo.
Về luận thư của Phật giáo Hinayana, có
thể tóm tắt một số luận thư nổi tiếng của Thượng Tọa bộ như sau :
a) Nhân thi thiết túc luận
(Abhidhamma-prajnàtipada-sàstra) gồm 18.000 bài tụng do ngài Ca Chiên
Diên sáng tạo.
b) Giới thân túc luận
(Abhidhamma-harma-dhàtukàyapada-sàstra) gồm 3 quyển do ngài Thế Hữu biên
soạn.
c) Phát trí luận
(Abhidhamma-jnànaprasthàna-sàstra) gồm 20 quyển, do ngài Ca Đa Diễn Ni
Tử (44) sáng tác. Đây là bộ luận nền tảng của Thượng Tọa bộ.
d) Tập dị môn túc luận
(Abhidhamma-sanjitiparyàpàdà-sastra) gồm 20 quyển, do ngài Xá Lợi Phất
chế tác (trong lúc Đức Phật còn tại thế?)
e) Uẩn túc luận
(Abhidhamma-dharma-skandhapàda-sàstra) gồm 12 quyển, do ngài Mục Kiền
Liên sáng tác.
f) Phẩm loại túc luận (Abhidhamma
prakadanapàda-sàstra) gồm 18 quyển, do ngài Thế Hữu biên soạn.
g) Thân túc luận
(Abhidhamma-Vijnànakàyapàda-sàstra) gồm 16 quyển, do ngài Devasarman
dịch, khoảng sau Phật diệt độ 100 năm.
Đến thời vua Kaniska, các học giả Hữu bộ
lại chế tác lại giáo nghĩa của "Phát trí luận" dưới nhan đề "Đại tỳ bà
sa luận" (Abhidhamma-mahàvibhàsà-sàstra) gồm 200 quyển.
Và bộ "Đại tỳ bà sa luận" được xem như
là nền tảng giáo lý của Hữu bộ. Nhưng đến thời đại ngài Nàgàrjuna
(khoảng đầu thế kỷ thứ III. Tây lịch, tức sau Phật diệt độ hơn 700 năm),
thì bộ luận này bị phản ứng bởi tư tưởng của ngài Nàgarjuna, Deva và
Ràhula-bhadra. Trước viễn cảnh đó, Hữu bộ nỗ lực củng cố tư tưởng và học
thuyết của mình bằng cách biên soạn lại một số luận thư để làm căn bản
cho giáo nghĩa của Hữu bộ, thay cho luận thư Đại tỳ bà sa. Gồm có :
- Đề bà sa luận (14 quyển) do ngài
Sitapàni soạn.
- A tỳ đàm tâm luận (4 quyển) do ngài
Dharmasri soạn. (45)
- A tỳ đàm tâm luận kinh
(Abhidhamma-hrdaya-sastra-sutra) (6 quyển) do ngài Upasànta sáng tác.
- A tỳ đàm tâm luận (11 quyển) do ngài
Dharmaràta trứ tác. (46)
Đến khoảng thế kỷ thứ V. TL, lại có các
bộ luận như :
- Nhập A tỳ đạt ma luận
(Abhidhammavatàrasastra) (2 quyển) do ngài Skandila trứ tác.
- A tỳ đạt ma câu xá luận
(Abhidhamma-kosa-sastra) (30 quyển) do ngài Vasubandhu trứ tác.
- A tỳ đạt ma thuận chính lý luận
(Abhidhamma Samayapradìpika-sastra- 80 quyển) và bộ A tỳ đạt ma hiển tôn
luận (Abhidhamma Samayapradìpika-sastra- 4 quyển). Hai bộ này do ngài
Samghabhadra biên soạn với mục đích phê bình "Câu xá luận" của ngài
Vasubandhu. Tuy nhiên, "Câu xá luận" đã chiếm ưu thế và được tôn vinh
một thời. (xem phần tóm tắt Câu xá ở sau).
* Về luận thư của Phật giáo Mahayana
Như đã trình bày, trong hệ thống luận
thư của Mahayana tuyệt nhiên không có sự phê phán, phê bình hay chống
trái lẫn nhau, mà chỉ có sự mở rộng và bổ sung cho nhau. Do đó, về luận
thư, có thể tóm tắt các trứ tác, biên soạn theo mỗi tác giả như sau :
Các luận thư Phật giáo thuộc hệ thống
Hinayana và Mahayna :
* Các luận thư được trước tác bởi ngài
Vasumitra :
1/ Dị bộ tôn luân luận (1 quyển) do
Huyền Tráng dịch.
2/ Tôn Bà Tu Mật Bồ Tát sở tập luận (10
quyển).
* Các luận thư được trước tác bởi ngài
Asvaghosa :
1/ Đại tôn địa huyền võ bản luận
(Màhayana bhùmigukya- vàcàmula-sutra- 20 quyển), do ngài Paramàrtha
dịch.
2/ Đại thừa khởi tín luận (Mahayana -
Sraddhot pàdasutra - 1 quyển), ngài Paramàrtha dịch đời Hậu Đường, ngài
Siksànanda dịch lại thành 2 quyển.
3/ Đại trang nghiêm luận kinh
(Mahalankàrasutrasàstra- 15 quyển), ngài Kumàravjiva (La Thập) dịch.
... và một số kinh luận khác (47).
* Các luận thư được trước tác bởi ngài
Nàgàrjuna :
1/ Trung quán luận (Madhyadhijàna -
sastra - 4 quyển) do ngài Kumàravjiva dịch.
2/ Thập nhị môn luận (Dvàdasa - nikàya -
sàstra - 1 quyển) do ngài Kumàravjiva dịch.
3/ Đại trí độ luận (Mahàprajnàpàramità -
sàstra - 100 quyển) do ngài Kumàravjiva dịch.
4/ Thập trụ tỳ bà sa luận (Dasabhùmi -
Vibhàsà - sàstra - 17 quyển) do ngài Kumàravjiva dịch.
5/ Thập bát không luận (Astàdasàkasa -
sàstra - 1 quyển) do ngài Paramàrtha dịch.
6/ Đại thừa phá hữu luận (Mahayana
bhavabhoda - sàstra - 1 quyển) do ngài Danapàna dịch.
7/ Bồ đề tư lương luận (6 quyển) do ngài
Dharmagupta dịch.
8/ Bồ đề tâm ly tướng luận
(Laksanavimakata - bodhihrdaya - sàstra - 1 quyển) do ngài Dànapàna
dịch.
9/ Hối tránh luận (Vivàdasamama - sàstra
- 1 quyển) do ngài Gautama - Ruci dịch.
10/ Phương tiện tâm luận (1 quyển) do
ngài Cát-ca-da dịch. ... Và một số kinh, luận khác. (48)
* Các luận thư được trước tác bởi ngài
Deva
1/ Bách luận (Sata sàstra - 2 quyển) do
ngài Kumàravjiva dịch.
2/ Bách tự luận (Sàtàksara - sàstra - 1
quyển) do ngài Gautama - Ruci dịch.
3/ Quảng bách luận (Sata - sàstra
Vaipulya - 1 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
* Các luận thư được trước tác bởi ngài
Maitreya (49)
1/ Du già sư địa luận (Yogàcàrya - bhùmi
- sàstra - 100 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
2/ Đại thừa trang nghiêm luận kinh
(Mahàyana - lankàra - sàstra - ?) do ngài Paramità dịch.
3/ Thập địa kinh luận (Dasabhùmikà -
sàstra - ?) do ngài Bodhi Ruci (Bồ Đề Lưu Chi) dịch.
4/ Trung biên phân biệt luận
(Madhyàntavibhàga - sàstra - 2 quyển) do ngài Paràmàrtha (Chân Đế)
dịch.
* Các luận thư được trước tác bởi ngài
Asanga:
1/ Hiển dương Thánh giáo luận
(Prakaranàryavàca - sàstra - 20 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
2/ Nhiếp Đại thừa luận (Màhayana -
samparigraha - sàstra - 3 quyển) do ngài Paràmàrtha dịch.
3/ Đại thừa A tỳ đạt ma tập luận
(Mahayànabhi - dharma - sangìti - sàstra - 7 quyển) do ngài Huyền Tráng
dịch.
4/ Kim cang Bát nhã Ba la mật đa
(Vajraprajnà - Paramità - sutra - sàstra - 3 quyển) do ngài Bồ Đề Lưu
Chi dịch.
5/ Thuận trung luận (2 quyển) do ngài
Prajnà Ruci dịch
* Các luận thư được trước tác bởi ngài
Vasubandhu
1/ Câu xá luận (Abhidhamma - kosa sàstra
- 20 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
2/ Câu xá luận bản tụng (1 quyển) do
ngài Huyền Tráng dịch.
3/ Duy thức tam thập tụng (Vidyàmàtrasid
- dhitridasa - sàstra - kàrika - 1 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
4/ Duy thức nhị thập tụng luận
(Vidyàmàtra - Vimsatisastra - 1 quyển) do ngài Huyền Tráng dịch.
5/ Đại thừa bách pháp minh môn luận
(Mahàyàna - satadhar - mavidyàdvàra - sàstra - 1 quyển) do ngài Huyền
Tráng dịch.
6/ Đại thừa ngũ uẩn luận
(Mahàyànavaipulya - Pancaskandhaka - sàstra - 1 quyển) do ngài Huyền
Tráng dịch.
7/ Nhiếp Đại thừa luận thích
(Màhàyanasampari - graha - sàstra - 15 quyển) do ngài Paranàntha dịch.
8/ Thập địa kinh luận (Dasabhùmika -
sùtra - sàstra - 12 quyển) do ngài Bodhi Ruci dịch.
9/ Kim cang Bát nhã Ba la mật kinh luận
(Vajnaprajnàparamità - sùtra - sàstra - 3 quyển) do ngài Bodhi Ruci
dịch.
10/ Diệu pháp liên hoa kinh ưu ba đề xá
(Sad dharma - pundarìka - sùtra - sàstopadesa - 2 quyển) do ngài Bodhi
Ruci dịch.
... Và một số kinh luận khác. (50)
Trên đây, chúng ta vừa khảo sát sơ lược
về sự hình thành và quá trình phát triển tâm lý học Phật giáo qua các
thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Luận thư, và Phật giáo Đại thừa
(Mahayana). Tất nhiên, như đã được giới hạn ngay từ đầu, chúng ta chỉ
khảo sát về tâm lý học Phật giáo qua góc độ của Luận thư (Luận tạng),
đặc biệt là hệ thống triết học Duy thức của Mahayana. Tuy nhiên, để có
một cái nhìn tổng quát về tâm lý học Phật giáo; ở đây, người viết xin
tóm lược một số nội dung cơ bản về tâm lý học Phật giáo qua ba luận thư
như sau :
- Thứ nhất : phần tóm lược về Thắng pháp
luận (Abhidhammatthasangaha) của Thượng Tọa bộ (Sthaviravàda hay
Theravada).
- Thứ hai : phần tóm lược về Câu xá luận
(Abhidhamma - kosa - sàstra) của Hữu bộ (Sarvàstivàdin) hay còn gọi là
Nhất Thiết Hữu bộ.
- Thứ ba : Phần trình bày về Duy thức
tam thập tụng (Vidyàmàtrasid - dhitridasa - sàstra) của Đại thừa Phật
giáo (Mahayana). Phần này sẽ được trình bày cụ thể trong nội dung của
tác phẩm (xem mục II.2 chương 2).
II.1.2 Các hệ thống tiêu biểu về tâm lý
học Phật giáo
A/ Đại cương về Thắng pháp luận
(Abhidhammatthasangaha)
Bộ "Thắng pháp tập yếu luận" này là một
công trình khảo cứu, tóm tắt và hệ thống hóa nội dung của bảy bộ luận
thuộc Hinayana bởi một vị Tăng sĩ người Ấn Độ, tương truyền là ngài
Anuruddha (A Nậu Đa La) (51)
Về mức độ chính xác của công trình tóm
tắt và hệ thống hóa này không thể hoặc khó có thể minh định rõ ràng, vì
chúng ta không có điều kiện để đọc hết bảy bộ luận đó, ít ra là về phía
người viết. Tuy nhiên, theo truyền thống Nam phương Phật giáo, thì bộ "A
tỳ đàm thắng pháp luận" này là một trong những nền tảng triết học cơ
bản nhất của Nam phương Thượng Tọa bộ. Do đó, chúng tôi dựa vào bộ luận
này - và đặc biệt là thông qua bản dịch của HT. Thích Minh Châu (52),
một học giả có thẩm quyền chuyên môn về tạng - thư Pàli, ít nhất là đối
với người Việt Nam - để trình bày đại cương về tâm lý học Phật giáo theo
quan điểm của Nam phương - Thượng Tọa bộ.
(I) Dòng Chảy Của Tâm Thức Qua Tỳ Đàm
Thắng Pháp Tập yếu
1- Tâm bất thiện (Akusalacitta) : Có ba
loại tâm cơ bản là : tâm tham, tâm sân và tâm cuồng si.
2- Tâm vô nhân (Ahetukacitta) : Có ba
loại : Tâm quả bất thiện vô nhân, tâm quả thiện vô nhân và tâm duy tác
vô nhân.
3- Tâm dục giới bất tịnh : Có hai loại :
Tâm bất thiện và tâm vô nhân.
4- Tâm (hữu nhân) dục giới thanh tịnh :
Có ba loại : tâm thiện, tâm quả, tâm duy tác. Cả dục giới thanh tịnh và
bất tịnh đều thuộc về tâm hữu nhân.
5- Tâm sắc giới (Rùpàvacaracitta) : Có
ba loại : Tâm thiện, tâm quả, và tâm duy tác.
6- Tâm vô sắc giới (Arùpàvaracitta) : Có
ba loại : tâm thiện, tâm quả, và tâm duy tác. Cả ba loại tâm trên của
sắc giới và vô sắc giới đều gọi là tâm thế gian (hiệp thế)
7- Tâm đạo siêu thế (Lokattaracitta) :
Có 4 loại : tâm của cảnh giới Sơ thiền (ly sanh hỷ lạc), Nhị thiền (định
sanh hỷ lạc), Tam thiền (ly hỷ diệu lạc) và Tứ thiền (xả niệm thanh
tịnh) (53)
8- Tâm quả siêu thế (dị thục siêu thế) :
Có 4 loại : tâm của quả vị Sơ thiền (Dự lưu quả), Nhị thiền (Nhất lai
quả), Tam thiền (Bất lai quả) và Tứ thiền (A la hán quả)
Cả tâm đạo siêu thế và quả siêu thế gọi
chung là tâm siêu thế. Và, cả tâm thế gian (hợp thế) và siêu thế gian
(siêu thế) được gọi là Tâm (citta). 8 phân loại trên của tâm được gọi là
Tâm Vương, tức là cội nguồn của Tâm.
(II) Tác Năng Trong Dòng Chảy Của Tâm
(Tâm Sở Hữu)
1- Tâm sở biến hành
(Sabbacittasàdhàranà) :
Có 7 loại tâm sở : xúc (Phasso), thọ
(Vedanà), tưởng (Sannà), tư (Cetanà), nhất tâm (Kaggatà), mạng căn
(Jivitindriyam) và tác ý (Manasikàra)
2- Tâm sở biệt cảnh (Akusalacetasika) :
Có 6 loại tâm :
Tầm (Vitakka), tứ (Vicàra), thắng giải
(Adhimokkho), tinh tấn (Viriyam), hỷ (Piti) và dục (Chando). Cả tâm sở
hữu biến hành và biệt cảnh gọi là sở hữu tự (chủ thể), tha (đối tượng).
3- Tâm sở bất thiện (Akusalacetasika)
Có 14 loại :
- Tâm si mê (Moho), vô tàm (Ahirikam),
vô quí (Anottapam), trạo cử (Uddhacca).
- Tâm tham (Lobho), tà kiến (Ditthi),
kiêu mạn (Màno).
- Tâm sân (Doso), tật đố (Issà), bỏn xẻn
(Macchariyam), hối quá (Kukhuccam), hôn trầm (Thina), thùy miên
(Middha) và nghi (Viccikicchà).
4- Tâm sở thiện (Tịnh quang)
(Sabhanacetasika)
Có 19 loại :
Tín (Saddhà), niệm (Sati), tàm (Hiri),
quí (Ottappam), không tham (Alobho), không sân (Adoso), xả ly
(Tatramajjhattatà : trung tính), tâm sở thư thái (Kàyapassaddhi), tâm
thư thái (Cittapassaddhi), tâm sở khinh an (Kàyalahùta), tâm khinh an
(Cittalahutà), tâm sở nhu hòa (Kàyamudutà), tâm nhu hòa (Cittamudutà),
tâm sở thích ứng (Kàyakamm-annatà), tâm thích ứng (Cittakammannatà), tâm
sở tinh cần (Kàyapàgunnatà), tâm tinh cần (Cittapàgunnatà), tâm chính
trực (Cittujjukatà).
(III) Hiện Hữu (Pháp) Qua A Tỳ Đàm Thắng
Pháp Tập Yếu
1- Sắc cơ bản (Bhùta - rupam) :
Có 4 loại : Đất (Pathavi - dhàtu), nước
(Àpo - dhàtu), gió (Vàyo - dhàtu) và lửa (Tejo - dhàtu).
2- Sắc chủ thể (Pasàda-rùpam)
Có 5 loại : mắt (Cakkhu), tai (Sotam),
mũi (Ghànam), lưỡi (Jihà), và thân (Kàyo).
3- Sắc đối tượng (hay Hành cảnh :
Gocararùpam)
Có 5 loại : Sắc (Rùpam), thanh (Saddo),
hương (Gandho), vị (Raso), xúc (Photthabbam).
4- Sắc bản tính (Bhàvarùpam) :
Có 2 loại : Nam tính (Purisattam); nữ
tính (Itthattam).
5- Sắc tâm sở y (Hadayrùpam) : là cơ cấu
nền tảng của tâm thức (Hadayavatthu).
6- Sắc sinh mạng (Jivitarùpam) : là mạng
căn, tức là thân thể và các quan năng (Jivitindriyam).
7- Thực sắc (Ahàra-rùpam): là đoàn thực
(kabalinkàro-àharo) cũng gọi là thực tố.
Sắc tâm sở y, sắc sinh mạng và thực sắc
còn được gọi là thân biểu và khẩu biểu.
Như vậy 18 loại sắc pháp trên được phân
loại theo tự tánh (Sabhàvarùpam), tự tướng (Salakkhana - rùpam), sở tạo
(Nipphannarùpam), sắc sắc (Rùpa - rupam) và tư duy sắc
(Sammasanarùpam).
Sắc là vật chất, là những gì thuộc vật
lý. Do đó tự tánh sắc là những gì có tính chất nóng , lạnh, cứng, ướt,
âm, dương v.v... Sắc tự tướng là chỉ cho vô thường, vô ngã của sắc
tướng. Đó là sự diễn biến của sinh, trụ, dị, diệt ; thành, trụ, hoại,
không... Các pháp thuộc về tâm (tâm lý) và sắc (vật lý) gọi chung là Hữu
vi pháp (Sankhatam). Và ngược lại, các pháp vượt ngoài diễn biến chế
định của tâm lý và vật lý, không bị giới hạn, chế định bởi sinh và diệt,
thì được gọi là Vô vi (Asamskrta). Các pháp hữu vi được gọi là Tục đế,
các pháp vô vi (như Niết Bàn) được gọi là Chân đế.
(IV) Nhận xét chung về Thắng pháp luận
Ở trên chúng ta vừa trình bày tóm lược
một số thể cách và các danh từ diễn đạt cơ bản về tâm lý học theo Thắng
pháp tập yếu luận của Nam phương Thượng Tọa bộ. Về các danh từ sẽ được
giải thích rõ chung với phần trình bày về Duy thức - Tâm lý học của Đại
thừa, trong trường hợp của những khái niệm đồng nghĩa. Ở đây, chỉ trình
bày tóm tắt một số nội dung "tư tưởng" cơ bản của luận thư này.
Trước hết, chúng ta thấy rằng, Thắng
pháp luận cắt nghĩa và giải minh tâm lý học qua bốn khái niệm cơ bản, đó
là : (a) Tâm (Citta), (b) tâm sở (Cetasika), (c) sắc (Rùpa) và (d) Niết
bàn.
Qua bốn khái niệm trên, con người theo
Thắng pháp luận trước hết là một con người bao gồm tâm thức (tâm lý) và
sắc pháp (vật lý). Điều này tương tự như hợp thể của 5 uẩn
(Pancaskandhas) trong Phật giáo Nguyên thủy, hay chính những giáo huấn
của Phật trong Nikàya. Tuy nhiên, trong năm uẩn, Sắc uẩn (Rùpa) thuộc về
sắc pháp (thế giới vật lý), 4 uẩn còn lại (thọ, tưởng, hành và thức)
thuộc về tâm pháp (thế giới tâm lý). Trên cơ sở của Tâm pháp này, luận
thư đã đi sâu vào phân tích thế giới của tâm lý và các hiện tượng diễn
biến của nó qua 89 hay 121 loại tâm và 52 tâm sở.
Sự phân tích này được dựa vào cảnh giới
(trạng thái) của tâm lý qua các cấp độ như : cõi dục, cõi sắc, cõi vô
sắc và siêu thế, hay được cụ thể hóa theo tác năng hoạt động như : tâm
thiện, tâm bất thiện, tâm vô nhân, tâm tịnh quang ; hoặc như : tâm
thiện, tâm dị thục, tâm duy tác - Theo tác năng dẫn khởi sự tái sinh hay
không... Bên cạnh đó, các loại tâm sở (tác năng của tâm vương) như :
xúc, thọ, tưởng, tư, mạng căn, nhất tâm và tác ý luôn luôn cùng hiện
khởi cùng với sự tri giác của mắt, tai, mũi, lưỡi và thân (5 căn). Với
sự phân tích chi tiết như thế, luận thư Abhidhamma đã xây dựng lên một
lộ trình tâm (Cittavithi) thông qua sự sinh và diệt trong 16 sát na tâm
:
1- Hữu phần chuyển động (Bhavangacalana)
(sinh khởi, rung chuyển)
2- Hữu phần dừng nghỉ (Bhavangupaccheda)
(sự đứng yên)
3- Ngũ môn hướng tâm (Pancadvàràvajjana)
(5 căn hướng tâm)
4- Nhãn thức (hay các thức)
(Cakkhuvinnana) (các thức hiện hữu)
5- Tiếp thọ tâm (Sampaticchana) (cảm
thọ)
6- Suy đạc tâm (Santirana) (suy thức)
7- Xác định tâm (Votthapana) (chuyển
động 7 sát na tâm)
8-14- Tốc hành tâm (Javana)
15-16- Đồng sở duyên tâm (Tadàlambana)
(cùng sinh khởi...)
Đây là lộ trình của tâm, nó là sự hiện
khởi và hoàn diệt của tất cả các hiện tượng và diễn biến tâm lý. Sự khám
phá này là một cống hiến vĩ đại của luận thư Abhidhamma cho ngành khảo
cứu Tâm lý học nói chung và Tâm lý học Phật giáo nói riêng.
Một điểm nổi bật kỳ vĩ khác, đó là khái
niệm Kiết sinh thức (Patisandhi). Khái niệm này diễn đạt về sự vận hành
của tâm trong điểm khởi đầu và kết thúc của đời sống con người, cũng còn
gọi là "ý niệm tối sơ" của sinh linh vạn hữu (Sentient beings). Nó là
sức mạnh các nghiệp thức (nghiệp lực) và vận hành dưới hình thức của
những năng lượng tâm lý (mental energy), duy trì đời sống tâm thức của
con người và các loài hữu tình khác. Mặc dầu vấn đề này vượt ngoài khả
năng tri giác của tri thức thường nghiệm, song, nó có thể được nhận thức
trong các cảnh giới của thiền định ở tầm cao. Do đó, sự hiểu biết về
Kiết sanh thức là điều cần thiết cho con người và cũng là điều mà các
triết gia luôn luôn tìm kiếm.
Con người và thế giới quan của con người
là Dục giới, tức thế giới của những sinh linh, khát vọng trần tục. Do
đó, muốn biết được hiện hữu của Sắc giới, Vô sắc giới và Siêu thế giới,
tất yếu phải đi vào hiện quán (thiền định), thuật ngữ gọi là Vipassanà
(Minh sát tuệ). Vì lẽ, những cảnh giới siêu hình đó vốn thoát hiện ngoài
tri thức, luận lý hay phán đoán của con người; nó chỉ có thể được cảm
nhận và hiển thị bởi trong thiền định. Và để đạt được những cảnh giới
đó, đòi hỏi con người một sự nỗ lực tối cao, vượt qua mọi cảm nhiễm trần
tục của mạng căn và ý thức phân biệt. Đây là nội dung của Định học
trong luận thư Abhidhamma.
Về mặt giải thoát, luận thư, như đã
trình bày, đề cập rất cụ thể về tác năng hoạt động của tâm theo khuynh
hướng thiện, bất thiện và vô nhân (tâm lơ lửng không tiến đến mục đích
cũng không lui về nguyên động lực). Tâm thiện là tâm đưa con người đến
gần sự giải thoát, tâm bất thiện đưa con người đến khổ đau, và tâm tịnh
quang (Sobhanacitta) hay tâm sáng suốt (tuệ giác) đưa con người đến giải
thoát, giác ngộ. Đây là nội dung của Giới học và Tuệ học trong luận thư
Abhidhamma.
Từ ba phương diện trên cho thấy rằng
Abhidhamma là nền tảng cơ cấu của tư tưởng triết học Phật giáo sau thời
Phật diệt độ. Điểm đặc biệt của nó là giải minh hiện hữu qua lăng kính
của đệ nhất nghĩa đế (Paramatthasacca), nghĩa là hiện hữu được nhìn từ
tự tướng của duyên sinh tương tác - cái căn nguyên để thiết lập nên một
tổng tướng, chứ không phải là từ cái diện mạo bao quát của mỗi mỗi sự
thể trông có vẻ như độc lập, cô liêu.
Và cái mục đích tối hậu của luận thư
Abhidhamma là dùng phương tiện hiện quán để đưa con người đi vào thăng
chứng Niết bàn như đã trình bày trong 4 tâm quả siêu thế. Đó chính là sự
đoạn diệt 14 bất thiện tâm hay nói cụ thể là : Tham, sân và si. Đây là
lộ trình tiêu biểu của tâm lý học Phật giáo được trình bày qua Thắng
pháp luận của Nam phương Thượng Tọa bộ.
B/ Đại cương về Câu xá luận (Abhidhamma -
kosa - sàstra)
Luận thư Câu xá, như đã đề cập, là một
luận thư tổng hợp và tiêu biểu cho Phật giáo Hinayana (Tiểu thừa), do
ngài Vasubandhu trước tác và biên soạn. Mục đích ra đời của luận thư là :
thống nhất giáo nghĩa của Hữu bộ, và xác định lập trường chính của Phật
giáo. Luận thư Câu xá đã được HT. Thích Thiện Siêu, một học giả có thẩm
quyền chuyên môn về Hán tạng, dịch ra tiếng Việt (54), chúng ta có thể
tìm hiểu cụ thể hơn. Ở đây, chỉ trình bày tóm tắt nội dung đại cương của
Câu xá.
Theo bộ Câu xá luận (30 quyển) do ngài
Huyền Tráng dịch, được phân loại như sau :
I- Câu Xá LuậnÕ
1/ Giới phẩm (2q) -> Nói về thể tánh
của hiện hữu.
2/ Căn phẩm (5q) -> Nói về tác năng
(dụng) của hiện hữu.
3/ Thế gian phẩm (5q) -> Quả Phân
tích
4/ Nghiệp phẩm (6q) -> Nhân rõ về
các
5/ Thùy miên phẩm (3q) -> Duyên pháp -
hữu vi
6/ Hiền thánh phẩm (4q) -> Quả Phân
tích
7/ Trí phẩm (2q) -> Nhân rõ về các
8/ Định phẩm (1,5q) -> Duyên pháp vô
vi.
9/ Phá ngã phẩm (1,5q) -> Luận về lý
vô ngã (anatta)
II- Hiện Hữu (Các Pháp) Qua Câu Xá
LuậnÕ
Hiện hữu - Thế giới tâm lý và vật lý,
hay thế giới của sự vật hiện tượng (The world of phenomena) của cả tâm
lý và vật lý cũng gọi là Nhất thiết pháp, được phân chia thành hai loại
là Hữu vi pháp và Vô vi pháp.
Hữu vi pháp là những hiện hữu được được
diễn ra trong vòng nhân quả, bị chi phối và giới hạn bởi không gian,
thời gian; bởi sinh, trụ, dị diệt; bởi phân ly phi tán v.v... Và ngược
lại, những hiện hữu vượt ngoài các vấn đề trên, thuộc về Vô vi pháp.
a) 72 Hữu vi pháp
1/ Sắc (rùpa) pháp : Có 11 loại : bao
gồm 5 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân), 5 trần (sắc, thanh, hương, vị,
xúc) và vô biểu sắc (hiện hữu của phi vật thể). Năm căn thuộc chủ thể,
nhận thức; 5 trần thuộc đối tượng được nhận thức.
2/ Tâm (citta) pháp : Có một loại là Tâm
vương (citta), nó hiện hữu vừa như một tổng thể phổ quát (universal),
vừa như một đơn vị nền tảng đặc thù (particular).
3/ Tâm sở (cetasika) pháp : Có 46 loại
:
- 10 Đại địa pháp : Thọ, tưởng, tư, xúc,
dục, tuệ, niệm, tác ý, thắng giải, thiền định (tam ma địa).
- 10 Đại thiện địa pháp : Tín, cần, xả,
tàm, quý, vô tham, vô sân, bất hại, khinh an, bất phóng dật.
- 6 Đại phiền não : Vô minh, phóng dật,
giải đãi, bất tín, hôn trầm, trạo hối.
- 2 Đại bất thiện : Vô tàm, vô quí.
- 10 Tiểu phiền não : Phẫn, phú, san,
tật, não, hại, hận, xiểm, cuống, kiêu.
- 8 Bất định pháp : ác tác, thụy miên,
tầm, tứ, tham, sân, mạn, nghi.
4/ Tâm bất tương ưng hành : Có 14 loại
:
Đắc, phi đắc, mạng căn, đồng phận, vô
tưởng định, vô tưởng quả, diệt tận định, sinh, trụ, dị, diệt, sanh thân,
cú thân, văn thân.
b) 3 Vô vi pháp :
Hư không, trạch diệt và phi trạch diệt.
75 pháp trên luôn luôn được diễn ra theo
các quan hệ mật thiết trong thế giới tâm lý của con người như sau :
(III)
4 Duyên 6 Nhân 5 Quả
Tặng thượng duyên
Sở duyên duyên Năng tác nhân -> Tăng
thượng
Đẳng vô gián duyên quả
Câu hữu nhân
Đồng loại nhân
Nhân duyên Tương ưng nhân Sĩ dụng quả
Biến hành nhân Đẳng lưu quả
Dị thục nhân Dị thục quả
Ly hệ quả
Về các danh từ (chuyên môn) trên, sẽ
được giải thích cụ thể trong phần triết học Duy thức . (xem Tam thập
tụng luận giải - phần sau)
Trong các phẩm "Thế gian", "Nghiệp" ...
luận thư cũng đề cập khá rõ về Nhân quả - Nghiệp báo, động cơ của luân
hồi qua 12 nhân duyên, và các qui luật chi phối hữu tình thế gian (The
world of sentient beings)...
Ở các phẩm "Hiền thánh", "Trí",
"Định"... luận thư cũng biện biệt rõ về lộ trình tâm qua nhiều mức độ
thấp, cao...
(V) Nhận Xét ChungÕ
Qua phần giới thiệu cấu trúc của Câu xá
luận, một luận thư tiêu biểu của Nhất thiết hữu bộ (gọi tắt là Hữu bộ),
chúng ta thấy rằng giữa luận thư Câu xá và Thắng pháp có những điểm
giống nhau trong quan điểm về con người và thế giới. Sự giống nhau đó
nằm ngay tại những phần quan trọng nhất của luận thư như : Tâm, tâm sở,
sắc pháp, tâm thiện, tâm bất thiện, nhân quả lưu chuyển và hoàn diệt, và
Niết bàn theo bốn quả vị Thanh Văn (Sàvaka). Còn sự khác biệt chỉ diễn
ra ở cách trình bày là chính mà không phải ở nội dung.
Điều này cho thấy cả hai luận thư tiêu
biểu trên ảnh hưởng rất sâu đậm những giáo huấn của Phật được trình bày
cụ thể trong kinh tạng Nikàya. Hay nói đúng hơn, các luận thư ra đời như
là những tổng hợp ngắn nhất và được hệ thống hóa thành những khán thư
cô kết, hiện thân từ Nikàya. Cho đến các luận thư của Mahayàna (Đại thừa
Phật giáo) (sẽ trình bày ở phần nội dung chính của tác phẩm này) cũng
đều như vậy. Sự khác biệt duy nhất trong các hệ thống luận thư Phật giáo
là sự mở rộng hoặc thu hẹp một số khái niệm "cổ điển" được Đức Phật dạy
trong Nikàya hay kinh tạng của Phật giáo Nguyên thủy mà thôi. Tất
nhiên, đó là những khái niệm rất cơ bản.
Một điểm khác cũng cần ghi nhận đó là
tại sao các luận thư được xem là những tác phẩm cô kết ? Bởi lẽ, thời
Đức Phật còn tại thế, đối tượng thuyết giáo, địa điểm thuyết giáo ...
của Ngài hoàn toàn khác nhau. Do đó, mỗi đối tượng cần có những giáo lý
riêng lẻ, đặc thù như kích cỡ của những đôi chân cần có những đôi giày
lớn, nhỏ khác nhau. Vì thế, những lời dạy của Phật trong suốt 49 năm là
những pháp thoại tùy thuộc vào tình thức và trình độ của chúng sinh, nó
mang tính cách thực tiễn, có lúc sâu sắc khó hiểu (đối tượng trí thức),
có lúc mộc mạc đơn sơ dễ cảm nhận (đối tượng bình dân), và có lúc chỉ
dành riêng cho bậc thánh trí (A La Hán, Bồ Tát, Thiên Chúa, thần linh),
như những pháp thoại mà Phật giảng trên cung trời, dưới long cung, hay
ngoài hải đảo xa xôi... và được ghi lại bởi các Bồ Tát. Điều này vượt
ngoài sự hiểu biết của người trần, những kẻ cuồng si đang lang thang
dong ruỗi với đói, lạnh, nóng, khát, được, mất, hơn, thua...
Do đó, mỗi luận thư được xem như một tập
đại thành về một vấn đề nào đó được truyền dạy bởi Đức Phật. Đây là ý
nghĩa "cô kết" hay "hệ thống hóa" của luận thư.
Một điều khác nữa là luận thư không được
lập thành theo một tiêu chí nhất định và chung nhất, mà ngược lại, nó
hoàn toàn tùy thuộc vào nhân duyên xứ sở, đất nước, thời đại, con người
..., đây là lý do khác biệt, đồng - dị của luận thư.
Tuy nhiên, những gì được nói ra, được
làm nên bởi luận thư đều hướng về một mục tiêu duy nhất, đó là đưa con
người (chúng sinh của trí tuệ) đi vào hiện quán - thiền định, để từ đó
thoát ly mọi sầu, bi, khổ, ưu, não... Đây là con đường truyền thống, duy
nhất của Phật giáo khả dĩ "đưa người sang sông".
Trên đây chúng ta vừa lược khảo rất khái
quát về hệ thống luận thư của Thượng Tọa bộ và Nhất thiết hữu bộ thuộc
Phật giáo Hinayana. Điều này được xem như là tiền đề để đi vào khảo sát
và phân tích luận thư của Đại thừa (Mahayàna) theo con đường tìm hiểu
Tâm lý học - Phật giáo. (55)
II.2.Chương 2:
Đại cương Tâm lý học Phật giáo
II.2.1 Giới thiệu 30 bài tụng Duy Thức
của Vasubandhu
Ngài Vasubandhu (Thế Thân) em ruột của
Luận sư Asanga (Vô Trước), sinh sau Asanga 20 năm vào cuối thế kỷ thứ IV
T.L.
Lúc đầu Ngài theo học và xiển dương giáo
nghĩa của Hữu Bộ (Sarvastivada) tại trung tâm Cashmire, thuộc Bắc Ấn.
Đây là một trung tâm phồn thịnh truyền bá tư tưởng của Hữu Bộ, và những
ai không thuộc về Hữu Bộ thì không được vào học tại trung tâm này. Nhưng
sau đó, Vasubandhu đã cải trang thành học trò của Hữu Bộ và theo học
giáo nghĩa này. Sau thời gian học tập và nghiên cứu tại Cashmire,
Vasubandhu biên soạn bộ Abhidamma Kosasàtras, như đã trình bày ở phần
trước, là một bộ luận thư xuất sắc tổng hợp tinh hoa giáo nghĩa của Hữu
Bộ. Và sau khi tác phẩm được công bố, các nhà Hữu Bộ vô cùng vui sướng
vì cho rằng họ đã có được một môn đệ ưu tú, xuất sắc, nhưng không ngờ
rằng đó chính là người đồ đệ của Santràntikà (Kinh Lượng Bộ) cải trang.
Nhưng dù sao đi nữa thì tác phẩm của Vasubandhu vẫn được xem là luận thư
tiêu biểu của Hữu Bộ và được truyền tụng suốt hơn 16 thế kỷ qua.
Về sau, Vasbandhu chế tác bộ Duy Thức
Tam Thập Tụng (30 bài tụng về tâm lý học Phật giáo). Tác phẩm này rất
nổi tiếng và được truyền tụng cho đến ngày nay.
Theo nhiều ý kiến, tuy nhiên, tác phẩm
30 bài tụng Duy thức của ngài Vasubandhu, cũng như những tác phẩm Duy
thức của ngài Huyền Trang và Khuy Cơ (một môn đệ xuất sắc của Huyền
Trang) là Đại thừa chưa tuyệt đối (hay là Quyền thừa). Về sau, ngài Pháp
Tạng (người Trung Hoa), một hành giả chuyên môn về Hoa Nghiêm
(Avatamsaka) đã nỗ lực kết hợp tư tưởng Hoa Nghiêm với Duy thức học nhằm
làm cho Duy thức trở thành giáo nghĩa Đại thừa - Viên giáo. (55)
Tuy nhiên, ở đây chúng tôi sẽ tập trung
vào nghiên cứu 30 bài tụng Duy thức của Luận sư Vasubandhu, và phần giải
minh sẽ được y cứ trên cơ sở tư tưởng của Nhiếp Đại thừa luận (Mahàyàna
samparigraha sàstra) của Luận sư Asanga, Thành Duy thức luận
(Vijnaptimàtratàsiddhi - sàstra) và Bát thức qui củ tụng của ngài Huyền
Trang và một số tư tưởng căn bản của Hoa Nghiêm theo sớ giải của ngài
Pháp Tạng. (56).
II.2.2 Nội dung của 30 bài tụng Duy
thức
Trong phần này, chúng tôi dịch và phụ
chú Anh ngữ 30 bài tụng Duy thức. Độc giả cần đọc đi đọc lại nhiều lần
nội dung này để theo dõi tiến trình phân tích tâm lý ở phần sau. Phần
Anh ngữ được trích từ bản "Treatise in Thirty Verses on
Mere-Consciousness" của Swati Ganguly (57).
(01)
"Do giả lập nên nói có Ngã và Pháp [chủ
thể và đối tượng], có tất cả sự vật hiện tượng, [nhưng] tất cả Ngã và
Pháp đó đều nương vào thức mà sinh ra ; [bản chất của] thức năng biến có
ba [đặc tính]".
(Because the ideas of the self [Àtman]
and the elements [Dharma] are false, the phenomenal appearances of all
kinds arise. These appearances are dependent upon the development
[Parinàma] of the consciousness. This development is of three kinds).
(02)
"[Đó là] Dị thục và Tư lượng cùng với
Liễu biệt cảnh. Trước hết là thức A-lại-da, cũng gọi là Dị thục hay Nhất
thiết chủng".
(The maturing consciousness [Vipàka],
the consciousness that deliberates [Manana], and the consciousness that
discriminates [Vijnapti] the spheres of objects. The first is the
storehouse - consciousness [Àlayavijnàna] which is also called
retributive consciousness [Vipàkavijnãna] and consciousness carrying all
seeds [Sarvabijaka]).
(03)
"[Đặc tính của nó là] bất khả tri, chấp
thủ và duy trì, [nhưng] trong sự biểu biệt các xứ [các quan năng của căn
thân] nó thường biểu hiện cùng với xúc, tác ý, thọ, tưởng và tư ; [và
trong các thọ] nó chỉ tương ưng với xả thọ".
(It is not aware of what it "grasps" and
"receives", of its place and of its discriminatory power. It is always
associated with touch, attention, sensation, thought and volition. But
it is always associated with sensation of indifference only".
(04)
"Thức này và các tâm sở của nó là vô phú
và vô ký, [nó] trôi chảy như dòng sông, [khi đạt đến] quả vị A La Hán
[thì tất cả] đều buông xả".
(It is unobscured and undefined. The
case of Mental Contact is also like this. It is perpetual evolution like
a violent current, and is renounced in the state of an arhat).
(05)
"Thức năng biến thứ hai gọi tên là Mạt
na, nương tựa vào và duyên với thức [A lại da] kia, nên tánh và tướng
của nó là suy nghĩ [tư lượng]".
(The second evolving consciousness is
called manas. It functions with storehouse - consciousness as its
support and object. It has essentially the characteristics of
"Cognition").
(06)
"[Nó] thường biểu hiện cùng với 4 phiền
não, [đó là] : ngã si, ngã kiến, ngã mạn và ngã ái, [cũng như] cùng với
xúc... vân vân..."
(It is always accompanied by four
defilements, i.e. ignorance about self, belief in self together with
pride in self, and love of self. It is associated also with others
[mental associates] like touch etc...)
(07)
"Tánh của thức Mạt na là hữu phú vô ký,
sinh khởi ở đâu thì chấp ngã ở đó, [cho đến khi đạt đến] quả vị A La
Hán, Diệt tận định và đạo xuất thế thì nó không còn [hiện hữu] nữa".
(It belongs to the difiled-undefiled
category ; it works along the dhàtu or bhumi in which the sentient being
is born and attached ; it ceases to exist at the stage of arhat, in the
meditation of annihilation and on the supramundane path).
(08)
"Thức năng biến thứ ba có sáu loại sai
khác, tánh, tướng đều phân biệt [cụ thể] thiện, bất thiện, và vô ký".
(This third development of consciousness
has six different categories ; perception of the object is the nature
and characteristics of these six consciousness ; they are good, bad, and
neither of them).
(09)
"Đây là các tâm sở : biến hành, biểu
biệt [hay biệt cảnh], thiện, phiền não, bất định, tương ưng với ba
thọ".
(They are associated with universal
mental factors, with the special and good metal factors, with the
defilements ; along with the secondary defilements and the indeterminate
mental factors ; all these are associated with the three feelings).
(10)
"Trước, tâm sở biến hành là Xúc v.v...;
rồi, tâm sở biệt cảnh là : Dục, Thắng giải, Niệm, Định, và Huệ. Cảnh bị
duyên không giống nhau".
(First, universal mental factors are
Mental Contact and so forth ; next, special mental factors, i.e. Desire,
Resolve, Memory, Meditation and Wisdom : the objects caused by the
special mental factors are different).
(11)
"Thiện tâm sở là : Tín, tàm, quí, vô
tham, vô sân, vô si, tinh cần, khinh an, không phóng dật, hành xả và bất
hại".
(The good mental factors are belief,
sense of shame, sense of integrity, the three roots of non-covetousness
and so forth ; diligence, composure of mind, vigilence, equanimity, and
non-injury).
(12)
"Phiền não là : Tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến ; tùy phiền não là : phẫn, hận, phú, não, tật, xan".
(The defilements are covetousness,
anger, delusion, conceit, doubt and false views ; the secondary
defilements are fury, enmity, hypocricy, vexation, envy and parsimony).
(13)
"Cuống, siểm và hại, kiêu, vô tàm và vô
quí, trạo cử và hôn trầm, bất tín và giải đãi".
(Deception, duplicity, harmfulness,
pride, shamelessness, non-integrity, restlessness, conceit, unbelief and
indolence).
(14)
"Phóng dật và thất niệm, tán loạn và bất
chánh tri ; [và bốn thứ] bất định là : hối, miên, tầm và tư. Tầm và tư
có thể chia thành hai loại".
(Carelessness, forgetfulness,
distraction, thoughtlessness, the indeterminate mental qualities are
called remorse, drowsiness, reasoning and deliberation, these two can be
of two kinds).
(15)
"Nương vào thức căn bản [A lại da], năm
thức tùy duyên hiện, hoặc chung hoặc chẳng chung, như sóng nương vào
nước [mà hiện khởi]".
(Depending on the root consciousness,
the five consciousness originate in accordance with various conditions,
sometimes together, sometimes separately, just as waves originate on
water).
(16)
"Ý thức thường hiện khởi, trừ trong cõi
vô tưởng và hai định vô tâm, ngủ mê hay chết giả".
(The thought consciousness manifests at
all times, except for those who are born in the "Heaven without
Thought", for those in the two mindless meditations, and for those who
are born in the states of unconsciousness).
(17)
"Các thức này chuyển biến [thành] phân
biệt và [đối tượng] bị phân biệt; [và rằng], vì cả hai đều là không nên
[nói] tất cả là Duy thức".
(The various consciousness manifest in
two divisions, perception and the object of perception. Because of this,
all these do not exist. Therefore, all is Mere-Consciousness).
(18)
"Do tất cả hạt giống trong Tàng thức,
biến chuyển như vậy và như vậy; vì sức biến chuyển đó mà sanh ra thế
giới biểu biệt và đa thù".
(From the consciousness containing the
seeds, such and such development occur; through the power to mutual
influence, such and such distinction are produced).
(19)
"Do các tập khí - nghiệp, và các chủng
tử chấp thủ của cả năng và sở, nên khi thân Dị thục qua đời thì tiếp tục
tái sinh".
(The "force of habit" of previous action
together with the "force of habit" of the two concepts, engenders
succeeding retribution after the previous retribution has been
exhausted).
(20)
"Do tự tính giả lập nên chấp tất cả là
thật. Tự tánh giả lập [hay biến kế] đó, tự nó không thật có".
(From such and such imaginations, such
and such things are imagined. What is apprehended by this imagination,
has no self-nature).
(21)
"Còn tự tính tùy thuộc [hay y tha khởi]
do các duyên mà sinh. [Bản chất của] tự tính tuyệt đối [viên thành thật]
và tùy thuộc [y tha] nó xa lìa mọi hình thái giả lập [biến kế]".
(The self-nature that arises from
dependence on others, is the [act of] discriminations produced by causes
and conditions ; the nature of ultimate reality is different from this,
as the former is perpetually free from the former nature [i.e. imagined
nature]).
(22)
"[Tự tính] tùy thuộc và tuyệt đối vừa
khác vừa không khác, như tính chất vô thường, không thể thấy rằng đây
[là tuyệt đối] và kia [là tùy thuộc]".
(Therefore the nature of ultimate
reality and the nature of dependence on others are neither different nor
non-different, just as impernanence is neither different nor
non-different from the impermanent dharmas. As long as this (nature of
ultimate reality) is not perceived, that (nature of dependence on
others) is also not perceived).
(23)
"Nương vào ba tính này mà lập thành ba
vô tính, nên bản ý [mật ý] của Phật nói rằng tất cả các pháp là vô
tính".
(On the basis of these threefold
natures, threefold natures of naturelessness are established. Therefore
the Buddha preached with a secret that all dharmas are devoid of
self-nature).
(24)
"Trước hết là "tướng vô tánh", thứ hai
là "vô tự nhiên tánh", và sau cùng là xa lìa mọi chấp trước, tánh chấp
ngã và pháp".
(The first one is with regard to
characteristics ; the second is with regard to origination ; the last is
far away from the first [nature of imagination] in which the natures of
Àtman and Dharma are conceived).
(25)
"Như thế là "Thắng nghĩa" của các pháp
cũng gọi là "Như tánh", vì tánh thường như vậy, nên [Thắng nghĩa tánh]
là Duy thức thật tánh".
(This absolute truth about all the
dharmas is also the absolute Suchness. Because it is always thus in its
nature, it is the real nature of Mere-Consciousness).
(26)
"Từ khi sinh thức chưa hiện khởi cho đến
khi hiện khởi và cầu trụ Duy thức tánh, [trong thời gian đó] chưa thể
diệt trừ hai sự chấp thủ còn ngủ yên".
(Until the consciousness to seek to
reside in the nature of mere-consciousness has not arisen, the
attachments from the twofold concepts cannot be suppressed)
(27)
"[Nếu] hiện tiền còn ý niệm về "Duy thức
tánh" ; và, vì còn có sở đắc như thế, thì không thực thụ an trú trong
Duy thức".
(One who takes something before him as
an object and declares it as the nature of the Vijnaptimàtratà, since he
has something in his possession he is not really residing in the
Vijnaptimàtratà).
(28)
"Cho đến khi nào đối tượng [bị duyên] và
trí [năng duyên] đều được buông xả, khi đó đã xa lìa hai sự chấp thủ và
an trú trong Duy thức".
(When in perceiving the sphere of
objects, wisdom [jnana] no longer conceives any idea of object, then
that wisdom is in the state of Vijnaptimàtratà. Because both the object
to be grasped and the act of grasping by consciousness are not there).
(29)
"Không sở đắc và không thể tư nghì, đó
là trí xuất thế [vô phân biệt trí] ; vì đã xa lìa thô [phiền não chướng]
và trọng [sở tri chướng], nên chứng đạt chuyển y".
(Not conceivable and not comprehensible
is this supramundane wisdom ; because of the abandonment of the two-fold
grossness or incapabilities revolution at substratum or transformation
of Àlayavijnàna into wisdom is obtained).
(30)
"Đây là cõi vô lậu, bất tư nghì, thiện,
thường, an lạc, giải thoát thân, Đại Mâu Ni, danh pháp".
(Such pure dhàtu is unimaginable, good
and eternal. It is a state of bliss, an "emancipated body", called the
famous law of the great sage [Sàkyamuni]).