Khổ
Ðức-Phật sanh ra là Thái-tử Siddhattha (Sĩ-Ðạt-Ta hay Tất-Ðạt-Ða), một người như tất cả mọi người. Vào năm 35 tuổi, Ngài khước từ cuộc sống trên nhung lụa của cung vàng điện ngọc và trở thành Ðạo-sĩ Gotama (Cồ-Ðàm). Sau sáu năm theo học với các vị đạo-sư trứ danh thời bấy giờ và thực hành các pháp khổ hạnh đến mức cùng cực mà không thâu đạt được kết quả mong muốn, Ðạo-sĩ Gotama tìm đến một nơi vắng vẻ tại Uruvela (Ưu Lâu Tần Loa), giữa khu rừng tươi tốt, bên cạnh một giòng sông ngoạn mục, rồi ngày đêm trầm tư mặc niệm, gom tâm quan sát từng yếu tố vật chất và tinh thần của chính bản thân mình Ngài tìm ra Ánh sáng Chân-Lý, trở thành Phật, bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác. Từ đó, trong 45 năm trường Ðức-Phật Gotama đi cùng khắp miền Bắc xứ Ấn-Ðộ, từ làng này đến làng khác, từ tỉnh nọ đến tỉnh kia, đi trên các con đường lớn và các nẻo nhỏ, để mang lại cho nhân loại bức thông điệp hòa bình và an tịnh, bủa rộng vòng hào quang từ-bi và trí tuệ vô-lượng vô-biên của Ngài bao trùm tất cả sanh linh. Tôn giáo do Ngài sáng lập được gọi là Phật-Giáo.
Như vậy, Phật-Giáo xuất phát từ nhân sinh, hướng về nhân sinh, nhằm phục vụ nhân sinh.
Ðức-Phật không đặt nền tảng giáo lý trên sự sợ sệt một oai lực huyền bí siêu thế nào, cũng không dạy hàng tín đồ phải mong nhờ sự giúp đỡ nào từ bên ngoài, hay trông cậy nơi sự cứu rỗi nào từ trên ban xuống. Ngài dạy chẳng nên vội tin chắc một điều gì là chân lý chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách, hay vì điều ấy do một nhân vật quan trọng hoặc có uy quyền truyền dạy, chí đến lời của chính Ngài, cũng không nên vội vã tin càng mà phải luôn luôn dùng lý trí phân tách, quan sát, xét đoán tỷ mỷ, tận tường, phân biệt đâu là lẽ phải rồi mới quyết định tin cùng không. (xem kinh Kalãma Sutta, Anguttara Nikãya, Tăng Nhứt A Hàm, quyển I, trang 189)
Ngài dạy muốn tìm chân lý hãy hướng vào bên trong bản thân mình, bởi vì:
"Trong tấm thân nhỏ bé (nguyên văn: Tấm thân dài một sải) này, cùng với những tri giác và những tư tưởng, Như-Lai tuyên bố thế-gian, nguồn gốc của thế-gian, sự chấm dứt thế-gian và con đường dẫn đến chấm dứt thế-gian". (Kinh Rohitassa Sutta)
Danh từ Loka mà ở đây được phiên dịch là thế-gian hàm xúc ý nghĩa thế-gian đau khổ và đau khổ là kinh nghiệm của thế-gian bên trong ta.
Dukkha là danh từ Pãli mà Ðức-Phật đã dùng để chỉ cái thường được phiên dịch là đau khổ. Vậy, để được rõ ràng hơn ta hãy tìm hiểu ý nghĩa bao hàm trong chữ Dukkha. Trong quyển "The Buddha and His Teachings", Ðại-Ðức Nãrada giải thích:
"Ðứng về phương diện cảm giác Dukkha là cái gì làm cho ta khó chịu đựng ("Du" là khó, "Kha" là chịu đựng). Nếu xem như một chân-lý trừu tượng, Dukkha hàm xúc ý nghĩa khinh miệt "Du", và trống rỗng "Kha". Thế-gian nằm trong sự đau khổ và như vậy là đáng khinh miệt, không đáng cho ta bám níu vào. Thế-gian là một ảo ảnh, không có thực chất. Do đó, thế-gian là rỗng không, hư vô. Vậy, Dukkha có nghĩa là một hư vô đáng khinh miệt, không đáng cho ta luyến ái và bám níu vào".
Trong bài thuyết trình vế Tứ-Diệu-Ðế (The Significance of The Four Noble Truths; Wheel Publication No. 123), đạo hữu cư sĩ Gunaratna giải thích danh từ Dukkha như sau:
"Danh từ Dukkha gồm hai thành phần: "Du " và "Kha". "Du" là một tiếp đầu ngữ hàm xúc ý nghĩa xấu, thấp kém, đê tiện, hèn hạ hay tầm thường. "Kha" là trống rỗng, hay nông cạn. Hai thành phần này hợp chung lại ám chỉ một cái gì xấu, không đáng được ưa thích, bởi vì nó trống rỗng, không có thực chất, huyền ảo, không làm thỏa mãn và thường được phiên dịch là "Ðau Khổ" hay "Khổ-Não". Tuy nhiên, hai chữ đau khổ và khổ-não chỉ bao hàm những ý niệm về một trạng thái khó chịu, tinh thần hay vật chất, mà không diễn đạt trạng thái rỗng không, huyền ảo và không thực của phạn ngữDukkha.
Dukkha không những phải khiêu gợi trong tâm ta những ý niệm không làm thỏa mãn của sự vật trên thế-gian, trạng thái không thực và dĩ nhiên, đưa đến tuyệt vọng, phiền muộn và bất ổn của tất cả những gì tạo nên khung cảnh sống của chúng ta. Dukkhabao gồm trạng thái chênh lệch, chao động và xáo trộn triền miên nối tiếp mà tất cả chúng sanh phải chịu vì không tìm được trong thế gian này sự bền vững, ổn định và thường còn. Tất cả sự vật bên trong và bên ngoài ta đều ở trong trạng thái luôn luôn sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, vô cùng tận, tạo nên cảnh "bất toại nguyện" và "bất ổn định" của toàn thể vũ trụ".
Trong bài Pháp đầu tiên, gọi là Kinh Chuyển Pháp Luân, Ðức-Phật mô tả cái khổ như sau:
"Hởi này các Tỳ-Khưu, bây giờ, đây là chân-lý cao thượng về sự khổ. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sống chung với người mình không ưa thích là khổ, xa lìa người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm lại, bám níu vào thân ngũ-uẩn là khổ".
Một câu chuyện thuật lại như sau:
"Người kia đi quanh quẩn giữa một khu rừng mênh mông, đầy chông gai và đá nhọn. Trong khi lang thang bất định, anh sực nhìn lại phía sau và thấy một thớt voi đang rượt theo. Giựt mình, anh vụt chạy. Voi đuổi theo. Chạy đến một cái giếng cạn anh định nhảy xuống để tránh voi. Nhưng dưới đáy giếng có một con rắn độc. Thớt voi vẫn lù lù trờ tới. Hoảng hốt, anh chụp lấy một dây rừng từ cây cao lòng thòng trên miệng giếng và vội vã leo phăng lên, bất chấp gai nhọn đầy trên sợi dây quàu trầy cả mình mẩy và tay chân. Lúc ấy anh chàng ngước mặt nhìn lên, thấy một ổ ong. Bầy ong bay tủa ra vây đánh anh. Phía trên nữa có hai con chuột, một trắng, một đen, đang cặm cụi gặm nhấm sợi dây mà anh đang đeo trên đó.
Vừa lúc ấy, một giọt mật từ ổ ong rơi xuống ngay vào miệng anh. Bấy giờ, quên cả thớt voi đang rượt, con rắn độc đang nằm dưới đáy giếng, sợi dây có gai nhọn quàu trầy cả mình mẩy, bầy ong đang vây đánh và hai con chuột, tượng trưng cho ngày và đêm, đang gặm nhấm sợi dây đời sống, anh mê mệt thọ hưởng giọt mật một cách thỏa thích...".
Ðó là hình ảnh của cuộc sống mà chúng ta đang sống: Người lang thang lạc bước giữa rừng là chúng ta. Khu rừng mênh mông đầy chông gai là kiếp nhân sinh trong vòng luân hồi. Thớt voi tượng trưng cho Tử Thần. Con rắn độc nằm dưới đáy giếng là sự già nua. Sợi dây rừng đầy gai nhọn là sự sinh. Bầy ong là những nỗi khổ đau luôn luôn đe dọa sự an lành của chúng ta. Giọt mật hình dung những thú vui hiếm hoi trong đời sống. Hai con chuột, một trắng, một đen là ngày và đêm.
Quả thật vậy, cuộc sống của chúng ta trong vòng luân hồi không giống như một vườn hoa tươi đẹp, lộng lẩy màu sắc và bát ngát hương trầm, mà tựa hồ như một khu rừng mênh mông đầy chông gai và đá nhọn. Trên bước viễn du trong vòng luân hồi, từ vô lượng kiếp, chúng ta vẫn còn đang lặn hụp trong những kiếp sống triền miên tiếp diễn mà không tìm được đường thoát. Hạnh phúc mà phần đông chúng ta mong tìm chỉ là sự thỏa mãn một vài ước vọng. Nhưng vừa khi đạt đến điều mong mỏi ta lại ước mơ điều khác và cứ như thế không ngừng. Chúng ta không bao giờ được thỏa mãn trọn vẹn vì không bao giờ biết là đủ. Lẽ dĩ nhiên, một ước vọng không được toại nguyện làm cho ta đau khổ. Nhưng dầu có được toại nguyện đi nữa, ta lại lo âu, bận tâm suy nghĩ để gìn giữ, sợ nó mất đi. Trong cảnh cơ hàn, ta ước mong được sang trọng giàu có, rồi khi được giàu sang ta lại lo sợ phải nghèo đói cơ cực. Nhưng trong cuộc sống vô thường tạm bợ này có thú vui nào tồn tại mãi mãi, có hạnh phúc nào trường tồn. Mặt trời mọc ở phương Ðông chỉ để lặn ở phương Tây, hoa nở tốt tươi buổi sáng để rồi úa tàn về chiều, mọi cuộc sum hợp vui vầy đều phải chấm dứt trong phân tán chia lìa, vừa lúc sanh ra đời đã phải mang theo mầm mống chết. Chừng ấy nổi sầu muộn càng sâu đậm. Trong thế-gian huyền ảo, tạm bợ, vô-thường, ngã chấp và đầy tham vọng này chúng ta không thể tìm được hạnh phúc thật sự, trường tồn vĩnh cửu.
Sanh, già, bệnh, chết là những gì mà trong đời sống không ai có thể tránh khỏi. Và bốn trạng thái đau khổ ấy được tượng trưng trong câu chuyện bằng sợi dây, con rắn, gai nhọn trên sợi dây và thớt voi.
Cái sanh mà trong câu chuyện, được tượng trưng bằng sợi dây đầy gai nhọn phải được hiểu là sự sống và sự sống trong một kiếp bắt đầu lúc vừa được thọ thai, không phải lúc lọt lòng mẹ. Vài người tưởng tượng thai bào như một nơi chốn ấm cúng đầy đủ tiện nghi, hay như một tịnh thất đượm nhuần tình thương mà con người ẩn rút vào đó một thời gian để tịnh dưỡng tâm linh. Trong thực tế, được thọ thai vào lòng mẹ không giống như hiện thân vào nằm trong một đóa hoa sen đẹp đẽ, tinh khiết và có mùi thơm dịu dàng. Trái lại, tứ bề là những gì nhơ nhớp, tanh hôi. Không có gì là hấp dẫn cho cả mẹ lẫn con. Sau chín tháng mười ngày chịu đựng mọi đau khổ, nằm trong một cái bọc, em bé thoát lòng mẹ và được kéo lôi ra, tống vào đời. Một lần nữa, mẹ và con vô cùng đau đớn. Mẹ nhăn nhó rên siết, con cất tiếng chào đời bằng giọng la khóc, trong khi mọi người khác hân hoan thỏa thích đón mừng.
Khi nói sanh là khổ, không phải chúng ta chỉ nghĩ đến nỗi khổ nhọc hiểm nguy gây nên do cảnh mang nặng đẻ đau mà sâu xa hơn, ta phải nhận thức rằng chính cái sanh là đầu dây mối nhợ, là khởi duyên, tạo cơ hội cho cái khổ bám vào. Nếu không sanh tức không có sự sống và không có sự sống tức là không có khổ. Vì lẽ ấy mục tiêu cứu cánh của người Phật-tử là thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi, tức thoát ra khỏi mọi khổ đau. Nhưng bản chất tự nhiên của chúng sanh là cố bám vào sự sống, giống như anh chàng bị gai quàu trầy cả mình mẩy mà vẫn đeo chắc lấy sợi dây, vì ái-dục là một năng lực vô cùng hùng mạnh, luôn luôn tiềm tàng ngủ ngầm bên trong tất cả mọi người. Chính ái-dục, thô kịch hay vi tế, thúc đẩy ta đeo níu, cố bám chắc vào sự sống dưới mọi hình thức và do đó, dẫn dắt ta mãi mãi phiêu bạt trong biển trầm luân.
Ðã sanh ra tất trưởng thành và đi dần vào cảnh già nua. Trong câu chuyện, con rắn độc nằm dưới đáy giếng tượng trưng cho tuổi già. Danh từ "Jarã" mà Ðức-Phật dùng ở đây không phải chỉ riêng tuổi già mà hàm xúc ý niệm "đi dần đến tuổi già" hay "hư hoại". Như vậy có sự biến đổi từ lúc còn trong bào thai chớ không đợi đến lúc lọt lòng mẹ. Lẽ dĩ nhiên, thân thể hao mòn tiều tụy, răng long, tóc bạc, má cóp da nhăn, mắt mờ tai điếc, tinh thần suy kém, trí não lu mờ, quên trước lộn sau... là cảnh già nua phát lộ ra ngoài và nổi bật một cách hiển nhiên mà tất cả mọi người đều thấy. Nhưng từ khi thọ thai, chúng ta luôn luôn biến đổi, liên tục trưởng thành, không ngừng trở thành một cái gì mới, rồi đi dần đến cảnh già nua, diệt vong và tan rã.
Tất cả mọi sự vật được cấu thành đều phải hư hoại và diệt vong. Lẽ dĩ nhiên, thể xác của chúng ta, do nhiều thành phần lớn nhỏ cấu hợp, ắt phải bị hoại diệt. Ðó là đau khổ (Dukkha) đối với những ai hằng bám níu vào cơ thể vật chất của mình, chấp rằng đây là "Tôi", cái này là "của Tôi". Chúng ta có thể nhìn sự hư hoại của thân, tức Dukkha, dưới ba phương diện. Trước là một phần của thân hư hoại, không thể hoạt động như ý ta muốn, như m?t cánh tay hay một cái chân bại xụi, một bộ phận trong mình bị tê liệt... và hằng trăm triệu chứng ương yếu khác. Trường hợp thứ nhì là giác quan hư hỏng, như đui mù, câm điếc chẳng hạn. Và thứ ba là trí não, hư hoại như thần kinh rối loạn, mất trí nhớ, trở nên lãng trí không còn hiểu biết rõ ràng. Tất cả những trạng thái hư hoại ấy đều dẫn đến đau khổ. Nhưng nếu so sánh, hai phương diện hư hoại đầu, dầu rất khó chịu đựng, vẫn không sâu xa bằng phương diện thứ ba. Ta có bị tật nguyền cách nào, trạng thái đau khổ chỉ kéo dài trong một kiếp sống, trong khi người mà tâm linh hư hoại ắt không đủ sáng suốt để đi theo con đường của Giáo-pháp và như vậy phải chịu khổ đau triền miên trong nhiều kiếp sinh tồn.
Nhiều bạn trẻ rất hãnh diện với thân hình cường tráng khỏe mạnh của mình, vẫn không thích nghĩ đến tuổi già, để trọn vẹn thọ hưởng những thú vui của thời niên thiếu. Nhưng dầu ta có nghĩ đến nó cùng không, nó vẫn ở đâu đây. Con rắn độc vẫn luôn luôn nằm dưới đáy giếng. Tình trạng già nua đến với ta từng giây, từng phút và thâu ngắn đời sống chúng ta trong từng chập tư tưởng. Bao nhiêu người trong chúng ta, chịu bình tâm suy niệm về hiện tượng chết?
Có sanh, có sống là có bệnh. Bệnh hoạn là việc dĩ nhiên trong đời sống và trong câu chuyện, được tượng trưng bằng những gai nhọn trên sợi dây. Dầu già, dầu trẻ hay bất luận ở lứa tuổi nào ta cũng có thể lâm bệnh. Tấm thân ô trược này chỉ là nơi nương tựa của bao nhiêu bệnh hoạn tật nguyền. Ðức-Phật dạy:
"Hãy nhìn cái thể xác đẹp đẽ này, một khối đau đớn, một đống bệnh tật, được người ta bận tâm đến nhiều nhưng không chứa đựng gì bền vững, không có gì tồn tại".
Có những bệnh tật của thể xác, cũng có những bệnh tinh thần. Cả hai, bệnh tinh thần hay thể xác, đều là nguyên nhân sanh khổ. Vào thời Ðức-Phật có một cụ già tên Nakulapita, một hôm đến bạch với Ngài:
"Bạch Hóa Ðức Thế-Tôn, nay con đã già yếu, thân thể gầy còm, đi đứng lụm cụm, tuổi quá cao. Con đã đến mức tận cùng của kiếp sống, thường bệnh hoạn và luôn luôn ương yếu. Cúi xin Ðức Thế-Tôn mở lượng từ-bi khuyên dạy, an ủi con thế nào để con có thể an hưởng phước báu lâu dài".
- "Ðúng vậy, này ông Thiện Nam, quả thật thân thể của ông đã yếu đuối mỏi mòn. Tuy nhiên này ông Thiện Nam, người nào mang thân này mà khoe khoang rằng mình hoàn toàn mạnh khỏe, chỉ trong chốc lát thôi, người ấy cũng là điên cuồng. Như vậy này ông Thiện Nam, ông hãy tu tập suy niệm như sau, "dầu thân xác này có ương yếu, ta sẽ không để cho tâm bệnh hoạn".
Cụ già Nakulapita nghe được lời dạy của Ðức-Phật thì lòng phấn khởi, hoan-hỷ đảnh lễ Ngài rồi ra đi. Và cụ đến bạch với Ngài Sãriputta (Xá-Lợi-Phất) xin Ngài giải thích thêm thế nào là thân thể bệnh hoạn mà tâm cũng bệnh hoạn và thế nào là thân bệnh mà tâm không bệnh.
Ðức Sãriputta dạy: "Nơi đây (trong trường hợp này), này ông Thiện-Nam, người không phân biện rõ ràng Giáo-pháp, không tu tập theo lời dạy của Giáo-pháp, xem thân thể này là chính mình (là tự ngã) thấy tự ngã của mình nằm trong thân thể, thân thể trong tự ngã. Người ấy nói: "Tôi là thân này, thân này là của tôi và ý tưởng ấy thâm nhiễm lâu ngày nhiều kiếp như vậy. Ðến khi thân thể biến đổi, tàn tạ và ngày càng trở nên tồi tệ thêm, theo định luật vô-thường, bất ổn định, dính liền với mọi sư vật, mọi kiếp sinh tồn, thì cảm nghe buồn rầu, âu sầu, đau khổ. Người ấy ta thán, than vản, tuyệt vọng.
Người ấy xem Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tự ngã, xem chính mình nằm trong Thọ, Tưởng, Hành, Thức, hoặc xem Thọ, Tưởng, Hành, Thức nằm trong chính mình và nói: "chính ta là ngũ-uẩn, ngũ-uẩn là ta, cái này là Thọ, Tưởng, Hành, Thức của ta" và cứ thế ý niệm tự đồng hóa với ngũ-uẩn thâm nhiễm người ấy. Do đó, khi Thọ, Tưởng, Hành, Thức, biến đổi ... vì bản chất của nó là bất ổn định và luôn luôn biến đổi thì người ấy buồn rầu ta thán, âu sầu và tuyệt vọng. Ðó, này ông Thiện-Nam, là thân bệnh hoạn mà tâm cũng bệnh hoạn.
Và bấy giờ, thế nào là thân ương yếu bệnh hoạn mà tâm cường tráng khỏe mạnh? Người được giáo dục đầy đủ, tu tập thuần thục trong Giáo-pháp của bậc Thánh Nhân, người ấy xem thân này không phải là tự ngã và tự ngã không nằm trong thân này. Người ấy không nói "Tôi là thân này, thân này là tôi", mà cũng không bị ý niệm ấy thâm nhiễm. Như vậy, khi thân biến đổi và tàn tạ người ấy không âu sầu, không phiền muộn...
Cùng thế ấy, người ấy không xem Thọ, Tưởng, Hành, Thức là chính mình, cũng không xem tự ngã mình nằm trong bốn uẩn ấy. Người ấy không bị ý niệm kia thâm nhiễm và không nói, "Thọ, Tưởng, Hành, Thức là tôi, tôi là Thọ, Tưởng, Hành, Thức". Vì không thâm nhiễm những ý niệm sai lạc ấy, khi Thọ, Tưởng, Hành, Thức biến đổi người ấy không âu sầu, không phiền muộn..."
Một nguyên nhân khác đưa đến đau khổ (Dukkha) mà không ai có thể tránh là cảnh sanh tử biệt-ly, bởi vì chết là nghìn thu vĩnh biệt. Trên bước thênh thang trong vòng luân hồi đã bao lần ta chết và đã bao lần ta khóc cái chết của một người thân. Hãy lắng nghe đạo hữu Huỳnh Thanh Long ngỏ lời nhắn nhủ người khách lữ hành đang lạc lối giữa rừng:
"Hỡi người khách lữ hành trên cõi thế
Ði lang thang vô định đã bao đời!
Vòng tử sanh sanh tử, nẻo luân hồi
Trong Tam Giới xoay đi rồi chuyển lại!
Vô lượng kiếp khóc cha rồi khóc mẹ
Khóc vợ con, quyến thuộc kẻ thân yêu
Khóc cửa nhà, tài sản sớm tiêu điều!
Từ vô thỉ khóc than bao cảnh khổ
Những giọt lệ đắng cay người đã đổ
Còn nhiều hơn nước mặn khắp trùng dương!
Hỡi người khách lữ hành trên cõi thế
Ði lang thang vô định đã bao đời!
Vòng tử sanh sanh tử, nẻo luân hồi
Trong Tam Giới kiếp này rồi kiếp khác!
Từ vô thỉ mỗi đời người bỏ xác
Khắp địa cầu phủ trắng đống xương khô!
..."
Sanh, Trụ, Diệt là định luật chung của muôn loài vạn-vật. Trong thế-gian hiện tượng này có cái chi luôn luôn tồn tại? Có cuộc sum hợp nào mãi mãi vững bền? Có cuộc sống nào không đi dần đến cái chết? Cứng rắn như sắt đá, to lớn như hành tinh, hung dữ như ác thú, khôn ngoan như loài người, tất cả đều phải hoại diệt. Cũng như từ cành cây có nhiều trái rơi rụng, trái non có, trái già có, trái chín mùi có, cùng thế ấy, từ cành cây của đời sống ta có thể rơi lìa bất luận ở lứa tuổi nào, từ sơ sinh, thiếu sinh, tráng sinh, vv... chí đến khi niên cao tuổi lớn. Già chết, trẻ chết, giàu sang chết, quyền quý chết, bần hàn chết, tối tăm ngu muội chết, thông minh sáng suốt chết... cái chết không dành riêng cho một người, một gia đình, một xóm làng, một quốc gia hay dân tộc nào mà đó là số phần của tất cả mọi chúng sanh trong Tam-Giới, từ Dục-Giới, Sắc-Giới đến Vô-Sắc-Giới, từ hạng ngạ quỷ, cầm thú, đến Chư-Thiên, Chư Phạm-Thiên. Chúng ta bước vào đời và trưởng thành giữa những người thân yêu: nào cha mẹ, ông bà, nào cô bác, cậu dì, nào anh chị em, nào thân bằng quyến thuộc, thầy cô, xóm giềng, vv... Chúng ta thương yên nhau, vui cười với nhau, rồi lần lượt mỗi người ra đi một ngã, tùy theo cái nghiệp của mình. Ðến như thế nào, ra đi đường thế ấy. Chúng ta đến một thân một mình, với hai bàn tay trắng. Cũng một thân một mình chúng ta sẽ ra đi với hai bàn tay không.
Ðối với phần đông chúng ta, chết là diễn biến đau khổ trọng đại nhất trên đời vì chúng ta suy tư sai lạc. Trong thực tế cái chết không giống như một chằng tinh hung dữ ẩn núp đâu đây trong lùm bụi, bên đường, chực hờ lúc ta trờ tới là chụp lấy ăn thịt. Cái mà ta gọi là chết chỉ là cái gì đã xảy đến ta vô số lần trong kiếp sống, chỉ khác ở một điểm là lần này hiện tượng chết biểu lộ dưới một hình thức hiển hiện hơn. Sách Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi Magga) dạy rằng trong ý nghĩa cùng tột, chúng sanh chỉ sống trong thời gian của một chập tư-tưởng (chập tư-tưởng hay sát-na tâm, được giải thích là một phần triệu triệu của khoảng thời gian một cái chớp):
"Tựa hồ như bánh xe lăn trên mặt đất, trong mỗi điểm thời gian vòng bánh xe chỉ chấm đất ở một điểm. Cùng thế ấy, kiếp sống của chúng sanh chỉ tồn tại trong khoảnh khắc của một chập tư-tưởng hay như ta thường gọi một sát-na tâm. Khi chập tư-tưởng ấy chấm dứt, chúng ta nói rằng chúng sanh ấy chấm dứt".
Như vậy, trong từng khoảnh khắc của kiếp sống chúng ta đang chết và đang tái sanh. Vì mê muội, không phân biệt được bản chất của cái chết tạm thời trong mỗi khoảnh khắc nên chúng ta lo sợ một cái chết đặc biệt, xảy đến vào phút cuối cùng của kiếp sống, mà không thấy rằng đó chỉ là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Trong câu chuyện kể trên, cái chết được hình dung như thớt voi luôn luôn theo bén gót người đi lang thang bất định giữa khu rừng bát ngát mênh mông của đời sống".
Sanh, già, bệnh, chết là những cái khổ mà mặc dầu không ai tránh khỏi, chỉ đến với ta vào giai đoạn nào. Ta chỉ sanh ra và chết một lần, chỉ trở nên già nua vào lúc xế chiều của cuộc sống và trừ phi phải bị một chứng bệnh kinh niên bất khả trị, ta chỉ lâm bệnh từng lúc. Nhưng còn những đau khổ khác có tánh cách thường xuyên hơn, được Ðức-Phật mô tả trong bài Kinh Chuyển Pháp Luân như sau:
"... sống chung với người mình không ưa thích là khổ, xa lìa người thân yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm lại, bám níu vào thân ngũ-uẩn là khổ".
Ðó là những phiền phức và đau khổ khác không ngớt ve vãn để phá tan tình trạng an-lạc của ta. Trong câu chuyện là bầy ong không ngừng bay vù vù bao phủ khách lữ hành đang lạc lối trên cõi thế.
Phải sống chung với người mình không ưa thích là một điều khổ. Chung sống với một người điên, với kẻ sát nhân hung bạo tàn ác, với một tên trộm luôn luôn chực hờ để đánh cắp một vật gì của mình, với người có tánh lăng loàn lang chạ, người gian dối, thô lổ cộc cằn, người có tính đâm thọc, đem chuyện đầu kia về dèm pha ở đầu này, sống với người say sưa, hư hèn mất nết, vv... đều là khổ. Vã lại "người mình không ưa thích" ở đây có thể là một con thú, hay một vật làm cho mình khó chịu, cũng có thể là thời tiết quá lạnh hay quá nóng, hoặc nữa là một công việc làm để sinh sống mà mình không thích. Tất cả những hoàn cảnh ấy đều là nguyên nhân đưa đến đau khổ".
Cùng một thế ấy, phải xa lìa người thân kẻ yêu là nguyên nhân gây đau khổ khác không thể tránh. Con xa cha mẹ, cha mẹ xa con, chồng lìa vợ, vợ lìa chồng, bạn bè xa cách, quyến thuộc chia lìa đều là khổ. Nhưng có hợp là có tan, đó là lẽ tự nhiên. Cảnh sum hợp trên thế-gian là tạm bợ. Và đời sống của chúng ta, gặp gỡ nhau trên thế-gian cũng chỉ là tạm thời. Tất cả những mối liên hệ trong gia đình, trong xã-hội, như cha mẹ, anh em, chồng vợ, bạn bè quyến thuộc, vv... tất cả đều tạm bợ. Nếu trong trường hợp trên: sống với người không ưa thích, chúng ta bị thương tích vì mũi tên có tẩm thuốc độc "Sân hận" thì ở trường hợp này, xa lìa người thân yêu mũi tên bắn vào mình ta lại tẩm thuốc độc "Tham ái". Chúng ta mến yêu, muốn mãi mãi sống một bên những người, những sinh vật, hay những vật dụng mà ta thương mến hay ưa thích, nhưng rồi tham vọng ấy không được thỏa mãn trọn vẹn và chúng ta thất vọng và đau khổ. Trong một thế-gian mà tính khát khao tham muốn và gắn bó luyến ái luôn luôn ngự trị và cảnh phân tán chia lìa là điều không thể tránh thì làm thế nào chúng ta có thể vượt thoát ra khỏi được hai hình thức đau khổ này? Chúng ta hằng ngày lặn hụp bơi lội trong biển vô-thường và trong lúc ấy, chính chúng ta cũng không ngừng biến đổi, thì chắc chắn là chúng ta phải chịu hai loại đau khổ thường xuyên này.
Như vậy, bằng cách này hay cách khác, chúng ta không thể tránh khỏi cảnh "mong muốn mà không được". Ðiều mong ước mà không thành tựu làm cho ta đau khổ. Trái lại, những cảnh ngộ nghịch lòng hay những điều mà ta ít mong mỏi nhất lắm khi đến với ta một cách đột ngột. Những trường hợp nghịch cảnh tương tợ trở thành không thể chịu đựng nổi và đau khổ đến đổi vài người yếu tánh và kém hiểu biết phải nghĩ đến việc quyên sinh, tưởng chừng như chết là giải quyết mọi vấn đề đau khổ. Về điểm này Ðức-Phật dạy rằng chúng sanh phải chịu cảnh già, bệnh, chết, phiền muộn, ta thán, đau đớn, âu sầu và tuyệt vọng và mong muốn: phải chi ta khỏi bị cảnh già, bệnh, chết, phiền muộn, ta thán, đau đớn, âu sầu và tuyệt vọng! Phải chi những hoàn cảnh bất hạnh kia đừng bao giờ đến với ta! Nhưng, không phải chỉ bằng cách mong muốn suông mà ta có thể chận đứng, làm cho những hoàn cảnh bất hạnh ấy không đến với ta. Và điều ước muốn mà không thành tựu là nguyên nhân đưa đến đau khổ.
Ðức-Phật nhiều lần nhấn mạnh rằng mong ước suông không thể bảo vệ chúng ta. Ðường lối duy nhất để thoát khỏi đau khổ là thực hành Giáo-pháp và phát triển tuệ minh-sát.
Giờ đây, để chấm dứt đoạn mô tả đau khổ (Dukkha) Ðức-Phật dạy:
"... Sankhittena Pancupãdãnakkhandhã Dukkha" có nghĩa "tóm tắt, ngũ-uẩn thủ là khổ".
Ngũ-uẩn thủ ở đây là sự bám níu (thủ:Upãdãna) vào ngũ-uẩn (Pancãkkhandhã), hay năm nhóm bám níu. Như vậy, bám níu vào ngũ-uẩn là khổ. Ðây là sắc thái tế nhị nhất của khổ (Dukkha) và cũng là sắc thái bền bỉ dính liền và gần gủi với chúng ta nhất. Năm nhóm bám níu này tức: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức... là những thành phần cấu hợp nên chúng sanh. Do nghiệp tạo trong tiền kiếp, chúng ta đã bám níu vào ngũ-uẩn từ thủa bắt đầu kiếp sống hiện tại. Và trong kiếp sống hiện tại ta tiếp tục tạo nghiệp bằng cách luôn luôn ham muốn, khát khao hoặc ghét bỏ, xua đuổi điều này vật nọ. Cả hai trường hợp đều là hình thức bám níu khác nhau, vì ghét bỏ, xua đuổi là ham muốn khát khao, tức bám níu, cái ngược lại. Nhưng bản chất của cái mà ta bám níu, ngũ-uẩn, là bất ổn định, không ngừng sanh rồi diệt và như vậy bám níu vào nó không khác nào dơ tay nắm lấy một nắm nước và mong rằng nước sẽ ở lại mãi mãi trong tay. Chắc chắn là ta phải thất vọng. Ðiểm này sẽ được đề cập đến ở đoạn hành-khổ (Sankhãra Dukkhatã).
Trên đây là phần đen tối của cuộc sống mà chúng ta đang sống. Tuy nhiên, trong khu rừng của đời sống không phải chỉ có chông gai và đá nhọn. Thỉnh thoảng ta cũng gặp một vài bông hoa tươi đẹp, một vài kỳ hoa dị thảo, hay một vài giọt mật ngọt ngào. Chính những giọt mật hiếm hoi ấy làm cho ta say đắm, quên hẳn mọi sầu khổ và hiểm nguy. Và trong khi chúng ta mãi mê thọ hưởng giọt mật thì hai con chuột, một trắng, một đen, tượng trưng ngày và đêm, không ngừng gặm nhấm sợi dây. Mỗi ngày qua đưa ta đến gần cái chết hơn một ngày. Mỗi đêm qua đưa chúng ta đến gần cái chết hơn một đêm.
Giáo-lý của Ðức-Phật đặt trọng tâm vào sự đau khổ (Dukkha) và nhằm chấm dứt đau khổ. Trong khi dạy rằng đau khổ (Dukkha) là đặc tánh nổi bật nhất của đời sống Phật-giáo nhìn Dukkha dưới ba sắc thái:
a) Khổ-Khổ (Dukkha-Dukkhatã ): Ðời sống hiển nhiên là đau khổ, sự đau khổ hiển nhiên mà mọi người đều có thể trông thấy.
b) Vô-Thường-Khổ (Viparinãma-Dukkhatã ): Ðau khổ vì vô-thường. Viparinãma là thay đổi, biến chuyển, thay hình đổi dạng. Bản thể của đời sống là đau khổ vì bản thể của vạn pháp là vô-thường.
c) Hành-Khổ (Sankhãra-Dukkhatã ): Ðau khổ vốn dính liền, cố hữu với chúng sanh trong sự cấu thành của chúng sanh. Chính bản chất của chúng sanh là đau khổ. Tự chúng sanh là đau khổ. Chính ngũ-uẩn là đau khổ.
a) Khổ-Khổ (DUKKHA-DUKKHATÃ )
Trong quyển "The Buddha's Ancient Path", Ðại-Ðức Piyadassi viết:
"Ðối với người có quan kiến chân chánh, tức hiểu biết và không luyến ái, một sự kiện nổi bật rõ ràng minh bạch là trong toàn thể thế-gian chỉ có một vấn đề là đau khổ (Dukkha), bất toại nguyện. Tất cả những vấn đề khác đã được hay chưa được biết, đều trọn vẹn nằm trong vấn đề có tánh cách phổ thông này. Nếu vạn nhất có việc gì trở thành vấn đề thì đương nhiên việc ấy phải dính liền với trạng thái bất toại nguyện, hay nếu muốn dùng một danh từ khác, trạng thái xung đột, bất ổn, xung đột giữa ý muốn của ta và các diễn biến của đời sống. Và lẽ dĩ nhiên, mọi người đều cố gắng giải quyết vấn đề, hay nói cách khác, nỗ lực của mọi người là chấm dứt trạng thái bất toại nguyện ấy, là kiểm soát, chế ngự cuộc xung đột đã làm cho ta ưu phiền, đau khổ. Chúng ta nhìn vấn đề duy nhất ấy dưới nhiều khía cạnh khác nhau, vấn đề kinh tế, vấn đề xã-hội, vấn đề chánh trị, vấn đề tâm lý, chí đến vấn đề tôn-giáo. Phải chăng tất cả các vấn đề ấy đều phát nguyên từ đau khổ (Dukkha), bất toại nguyện? Nếu không phải vậy, nếu các vấn đề ấy không phải là đau khổ, bất toại nguyện, tại sao ta cố gắng giải quyết? Giải quyết một vấn đề phải chăng là để làm giảm suy trạng thái bất toại nguyện? Tất cả các vấn đề tạo nên bất toại nguyện và nỗ lực của ta nhằm chấm dứt tình trạng ấy".
Ðối với đạo hữu Gunaratna, chỉ cần nhìn quanh ta với cặp mắt quan-sát và tâm suy tư là ta sẽ thấy hiển nhiên nổi bật đặc tánh đau khổ của đời sống. Trong một bài thuyết trình về Tứ-Diệu-Ðế, ông nói:
"Có đời sống của người nào, từ bé đến già, mà phẳng lặng, im lìm như mặt nước ao hồ, không bị chút lo âu, sợ-sệt, buồn rầu, làm chao động? Có gia-đình nào chưa từng khóc cái chết của một người thân? Tìm ở đâu ra một trái tim chưa từng bóp siết nhói đau và chưa bao giờ sầu muộn? Và chính trong giờ phút này, ngay lúc tôi đang nói và quý vị đang nghe, có bao nhiêu trăm, bao nhiêu ngàn, hơn nữa, bao nhiêu triệu người đang trằn trọc hay nằm vùi trên giường bệnh, ở nhà hay ở trong bệnh viện, trong thế-gian rộng lớn và đầy dẩy đau khổ này? Bao nhiêu triệu bệnh nhân khác cũng trong giờ phút này, đang nằm trải mình trên bàn mổ, giữa hai trạng thái, sống và chết? Bao nhiêu người khác nữa đã đến mức tận cùng của đời sống, cũng trong giờ phút này, đang cố bám lấy hơi thở mà hầu như không còn trở lại nữa, và cố hớp lấy từng hớp hơi thở cuối cùng? Và bao nhiêu triệu cha mẹ, con cái, bạn bè đang than khóc sự ra đi của thân bằng quyến thuộc? Không thấy tức không biết, ngoại trừ người suy tư. Vậy thử nhìn qua thế-gian chung quanh ta để nhận thấy đến mức độ nào đói rét và nạn thất-nghiệp đã gây đau khổ cho nhân loại? Có phải chăng đó là dấu hiệu không thể lầm lẫn chỉ rõ tánh cách phổ cập của đau khổ (Dukkha)?"
Ðó là sắc thái đau khổ hiển nhiên của đời sống mà mọi người suy tư đều có thể nhận thấy.
b) Vô-Thường Khổ (Viparinãma Dukkhatã )
Ðau khổ vì đời sống là vô-thường, là sắc thái thứ nhì của Dukkha. Khi mà tất cả mọi sự vật đều biến đổi, không có gì ổn định, không có gì bền vững, không có gì tồn tại giống hệt nhau trong hai khoảnh khắc thì hậu quả dĩ nhiên là trạng thái vô-thường, bất ổn, bất định, bất điều hòa, những khía cạnh khác nhau của đau khổ (Dukkha). Chính sự biến đổi là dấu hiệu của Dukkha.
Ðau khổ là một cảm giác, danh từ Phật-giáo là Thọ (Vedanã). Theo Vi-Diệu-Pháp (Abhidhamma) có năm loại Thọ, tức năm loại cảm giác:
1) Thọ Hỷ (Somanassa ): Cảm giác thích thú về tinh thần, hạnh-phúc, như khi nhận được một tin lành, nghe một bài pháp thích thú, xem một bức tranh đẹp, vv ...
2) Thọ Khổ (Domanassa ): Cảm giác đau khổ về tinh thần như khi nhận được bạo tin hay nghe những lời nói hung tợn, thấy những cảnh tượng bạo tàn, vv ...
3) Thọ Lạc (Sukha ): Cảm giác thích thú về thể xác như khi dùng một bửa cơm ngon, nằm giường êm, ngủ trong phòng có điều hòa không khí, vv ...
4) Dukkha: Cảm giác đau đớn, thiếu tiện nghi như ngồi chật hẹp trên một chiếc xe cũ kỹ, đi ngoài nắng, uống thuốc đắng, vv ...
5) Thọ xả (Upekkhã ): Cảm giác vô ký, không vui, không khổ.
Trong thực tế, khi tinh thần được hạnh phúc thì vật chất cũng được vui thích và trái lại, khi thể xác được thích thú thì tinh thần cũng được khoan khoái. Vậy, ta có thể gom hai cảm giác vui thích tinh thần và vật chất làm một, gọi chung là Sukkha. Cùng một thế ấy, ta gom hai cảm giác đau khổ, tinh thần và vật chất, làm một và gọi chung là Dukkha. Ðến đây Thọ hay cảm giác, còn ba:
- Cảm giác Vui Thích tinh thần và vật chất: Sukkha
- Cảm giác Ðau Khổ tinh thần và vật chất: Dukkha
- Cảm giác Vô Ký: Upekkhã
Trong ba cảm giác này Upekkhã rất yếu ớt, hầu như không có. Ta có thể xem như không có cảm giác vô ký. Còn lại hai cảm giác, vui thích và đau khổ, tinh thần cũng như vật chất. Nhưng trong trạng thái luôn luôn biến đổi của mọi sự vật bên trong và bên ngoài, ta không thể có hạnh-phúc vững chắc, tức không có hạnh-phúc thật sự. Trong khi hoàn cảnh biến đổi và tất cả đều phải biến đổi, chính cái hương vị ngọt bùi của hạnh-phúc cũng trở thành vị đắng cay của Dukkha. Vậy, rốt cùng chỉ còn sự đau khổ, tinh thần và vật chất.
Thú vui được có tài sản sự nghiệp, thú vui được lợi lộc, thú vui được danh thơm tiếng tốt, được vinh quang phú quý, thú vui gia đình, thú vui với thân bằng quyến thuộc... thật là dễ chịu, thích thú. Nhưng tất cả đều biến đổi và cuối cùng cái chết có thể chia rẽ tất cả. Ðến chừng ấy nỗi sầu muộn cũng sẽ sâu đậm, tương đương với thú vui trước kia. Ông Gunaratna viết:
"Có người nào dám bảo rằng điều may mắn sẽ không trở thành rủi ro và những điều kiện thỏa đáng sẽ tiếp tục còn thỏa đáng? Ðặc tánh biến đổi luôn luôn tiềm tàng trong mọi sự vật. Chừng nào mà đặc tánh này còn tồn tại thì chừng ấy lo sợ còn làm cho chúng ta đau khổ, vì chúng ta không muốn những điều kiện thỏa đáng, ấy bị chấm dứt hay gián đoạn. Ðó là sắc thái Viparinãma của đau khổ. Từ thủa bình minh của lịch sử nhân loại, tình trạng bất an toàn của những gì tốt đẹp trong đời sống đã nói lên sự đau khổ". Vua chúa lo sợ sự an toàn của ngôi vị mình. Người thường dân lo sợ sự an toàn của mạng sống mình. Người tư bản lo sợ sự an toàn của sự nghiệp mình. Người làm công lo sợ cho sự an toàn của công ăn việc làm của mình. Nếu mọi sự vật đều biến đổi thì không thể có thanh bình và an toàn. Nếu không có thanh bình và an toàn tức có xáo trộn, bất ổn và lo sợ. Và đó là đau khổ (Dukkha).
Chẳng những sự vật tạo thú vui phải biến đổi mà chính người thọ hưởng thú vui ấy cũng luôn luôn biến đổi. Như vậy, chúng ta đang mục kích cảnh tượng buồn cười, những chúng sanh luôn luôn biến đổi cố gắng rượt theo và bám lấy những vật cũng luôn luôn biến đổi, hình ảnh một cái bóng chạy theo và cố chụp cho được một cái bóng khác. Về điểm này Ðại- Ðức Piyadassi giải thích:
"Xuyên qua khả năng nhạy của giác quan (Lục-Căn) con người bị ngoại cảnh, đối tượng của giác quan (Lục-Trần), thu hút và thích thú trong ấy. Do đó phát sanh sự thọ hưởng hay trạng thái hoan-hỷ trong lục-trần. Ðó là sự kiện hiển nhiên, không thể phủ nhận, vì tất cả chúng ta đều thường xuyên chứng nghiệm. Tuy nhiên, cả hai sự thọ hưởng và đối tượng thích thú của nó, đều không thể tồn tại lâu dài. Cả hai đều phải biến đổi. Bây giờ, khi người kia không thể giữ lại được, hay bị mất đi những lạc thú, theo lẽ thông thường thì người ấy buồn rầu, sầu muộn, thất vọng. Người ấy cũng không thích cái gì nhàm chán và luôn luôn đi tìm những thích thú mới, giống như những con bò thả ăn ngoài đồng, luôn luôn đi tìm bãi cỏ mới. Nhưng đặc tánh của những thích thú mới cũng là vô-thường, tạm bợ, tồn tại nhất thời rồi trôi qua. Như thế, những lạc thú của đời sống, dầu ta thích thú nó cùng không, vẫn là bước đầu, mở đường vào trạng thái đau khổ " (The Buddha's Ancient Path).
Trong quyển The Buddha and His Teachings (Ðức Phật và Phật Pháp), Ðại-Ðức Nãrada viết:
"Hạng người thường chỉ thấy lớp ngoài nhưng bậc Thánh-nhân thấy được thực tướng của sự vật. Ðối với các Ngài tất cả đời sống đều là khổ và các Ngài nhận thấy rằng không thể có hạnh-phúc thật sự, hoàn toàn bền vững, trong một thế-gian huyền ảo, tạm bợ và vô-thường. Không thể có hạnh-phúc trường tồn vĩnh cửu trong một thế-gian luôn luôn biến đổi. Hạnh-phúc vật chất chỉ là sự thỏa mãn một vài ước vọng. Nhưng khi ta vừa đạt được nó thì nó đã vội lìa bỏ ta. Dục vọng không khi nào được thỏa mãn trọn vẹn. Không bao giờ ta cho là đủ".
c) Hành Khổ (Sankhãra Dukkhatã )
Sắc thái thứ ba của đau khổ là Hành-khổ (Sankhãra Dukkhatã). Hành (Sankhãra) là một danh từ có rất nhiều ý nghĩa. Ở đây, danh từ này bao hàm tất cả những gì được cấu tạo do nhiều nguyên nhân cùng hợp lại, một cấu hợp, một nhóm, một khối. Theo Phật-giáo con người là sự cấu hợp của hai thành phần: Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất.
Về phần vật chất như đã thảo luận rộng rãi trong bài Vô-thường, với khoa học hiện đại ta biết rằng thể xác của chúng ta là sự cấu hợp của nhiều tế bào, tế bào là sự cấu hợp của nhiều nguyên tử và nguyên tử bao gồm âm điện tử, dương điện tử, trung hòa điện tử, những thành phần luôn luôn biến đổi, luôn luôn di động, từng giây, từng khoảnh khắc. Như vậy, con người, sự cấu hợp của vô số những thành phần luôn luôn biến đổi, tức cũng không ngừng biến đổi.
Hơn 2500 năm về trước, Ðức-Phật dạy rằng: "Hai thành phần Danh và Sắc, tâm và vật chất, ở trong trạng thái luôn luôn di động". Dựa theo Tạng-Luận (Abhidhamma Pitaka) Ðại-Ðức Nãrada giải thích sự biến đổi của vật chất như sau: "Từ ngàn xưa những nhà hiền triết Ấn-Ðộ cũng tin có một nguyên tử bất khả phân tán gọi là "Paramanu". Một hột bụi nhỏ mà ta thấy vỡn vơ trong làn ánh sáng được gọi là "Ratharenu". Một Ratharenu chia làm 36 "Tajjaris", một Tajjari chia làm 36 "Anus" và một Anus chia làm 36 "Paramanus". Vậy nếu ta chia hột bụi nhỏ kia làm 46656 phần thì một phần nhỏ bé ấy là Paramanu. Theo quan niệm thời bấy giờ thì Paramanu là đơn vị vi tế nhất của vật chất, không thể còn phân tách được nữa.
Với nhãn quan siêu phàm, Ðức-Phật phân tách Paramanu và tuyên bố rằng Paramanu gồm có những năng lực tương quan gọi là Paramattha hay thành phần chánh yếu của vật chất. NhữngParamattha ấy là Ðất (Pathãvi), nước (ãpo), Lửa (Tejo) và Gió (Vãyo), được gọi là tứ đại chánh yếu hay tứ đại. Tứ đại: Ðất, Nước, Lửa, Gió là những đơn vị căn bản của vật chất, luôn luôn pha lẫn với bốn chuyển hóa là màu Sắc (Vanna), Hương (Gandha), Vị (Rasa) và bản chất dinh dưỡng (Ojã)...
Tứ đại và bốn chuyển hóa luôn luôn dính liền nhau và liên quan với nhau rất mật thiết. Nhưng trong một loại vật chất thành phần này có thể trội hơn thành phần khác. Thí dụ như trong đất thành phần Ðất (Pathãvi) trội hơn ba thành phần kia. Trong nước thì thành phần Nước (ãpo) trội hơn. Trong lửa thì thành phần Lửa (Tejo) trội hơn và trong không khí thì thành phần Gió (Vãyo) trội hơn. Như vậy, vật chất gồm có những năng lực và những đặc tính trong trạng thái liên tục biến đổi, luôn luôn trôi chảy như một giòng suối".
Về phần tâm linh, Ðại-Ðức Nãrada viết:
"Tâm, thành phần quan trọng hơn trong guồng máy phức tạp của con người, gồm có 52 trạng thái tâm gọi là tâm sở, luôn luôn biến đổi. Thọ (Vedanã) hay cảm giác là một. Tưởng (Sannã) hay tri giác là một tâm sở khác. 50 Tâm sở còn lại được gọi chung là Hành (Sankhãra) hay những sinh hoạt có tác ý của tâm. Tất cả 52 tâm sở đều phát sanh trong Thức (Vinnãna).
Theo triết học Phật-giáo không có một khoảnh khắc nào mà tâm có thể trống không, nghĩa là không có khoảnh khắc nào mà không có một loại tâm duyên theo một đối tượng, vật chất hay tinh thần. Thời-gian tồn tại của một loại tâm như vậy gọi là chập tư-tưởng hay sát-na tâm. Khi một chập tư-tưởng diệt tức khắc có một chập mới phát sanh. Như vậy, những chập tư-tưởng liên tục nối tiếp và thời gian tồn tại của một chập tư-tưởng thật ngắn, khó mà quan niệm được.
Mỗi chập tư-tưởng gồm ba giai đoạn: Sanh (Uppãda), Trụ (Thiti) và Diệt (Bhanga). Ngay khi một chập tư-tưởng vừa trải qua giai đoạn Diệt (Bhanga) tức khắc giai đoạn Sanh (Uppãda) của chập tư-tưởng kế nổi lên. Trong tiến trình luôn luôn biến đổi của đời sống, mỗi chập tư-tưởng, khi diệt, chuyển tất cả năng lực và tất cả những cảm giác đã thâu nhận cho chập tư-tưởng kế. Một chập tư-tưởng mới bao gồm những tiềm năng do chập tư-tưởng trước trao lại và thêm vào đó, còn có cái gì khác nữa, và cái đó là kinh nghiệm và cảm giác riêng của nó. Như vậy có sự luân lưu không ngừng của tâm. Luồng tâm giống như giòng suối luôn luôn trôi chảy. Chập tư-tưởng mới không hoàn toàn giống như chập tư-tưởng trước, bởi vì thành phần cấu tạo đã đổi mới mà cũng không hoàn toàn khác, bởi vì cả hai đều cùng nằm trong một luồng sống, một giòng đời. Không có chúng sanh đồng nhất nhưng có sự đồng nhất trong tiến trình đời sống của chúng sanh".
Bốn loại hiện tượng tâm lý: Thọ, Tưởng, Hành, Thức, hợp với hiện tượng vật chất, sắc, tạo nên ngũ-uẩn hay năm nhóm, năm khối, năm thành phần cấu tạo một chúng sanh. Mỗi cá nhân là sự cấu tạo của năm nhóm ấy.
Như vậy, thể xác con người không phải là một thực thể đơn thuần, nguyên vẹn, không biến đổi, mà là một tiến trình luôn luôn tiếp diễn. Tâm cũng luôn luôn biến đổi như một sự tiếp nối liên tục, một giòng sông luôn luôn trôi chảy và không bao giờ tồn tại giống hệt nhau trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Mỗi giây, mỗi khoảnh khắc trôi qua thì ở một điểm nước cũng trôi đi, nhường chỗ cho nước từ một điểm khác trôi đến. Ðiều này đưa ta đến kết luận: danh-sắc hay sự cấu thành của tâm và thể xác, cấu thành chúng sanh phức tạp mà ta gọi là con người không phải là một thực thể tự mình có khả năng tồn tại vĩnh cửu mà chỉ là một tiến trình liên tục diễn tiến. Ðã là một tiến trình thì nó là cái gì luôn luôn biến đổi, không tồn tại lâu dài. Chính vì lẽ ấy mà nó là đau khổ (Dukkha). Vậy sự đau khổ dính liền với con người trong sự cấu thành con người. Chính bản chất của khối ngũ-uẩn là đau khổ (Dukkha). Ðó là sắc thái hành-khổ (Sankhãra Dukkhatã).
Từ ngàn xưa, không phải chỉ con người mà tất cả chúng sanh trong ba giới bốn loài, đều mưu tìm hạnh-phúc và cố tránh đau khổ. Ðến nay, ta có thể nhìn quanh và xác nhận rằng sự kiện này vẫn còn. Và trong tương lai, có ai còn hoài nghi chăng rằng chúng ta sẽ còn tiếp tục theo đuổi mục tiêu huyền ảo ấy? Chúng ta tận lực làm đủ mọi việc và ước mong sẽ chứng nghiệm Thọ lạc, tránh khỏi Thọ khổ, tinh thần cũng như vật chất. Phần lớn chúng ta hướng ra ngoài và cố gắng đổi thay hoàn cảnh bên ngoài để thỏa mãn những sở thích của mình. Lẽ dĩ nhiên, đó chỉ là củ cải mà người ta treo lủng lẳng trước đầu con lừa. Lừa nỗ lực bước tới để táp lấy cải nhưng không bao giờ được. Khi đề cập đến vấn đề đau khổ của kiếp nhân sinh Ðại Ðức Nãrada viết: "Hạnh-phúc thật sự nằm bên trong chúng ta và không thể định nghĩa bằng những danh từ như tài sản, sự nghiệp, quyền thế, danh vọng hay chinh phục, xâm lăng, chiếm đoạt. Nếu sự nghiệp vật chất ấy được thâu đoạt bằng bạo lực, cường quyền hay bằng một phương tiện bất công nào khác, hoặc giả, nếu sự nghiệp vật chất ấy được hướng theo một chiều hướng lầm lạc hay nếu ta đem lòng luyến ái, dính mắc, trìu mến nó thì đó chính là nguồn đau khổ, lo âu và phiền muộn, cho người làm chủ nó. Ðối với người thường, Thọ hưởng dục lạc của ngũ-trần là hạnh-phúc tốt đẹp duy nhất. Chắc chắn là có thích thú nhất thời trong khi ta mơ ước, lúc Thọ hưởng và khi hồi nhớ lại những khoái lạc vật chất tương tợ. Nhưng hạnh-phúc ấy quả thật là huyền ảo và tạm bợ. Theo Ðức-Phật, không luyến ái, tức vượt lên trên mọi dục lạc là hạnh-phúc tối thượng".
Hình như tất cả mọi người đều nhận thức rằng trong đời sống hạnh-phúc quả thật hiếm hoi mà đau khổ thì rất nhiều. Nhưng, trước cái khổ mỗi người, mỗi giới có một thái độ riêng.
Có hạng người lý trí hóa sự khổ, dùng lý trí phân tách, suy luận, giải thích cái khổ. Có hạng người khác thần thánh hóa sự khổ, cho rằng khổ là điều kiện tất yếu để con người vươn lên như những đóa hoa sen, từ bùn nhơ nước đục vượt đến chỗ thanh khí an lành và rực rỡ nở tung trong ánh nắng ban mai. Có người, tuy cũng nhận định rằng đời là khổ nhưng cố tình lãng quên để yên tâm tận hưởng chút ít lạc thú nào của đời sống. Cũng có người nhận thấy cái khổ rồi ủ dột âu sầu, sanh ra yếm thế bi quan.
Chúng ta không nên tự lường gạt mình, cố tình hiểu rằng không bao giờ có hoàn cảnh khổ đau trên thế-gian. Ðó là phương cách của chim đà điểu, khi thấy có hiểm nguy sắp đến thì vội vã cắm mỏ lùi trong cát để không thấy nữa, một phương cách lánh nguy không mang lại hiệu quả. Chúng ta phải mở rộng mắt nhìn thẳng vào vấn đề đau khổ. Khi ta chấp nhận rằng đã từ lâu mình mãi cặm cụi vát trên vai bao nhiêu ưu phiền và đau khổ thì chừng đó ta sẵn sàng buông xuống gánh nặng để khoan thai rảo bước trên con đường đưa đến tự do và hạnh-phúc thật sự trường cửu.
Phật-giáo nhận cái khổ như một sự kiện sẵn có và dính liền với đời sống. Nhưng Ðức-Phật không dừng bước tại đây để buồn rầu hay để cầu nguyện cho chúng sanh. Như vị lương y, khi nhận thấy và xác nhận rằng thật sự có bệnh thì tìm phăng lên nguyên nhân của chứng bệnh và sau khi xác nhận rằng chứng bệnh có thể chữa trị, kê toa và chỉ dạy bệnh nhân phương thức trị liệu thích hợp. Cùng thế ấy, Ðức-Phật xác nhận đau khổ là chứng bệnh trầm kha của chúng sanh, ái dục là nguồn gốc của đau khổ, ái dục có thể tận diệt và phương thức diệt trừ ái dục, chấm dứt đau khổ, là Bát Chánh Ðạo gồm Giới - Ðịnh - Tuệ.
Như vậy, Phật-giáo không bi quan, cũng không lạc quan, mà chỉ thực tiễn. Người Phật-tử không tự dối mình mà cho rằng thế-gian này quả thật là cảnh giới mong mỏi và hạnh-phúc vẫn phảng phất đâu đây. Phật-giáo không hề khuyên bảo chúng ta phải tin rằng mọi việc đều tốt đẹp trong kiếp sống này hay trong kiếp tới. Phật-giáo không mê hoặc con người bằng những liều thuốc ngủ: "Con hãy uống viên thuốc này, khi Tử-thần đến, liều thuốc sẽ cứu con tỉnh dậy và con sẽ sống vĩnh cửu, mãi mãi đẹp đẽ và vinh quang".
Người Phật-tử có thái độ của người thấy con rắn bò dưới chân, tự nhủ rằng đây là một sinh vật nguy hiểm, phải tìm cách lánh xa nó, chớ không âu sầu, ngồi yên một chỗ để than khóc vái van, hay tự đối mình, mãi mê vui chơi việc khác và lờ hẳn thực tế. Hành động như vậy cũng không phải là đào tẩu, vì đào tẩu là lẫn trốn, sợ bỏ chạy, không dám ứng phó với những bất hạnh của đời sống. Người đào tẩu khác hẳn với người biết suy luận đang nỗ lực chạy thoát, hoặc tìm đường chạy thoát ra khỏi cảnh hiểm nguy.
Hằng ngày ta có thể nhận định tánh cách vô-thường của vạn pháp. Hoa nở rồi tàn. Con người sanh ra, trưởng thành rồi chết. Mọi sự vật đều luôn luôn biến đổi. Không có cái chi tồn tại vừng bền trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Do lý vô-thường có đau khổ. Ðau khổ là sự kiện dĩ nhiên, một thực tế của đời sống. Phật-giáo dạy chúng ta tận dụng khả năng để quan sát, suy luận và đối phó với thực tế.
Trong bộ Samyutta Nikãya, Tạp A Hàm, có tích chuyện như sau:
Một lần nọ, Ðức-Phật ngự tại Kosambi (Câu Ðàm Di) trong khu rừng cây Simsapa. Lúc ấy, nắm trong tay một nắm lá, Ngài ngỏ lời cùng các vị Tỳ-Khưu như sau:
"Các con nghĩ thế nào, này chư Tỳ-Khưu, số lá nằm trong tay Như-Lai và số lá trên cây, trong toàn thể khu rừng này, số nào lớn hơn?
- Bạch Hóa Ðức Thế-Tôn, số lá nằm trong tay Ngài hẳn thật không bao nhiêu nhưng lá trên cây, trong toàn thể khu rừng thì rất nhiều"
"Cùng thế ấy, này chư Tỳ-Khưu, những gì Như-Lai chứng ngộ mà không truyền dạy thật là nhiều, như lá trên cây. Chỉ một ít những gì Như-Lai truyền dạy. Tại sao? Này chư Tỳ-Khưu, tại sao Như-Lai không truyền dạy tất cả? Này chư Tỳ-Khưu, là bởi vì những điều ấy quả thật vô-ích, không thiết yếu để có một đời sống trong sạch, tinh khiết. Những điều ấy không dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh, thấu đạt trọn vẹn, giác ngộ, Niết-Bàn. Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai không công bố những điều ấy. Và, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố những gì?
- Ðây là đau khổ, điều này Như-Lai công bố.
- Ðây là sự khởi phát của đau khổ, điều này Như-Lai công bố.
- Ðây là sự chấm dứt đau khổ, điều này Như-Lai công bố.
- Ðây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, điều này Như-Lai công bố.
Và tại sao, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố những chân lý ấy? Bởi vì các chân lý ấy hữu ích, thiết yếu để có một đời sống trong sạch, tinh khiết, dẫn đến nhàm chán, dứt bỏ, chấm dứt, an tịnh, thấu đạt trọn vẹn, giác ngộ và Niết-Bàn. Vì vậy, này chư Tỳ-Khưu, Như-Lai công bố các chân-lý ấy".
-ooOoo-