Chương 3.
Không sợ hãi cái chết
Tịnh Xá
Ngọc An, Sacramento,
Hoa Kỳ, 25/ 06/ 2005.
CON TÀU TITANIC
Cách đây vài hôm, tại San Jose, Hoa Kỳ, tôi có
chia sẻ bài pháp thoại về cách đối diện cái chết. Tôi phân tích bốn nguyên nhân
dẫn đến cái chết là tuổi thọ kết thúc, nghiệp chấm dứt, tuổi thọ và nghiệp kết
thúc và hết do tác động điều kiện hoàn cảnh như thiên tai, tai nạn, bị sát
hại, quyên sinh v.v…
Những trường hợp chết trái
ngang, kinh điển Phật giáo gọi là hoạnh tử, dân gian gọi là bất đắc kỳ tử.
Những cái chết đó thường mang lại nỗi khổ, niềm đau rất lớn cho người thân, gia
đình và bè bạn. Trong chúng ta, ai đã chứng kiến cảnh ông bà, cha mẹ, con cái,
hoặc người thân qua đời trong tình huống ấy, thường để lại nhiều nuối tiếc và
có khuynh hướng không chấp nhận cái chết diễn ra như một sự thật.
Ai không chấp nhận cái chết là
một sự thật thì nỗi khổ, niềm đau sẽ làm cho dòng cảm xúc gia tăng rất lớn.
Đứng trước cái chết, nhiều người đã hoang mang, không biết chuẩn bị cách nào
cho người thân của mình ra đi được nhẹ nhàng, để họ có thể sanh về cảnh giới an
lành như cảnh giới Tây phương Cực Lạc của đức Phật A-di-đà, thế giới Đông
phương của đức Phật Dược Sư, hoặc tái sanh lại cõi người đầy đủ phước báu.
Xem phim con tàu Titanic, có một
tình tiết đáng lưu tâm là con tàu đang chìm dần xuống đại dương giữa mùa đông
giá lạnh. Biết cái chết gần kề, mọi người trên tàu vô cùng bấn loạn, hoảng hốt,
tranh giành sự sống trong từng li, từng tấc. Số người trên tàu quá đông, mà tàu
đến cứu hộ chỉ vài chiếc nhỏ. Họ sẵn sàng sát hại lẫn nhau để giành chỗ trên
tàu cứu hộ. Có người giành sự sống với ngay người thân của mình. Trong sự sợ
hãi, khủng hoảng trước cái chết, con người muốn tìm sự sống là nhu cầu vô cùng
bức thiết, đôi khi phải trút nỗi khổ đau cho người thân của mình.
Trong lúc mọi người hoảng loạn,
vị Linh mục với quyển kinh thánh trên tay, cùng với khoảng vài chục tín đồ,
chụm lại đọc kinh cầu nguyện. Họ làm như vậy để trấn an, vượt qua nỗi sợ hãi.
Vị Linh mục cùng các tín đồ chăm chú đọc kinh cầu nguyện, nhưng trên gương mặt
họ vẫn hiện rõ sự sợ hãi và khổ đau. Như vậy, họ đọc kinh cầu nguyện, không
trong trạng thái bình tĩnh, mà đọc kinh cầu nguyện trong nỗi sợ hãi, lo âu cái
chết đến với mình.
Lúc chiếc thuyền từ từ chìm
xuống, một số người đã bị nhấn chìm, những người đọc kinh thánh vẫn hy vọng
Chúa trời sẽ đến cứu họ thoát chết. Nhưng điều ấy đã không xảy ra. Cuối cùng,
họ cũng bị lặn hụp trong biển nước. Có người đã được vớt lên thuyền cứu hộ rồi
chết, bởi giá lạnh mùa đông khắc nghiệt giữa biển khơi, cộng với nỗi sợ hãi làm
cho họ không vượt qua được cái chết. Số đông trên tàu ấy là người giàu có. Đấy
cũng là con tàu cộng nghiệp.
Trạng thái tâm lý nào đã làm cho
con người khổ đau như vậy? Trên tàu có nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo thuần
thành, nhưng do không chuẩn bị tâm lý, họ không chấp nhận sự thật đang diễn ra
- sự chết.
Thông thường, người có nhiều mơ
ước, chương trình, hoạch định chưa thực hiện được, bị thôi thúc như một động
lực, không chấp nhận sự thật đang diễn ra trước mắt. Dĩ nhiên, không chấp nhận
sự thật diễn ra gần kề thì họ tìm cách thoát thân. Trong số ít người may mắn
sống sót trên chuyến tàu ấy, có cô Rose. Cô kể lại câu chuyện giữa cô và anh
Jack, người yêu của cô, lúc con tàu bị chìm. Mối tình đặc biệt này đã khiến họ
phải tìm sự sống một cách mãnh liệt. Và rồi chỉ mình cô được sống, còn chàng
Jack ấy cũng vĩnh viễn ra đi để hiến dâng sự sống cho Rose. Âu cũng là nghĩa cử
đẹp trước cái chết.
SỢ HÃI TRÓI BUỘC CÁI CHẾT
Theo nhà Phật, khi con người
tiếc nuối việc gì đó, như tiếc nuối cảm xúc tình yêu, tình vợ chồng, tình cha
mẹ, tình con cái, hoặc rộng hơn là tình yêu quê hương, tổ quốc, hay một tình
thương nào đó, có thể kéo dài tình huống gây ra cái chết. Người chết trong
trạng thái đó, sẽ gặp khó khăn trong việc tái sanh, siêu thoát. Nếu họ là người
có phước lực lớn trong quá khứ, cộng với tình yêu cô đọng trong tâm, hai yếu tố
này giúp họ có thể vượt qua cái chết. Tuy tình huống ấy hiếm khi xảy ra, nhưng
đó là một sự thật.
Chúng ta biết rằng, quy luật
sinh tử là dựa trên hành động nghiệp, đặc biệt là nghiệp về tuổi thọ. Nghiệp về
tuổi thọ không còn thì ta phải ra đi. Ai không chấp nhận sự thật đó thì nỗi
khổ, niềm đau xuất hiện. Sự khổ đau biểu hiện như cặp mắt đờ đẫn mất thần, gương
mặt tái xanh, tay chân run rẩy, hoặc gào thét, tìm mọi cách níu kéo sống. Trong
tình huống đó, chỉ những người có đủ ý chí, nghị lực mới có thể tồn tại, hoặc
do phước lực tuổi thọ quá lớn, họ mới có thể vượt qua cái chết. Còn những người
phước lực yếu kém, không đủ nghị lưc, ý chí, phải chịu cộng nghiệp với những
người khác. Cộng quả trong bộ phim này là nhiều người trên tàu Titanic cùng
chết chìm giữa biển khơi trong mùa đông lạnh giá.
Điều tốt nhất trong tình cảnh ấy
là thái độ bình tĩnh phát xuất từ kết quả tu học. Nếu là hành giả pháp môn Tịnh
độ, ta tạo ra chánh niệm, nhất tâm bất loạn để vượt qua nỗi sợ hãi bằng cách
chuyên nhất vào danh hiệu Phật A-di-đà, không để tâm loạn động thì nỗi sợ hãi
chắc chắn sẽ không có mặt. Sau khi chết ta sẽ được tái sanh vào cảnh giới an
lành. Việc có tái sanh về Tây phương Cực Lạc hay không, không quan trọng, mà
quan trọng là khi ta qua đời trong trạng thái an lành thì việc tái sinh trong
tương lai sẽ mang lại cho ta một đời sống tinh thần bình yên.
Nếu là hành giả Thiền tông, lúc
ấy ta nên quán niệm hơi thở, chuyên nhất giữa thân và tâm, không cho chúng tách
rời nhau, duy trì dòng chánh niệm tỉnh thức thì an lạc sẽ có mặt, ta vững chãi
trước biến cố, mặc cho chiếc tàu chìm xuống. Còn trong lúc ấy, nếu ta sợ hãi, hoảng
loạn thì trong lần tái sanh kế tiếp, ta sẽ là người dễ bị loạn động, mất bình
tĩnh, đứng núi này trông núi nọ... Phật dạy, hãy luôn luôn giữ chánh niệm, bình
tĩnh trong mọi tình huống, mọi biến cố xảy ra, sự thăng trầm, vinh nhục của
cuộc sống, dù hạnh phúc hay khổ đau, nhất là sự hiện diện tích tắc giữa sự sống
và cái chết.
Tại sao đức Phật dạy chúng ta
trước khi chết phải giữ cho trạng thái bình tĩnh? Bởi giá trị của cuộc sống
không nằm ở thời gian con người có mặt trong cuộc đời lâu hay mau, nhiều hay ít
mà là ở cách thức con người sống như thế nào, và sự có mặt của con người phản
ánh dòng chảy của nghiệp từ nhận thức, hành động, lời nói cho đến việc làm,
cách ứng xử và nghệ thuật giao tế, sinh hoạt gia đình và cộng đồng xã hội.
Chúng ta cần để ý đến hai yếu tố
quan trọng, đời sống đạo đức và tuệ giác. Yếu tố đạo đức làm cho con người sống
định tĩnh. Ví dụ, thực hiện giới không sát sinh trong năm giới của Phật giáo là
tôn trọng sự sống của con người và các loài động vật, bởi đời sống của các loài
đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hạnh phúc, tuổi thọ và qui trình
giao thoa sống trong vũ trụ bao gồm con người. Chúng ta bảo vệ sự sống theo
hướng không sát sanh bao gồm bảo vệ sự sống theo chiều kích tích cực khác như
chăm sóc người neo đơn, nghèo khó, tật bịnh và các loài động vật khác v.v… Khi
ta không gây nghiệp sát sinh với con người, ta không sợ người khác trả thù. Do
đó, sự sợ hãi về sự trả thù sẽ vắng mặt.
Tương tự, nếu ta chưa từng chiếm
hữu tài sản của người khác hay xâm phạm tiết hạnh của ai, mà còn bảo vệ tài
sản, bảo vệ hạnh phúc gia đình của mình và của người, ca ngợi đời sống chung
thuỷ thì ta không sợ hãi về lời thị phi, chỉ trích, hoặc sự cô lập của cộng
đồng...
Nếu ta sống theo đạo đức, ta sẽ
không sợ hãi bất kỳ ai và ở nơi đâu. Nhờ đó, ta sống được an nhiên, tự tại giữa
cộng đồng, làng xóm. Đời sống đạo đức tạo cho ta chất liệu của sự an nhàn,
thảnh thơi và hạnh phúc. Cũng như khi tu theo Tịnh độ tông, niệm Phật đúng
phương pháp, tông chỉ của kinh A-di-đà thì
ta sẽ đạt được trạng thái thiền chỉ, tức là tâm ta vắng lặng, yên tĩnh. Trạng
thái tâm định tĩnh này giúp ta không bị rơi vào sợ hãi, khủng hoảng trước những
nguy cơ, dù cho ta đang trong tình huống thập tử nhất sinh.
Chiều kích tâm lý khác là trạng
thái vô vị và cô đơn trước cái chết. Nhiều người không chấp nhận cái chết, bởi
họ nghĩ rằng, chết là mất tất cả, không còn bè bạn, không còn tình thân gia
quyến, phải nằm một mình ngoài đồng hoang, mông quạnh, hoặc người nhà đem hoả
táng, chỉ còn cái lọ tro nhỏ bé gởi vào chùa, họ cũng chẳng gần gũi được một
thân nhân nào.
Trong nền văn hoá Trung Hoa,
tình cảm giữa người sống và người chết được duy trì khá tốt. Đó là cách thức
nuôi dưỡng tình cảm giữa người sống và người đã khuất. Mặc dù người thân của họ
đã qua đời rất lâu, nhưng đến ngày giỗ, ngày Thanh minh, con cháu họ đều đến
viếng thăm, quét dọn, sơn phết mộ phần cho sạch đẹp, mới mẻ. Theo nền văn hóa
này, làm như vậy để người chết có được niềm vui, niềm hạnh phúc là có con cháu
tưởng nhớ, chăm sóc, thương yêu… Những nền văn hoá khác khó chấp nhận sự cô
đơn, hiu quạnh khi nghĩ đến cái chết phải xa rời tất cả. Vì thế, có người đến
tuổi già, cảm thấy mình “gần đất xa trời”
đến chùa xin một nơi để cốt gần tượng đức Phật Di-đà hoặc gần chỗ thờ đức Địa
Tạng. Họ làm điều đó vì không biết sau khi mình qua đời, có được con cháu quan
tâm hay không? Có người viết di chúc để lại, mong muốn con cháu đừng chôn họ
nơi đất thấp, vì họ sợ nước ngập ngột ngạt, khó thở trong lúc cô đơn, lạnh lẽo.
Có người còn bảo rằng, khi họ chết đừng hỏa thiêu vì khi thiêu lửa rất nóng, họ
không chịu nổi, khởi lòng sân hận, đau khổ.
VÔ NGÃ VỚI THI THỂ
Trong nền văn hoá Ấn Độ và Tây
Tạng, có phong tục điểu tang, tức sau khi chết, thân xác được người thân đem
vào rừng treo lên cành cây, hoặc đặt dưới gốc cây để cho các loài chim, loài
thú rừng đến ăn thịt. Ở xứ sở ấy, có người chuyên nghề âm công, lóc thịt người
chết ra từng mảnh, rồi đem vào rừng rải nhiều nơi, hay treo lên các cây cao...
để cho các loại thú lớn, chim nhỏ đều được lãnh phần. Những dân tộc không sống
trong nền văn hoá đó, họ không những không chấp nhận, mà còn thắc mắc, vì sao
lại có những tập tục đối xử bất nhẫn với người chết đến thế? Đã chết rồi mà còn
bị banh da, lóc thịt, làm mồi cho các loài thú. Phong tục ấy quá dã man!
Nếu hỏi những người sống trong
phong tục ấy, họ sẽ trả lời rất hay rằng, thân thể con người chỉ là do tứ đại
hợp thành (gồm đất, nước, gió, lửa). Có thứ thuộc chất rắn như thịt, xương,
gân, có thứ thuộc chất lỏng như máu, nước dịch, nước tiểu, có thứ thuộc về
nhiệt lượng, có thứ thuộc về sự vận hành của không khí như hơi thở ra vào. Đến
khi chết, sự vận hành của không khí không còn, nhiệt lượng tiêu mất, chỉ còn
lại chất rắn và chất lỏng. Thân xác khi đã chết không còn lợi ích gì cho cuộc
đời nữa, nếu không đem nó giúp cho các loài thú một bữa ăn thì cái xác chết
cũng sẽ thối rữa và trở về với cát bụi một cách vô nghĩa mà thôi.
Do quan niệm như vậy, nên khi
trong gia đình có người chết, họ tìm cách bố thí thân xác cho các loài động
vật, họ tin rằng, làm như vậy là tạo điều kiện cho người chết gieo nghiệp phước
báu, nhường cơm xẻ áo cho các loài động vật, hầu mong kiếp sau, người ấy sẽ có
được đời sống sung túc, đầy đủ hơn.
Chính nền văn hoá đã giáo dục
người dân ý thức như vậy, cho nên trong lúc lâm chung, họ cảm thấy an nhiên, nhẹ
nhàng. Họ không bị đối diện với cái chết vô vị và cô đơn. Vô vị nghĩa là không
còn công dụng gì trong cuộc đời này, không có đóng góp gì cho xã hội, cho gia
đình, cho bản thân. Do vậy, việc hiến thân xác cho các loài động vật, tạo cho
người sắp chết có cảm giác rằng, đến giờ phút cuối cùng của cuộc đời, họ vẫn
mang lại lợi ích cho chúng sinh khác, ít nhất là cho các loài động vật. Từ đó,
họ không còn nỗi sợ hãi trước cái chết.
Nền y học tiên tiến ngày nay
khuyến khích mọi người hiến xác hay hiến các bộ phận của cơ thể để làm thí
nghiệm, hoặc cấy ghép cho người có nhu cầu. Trên thế giới, đã có nhiều người
hưởng ứng lời kêu gọi này. Họ làm tờ tâm nguyện hiến xác gửi đến các cơ quan
chuyên trách, đồng thời thông báo nguyện vọng đến người thân, để khi họ sắp chết
mọi việc được thuận lợi. Bởi họ hiểu rằng, nếu không hiến dâng những chi phần
đó thì nó cũng sẽ bị thiêu hủy.
Ngày nay, các nhà nghiên cứu
khoa học rất cần những thi thể vừa tắt thở để làm các thí nghiệm, hoặc cấy ghép
cho những người không may bị hư hỏng các chi phần đó. Nhất là trong các trường
Đại học Y khoa rất cần tử thi cho các sinh viên thực tập, có thêm kiến thức
thực nghiệm trên thi thể con người, để họ trở thành những bác sĩ giỏi trong
tương lai. Tóm lại, việc hiến xác cho khoa học là một việc làm có ý nghĩa, mang
lại lợi ích thiết thực cho đời sống nhân loại.
Người hiến xác phải có bản lĩnh
kiên định, hiểu biết sự đóng góp của mình cho khoa học là cần thiết và lợi lạc
cho nhiều thế hệ tương lai. Có người khi được khuyến khích hiến xác thì hăng
hái, sau đó họ lại hoảng hốt, lo sợ, khi hình dung đến việc mổ xẻ thi thể mình,
lấy đi quả tim, quả thận, con mắt để cấy ghép cho người khác. Nếu người hiến
xác chưa hiểu giá trị đóng góp, chưa dứt khoát tư tưởng, còn lo sợ thì không
nên hiến xác.
Tâm nguyện hiến xác là thực hành
hạnh nguyện Bồ-tát. Người thực hành hạnh nguyện này không được hối hận. Khi
tình nguyện hiến xác mà sanh tâm hối tiếc sẽ xuất hiện tâm lý phiền não, làm
nỗi khổ niềm đau gia tăng. Do vậy, việc bố thí hiến xác mà sanh tâm sợ hãi hay
hối tiếc là hoàn toàn không có công đức.
Thứ nữa, trong trạng thái cận tử
lâm sàng rất quan trọng cho tiến trình tái sanh. Nếu lúc qua đời mà ta sanh
lòng hối hận thì sẽ không tốt cho tiến trình tái sanh. Giả sử được tái sanh trở
lại kiếp người, ta sẽ trở thành một người tiêu cực, hay do dự, thiếu dứt khoát,
thiếu định hướng, dễ bỏ cuộc khi nghe sự bàn tán, dư luận, dù việc làm của mình
là rất tốt và thiện ích cho mọi người. Có tâm nguyện hiến xác là phát xuất từ
lòng tốt, nhưng thiếu sự kiên định, quyết tâm, ta sẽ không gặt hái được kết quả
tốt đẹp trong lúc qua đời. Điều đó dẫn đến hệ quả không tốt cho đời sống tương
lai.
TỰ TẠI TRƯỚC CÁI CHẾT
Dưới đây là câu chuyện nói về
cách thức con người phải đối diện với sự vô vị, cô đơn của tuổi già. Có ông lão
sống đã gần tám mươi tuổi, tinh thần vẫn còn minh mẫn, sáng suốt, tai vẫn còn
nghe rõ âm thanh, mắt vẫn còn thấy rõ sự vật, màu sắc. Ông lão sống chung với
hai vợ chồng người con trai. Anh con trai này rất yêu thương vợ. Chính vì
thương yêu vợ nên anh ta cho rằng, ông cụ đã già quá rồi, không làm được gì nữa
mà vẫn còn sống là một gánh nặng cho gia đình về kinh tế.
Hằng tháng, vợ chồng anh phải
chu cấp tiền bạc, dành nhiều thời gian chăm sóc ông cụ. Điều đó làm cho tình
cảm của anh dành cho vợ bị sút giảm. Mặt khác, người con trai dành quá nhiều
thời gian lo cho ông cụ làm cho người vợ đem lòng ganh tỵ. Người con dâu này
không muốn chồng mình chăm sóc cha nhiều như vậy. Ông lão hiểu được ý nghĩ của
con dâu và con trai, ông không biểu lộ thái độ ra bên ngoài, ông không muốn để
cho con trai phải khó xử giữa cha và vợ. Ông không biết phải làm sao? Vì ông
cũng rất yêu quí con trai của mình.
Mỗi ngày, ông lão cứ ngồi trước
thềm nhà chờ con đi làm về. Khi nhìn thấy con về, niềm hạnh phúc dâng trào
trong lòng ông, nhưng ông cũng không biểu lộ vì sợ con dâu biết. Ngược lại,
người con dâu luôn luôn tỏ ra khó chịu vì sợ tình thương của chồng đổ dồn hết
cho người cha. Cô muốn người chồng chỉ quan tâm đến cô, vì thế, hàng ngày cô
nói to nhỏ với chồng những điều không tốt về cha, để cho chồng giảm bớt tình
thương dành cho ông. Nghe vợ nói nhiều lần, anh ta không còn tôn kính người cha
của mình như trước nữa.
Biết được việc đó, ông lão vô
cùng buồn bã, nhưng ông không biết xử trí thế nào. Dẫu sao, ông cũng là một
Phật tử, nên không thể nào tìm đến cái chết bằng cách tự tử. Ông biết tự tử là
một hành động sát nhân, phải mang nghiệp quả nặng nề. Do ý thức tốt như vậy,
ông vẫn bình thản, mặc kệ những lời than vãn của con dâu và những hành động bất
hiếu của con trai. Ông sống an phận thủ thường với trạng thái im lặng, nhưng
trong lòng ông cảm thấy nỗi bất hạnh trào dâng không một giây phút ngưng
nghỉ.
Một hôm, người con trai mang về
nhà một chiếc quan tài, hai vợ chồng bàn nhau, lấy thuốc độc cho vào thức ăn
rồi mời ông ăn. Sau bữa ăn, ông lão cảm thấy trong người khó chịu, ông lên
giường nằm ngủ thiếp và bị hôn mê. Hai vợ chồng thấy vậy, tưởng cha mình đã
chết, họ bỏ ông lão vào quan tài, rồi khiêng đi quăng vào hang núi. Khiêng quan
tài đến triền núi, nghe có tiếng động mạnh bên trong, hai vợ chồng sợ hãi, lập
tức để xuống, mở nắp quan ra. Ông lão lồm cồm ngồi dậy.
Do lượng thuốc độc cho vào thức
ăn không đủ mạnh, nên ông lão chỉ bị say thuốc, hôn mê mấy tiếng đồng hồ, ông
tỉnh lại hoàn toàn. Hai vợ chồng hoảng hốt. Ông lão ngồi dậy, nhìn các con,
hiểu ngay sự tình, thản nhiên mỉm cười và nói: “Nếu các con thấy cha là vật cản, gánh nặng cho gia đình, các con hãy
đẩy cha xuống núi. Còn chiếc quan tài này các con hãy giữ lại, vì nó rất cần
cho đứa con của con sau này.” Nghe cha nói, hai vợ chồng vô cùng
xấu hổ, cùng đỡ ông lão ra ngoài quan tài đưa về nhà.
Cách ứng xử của ông lão là biểu
hiện của một người hiểu đạo. Ông bình thản trước cái chết, bởi ông hiểu rằng,
cái chết ai cũng phải một lần kinh qua. Nhưng chết thế nào cho tâm mình an lạc,
đó mới là điều quan trọng cần hướng về. Cho nên, ta không cần phải sợ chết, mà
hãy nhìn cái chết là một sự kiện đang diễn ra quanh mình, như thế ta sẽ không
rơi vào trạng thái sợ hãi.
Chính cách thể hiện bình thản
trước cái chết và tấm lòng rộng lượng của ông lão đã làm cho vợ chồng người con
trai thức tỉnh, hối hận, mong muốn được thứ tha. Đây là câu chuyện thường được
các thiền sư Trung Hoa kể trong phần khai thị, và cũng là hình ảnh để tự răn
nhắc bản thân mình.
Không may, một ngày kia, khi ta
già bị rơi vào hoàn cảnh như ông lão, không nơi nương tựa, bệnh tật chi phối,
mọi người xa lánh, nếu ta cứ liên tưởng đến những tình huống tiêu cực như vậy
thì sự hiện hữu tuổi già thật là vô vị. Đó cũng là lý do nhiều người đến tuổi
về hưu, mà vẫn không muốn dừng cương ngựa, không muốn thay đổi vai trò, vị trí
đang làm, nhường chỗ cho thế hệ trẻ.
Bởi vì khi đối diện với sự vô vị
của tuổi già, họ khó thích nghi với hoàn cảnh mới, không chấp nhận sự thật đang
diễn ra. Nhất là sợ từ bỏ nghề nghiệp, chức tước, địa vị đang được nhiều người
coi trọng là điều khó làm. Trạng thái tâm lý chấp thủ đó làm cho người ta khó
buông xả. Nếu ôm lòng tiếc nuối một quá khứ hào hùng, những thành công hiện hữu
thì khi chứng kiến hay đối diện với cái chết, ta sẽ hoảng hốt, sợ hãi. Chắc
rằng sau khi chết, ta không thể nào có được hạnh phúc trong đời sống kiếp sau.
Muốn được đối diện với cái chết một cách an nhiên, tự tại, ta phải biết cách
chấp nhận và thích nghi với hoàn cảnh thì sự ra đi mới nhẹ nhàng và thuận
lợi.
Phật giáo dạy chúng ta cần
thực hành hạnh buông xả. Buông xả là nghệ thuật sống. Bất cứ cái gì có được
trong cuộc đời này, nếu cứ khư khư ôm giữ nó thì khi cận kề với cái chết, ta sẽ
sanh tâm tiếc nuối, không đành chia tay. Cái mà ta tiếc nuối nhất là sự sống và
xác thân, vì ít ra nó cũng là bạn đồng hành, đồng cam cộng khổ với ta
trong suốt quá trình cuộc sống, nên ta gắn bó tình cảm thân thiết ấy với các
chi tiết cơ thể như đầu, mắt, tay, chân, miệng v.v…và xem nó là sự sống của
mình. Có người còn cường điệu giá trị của xác thân theo cách thức chăm sóc, yêu
thương nó bằng cách bồi đắp những thứ hương liệu, tiện nghi, vật dụng trang
điểm, trang sức đắt tiền. Dĩ nhiên, sự tô bồi đó tạo ra một phần cho cái đẹp và
hạnh phúc cuộc đời. Điều đó Phật giáo không phủ định, nhưng nếu cung phụng thân
xác một cách quá đáng, ta sẽ trở thành kẻ nô lệ thân thể. Do đó, khi có biến cố
gì xảy ra cho cơ thể, ta mặc cảm tự ti, chán chuờng, thất vọng và khổ đau.
Đức Phật dạy rằng, việc chăm sóc
thân thể phải có nghệ thuật, làm sao cho cơ thể khỏe mạnh, ít bệnh tật, không
quá lo sợ và bận tâm, không nên tốn kém quá nhiều tiền bạc, công sức cho việc
chăm sóc ngoại hình với mục đích tạo sự ấn tượng cho người khác, hay bận tâm
việc thân thể mình bị khiếm khuyết, mà hãy sống bằng tất cả tấm lòng, bằng giá
trị đạo đức nội tâm, làm thăng hoa đời sống bằng đạo đức và sự an lạc, đó mới
là hấp lực lớn.
Đời sống con người có nhiều nét
đẹp, nét đẹp về ngoại hình, nét đẹp về nội tâm, nét đẹp về tư cách đạo đức
v.v... Ai có nét đẹp đa dạng và phong phú thì dễ tạo nên đời sống hạnh phúc
thực sự. Cũng như trong đời sống vợ chồng, người nào quá đặt nặng nét đẹp ngoại
hình, người ấy sẽ sớm chia tay khi nét đẹp ngoại hình của người thương bị tàn
phai. Tình yêu đến với nhau bằng cách nào thì nó đội nón ra đi bằng cách đó.
Tình yêu đến với nhau bằng tiền, đến khi tiền hết tình yêu cũng hết theo v.v…
Đừng để tình yêu thiết lập trên
những giá trị vật chất. Nó phải được thiết lập trên giá trị đời sống đạo đức và
văn hóa. Bởi vì giá trị tinh thần có những chất liệu bổ sung làm thăng hoa đời
sống và hoà hợp cả hai người. Khi hiểu được như vậy thì dù cho cơ thể có những
khiếm khuyết, không bằng người khác, ta cũng không mặc cảm, vì biết rằng thân
thể này như vật giúp ta có những giá trị an lạc, hạnh phúc ở nội tâm. Rồi một
ngày kia, khi đối diện với cái chết, ta không cảm thấy tiếc nuối xác thân, ta
sẽ buông xả dễ dàng và nhẹ nhàng nhất.
ĐỪNG QUÁ XEM TRỌNG THI THỂ
Nền văn hóa thổ táng phương Tây
làm cho con người dễ bị chắp mắc. Khi có người thân qua đời, họ thuê dịch vụ tổ
chức công thọ đứng ra mai táng. Trước lúc tiến hành các thủ tục mai táng, họ
trang điểm cho người chết, hoặc chích thuốc cho gương mặt người chết trở nên
tròn đầy, da hồng hào để cho những người đến thăm viếng, phúng điếu nhìn vào
thi thể cho đẹp. Từ việc làm trên, tưởng rằng họ đã hiếu thảo với ông bà cha
mẹ, thương mến người thân, nhưng thực tế vô tình làm cho người thân khổ tâm do
tiếc nuối sự sống. Càng tiếc nuối chừng nào, nỗi khổ đau trong tâm thức càng
gia tăng chừng ấy.
Một người chết trong trạng thái
như vậy, tiến trình tái sanh của họ sẽ gặp khó khăn,trở ngại. Người chết này có
thể tồn tại lâu dài trong cảnh giới ngạ quỷ đói khát. Thần thức nhìn thấy thân
thể được mặc áo quần sang trọng, mặt đẹp… liền khởi lên sự thèm khát, muốn sống
để được mãi như thế, làm cho họ đau khổ nhiều hơn, không thể siêu sanh thoát
hoá.
Không nên làm cực đoan như vậy,
để cho người ra đi dễ dàng buông bỏ thân xác mà siêu sanh. Không nhất thiết
phải nhờ tổ chức công thọ, không cần đồ tùy tang (chôn theo người chết những
vật dụng quý giá, đắt tiền như nữ trang, ngọc ngà, châu báu hay những vật yêu
thích của họ). Bởi chôn theo người chết những thứ ấy sẽ tạo sự hội tụ tiếc
nuối, liên tưởng, làm cho người chết quyến luyến khó dứt bỏ ra đi.
Khi tẩm liệm người chết nên cho
vào quan tài càng nhiều trà càng tốt, vì trà hấp thụ chất hôi thối phát ra từ
cơ thể, không gây ô nhiễm môi trường, lại nhẹ nhàng dễ khiêng. Còn những vật
trang sức, kỷ niệm, đồ quý giá, ta nên giữ lại qui đổi thành tiền hoặc vật dụng
để bố thí, rồi hồi hướng công đức ấy cho người chết, để họ được hưởng phước báu
trong đời sau. Đồng thời người thân cũng phải nói rõ cho ngừơi chết biết rằng,
những thứ này không thể mang theo đựơc. Thứ nhất, không chôn theo những vật quí
báu, để người chết không sanh lòng tiếc nuối, dễ dàng ra đi. Thứ hai, không làm
cho những kẻ cơ hội khởi lòng tham, lấy những vật đó bằng cách quật mồ của họ.
Nếu ai đó không may bị quật mồ
vì chôn theo nhiều vật quý giá, đắt tiền, vô tình ta làm cho người thân phải
khổ sở như bị chết thêm một lần nữa. Tình huống đó tạo ra lòng sân hận và sự
oan khiên giữa người chết với kẻ cướp trong đời sau. Vì vậy, khi tẩm liệm người
chết nên thật đơn giản, giúp họ dễ dàng buông bỏ thân xác sắp thối rữa mà sanh
về cảnh giới mới.
Hãy quán thân xác này giống như
một cỗ xe. Đức Phật đã từng dùng cỗ xe để sánh ví với thân xác của Ngài. Trước
khi đức Phật tuyên bố nhập Niết-bàn, nhiều vị trong Tăng đoàn tuy hiểu lý vô
thường, vô ngã, nhưng chưa thật sự sống với chất liệu đó đã khóc than thảm
thiết, tưởng chừng như nguồn sống này mất đi mặt trời, thế giới này ảm đạm và
tối tăm.
Người ta đã sánh ví sự sống của
đức Phật như ánh mặt trời thông qua cách thức Ngài dấn thân giúp nhiều người
lợi lạc. Đức Phật đã thiết lập tình thương, giúp họ hiểu được giá trị của tình
thương, và chỉ cho họ biết cách vượt qua những nỗi khổ, niềm đau trong cuộc
đời. Đức Phật đã sánh ví thân Ngài như cỗ xe hoạt động đã tám mươi năm, với
thời gian sử dụng như thế là cũng quá dài đối với những chất liệu cấu tạo thành
nó.
Khi sử dụng vật gì người ta
thường nói: “một đời ta, ba đời nó,
tức là sự vật chỉ bằng một phần ba đời người mà thôi. Ngày xưa, tuổi thọ con
người trung bình khoảng sáu mươi năm, vậy mà đức Phật đã sử dụng thân thể của
Ngài đến tám mươi năm, nhiều hơn tuổi thọ trung bình của nhiều người. Cỗ xe
sử dụng nhiều quá tất phải hư hỏng. Phải chấp nhận qui luật vô thường. Khi hiểu
thân thể vật lý này như cỗ xe thì khi thân hoại, mạng chung, ta không cảm thấy
tiếc nuối. Cần hiểu rằng, khi bỏ chiếc xe cũ này là để có cơ hội tạo nên chiếc
xe mới khác. Chiếc xe mới ấy có tuổi thọ cao hơn, sức hoạt động tốt hơn chiếc
xe hiện tại.
Tương tự, khi thân thể ta được
tái sanh ở đời sau với những nhân tốt, ta sẽ có cơ hội làm được nhiều lợi ích
cho đời hơn. Vậy thì tại sao ta lại tiếc nuối cái thân thể già nua này? Đối với
những người không may mắn sống đến tuổi già, mà phải ra đi khi còn trẻ thì cứ
xem rằng cỗ xe của mình không được tốt, bị hư nhanh quá, mình sẽ có cơ hội tái
tạo chiếc xe khác mới hơn, tốt hơn, hiện đại hơn... Hiểu như vậy mới dễ dàng
buông bỏ cái thân thể vật lý này một cách nhẹ nhõm.
Sở dĩ ta không muốn buông bỏ cái
xác thân này, dù nó đã tàn rệu là do thói quen hay liên tưởng về kỷ niệm, mà kỷ
niệm thường cấu thành những cảm xúc mạnh. Nhất là đối với những người có thân
thể cường tráng, mạnh khoẻ như những vận động viên thể thao, hay những người có
đời sống vật chất đầy đủ, phong phú như các nhà tỉ phú, đến khi phải bỏ thân
này càng tiếc nuối mạnh hơn.
Ví dụ, trong một lần thi đấu,
một cầu thủ vô tình bị tai nạn phải nằm một chỗ, hay ngồi xe lăn, đừng nghĩ
rằng cuộc đời mình đến đây là chấm hết. Có thể sự nghiệp của mình chấm hết,
nhưng sự sống vẫn cần sự chăm sóc tình thương của nhiều người. Bất hạnh hơn,
người đó không còn thân bằng quyến thuộc hoặc có thân bằng quyến thuộc xa lánh
thì nên nghĩ rằng, chưa phải đến lúc chấm hết cuộc sống. Bởi vì mình vẫn còn
hơi thở, ánh mắt, nụ cười, cảm xúc thì vẫn còn làm được những việc hữu ích cho
đời.
Thái độ và suy nghĩ tích cực mà
ta có thể thực tập là không nên cường điệu cảm xúc từ một biến cố, không nghĩ
rằng mình đã mất tất cả. Trên thực tế chưa hẵn là nó đã mất. Nhưng do cảm xúc
dâng trào nhiều quá tạo thành cản lực giam nhốt hạnh phúc còn lại mà thôi.
CHẾT VÀ LỰC HÚT TÌNH YÊU
Sự tiếc nuối tình yêu, tình
thương giới tính nam nữ là một cản lực mạnh mẽ đối với người sắp chết. Nếu ta
không buông bỏ được điều này thì dù có buông bỏ thân xác vật lý, chiến thắng sự
cô đơn, vô vị ở tuổi già cũng không ra đi một cách thanh thản, nhẹ nhàng được.
Vì tình yêu nam nữ là sự kết nối lớn nhất của con người, kể cả loài động vật.
Đức Phật thường sánh ví tình yêu như nam châm, có lực hút vô hình, vô cùng mạnh
mẽ và khó chia cắt nhất. Lực hút tình yêu thường làm con người rơi vào trạng
thái vô minh.
Tình yêu giới tính là nỗ lực hàn
gắn hai trái tim làm một, bất chấp nhiều cản lực. Để nói lên sức mạnh của tình
yêu bất chấp hoàn cảnh, trong dân gian thường nói “một túp liều tranh hai quả tim vàng. Thực ra đó chỉ là
tình yêu lý tưởng, chứ trong thực tế hoàn cảnh, đôi khi khối tình ấy chỉ kết
hợp bền chặt trong một thời gian ngắn, rồi trong túp lều tranh kia chẳng thấy
có quả tim nào. Thế là hoàn cảnh đã chia rẽ, chấm dứt tình yêu rất lý tưởng
khi bất chấp hoàn cảnh lúc ban đầu.
Ngược lại, hạnh phúc của tình
yêu đặt trên nền tảng của vật chất, tức là phải có kinh tế đầy đủ, sung mãn thì
mới có hạnh phúc. Nếu những ai đặt hạnh phúc tình yêu trên những giá trị vật
chất thì tình yêu và hạnh phúc ấy cũng sẽ không bền vững lâu dài. Đặt hạnh
phúc, tình yêu trên giá trị của nhiều yếu tố, vừa kinh tế vừa tình cảm, vừa sự
chia sẻ, thương yêu, cảm thông trong mọi hoàn cảnh để dìu dắt nhau trong cuộc
đời. Tất cả những yếu tố đó kết hợp lại sẽ tạo nên hạnh phúc bền vững và dài
lâu.
Đối với những đôi vợ chồng có
cuộc sống mẫu mực, chung thủy, đến khi nhắm mắt lìa đời dễ dàng ra đi hơn.
Những người sống không thủy chung, hoa nguyệt, ong bướm, bởi do sự vướng mắc về
tình cảm tăng lên gấp nhiều lần, do tiếc nuối những mối tình lãng mạn, giờ đây
phải bỏ lại người yêu hay người vợ trẻ nên khó siêu thoát v.v…Những đôi vợ
chồng sống thủy chung, khi đối diện cái chết, ra đi nhẹ nhàng. Vì họ biết rằng
trong đời, họ có người yêu lý tưởng, hiểu, cảm thông, chia sẻ được hạnh phúc và
khổ đau. Họ hy vọng đời sau được lại gặp nhau, tiếp tục làm đôi uyên ương cùng
xây tổ ấm. Trong kinh đức Phật nói, trước lúc qua đời, những người nào có tâm
niệm hứa hẹn với nhau thì chắc chắn trong đời sau họ sẽ là vợ chồng của
nhau.
Để dễ buông bỏ tình yêu trong
lúc nhắm mắt lìa đời, những người sống thủy chung một vợ một chồng là thuận lợi
lớn nhất. Ta nên quan niệm rằng, tất cả những cảm xúc rồi cũng phải để lại sau
lưng. Dù có yêu người nào bao nhiêu đi nữa, đến lúc lâm chung, ta cũng không
thể mang người ấy theo được. Đó là một sự thật mà ta cần phải hoan hỷ chấp
nhận.
MANG THEO NGƯỜI SỐNG VỚI CÁI CHẾT
Quan niệm của nền văn hoá Ai Cập
hoàn toàn đi ngược với qui luật cảm xúc vừa nêu. Họ cho rằng sau khi chết,
người chết sẽ về một thế giới khác nhưng có thể mang theo những người yêu
thương để tiếp tục cuộc sống gắn bó với nhau. Do quan niệm đó, các vị vua quan
khi xưa, lúc chết người ta đã chôn sống các bà vợ, thê thiếp để khi về thế giới
bên kia, họ tiếp tục có cuộc sống hạnh phúc bên nhau, và thế giới đó mới là
hạnh phúc vĩnh hằng của họ. Đây là quan niệm sai lầm.
Cùng có quan niệm tương tự về một
thế giới bên kia, người Trung Hoa cho rằng:“sống
gửi, thác về. Nghĩa là cuộc sống ở thế gian này chỉ là tạm bợ, gởi
gắm ngắn ngủi mà thôi, đến khi nhắm mắt xuôi tay, linh hồn về thế giới bên kia
mới là cuộc sống vĩnh hằng. Quan niệm này làm cho họ không sống hết trách nhiệm
và giá trị hiện tại mình đang có. Họ có thể sống một cách hời hợt, tạm bợ, qua
loa, đánh mất nhiều cơ hội hạnh phúc.
Người Trung Quốc còn quan niệm
rằng:“con là nợ, chồng vợ là oan gia”,
như thế thì không thể nào sống có hạnh phúc được. Nên mỗi khi vợ chồng có lời
qua tiếng lại, họ thường đổ lỗi cho người vợ “bà
chỉ là oan khiên trong gia đình, còn con cái là những oan trái, chứ không có ý
nghĩa gì cả. Nói như vậy là ta đã không chăm sóc gia đình với tư
cách người chồng, người cha, mà với tư cách là một con nợ trả nợ cho chủ mà
thôi. Một người sống với ý thức như vậy làm sao có được hạnh phúc.
Còn quan niệm về cõi âm vĩnh
hằng trong nền văn hoá Ai Cập làm cho người thân thương bị khổ đau lây, khi một
vị quan quyền quý tộc qua đời, bởi họ bị chôn sống theo cùng. Từ suy nghĩ như
thế, xã hội đã tạo nên biết bao sự bất công cho người phụ nữ. Về sau, người
Trung Hoa thay đổi tiến bộ hơn, khi vua quan chết, thay vì phải chôn theo những
thê thiếp, tôi tớ một cách dã man, người ta làm hình nộm rồi đốt đi hoặc chôn
theo người chết thay cho các sinh mạng. Hiện tượng đốt hình người thế trong các
lễ cúng sao, giải hạn, đốt tiền vàng mã cho người chết hiện nay vẫn còn phổ
biến ở Việt Nam. Bởi họ nghĩ rằng, đốt tiền vàng mã, người chết sẽ nhận được và
chi dùng ở thế giới bên kia.
Để biện minh cho những việc làm
trên, họ thường nói “chỉ là xưa bày, nay bắt chước mà thôi ”chứ tình thực, đây
là một việc làm thiếu tuệ giác. Nó hoàn toàn vô ích cho cả người sống lẫn
người chết. Nếu ta có sự quán chiếu sâu sắc, không để tình cảm, tình yêu chi
phối thì ta sẽ không làm các việc mê tín như trên, không lợi ích gì cho người
chết cả. Phật giáo dạy chúng ta là phải biết buông bỏ tất cả lúc sắp lâm chung,
đừng nghĩ rằng vợ hoặc chồng sẽ sống mãi với nhau hết đời này sang kiếp khác,
mà nghĩ rằng, chúng ta sống với nhau trong kiếp này, sau khi chết mỗi người đi
mỗi nơi. Trong văn bản cúng vong của Phật giáo có câu:“Đại hạn chi thời các tự phi”, nghĩa là
khi đại hạn tới thì mạnh ai nấy đi, không ai chờ ai được. Trong chữ Hán, hai từ
“Đại hạn” ám chỉ cái chết. Khi cái chết đến, con người và các loài động vật
phải tự lo liệu, không thể có loài này chết thay cho loài kia, cũng không có
chuyện người này chờ đợi người kia để cùng ra đi.
Do đó, nếu không buông xả dòng
cảm xúc tình yêu thì cảnh giới tái sanh sẽ là cảnh giới của những oan hồn, vì
do quá thương tưởng người mình yêu mà không thể siêu thoát được.
PHIM HỒN MA
Trong thời gian lưu trú tại Hoa
Kỳ, tôi có dịp xem bộ phim “hồn ma”
(The Ghost). Nội dung phim nói về một đôi tình
nhân rất lý tưởng, tha thiết yêu nhau. Một hôm, khi cả hai đang đi trên đường,
bỗng dưng có một kẻ bất lương giật lấy tài sản của cô gái, khống chế người đàn
ông để cưỡng bức cô gái. Vì kháng cự để bảo vệ người yêu, anh bị tên cướp
giết chết. Trước cái chết đột ngột của người yêu, cô gái vô cùng đau khổ, lúc
nào cô cũng nghĩ về anh. Dù ở đâu, đi đâu, hình ảnh của anh luôn ẩn hiện trong
tâm trí của cô. Do dòng cảm xúc về tình cảm dành cho người mình yêu quá lớn, có
lúc cô không còn muốn nghĩ đến việc lập gia đình với ai nữa.
Thần hồn của chàng người yêu,
khi đọc được cảm xúc tình yêu của cô dành cho anh cũng quyến luyến không muốn
xa rời. Anh muốn tồn tại mãi hình thức hồn ma để được ở bên cạnh cô gái làm
người hộ vệ. Thế là hồn ma anh ta luôn bám sát theo cô để bảo vệ, nhất là
khi thấy có ai muốn xâm hại, hay chọc ghẹo, tán tỉnh cô. Thế nhưng anh làm sao
bảo vệ được khi chỉ là một hồn ma không có thân xác. Vì vậy, anh ta vô cùng đau
khổ mỗi khi cô gặp việc chẳng lành hay vui vẻ chuyện trò với một anh chàng
khác.
Diễn tiến cảm xúc trong câu
chuyện trên là điều có thật. Cần phải dứt khoát từ bỏ mọi thứ mà ra đi. Dù
người chồng, người vợ tâm đầu ý hợp, đang có cuộc sống tràn đầy hạnh phúc, “kết cỏ ngậm vành”, trước cái chết cũng
phải chấp nhận chia ly. Trong cuộc sống, ta không biết ai là người không may
phải qua đời trước. Cho nên, dù đang sống ấm êm, hạnh phúc, cả hai vợ chồng
cần hỗ trợ cho nhau, tạo niềm tin cho người sắp ra đi bằng lời hứa sống chung
thủy đến cuối đời, dù có xa lìa nhau quá sớm cũng không có ý tái hôn. Lúc còn
đang sống với nhau mà có được những lời cam kết như thế thì khi lâm chung,
người bạn đời sẽ an lòng ra đi. Mặc dù điều đó chưa chắc trong tương lai có thể
thực hiện được, nhưng cũng cần phải nói với nhau như thế để người ra đi an tâm,
không sanh lòng nuối tiếc.
Tương tự, dòng cảm xúc ta dành
cho ông, bà, cha, mẹ hoặc những đứa con thân yêu cũng có sự trói buộc cảm xúc.
Đức Phật dạy, trước cái chết đừng khởi tâm tiếc nuối một thứ gì cả, phải can
đảm đối diện sự thật về cái chết. Nếu không thực hiện được điều ấy, ta sẽ phải
mãi mãi tồn tại những dòng cảm xúc khổ đau.
CHẾT KHÔNG PHẢI MẤT TẤT CẢ
Trong thời đức Phật, có một
thiếu phụ bất hạnh. Lúc cô vừa sanh đứa con đầu lòng thì người chồng của cô gặp
nạn qua đời. Từ đấy, tất cả tình yêu thương cô đổ dồn hết cho đứa con. Đứa con
duy nhất ấy là niềm hy vọng, niềm hạnh phúc, cô không màn đến một thứ gì ngoài
đứa con ấy. Khi đứa bé lớn lên, khoảng mười tuổi, một lần nữa cô nhận sự bất
hạnh, đứa con yêu thương nhất qua đời. Cô suy sụp tinh thần và trở thành người
mất trí. Cô ôm xác đứa con đi từ đầu làng đến cuối xóm, hỏi ai có thể cứu đứa
con của cô sống lại, cô sẵn sàng hy sinh tất cả những gì cô đang có, kể cả mạng
sống của mình để đối lấy mạng sống cho con, điều không ai có thể làm được.
Theo nền văn hóa Ấn Độ, người
quyền thế có người thân trong gia đình qua đời, thi thể người chết được để một
ngày đêm, sau đó đem đi thiêu. Đối với người thường, xác người chết để trong
nhà vài tiếng là phải đem đi thiêu. Thế mà cô đã bất chấp luật lệ này, ôm xác
đứa con mấy ngày liền, bởi cô quá đau khổ, muốn con mình được sống lại.
Một Phật tử đến mách với cô
rằng:
- Tôi biết có đấng giác ngộ tên
là Gotama, vị ấy đang sống cách đây vài dặm, cô hãy đến đó sẽ được vị ấy giúp
thuốc trường sinh làm cho con cô sống lại.
Nghe lời mách bảo, cô mừng rỡ ẵm
xác đứa bé đến gặp Thế Tôn. Cô vừa bế xác đứa bé đến, Thế Tôn hoan hỷ nhận lời
cứu sống đứa bé và có lời khuyên cô như sau:
- Cô hãy an tâm, ta sẽ làm cho
con của cô sống lại và cô sẽ được hạnh phúc. Tuy nhiên, cô phải chấp nhận điều
kiện của ta.
Cô cảm thấy trong lòng tràn đầy
hạnh phúc, sung sướng đến trào dâng nước mắt muốn thét lớn lên:“con tôi sắp được cứu sống. Thế Tôn
bảo:
- Cô hãy đi đến bất kỳ một gia
đình nào trong làng chưa từng có người thân nào chết, xin về cho ta một nắm hạt
cải để ta chữa trị cho đứa bé này sống lại.
Nghe Thế Tôn dạy một việc quá
đơn giản, cô hớn hở trong lòng, đặt xác đứa bé cạnh chỗ Thế Tôn ngồi, cô vội vã
chạy khắp các ngôi nhà trong làng để xin nắm hạt cải theo yêu cầu của Thế Tôn.
Đến đâu cô cũng đều hỏi thăm xem có gia đình nào chưa có người thân qua đời hay
không. Ở đâu cô cũng nghe họ nói:“nhà tôi
có người chết”. Không một gia đình nào nói họ chưa từng có người
chết.
Cả ngày hôm đó, từ sáng đến
chiều, tiếng “chết” cứ lặp đi
lặp lại bên tai cô. Trời đã tối rồi, mà cô không tìm ra một gia đình nào chưa
từng có người chết. Cô đành mang tâm trạng buồn rầu, thiểu não, trở về thưa Thế
Tôn:
- Thưa Thế Tôn, cái điều kiện mà
Ngài đưa ra, con không cách nào thực hiện được. Bởi con đã đi khắp xóm làng,
không tài nào tìm thấy một gia đình chưa từng có người chết.
Thế Tôn ôn tồn nói:
- Bởi cô chưa hiểu đó thôi, cái
chết đến với con người như một qui luật. Nó đến sớm hay muộn là tùy theo nghiệp
mà người đó đã tạo trong quá khứ, cộng với cái duyên tác động ở hiện tại. Cô
không nên đau buồn nữa, mà hãy vui vẻ chấp nhận cái chết. Vì chết không phải là
mất hết tất cả.
Nhiều người nghĩ rằng, khi người
mẹ, người cha hoặc người yêu qua đời là mình mất tất cả. Nghĩ như thế là không
đúng. Có thể nói, đó là một sự mất mát lớn, bởi cái tình cảm ruột thịt thiêng
liêng ấy không có gì có thể bù đắp được. Sự mất mát ấy là một quy luật, chỉ có
điều là nó mất vào thời điểm nào để ta ít đau khổ, chứ trong thời điểm, ta cần
sự hỗ trợ của người thân mà người ấy lại ra đi thì làm ta đau khổ nhiều hơn.
Cũng có thể nói, sự mất mát ấy như ta bị mất một báu vật, nhưng không phải là
mất tất cả. Ta chỉ mất tất cả khi ta mất đi trí tuệ, chứ trí tuệ còn thì thì
không có gì phải mất tất cả.
Khi đọc lời tác bạch vào ngày
cúng giỗ, quý vị không nên nói rằng, thắp ba nén hương tưởng nhớ ông, bà, cha,
mẹ mà lòng con đau buồn. Bây giờ ông, bà, cha, mẹ… không còn nữa, đời chúng con
trở nên vô nghĩa. Dù cho ta nói lên với tất cả tấm lòng hiếu thảo, nhưng theo tinh
thần Phật dạy, cái chết không có nghĩa là mất hết. Nếu người chết có để lại tài
sản thì ít nhất ta vẫn còn gia tài đó. Nếu ta biết duy trì và phát huy gia tài
sản nghiệp đó một cách chánh đáng là ta đang làm hình ảnh người thân sống mãi
trong lòng chúng ta. Người nào làm được điều đó thì tinh thần người đã khuất sẽ
trở nên bất diệt, và như sống mãi trên cuộc đời này.
Phải công nhận rằng, những người
làm được việc hữu ích lớn cho đời, biết hy sinh đóng góp cho nhân quần xã hội,
được lưu danh sử sách là một cách sống cao quý. Việc người thân ra đi cũng vậy,
ta phải biết giữ lại những việc làm tốt đẹp của họ lúc sinh thời để thấy rằng,
họ luôn sống mãi với chúng ta. Chỉ điều cỏn con như thế cũng tỏ cho người còn
sống thấy rằng, chết không phải là hết. Hiểu được như thế, ta sẽ không đau khổ
khi người thân ra đi, ta biết cách biến nỗi khổ niềm đau mất mát ấy thành cội
nguồn hạnh phúc. Ngoài ra, ta phải tạo thêm công đức bố thí, cúng dường rồi hồi
hướng công đức ấy cho hương linh, để được một tài khoản phước báu. Ta cố gắng
tặng cho người đã mất tài khoản phước báu, để họ làm hành trang, làm cho đời
sau được an lành.
Điều nguy hại là lúc cận kề cái chết, người ấy
khởi tâm luyến tiếc tài sản, sự nghiệp, danh vọng, chức tước v.v... tức tiếc
nuối những gì họ có trong cuộc đời. Những người sống hời hợt về tình cảm, dửng
dưng với cuộc sống, dễ dàng vượt qua những cảm xúc tiếc nuối này. Trong nền văn
hoá đề cao sự riêng tư, đề cao chủ nghĩa cá nhân thường ít có hạnh phúc trong
đời sống gia đình. Do đó, họ ít vướng bận tình cảm, tiếc nuối khi người thân
chết, nhưng lại bị vướng bận, trói buộc vào những cái khác không kém gì tình
cảm, đó là danh vọng, địa vị và tài sản.
Người tu tập không nên chủ quan
rằng, mình sẽ không bị tình cảm chi phối lúc lâm chung. Cần dụng công tu tập
cho đạt trạng thái vô ngã, vô ngã sở hữu, nghĩa là không lệ thuộc cái gì, hiểu
rằng tất cả đều chỉ là tạm thời vay mượn, đến lúc nào đó, ta phải chia tay với
nó. Những ai quan niệm như vậy, đến lúc lâm chung chắc chắn sẽ ra đi một cách
nhẹ nhàng và thư thái.
Khi người chết mang nặng trạng
thái tiếc nuối về gia tài, sự nghiệp sẽ bị vướng víu trong quá trình tái sanh.
Sự tiếc nuối đó không mang lại hạnh phúc cho bản thân và cũng không có sự đóng
góp ích lợi nào cho nhân quần và xã hội.
Đức Phật dạy, khi có điều kiện
ta nên chia sẻ tài chính ra làm bốn phần:
1. Chi tiêu trong cuộc sống hằng
ngày.
2. Tích lũy dự phòng cho hậu sự,
hoặc chi dùng khi gặp chuyện bất trắc.
3. Lo việc phụng dưỡng, hiếu sự
với ông bà, cha mẹ.
4. Làm việc phước thiện, chia sẻ
nỗi khổ đau với những người bất hạnh.
Nếu biết sử dụng nguồn lợi thu
nhập đúng các mục đích chính đáng, không phung phí thì phước lực sẽ ngày càng
một lớn, chắc chắn rằng ngoài việc được an hưởng trong hiện tại, còn nuôi dưỡng
phước đức tương lai của ta. Người Trung Hoa ở bất cứ đâu vẫn là người kinh
doanh giỏi, có nguồn tài chính khá dồi dào. Khi cần, họ có thể xây cất một ngôi
chùa với hàng triệu đô la trong thời gian ngắn. Trong khi đó, việc xây chùa đối
với người Việt Nam lại rất khó, vì ngoài điều kiện đời sống kinh tế chưa được
dồi dào, còn do sự phát tâm chưa được mạnh mẽ.
Ngoài năng lực tạo ra tiền bạc,
của cải vật chất, chúng ta cũng nên phát tâm vào các cơ hội để tạo thêm công
đức. Nếu không làm việc ấy ngay từ bây giờ, đến lúc tuổi cao sức yếu, dù có muốn,
ta cũng không còn điều kiện đóng góp nữa. Ta phải mạnh dạng tạo phước báu lúc
còn sức lực, còn điều kiện, không nên nghĩ mình còn nghèo, chưa đủ điều kiện để
làm. Cứ mạnh dạn làm phước, rồi kết quả sẽ đến. Còn nếu chờ giàu có thì biết
đến khi nào ta mới làm được. Trong đời này, ước muốn không phải lúc nào cũng
thành tựu. Làm việc phước thiện, không có mong cầu thì kết quả sẽ đến, ngược
lại, không có phước báu, cho dù có mong cầu, kết quả cũng không thành tựu được.
SỐNG HỶ LẠC, CHẾT AN VUI
Trong kinh Phật dạy:“Khai trì bất đãi nguyệt, trì thành người tự lai”,
nghĩa là trong lúc đào giếng có thể ước mơ vầng trăng xuất hiện ngay trên mặt
nước giếng. Vấn đề cần gấp lúc này là làm thế nào cho cái giếng có nước. Khi đã
có nước rồi, dù muốn hay không, lúc mặt trăng xuất hiện trên bầu trời, tất sẽ
có vầng trăng lung linh dưới đáy giếng trong.
Tương tự, khi đã tạo được nhiều
giếng công đức về vật chất, tuổi thọ và hạnh phúc cho người khác, chắc chắn sẽ
có vầng trăng phước báu xuất hiện với ta. Vì vậy, làm phước báu không cần khởi
tâm mong cầu. Nếu làm điều phước thiện mà khởi lòng mong cầu sẽ làm gia tăng
lòng vị kỷ. Không ít Phật tử đến chùa, phát tâm cúng dường, lễ Phật rồi thành
tâm khẩn cầu, van vái cầu xin Phật cho nhiều điều, nhiều thứ. Điều này chỉ làm tăng
thêm sự ích kỷ mà thôi.
Ta cần phát nguyện trên nền tảng
của lòng vị tha. Ngoài việc cầu nguyện cho bản thân, vợ chồng, cha mẹ, con cái
hay thân bằng quyến thuộc, ta phải phát nguyện với tâm lượng lớn cho tất cả
chúng sinh, để cho nhân quả được gia tăng tương thích. Đường đi của nhân quả
tùy thuộc vào khối lượng công đức mà ta đang làm. Mặt khác, nó tỷ lệ thuận với
chiều kích của tâm trong lúc ta phát khởi. Nếu tâm của ta quảng đại, bao dung,
muốn cho người khác lợi lạc, an vui, đồng thời với ý niệm huấn luyện tâm quảng
đại để hoàn thiện nhân cách đạo đức của mình, không mong cầu phước báu thì
phước báu sẽ tăng trưởng gấp nhiều lần so với người làm phước thiện với mục
đích cầu danh hay cầu lợi.
Chẳng hạn làm từ thiện mà mong
muốn được lên truyền hình, có phóng viên báo chí đưa tin thì phấn khởi, còn
không có thì ta làm mà trong lòng cảm thấy không vui hoặc không muốn làm. Mặc
dù, việc làm phước của hai trường hợp trên đều cùng một mục đích tạo công đức
với số tiền như nhau, nhưng làm phước với mục đích cầu danh, muốn nhiều người
biết đến thì phước lực không được tăng trưởng so với người làm phước thiện với
tất cả tấm lòng đối với người đang cần sự giúp đỡ.
Hiểu như vậy, ta thực tập buông
danh vọng trong khi làm thiện. Có khi buông bỏ một, nhưng cái đến với ta có thể
nhiều hơn. Càng cố nắm giữ, chưa chắc được như ý mình, có khi lại vụt mất.
Chức năng của bàn tay không phải
chỉ để nắm giữ, mà là hoạt dụng. Có khi ta sử dụng bàn tay để bưng ly nước, cầm
đôi đũa, làm các việc khác, ra dấu hiệu thể hiện tình cảm với người đối diện,
trong giao tiếp cần phải bắt tay để biểu hiện sự thân thiện, hoặc nắm tay nhau
để biểu hiện giữa mình và người kia không còn hận thù v.v…
Hãy chấp tay chào một người nào
đó và thầm nguyện rằng, tôi xin tặng anh/chị/ông/bà một đóa hoa sen của hạnh
phúc, an lạc và giải thoát. Việc chắp tay xá chào nhau không dành riêng cho
người tại gia chào người xuất gia, mà người xuất gia khi gặp Phật tử tại gia
cũng nên chắp tay xá chào, với tâm nguyện mong họ sẽ trở thành vị Phật tương
lai.
Một khi ta sống với tất cả niềm
hỷ lạc thì khi đối diện trước cái chết ta sẽ được ra đi nhẹ nhàng, không vướng
bận. Lúc còn sống biết buông xả mọi thứ trên đời thì khi chết buông xả mọi thứ
không khó lắm.
Ví dụ có mười bộ quần áo, ta có
thể tặng bảy bộ, còn ba bộ mang theo cũng đủ dùng rồi. Ta vẫn phải sử dụng nó,
nhưng ta không vướng bận, chấp mắc vào nó. Có cơ hội làm kinh tế sung túc thì
nên dành ra một phần nào đó để làm từ thiện. Không nên hiểu lầm tu là phải
buông bỏ hết để thành người trắng tay cho nhẹ nhàng thân tâm. Người Phật tử vẫn
có thể làm giàu chính đáng, hợp pháp, đồng thời phải biết dùng tài sản ấy để
tạo thêm nhiều công đức hơn.
Trong quyển “Kinh Tụng Hằng Ngày”, tôi đã tuyển chọn
một số bài kinh về cách làm kinh tế, đúng nghĩa “kinh bang tế thế” hay nghệ thuật “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” dạy
về nghệ thuật xây dựng hạnh phúc gia đình, hàn gắn vết thương tinh thần, xua đi
những khổ đau giữa ta và người.
Làm kinh tế giỏi là điều cần
thiết. Người Nhật đã thành công trong việc làm kinh tế nhờ họ thấu hiểu và ứng
dụng đạo lý của Phật giáo. Họ biết vận dụng nghệ thuật kiên nhẫn trong làm ăn
buôn bán, kiên nhẫn trong nghịch cảnh, trong môi trường khó khăn để làm giàu.
Ngoài việc làm kinh tế giỏi, đòi hỏi người Phật tử cần có sự tinh tấn trong khi
làm kinh tế. Nếu áp dụng cả hai phương diện này, chắc rằng người Phật tử có thể
tạo ra của cải vật chất nhiều. Khi tạo ra nhiều của cải vật chất, ta cần làm
nhiều công đức và nhân lớn công đức ấy mỗi ngày, từ một viên sỏi công đức trở
thành núi công đức. Tu theo đạo Phật cũng phải biết tạo ra của cải vật chất để
giúp đỡ người thiếu thốn. Giúp đỡ người là biết buông xả, đến lúc qua đời,
người đó không có sự tiếc nuối và sẽ được tái sanh vào cảnh giới an lành và
thảnh thơi.
Những điều chia sẻ trên đây là
nhằm khẳng định rằng chết là sự thật phải chấp nhận, đồng thời cần nỗ lực
chuyển hoá cảm xúc để trạng thái cô đơn không xâm chiếm. Tu hằng giờ, không
cường điệu giá trị của cơ thể, tình yêu và đời sống vật chất. Đó là những điều
cần thiết giúp ta sống an lành, chết an lạc và cảnh giới tái sanh của ta trong
tương lai sẽ diễn ra theo nguyện vọng.