PHẦN III
CẢI ĐỔI SỰ KHỔ ĐAU
-ooOoo-
CHƯƠNG 8
ĐỐI ĐẦU VỚI KHỔ ĐAU
Vào thời Đức Phật, một phụ nữ tên Kisagotami đau
khổ vì đứa con duy nhất của bà bị chết. Không thể chấp nhận sự việc ấy, bà chạy
gặp hết người này đến người khác để tìm thuốc cứu đứa bé sống lại. Người ta đồn
Đức Phật có loại thuốc đó.
Kisagotami liền tìm đến Đức Phật, bà cung kính
chào Ngài và thưa: "Thưa Ngài, có phải Ngài có thể làm ra thứ thuốc cứu được đứa
con của tôi phải không?"
Đức Phật trả lời: "Ta biết thứ thuốc đó, nhưng muốn làm ra thứ thuốc đó, ta
cần phải một số chất liệu."
Nhẹ người, bà hỏi: "Ngài cần chất liệu
gì?
"Mang cho ta một nắm hạt cải"
Người đàn bà này hứa sẽ mang đến cho Ngài nhưng
khi bà sắp sửa đi, Ngài nói thêm " Ta cần hạt giống cải lấy từ một gia đình
không có con cái, chồng vợ, cha mẹ, hay người làm đã chết"
Bà ta đồng ý và bắt đầu đi đến hết nhà này đến
nhà kia để tìm xin hạt cải. Nhà nào cũng đồng ý cho bà hạt giống, nhưng khi bà
hỏi trong nhà này có ai đã chết không, thì bà không thể tìm ra nhà không có ai
chết - nhà này thì con gái chết, nhà kia thì người làm chết, nhà nọ thì chồng
hay cha mẹ chết. Kisagotami không thể tìm được một nhà nào thoát khỏi sự đau đớn
của cái chết. Thấy không phải chỉ mình bà đau khổ, bà đã thôi không giữ thi hài
của đứa con và quay về với Đức Phật, với tâm lòng đại bi Ngài nói: "Không phải
chỉ mình bà mất con, chết là một qui luật đối với tất cả chúng sanh, không có
cái gì trường tồn".
Cuộc tìm kiếm đã dạy cho bà biết không ai thoát
khỏi khổ đau và mất mát. Không phải chỉ mình bà chịu bất hạnh khủng khiếp đó.
Hiểu thấu bản chất vấn đề cũng không loại bỏ được đau khổ không tránh được do
mất mát, nhưng nó giảm bớt đau đớn do cố gắng chống lại thực tế buồn thảm của
cuộc đời.
Mặc dù đau đớn và khổ đau là hiện tượng phổ biến
của con người, nhưng không có nghĩa là chúng ta dễ dàng chấp nhận chúng. Con
người đã chế ra một kho tàng rộng lớn những chiến lược để tránh phải chịu đau
khổ. Đôi khi chúng ta dùng những phương tiện bên ngoài như hóa chất - làm giảm
hay dùng thuốc cho những cảm xúc đau đớn bằng thuốc men hay rượu cồn. Chúng ta
còn có một loại cơ cấu bên trong - phòng thủ tâm lý, thường là vô thức, làm vật
đệm cho chúng ta không cảm thấy xúc cảm quá đau đớn và buồn bã khi chúng ta đối
đầu với khó khăn. Đôi khi những cơ cấu phòng thủ này rất thô sơ, như dễ dàng từ
chối không công nhận đang có khó khăn. Có những lúc, chúng ta có thể mơ hồ công
nhận chúng ta có khó khăn nhưng lại vùi đầu vào nhiều trò giải trí hay tiêu
khiển để khỏi bận tâm đến nó. Hay chúng ta có thể đoán già đoán non không thể
chấp nhận chúng ta gặp khó khăn, vô tình đổ lỗi cho họ và trách cứ họ về sự đau
khổ của chúng ta."Vâng, tôi khổ sở, nhưng không phải là tôi có khó khăn, mà các
người cũng có khó khăn. Nếu không phải là ông chủ chết tiệt đó lúc nào cũng làm
tôi gặp khó khăn (hoặc "đối tác phớt lờ tôi"... ) thì tôi sẽ không sao cả".
Khổ đau chỉ có thể tạm thời tránh được. Nhưng
giống như bệnh nan y không thể chữa khỏi hẳn được (hoặc có lẽ thuốc men chỉ chữa
được trên bề mặt nhưng lại che dấu triệu chúng không chữa khỏi được căn bệnh cơ
bản) chứng bệnh cứ nhức nhối và nặng thêm. Cảm giác phân khích do ma túy hay
rượu tất nhiên làm giảm đau một lúc, nhưng tiếp tục dùng chúng, thân thể sẽ suy
tàn và phương hại đến xã hội có thể gây nên nhiều đau khổ còn hơn cả sự bất mãn
càng ngày càng lớn hay đau khổ nhiều về tình cảm dẫn chúng ta đến những chất say
ấy ngay lúc đầu. Sự phòng thủ tâm lý bên trong như sự phủ nhận hay sự ức chế có
thể che chở và bảo vệ chúng ta không cảm thấy đau khổ lâu hơn một chút, nhưng
vẫn không làm cho khổ đau biến mất. Randall mất người cha bị bệnh ung thư hơn
một năm qua. Anh rất gần gũi với người cha, và vào lúc ấy ai cũng ngạc nhiên
thấy anh vững vàng trước cái chết của cha anh đến như thế. Anh giải thích bằng
một giọng nói trầm tĩnh: "Đương nhiên tôi buồn, nhưng tôi thực sự không sao cả,
tôi sẽ rất nhớ ông, nhưng dòng đời vẫn trôi chảy. Dầu sao tôi cũng không thể tập
trung vào việc nhớ ông ngay bây giờ, tôi phải thu xếp tang lễ và trông nom tài
sản của ông cho mẹ tôi...Nhưng tôi sẽ không sao cả," anh làm mọi người yên tâm.
Tuy nhiên một năm sau, ngay sau ngày giỗ của cha anh, Randall bắt đầu rơi vào
tình trạng buồn phiền nghiêm trọng. Anh đến gặp tôi và giải thích: "Tôi không
hiểu nổi cái gì sinh ra sự buồn phiền này. Hiện giờ mọi việc đều tốt đẹp. Không
thể là do cái chết của cha tôi, ông mất đã hơn một năm rồi tôi đã chấp nhận cái
chết của ông. Tuy nhiên chỉ cần chữa bệnh chút ít, vấn đề đã trở nên rõ ràng,
trong lúc cố kìm nén cảm xúc, để "đứng vững" anh chưa bao giờ đối phó đầy đủ với
cảm giác mất mát và đau buồn. Những cảm giác đó tiếp tục phát triển và cuối cùng
hiện nguyên hình là trạng thái buồn nản quá sức chịu đựng bắt buộc anh phải đối
phó.
Trong trường hợp của Randall, bệnh trầm cảm của
anh tan đi khá nhanh khi chúng ta tập trung vào sự đau đớn và cảm nghĩ mất mát
của anh, và anh hoàn toàn có thể đương đầu và trải qua sự đau buồn của anh. Tuy
nhiên, đôi khi, vô tình là những chiến lược nhằm để tránh vấp vấn đề của chúng
ta phải khó khăn lại càng làm trầm trọng thêm - ăn sâu vào cơ cấu ứng phó và
khắc sâu vào cá tính của chúng ta và rất khó trục xuất nó ra khỏi. Ví dụ đa số
chúng ta có người bạn bè, người quen hay người nhà tránh khó khăn bằng cách đổ
cho người khác và trách cứ họ - buộc tội người khác mà thực ra chính mình là
người có lỗi. Chắc chắn đây không phải là một phương pháp hữu hiệu để loại bỏ
khó khăn, tuy nhiên, nhiều người đã phải sống một đời bất hạnh chừng nào mà họ
còn tiếp tục theo kiểu ấy.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra chi tiết cách giải quyết vấn đề khổ đau của con
người - cách giải quyết cơ bản là bao gồm niềm tin vào khả năng thoát khỏi khổ
đau nhưng bắt đầu bằng sự chấp nhận khổ đau là một sự thật tự nhiên trong cuộc
sống của con người, và can đảm đương đầu với các khó khăn gặp phải.
Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, khó khăn
nhất định phát sinh. Những khó khăn lớn nhất trong đời sống là những khó khăn
không thể tránh được phải đương đầu như già, bệnh và chết. Cố gắng tránh các khó
khăn hay đơn giản là không nghĩ đến chúng chỉ có thể dịu đi tạm thời, nhưng tôi
nghĩ có một cách giải quyết vấn đề tốt hơn. Nếu bạn trực tiếp đối đầu với khổ
đau, bạn sẽ ở trong một vị thế tốt để đánh giá đúng chiều sâu và bản chất của
vấn đề. Nếu bạn ở trong một trận đánh chừng nào mà bạn vẫn không hiểu tình trạng
kẻ địch và khả năng chiến đấu của địch, bạn sẽ hoàn toàn không sẵn sàng và tê
liệt bởi sợ hãi. Tuy nhiên nếu bạn biết rõ khả năng chiến đấu của đối thủ, loại
vũ khínào kẻ địch sử dụng vân vân..., bạn sẽ ở trong một vị thế tốt hơn nhiều
khi bạn lấm trận. Cũng giống như vậy, nếu bạn phải đương đầu với những khó khăn
thay vì tránh chúng, bạn sẽ ở trong một vị thế tốt hơn để đuơng đầu với
chúng."
Cách giải quyết những khó khăn này rõ ràng hợp
lý, nhưng nhân mạnh vấn đề thêm một chút nữa, tôi hỏi: "Vâng, nhưng ngộ nhớ có
lúc Ngài phải trực tiếp đối đầu với hó khăn, mà không tìm ra được giải pháp thì
sao?" Thật khó mà dối phó ".
"Nhưng tôi nghĩ rằng tốt hơn vẫn là phải đương
đầu với nó". Ngài trả lời với một tinh thần thượng võ."Thí dụ như, bạn có thể
coi những vấn đề già và chết là tiêu cực, không ai mong muốn, và cố gắng quên
chúng đi. Nhưng cuối cùng, những chuyện ấy vẫn đến. Và nếu bạn tránh không nghĩ
đến chúng, vào một ngày nào đó, một trong những chuyện đó xẩy ra, bạn sẽ bị xốc
nguyên nhân của tình trạng khó chịu tinh thần không chịu đựng nổi. Tuy nhiên,
nếu bạn bỏ chút ít thì giờ nghĩ về tuổi già, cái chết, và những điều bất hạnh
khác, tâm bạn sẽ vững vàng hơn khi những chuyện đó xẩy đến vì bạn đã quen thưộc
với những vấn đề ấy và các loại đau khổ và đã lường trước chúng sẽ xẩy ra.
"Đó là lý do tại sao tôi tin là rất hữu ích khi
tự mình chuẩn bị trước để không bị ngỡ ngàng trước những khổ đau mà bạn phải
gặp. Lại sử dụng phép so sánh với trận chiến một lần nữa suy ngẫm về khổ đau có
thể được coi như cuộc tập trận. Người chưa bao giờ nghe nói về chiến tranh, súng
ống, bom đạn và vân vân sẽ hết sức sợ hãi khi ra chiến trường. Nhưng qua các tập
luyện quân sự, tâm bạn có thể làm cho tâm trí bạn quen với những gì có thể xẩy
ra, cho nên nếu chiến tranh nổ ra, nó sẽ không quá khắc nghiệt đối với
bạn"
"Vậy thì, tôi có thể hiểu cách làm quen với
những loại khổ đau mà chúng ta gặp phải có một tác dụng giảm bớt sợ hãi, nhưng
hình như là đôi khi không có sự chọn lựa nào khác ngoài khổ đau có thể xẩy ra
trong một số tình thế khó xử. Làm sao chúng ta có thể tránh lo lắng trong những
trường hợp ấy?"
"Hãy thí dụ một trường hợp khó xử?
Tôi ngừng lại để cân nhắc ." Như thế này, thí
dụ, một người đàn bà mang thai và qua xét nghiệm nước ối (amniocentesis) người
ta phát hiện ra đứa trẻ sẽ bị khuyết tật bẩm sinh nghiêm trọng. Họ nhận ra đứa
trẻ sẽ bị tàn tật nặng về tinh thần hay thân thể. Cho nên, hiển nhiên là người
đàn bà sẽ hết sức lo ấu vì không biết phải làm gì. Bà ta có thể chọn cách làm
điều gì đó trước tình trạng ấy và có thể phá thai, để đứa trẻ khỏi phải suốt đời
đau khổ nhưng người đàn bà đó sẽ bị dày vò bởi cảm nghĩ mất mát lớn lao và đau
đớn và có thể trải qua những cảm nghĩ khác như tội lỗi. Hoặc, bà ta có thể chọn
cách để sự việc đi theo tiến trình tự nhiên và đứa bé ra đời. Nhưng rồi bà ta sẽ
phải đối đầu suốt cuộc đời khó khăn và đau khổ cho chính mình và đứa con."
Đức Đạt Lai Lạt Ma chăm chú lắng nghe khi tôi nói. Bằng một giọng có phần đăm
chiêu, Ngài trả lời, " Cách giải quyết những vấn đề này dù là theo cách nhìn Tây
Phương hay Phật Giáo thì những loại tình trạng khó xử này quả là rất khó khăn,
rất khó khăn. Bây giờ theo thí dụ của ông về quyết định phá thai vì khuyết tật
bẩm sinh - không ai thực sự biết rút cục là cái gì có thể tốt hơn. Thậm chí nếu
đứa trẻ sinh ra tật nguyền, rút cục điều đó có thể là tốt hơn cho người mẹ, hay
cho gia đình hay chính đứa trẻ. Nhưng cũng có thể là tính đến hậu quả về lâu về
dài sau này, tốt hơn là nên phá thai, vì rút cục điều đó có thể là tích cực.
Nhưng ai là người quyết định đây? Quả là khó khăn. Thậm chí từ quan điểm Phật
Giáo, loại phán xét đó vượt quá khả năng lý trí của chúng tôi." Ngài ngưng một
chút và thêm, "tuy nhiên tôi nghĩ hoàn cảnh và niềm tin của họ sẽ đóng một vai
trò trong cách ứng phó loại tình trạng khó khăn của những người đặc biệt
này."
Chúng tôi ngồi im lặng.
Lắc lắc cái đầu, cuối cùng Ngài nói, "Bằng cách
suy ngẫm về các loại khổ đau mà ta đề cập đến, bạn có thể chuẩn bị tinh thần
trước những vấn đề đó ở một mức độ nào đó, bằng cách tự mình nhớ đến những sự
việc mà bạn có thể tình cờ biết về những loại tình trạng khó xử trong đời. Cho
nên bạn có thể chuẩn bị tinh thần trước. Nhưng bạn đừng nên quên sự thật là điều
này không làm nhẹ bớt tình hình. Nó có thể giúp bạn có tinh thần để đối phó,
giảm thiểu sợ hãi vân vân... nhưng tự nó không giảm bớt khó khăn. Chẳng hạn, nếu
một đứa trẻ bị khuyết tật bẩm sinh sẽ ra đời, dầu cho trước đó tinh thần bạn có
mạnh thế nào đi nữa, bạn vẫn phải tìm cách đối phó vấn đề. Cho nên. việc này vẫn
còn khó khăn."
Trong khi Ngài nói, giọng ngài có vẻ buồn bã.-
hơn là một nốt nhạc mà có lẽ là một hợp ấm. Nhưng bên dưới giai điệu này, không
phải là một giai điệu vô vọng. Trọn một phút Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng nói, nhìn
chằm chằm qua cửa sổ như thể tìm cái gì ngoài thế giới bao la, rồi lại tiếp tục,
"Thực ra không có gì có thể tránh khỏi sự thật khổ đau là một phần trong đời
sống. Và đương nhiên chúng ta có khuynh hướng tự nhiên không thích khổ đau và
khó khăn. Nhưng tôi nghĩ rằng người bình thường không quan niệm chính bản chất
của cuộc sống có đặc tính khổ đau..".Đức Đạt Lai Lạt Ma bỗng nhiên bắt đầu cười
"Tôi có ý nói là vào ngày sinh nhật của bạn, người ta thường nói,"Chúc Ngày Sinh
Nhật vui vẻ" khi thực tế là ngày sinh nhật là ngày sự ra đời khổ đau của bạn.
Nhưng không ai nói "Chúc Mừng sinh nhật khổ đau " Ngài đùa.
"Chấp nhận khổ đau là một phần của cuộc sống
hàng ngày, bạn có thể bắt đầu xét đến những nhân tố thường gây cho bạn cảm nghĩ
không thỏa mãn và bất hạnh tinh thần. Nói chung, chẳng hạn, bạn cảm thấy vui
sướng nếu bạn hoặc người thân của bạn nhận được những lời khen, danh tiếng, của
cải, và những chuyện thích thú khác. Và bạn cảm thấy không hạnh phúc, và bất
mãn, nếu bạn không đạt được những thứ ấy hay nếu địch thủ của bạn lại có những
thứ ấy. Tuy nhien nếu bạn nhìn vào cuộc sống thường ngày, bạn thường thấy có quá
nhiều các nhân tố và hoàn cảnh gây đau đớn, khổ sở và cảm tưởng bất toại nguyện,
trong khi những hoàn cảnh đem niềm vui và hạnh phúc thì lại tương đối hiếm. Đó
là điều mà ta phải chịu đựng dù thích hay không thích. Vì đó là thực tế của cuộc
sống của chúng ta, thái độ đối với khổ đau của ta cần được thay đổi.
Thái độ đối với khổ đau trở nên rất quan
trọng vì nó ảnh hưởng đến cách ta phải đối phó với khổ đau khi nó phát
sinh. Bây giờ, thái độ thông thường của
chúng ta vốn rất ghét và không chịu dược đau đớn và đau khổ của chúng ta.
Tuy nhiên nếu chúng ta có thể thay đổi
thái độ của chúng ta đối với khổ đau, áp dụng một thái độ để ta chịu đựng được
nó tốt hơn, như vậy nó có thể giúp chúng ta nhiều trong việc chống lại những cảm
tưởng bất hạnh, bất toại nguyện và bất mãn về tinh thần
"Cá nhân tôi, sự tu tập giúp chịu đựng khổ đau
mạnh và có hiệu quả nhất là thấy và hiểu khổ đau là bản chất tiềm ẩn của samsara
(luân hồi) [*] khỏi cuộc sống chưa giác ngộ. Bây giờ khi bạn kinh qua đau đớn về
thể xác hay những vấn đề khác, đương nhiên ngay lúc ấy bạn có cảm nghĩ, " ôi
chao, nỗi đau này quá khó chịu' Có một cảm giác không chấp nhận liên quan đến
khổ đau đó, hồ như cảm nghĩ, 'ôi, tôi không thể chịu đựng được'. Nhưng vào lúc
ấy, nếu bạn nhìn vào tình huống dưới một góc độ khác, và nhận ra rằng chính xác
thân này, Ngài đập tay lên để biểu thị là có cơ sở thực sự của khổ đau thì bạn
sẽ bớt cảm nghĩ không chấp nhận - cái cảm nghĩ dường như bạn không đáng phải đau
khổ, và bạn là nạn nhân. Cho nên một khi bạn hiểu và chấp nhận thực tế, thi việc
chịu đựng khổ đau chỉ là một điều bình thường tự nhiên .
[*] Samsara (Tiếng Sanskrit, luân hồi) mà đặc
điểm của nó là tình trạng cuộc sống có chu kỳ sống, chết và tái sanh vô tận. Từ
này cũng nhắc đến tình trạng cuộc sống hàng ngày của chúng ta có đặc tính là khổ
đau. Tất cả chúng sanh đều ở trong trạng thái đó, bị đẩy tới bởi những dấu ấn
của nghiệp từ những hành động quá khứ và những trạng thái "ảo tưởng" tiêu cực
của tâm, cho đến khi ta loại bỏ được tất cả những khuynh hướng tiêu cực trong
tâm và đạt được tình trạng giải thoát.
"Vì thế, thí dụ, khi đối phó với vấn đề khổ đau
mà người dân Tây Tạng đã phải chịu đựng, ở một mức độ nào đó bạn có thể nhìn vào
tình thế và cảm thấy choáng váng, băn khoăn lo lắng."Làm sao điều đó có thể xẩy
ra trên thế gian này ?" Nhưng từ một góc cạnh khác bạn cũng có thể suy ngẫm về
sự thật là Tây Tạng cũng ở trong luân hồi", Ngài cười, "như hành tinh này và
toàn thể giải Ngân hà". Ngài lại cười. "Vì vậy nên, dầu sao, tôi cũng nghĩ là
cách bạn nhận thức cuộc sống nói chung đóng một vai trò trong thái độ đối với
khổ đau. Chẳng hạn, nếu cách nhìn căn bản của bạn là rằng đau khổ là tiêu cực và
phải cố tránh với bất cứ giá nào, trong một ý nghĩa nào đó, đây là dấu hiệu thất
bại, như vậy nó sẽ thêm phần lo ấu và kém sức chịu đựng khi bạn gặp hoàn cảnh
khó khăn, một cảm giác bị áp đảo. Mặt khác, nếu cơ bản là bạn nhìn nhận khổ đau
là một phần tất yếu trong cuộc sống của bạn, thì chắc chắn điều đó làm cho bạn
chịu đựng được nhiều hơn những nghịch cảnh của cuộc đời. Và không có sức chịu
đựng nào đó đối với khổ đau, đời sống của bạn trở nên khổ sở, tựa như bạn trải
qua một đêm bất hạnh. Đêm ấy dường như bất tận và dường như không bao giờ chấm
dứt."
"Dường như đối với tôi khi Ngài nói về bản chất
tiềm ẩn của cuộc sống có đặc điểm là khổ đau, căn bản là bất toại nguyện, có vẻ
là một quan điểm khá bi quan, thực sự làm nản lòng". Tôi nhận
xét.
Đức Đạt Lai Lạt Ma nhanh chóng làm sáng tỏ: "Khi tôi nói đến bản chất bất
toại nguyện của cuộc sống, ta cần hiểu rằng đây là bối cảnh chung của Đạo Phật.
Những suy ngẫm đó phải được hiểu trong bối cảnh thích hợp, trong khuôn khổ Đạo
Phật. Nếu quan điểm khổ đau phải được nhìn nhận trong bối cảnh thích hợp, tôi
đồng ý là có một nguy cơ hoặc thậm chí có khả năng hiểu lầm cách giải quyết này
là khá bi quan và tiêu cực. Do đó, quan trọng là phải hiểu được lập trường căn
bản của Phật Giáo đối với toàn bộ vấn đề khổ đau. Chúng ta thấy trong những lời
giáo huân trước công chúng của Đức Phật, vấn đề đầu tiên Ngài dạy là nguyên tắc
của Tứ Diệu Đế, Đế thứ nhất là chân lý về khổ đau. Nơi đây nhân mạnh về sự hiểu
biết bản chất khổ đau của cuộc sống.
"Vấn đề phải nhớ là lý do tại sao phải suy ngẫm
về khổ đau lại quá quan trọng là vì có khả năng thoát ra, có sự lựa chọn.
Có khả năng thoát khỏi. Bằng cách loại bỏ nguyên nhân của khổ đau, có thể đạt
được tình trạng giải thoát, tình trạng thoát khỏi khổ đau. Theo tư tưởng Phật
Giáo,nguyên nhân căn bản của khổ đau là do vô minh, tham ái và sân hận. Những
điều này được gọi "tam độc của tâm". Những từ này có ý nghĩa rộng đặc biệt trong
văn cảnh Phật Giáo. Thí dụ, 'vô minh' không có nghĩa là thiếu tin tức được dùng
theo nghĩa quen thuộc hàng ngày mà là nói đến nhận thức sai lầm căn bản về bản
chất thực sự của cái ngã và tất cả các hiện tượng. Bằng cách phát triển tuệ giác
vào bản chất thực sự của thực tế và loại bỏ trạng thái phiền não của tâm như
tham và sân, ta có thể thanh lọc hoàn toàn tâm, thoát khỏi khổ đau. Trong phạm
vi Phật Giáo, khi suy nghĩ về cuộc sống hàng ngày của một người có đặc điểm là
khổ đau, điều này khuyến khích ta nên tu tập để loại bỏ nguyên nhân căn bản gây
khổ đau. Mặt khác không có hy vọng, hay không có khả năng thoát khổ chỉ suy ngẫm
khổ đau không thôi sẽ chỉ làm tư tưởng trở nên bệnh hoạn, và đúng là tiêu cực."
Nghe ngài nói, tôi bắt đầu cảm thấy cách suy
nghĩ về "bản chất khổ đau" của chúng ta đóng một vai trò trong việc chấp nhận
một đời sống không tránh được phiền não và thậm chí có thể có được một phương
pháp có giá trị khi đặt những vấn đề hàng ngày của chúng ta vào một cách đáng
giá đúng mức Và tôi bắt đầu nhận thức khổ đau được nhìn nhận ra sao trong một
phạm vi rộng hơn là một phần của con đường tinh thần lý tưởng hơn nhất là về mô
hình Phật Giáo công nhận khả năng thanh lọc tâm và cuối cùng đạt được tình trạng
không còn khổ đau. Nhưng, không muốn nhìn vào những suy đoán triết lý to lớn,
tôi tò mò muốn biết cách Đức Đạt Lai Lạt Ma đối phó với khổ đau ở mức độ cá nhân
hơn, làm sao Ngài có thể đối phó khi mất một người thân chẳng hạn.
Khi lần đầu tôi viếng thăm Dharamsala nhiều năm
trước đây, tôi có cơ hội biết Lobsang Samk, người anh của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Tôi rất thích ông ấy và rất buồn nghe tin ông chết đột ngột mấy năm trước đây.
Biết Đức Đạt Lai Lạt Ma và ông rất gần gũi tôi nói " Tôi tưởng tượng cái chết
của anh Ngài Lobsang làm Ngài rất đau đớn."
"Vâng"
"Tôi không biết làm sao Ngài có thể đối phó được
việc đó?".
"Đương nhiên, tôi rất buồn, rất buồn khi biết
tin anh tôi chết " Ngài nói một cách thanh thản.
"Và làm sao Ngài đối phó với cảm nghĩ buồn rầu
đó? Tôi muốn nói là có cái gì đặc biệt đã giúp Ngài vượt qua?"
"Tôi không biết", Ngài nói có vẻ nghĩ ngợi. "Tôi
cảm thấy buồn rầu mất vài tuần, nhưng dần dần cảm nghĩ đó qua đi. Nhưng vẫn còn
cảm nghĩ ân hận".."
"Ân hận?"
"Đúng, tôi đi vắng lúc anh tôi chết, và tôi nghĩ
nếu tôi ở nhà, có lẽ tôi có thể làm cái gì đó được để giúp anh tôi. Cho nên tôi
có cảm giác ân hận".
Cả một đời suy ngẫm về sự khổ đau không thể
tránh được của con người có thể đóng một vai trò trong việc giúp Đức Đạt Lai Lạt
Ma chấp nhận sự mất mát, nhưng nó không tạo ra con người lạnh lùng vô cảm với sự
cam chịu không gì lay chuyển trên khuôn mặt khổ đau. Sự buồn rầu trong giọng nói
của Ngài cho thấy Ngài là người có xúc động con người sâu sắc. Đồng thời, tính
bộc trực và cung cách chân thật của Ngài, hoàn toàn không chút than van hay tự
cáo buộc tạo ra ân tượng không thể nhầm lẫn được về một con người chấp nhận hoàn
toàn sự mất mát.
Vào ngày hôm ấy, cuộc nói chuyện của chúng tôi
diễn tiến tốt đẹp cho mãi đến tận chiều. Luồng sáng vàng xuyên qua cửa chớp gỗ,
đang từ từ tiến qua căn phòng tối. Tôi cảm thấy một bầu không khí u sầu tràn
ngập căn phòng và biết cuộc thảo luận đã đến lúc chấm dứt. Nhưng tôi hy vọng sẽ
hỏi Ngài cho chi tiết hơn về vấn đề mất mát, để xem Ngài có thể cho thêm lời
khuyên về cách tiếp tục sống bình thường trước cái chết của một người thân, hơn
là chỉ chấp nhận điều không tránh được về khổ đau của con người.
Trong khi tôi sắp sửa mổ rộng vấn đề, Ngài có vẻ
hơi bối rối, và tôi nhận thấy vẻ mệt nhọc quanh mắt Ngài. Ngay lúc đó, người thư
ký của Ngài lặng lẽ vào phòng và nhìn tôi, đã nhiều năm rèn kuyện trong thực
tiễn, điều đó cho biết đã đến giờ tôi phải ra về.
"Vâng...", Đức Đạt Lai Lạt Ma nói một cách xin
lỗi, "có lẽ chúng ta nên chia ra... tôi cảm thấy hơi mệt.'
Ngày hôm sau, trước khi tôi có cơ hội trở lại đề
tài trong buổi thảo luận riêng với Ngài, vấn đề đã được đưa ra trong bưổi nói
chuyện trước công chúng của Ngài. Một cử tọa, rõ ràng đang đau đớn, hỏi Đức Đạt
Lai Lạt Ma, "Ngài có ý kiến gì về cách ứng xử trước một sự mất mát to lớn, như
mất một đứa con chẳng hạn?"
Bằng một giọng từ tốn dịu dàng, Ngài trả lời, "Ở
một mức độ nào đó tùy theo niềm tin riêng của con người. Nếu tin có tái sanh,
theo nghĩ thì có cách giảm thiểu phiền não hay lo lắng. Họ có thể được an ủi về
thực tế là người thân yêu của họ sẽ tái sanh.
"Với những người không tin có tái sanh, tôi nghĩ
rằng vẫn có một số cách đơn giản giúp cho đối phó với sự mất mát. Trước tiên, họ
có thể suy nghĩ rằng nếu họ lo lắng quá nhiều, bị áp đảo bởi cảm giác mất mát và
phiền muộn, và nếu họ tiếp tục cảm thấy bị áp đảo không những điều đó trở thành
rất tiêu cực và có hại cho chính họ, suy yếu sức khỏe của họ mà còn không có lợi
ích gì cho người chết.
"Thí dụ, chính trường hợp của tôi, tôi đã bị mất
vị gia sư kính yêu nhất của tôi, mẹ tôi và một trong những anh em tôi. Khi họ
qua đời, dĩ nhiên tôi cảm thấy rất buồn, rất buồn. Nhưng tôi luôn luôn nghĩ rằng
lo lắng quá cũng không ích gì, và nếu tôi quả thật thương yêu những người ấy,
thì tôi phải làm tròn những mong ước của họ bằng môt tâm tư bình thản. Cho nên
tôi nỗ lực làm như vậy. Vì thế tôi nghĩ rằng nếu bạn mất một người rất thân với
bạn, đó là cách thích hợp nhất để giải quyết điều đó. Bạn thấy đây cách tốt nhất
để giữ kỷ niệm về người ấy, tưởng nhớ tốt nhất, là hãy xem liệu bạn có thể thực
hiện những ước muốn của người ấy hay không.
Lúc đầu, đương nhiên, cảm nghĩ đau buồn và lo ấu
là sự phản ứng tự nhiên của con người trước sự mất mát. Nhưng nếu bạn để cho
những cảm nghĩ mất mát và lo lắng tồn tại dai dẳng, sẽ có nguy cơ là, nếu không
kiềm chế được những cảm nghĩ ấy chúng sẽ hồ như dẫn đến tự kỷ. Một tình trạng
nơi mà chính bạn trở thành trọng điểm. Và khi việc đó xẩy ra, bạn bị tràn ngập
bởi cảm nghĩ mất mát, và bạn cảm thấy chỉ có một mình bạn phải chịu đựng điều
đó. Sự suy nhược phát sinh. Nhưng thực tế có nhiều người cũng phải chịu đựng
cùng một loại kinh nghiệm như vậy. Vậy, nếu bạn thấy mình lo lắng quá nhiều,
điều tốt cho bạn là nghĩ đến những người khác cũng trong cùng hoàn cảnh hay
những trường hợp còn bi thảm hơn. Một khi bạn nhận thức như vậy, bạn sẽ không
còn cảm thấy bị lẻ loi, như thể bạn đã tự mình nhắm vào để thoát ra. Điều đó có
thể giúp cho bạn một phần nào an ủi.
Mặc dầu tất cả chúng sinh đều phải trải qua đau
đớn và khổ đau, tôi thường cảm thấy những người được nuôi dưỡng trong một số nền
văn hóa Đông Phương, hình như chấp nhận và chịu đựng khổ đau tốt hơn. Một phần
là do niềm tin của họ, nhưng có lẽ là vì khổ đau được thấy rõ rệt ở những quốc
gia nghèo như Ấn Độ hơn là ở các quốc gia giàu có hơn Đói kém, nghèo nàn, bệnh
tật và chết chóc diễn ra hàng ngày ngay trước mắt. Khi già cả và bệnh tật, họ
không bị gạt ra lề đường, không bị đưa vào viện dưỡng lão để được trông nom bởi
những nhà y tế chuyên môn - họ vẫn ở lại trong cộng đồng và được săn sóc bởi gia
đình. Những ai va chạm hàng ngày với thực tế của cuộc sống, không thể dễ dàng
phủ nhận là đời sống có đặc tính khổ đau, và đó là một phần tất yếu của cuộc
sống.
Khi xã hội Tây Phương đạt được khả năng hạn chế
khổ đau do điều kiện sống khó khăn gây ra, dường như đã mất đi khả năng đối phó
với khổ đau còn lại. Những cuộc nghiên cứu của các khoa học gia xã hội đã nhân
mạnh là hầu hết những người dân trong xã hội tân tiến Tây Phương hay có niềm tin
là thế gian này là một nơi tốt đẹp để sống, cuộc sống đó hầu như là công bằng,
và họ là những người tốt đáng được hưởng những điều tốt đẹp ngẫu nhiên đến với
họ. Niềm tin này đóng một vai trò quan trọng dẫn dắt một cuộc sống hạnh phúc và
giàu có hơn. Nhưng khi sự phát sinh khổ đau không thể tránh được đã xói mòn niềm
tin ấy và sẽ gây khó khăn để tiếp tục sống hạnh phúc và thực tế. Trong bối cảnh
ấy, một chân thương tương đối nhẹ cũng có thể gây tác động tâm lý to lớn khi ta
mất tin tưởng vào niềm tin căn bản về thế gian này là công bằng và rộng lượng.
Kết quả là khổ đau tăng mạnh.
Chắc chắn là với sự tiến bộ kỹ thuật, mức tiện
nghi vật chất chung đã cải thiện rất nhiều tại xã hội Tây Phương. Chính vì vấn
đề đó mà sự thay đổi chủ yếu về nhận thức xảy ra vì khổ đau trở nên kém rõ ràng
hơn, nó không còn được coi là bản chất căn bản của chúng sinh - nhưng đúng hơn
là một sự bất thường, một dấu hiệu cho thấy cái gì đó đã sai lầm nghiêm trọng,
một dấu hiệu của "sự thất bại" trong hệ thống nào đó, một sự vi phạm vào quyền
được bảo đảm hạnh phúc!
Kiểu suy nghĩ như vậy nảy sinh những nguy hiểm
ẩn tàng. Nếu chúng ta nghĩ rằng khổ đau là cái gì trái với tự nhiên, một thứ gì
đó mà ta không phải nếm trải, thì đi tìm ai đó chịu trách nhiệm về cái khổ đau
của chúng ta sẽ không bức thiết lắm. Nếu tôi không hạnh phúc, thì tôi phải là
'nạn nhân' của một người nào đó hay của một cái gì đó - môt khái niệm rất thông
thường ở Tây Phương. Kẻ đối xử không công bằng có thể là chính phủ, hệ thống
giáo dục, cha mẹ lộng hành, một gia đình tài quí, giống khác, hay người bạn đời
không cẩn trọng. Hoặc chúng ta có thể tìm sự trách cứ vào bên tôi: Có cái gì
sai, tôi là nạn nhân của bệnh tật, có lẽ là do gien khiếm khuyết. Nhưng nguy cơ
tiếp tục tập trung vào việc định rõ sự khiển trách giữ lập trường của nạn nhân,
là nhớ mãi khổ đau của chúng ta - với cảm nghĩ giận dữ, thất vọng và phẫn uất
dai dẳng.
Đương nhiên, sự mong muốn thoát khỏi khổ đau là mục tiêu chính đáng của mỗi
người. Nó là kết quả tất yếu vì chúng ta mong ước được hạnh phúc. Vì vậy nên,
hoàn toàn chính đáng khi chúng ta tìm ra nguyên nhân của bất hạnh phúc, và làm
tất cả những gì có thể được để làm nhẹ bớt các vấn đề, tìm kiếm giải pháp ở tất
cả mức độ - toàn cầu, xã hội, gia đình, và cá nhân. Nhưng chừng nào chúng ta còn
xem khổ đau là một trạng thái trái tự nhiên, một hoàn cảnh khác thường mà ta sợ
hãi, cố né tránh và không chấp nhận, chúng ta sẽ không bao giờ nhổ được gốc rễ
của khổ đau để bắt đầu một cuộc sống hạnh phúc hơn.
-ooOoo-
CHƯƠNG 9
CHUỐC LẤY KHỔ
ĐAU
Lần đầu tiên đến phòng mạch của tôi, có một quí
ông trung niên bảnh bao, ăn mặc sang trọng trong bộ com lê Armani, rất giữ lịch
sự khi ngồi xuống, ông bắt đầu kể những gì đã khiến ông tới chữa bệnh. ông nói
khá dịu dàng bằng một giọng nói có cân nhắc và tự chủ. Tôi liền hỏi ông một loạt
câu hỏi thường lệ: nêu lý do bất mãn, tuổi tác, tiểu sử, tình trạng hôn nhân.
"Con mụ phản trắc đó" ông đột nhiên kêu lên,
giọng ông nổi xung lên "Con vợ chết tiệt của tôi! Con vợ trước của tôi. Nó đã
lang chạ sau lưng tôi! Tôi đã cho nó tất cả. Đồ đốn mạt... đồ yêu tinh... con mẹ
bẩn thỉu..." Giọng của ông trở nên to hơn, giận dữ hơn, và độc địa hơn, và trong
hai mươi phút kế tiếp, ông kể hết sự bất bình này đến bất bình khác về người vợ
cũ của ông.
Đã gần hết giờ. Biết ông đang nổi nóng và có thể tiếp tục nổi gân hàng giờ,
tôi hướng dẫn ông: Hầu hết mọi người đều gặp khó khăn lúc mới ly dị, chắc chắn
có cái gì đó chúng ta sẽ nói đến trong những buổi gặp tới". Tôi nói một cách dỗ
dành, "À này, ông đã ly dị bao lâu rồi?."
"Tháng Năm vừa qua là 17 năm"!
Ở chương trước, chúng ta bàn về tầm quan trọng
của sự chấp nhận khổ đau như một là một việc tất yếu trong đời sống con người.
Mặc dầu có một số thứ khổ đau không thể tránh được nhưng một số thứ khác là do
tự mình tạo ra. Chúng ta đã khảo sát tỉ mỉ, chẳng hạn, làm sao mà khước từ không
chấp nhận khổ đau là một phần tất yếu của cuộc sống có thể dẫn tới việc xem mình
là một nạn nhân suốt đời và trách cứ người khác về những khó khăn của chúng ta -
một phương cách chắc chắn dẫn đến cuộc sống khổ đau.
Nhưng chúng ta cũng thêm vào những khổ đau riêng
của chúng ta bằng nhiều cách khác. Thường thường tất cả chúng ta cứ làm cho cái
đau đớn của chúng ta kéo dài, cứ tiếp tục, bằng cách diễn đi diễn lại mãi nỗi
đau đớn trong tâm, thổi phòng những bất công trong chuyện đó. Chúng ta nhắc lại
những kỷ niệm đau thương với lời mong muốn vô tình có lẽ bằng cách này hay cách
khác điều đó sẽ thay đổi được tình hình - nhưng nó chẳng bao giờ thay đổi cả.
Đương nhiên, đôi khi kể lại mãi những nỗi thống khổ có thể thỏa mãn một ít mục
đích, nó có thể tăng thêm kịch tính và một sự sôi động nào đó cho cuộc sống hay
gợi chú ý và cảm tình của người khác. Nhưng nó nó có vẻ giống như sự cân đối tội
nghiệp cho sự bất hạnh mà chúng ta tiếp tục phải chịu đựng. Nói về việc làm sao
ta lại làm tăng thêm khổ đau, Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng nghĩa, "Chúng ta có thể
thấy có nhiều con đường dẫn chúng ta kinh qua bất an và khổ đau tinh thần. Mặc
dầu, thường thường, những nỗi ưu phiền tinh thần và cảm xúc tự chúng có thể xẩy
ra một cách tự nhiên, nhưng chính chúng ta lại làm cho những cảm xúc tiêu cực ấy
mạnh thêm khiến chúng trở thành tai hại. Chẳng hạn khi chúng ta giận dữ hay căm
ghét một người nào đó, rất ít khi nó phát triển đến một mức cao độ nếu chúng ta
bỏ mặc nó. Tuy nhiên nếu ta tưởng ngưới ta đối xử bất công với chúng ta, những
khía cạnh mà chúng ta bị xử đối không được công bằng, và chúng ta cứ suy nghĩ
mãi đến nó thì điều đó sẽ nuôi dưỡng sân hận. Sân hận sẽ trở thành mạnh mẽ.
Đương nhiên, cũng có thể áp dụng như vậy khi chúng ta gắn bó với một người đặc
biệt nào đó, chúng ta có thể nuôi dưỡng ý tưởng là anh ấy hay cô ấy đẹp làm sao,
và chúng ta tiếp tục suy tưởng về những đức tính mà chúng thấy ở người đó, sự
gắn bó càng ngày càng mạnh. Nhưng điều đó cho thấy qua sự suy nghĩ và thân mật
liên tục, tự chúng ta làm cho những cảm xúc của chúng ta mãnh liệt hơn.
"Chúng ta cũng thường làm tăng thêm cái đau đớn
và khổ đau vì xúc cảm quá mức, phản ứng quá mạnh trước những việc tầm thường, và
đôi khi coi chúng như nhằm vào riêng mình. Chúng ta hay coi những việc nhỏ quá
quan trọng và thổi phồng chúng lên quá cỡ trong lúc ấy lại dửng dưng trước những
việc thực sự quan trọng, những vấn đề đó có ảnh hưởng sâu xa đến đời sống của
chúng ta và có hậu quả và mối quan hệ lâu dài.
"Cho nên, tôi nghĩ, theo nghĩa rộng, bạn đau khổ
hay không đau khổ tùy thuộc vào cách bạn phản ứng trước một tình huống nhất
định. Thí dụ, bạn khám phá ra người nói xấu sau lưng bạn. Nếu bạn phản úng khi
biết chuyện người ta nói xấu bạn, thì đó là tính tiêu cực với cảm giác thương
tổn và giận dữ, rồi thì chính bạn tự phá hoại sự yên ổn trong tâm bạn. Sự đau
đớn của bạn do chính bạn tạo ra. Mặt khác nếu bạn kìm giữ không hành động một
cách tiêu cực, hãy để cho lời phỉ báng ấy qua đi như thể cơn gió nhẹ thoảng qua
bên tai bạn, bạn bảo vệ mình không có cảm nghĩ đau đớn, cảm nghĩ thống khổ. Cho
nên mặc dầu bạn thường không thể tránh được những tình huống khó khăn nhưng bạn
có thể thay đổi mức độ bạn khổ đau bởi sự lựa chọn cách phản ứng với tình hình.
"Chúng ta
cũng thường làm tăng thêm đau đớn và khổ đau của chúng ta vì cảm xúc quá mức và
phản ứng quá mạnh trước những việc tầm thường, và đôi khi coi chúng như nhằm vào
riêng mình."
Với những lời trên, Đức Đạt Lai Lạt Ma công nhận
căn nguyên của những sự việc trầm trọng hàng ngày có thể làm tăng thêm nguồn gây
khổ đau. Các thầy thuốc chuyên khoa đôi khi gọi tiến trình này là cá nhân hóa
những đau đớn của chúng ta - khuynh hướng thu hẹp tầm nhìn của tâm lý của chúng
ta bằng cách giải thích hay giải thích sai mọi sự việc xẩy ra như là nó tác động
đến chúng ta.
Một tối, tôi dùng cơm chiều cùng một đồng nghiệp
tại một tiệm ăn. Việc phục vụ khách ăn nơi đây quá chậm, từ lúc ngồi xuống bạn
tôi bắt đầu phàn nàn .: "Hãy xem kìa! Người hầu bàn này quá ư là chậm chạp! Anh
ta đâu nhỉ! Tôi nghĩ rằng anh cố tình không biết đến chúng ta!"
Mặc dầu cả hai chúng ta đều không có việc gì
phải vội cả, ông bạn đồng nghiệp của tôi tiếp tục phàn nàn trong suốt bữa ăn và
phát triển thành những lời kể lể than van về đồ ăn, bát đĩa,dao dĩa và tất cả
mọi thứ không hợp ý của ông. Cuối bữa ăn, người hầu bàn bưng đến chúng tôi hai
món tráng miệng không tính tiền và giải thích: "Tôi xin lỗi vì phục vụ chậm tối
nay" anh ta nói rất thành thực, "vì chúng tôi thiếu nhân viên, một người nấu ăn
nghỉ hôm này vì gia đình có tang, và vào phút cuối một người hầu bàn gọi điện
thoại báo ốm. Tôi hy vọng không có gì bất tiện với quý ông..."
"Tôi sẽ không bao giờ còn đến đây nữa", bạn đồng
nghiệp của tôi cay đáng lẩm bẩm trong hơi thở của ông khi người hầu bàn bước đi.
Trên đây chỉ là một minh họa nhỏ cho thấy chúng
ta đã góp phần vào khổ đau của chúng ta bằng cách cá nhân hóa mọi tình huống khó
chịu như thế nào, như thể có dụng ý gây ra cho chúng ta. Trong trường hợp này,
kết quả cuối cùng chỉ là làm mất ngon, một giờ bực mình. Nhưng khi kiểu suy nghĩ
như vậy trở thành một mẫu hình lan tràn khắp thế giới, thấm chí vào lời luận bàn
trong gia đình hay bè bạn, thậm chí cả những sự kiện trong xã hội rnói chung, nó
sẽ trở thành khổ đau, nguồn đáng kể của chúng ta.
Trong khi mở rộng quan hệ mật thiết về loại suy
nghĩ hẹp hòi này, Jacques Lusseyran đã từng đưa ra một nhận xét sâu sắc.
Lusseyran, bị mù từ năm 8 tuổi, là người sáng lập tập đoàn kháng chiến trong Đệ
Nhị Thế Chiến. Cuối cùng, ông bị Quân Đức bắt và cầm tù tại Trại Tập Trung
Buchenwald. Sau này kể lại những kinh nghiệm của ông tại trại tù, Lusseyran nói,
"... Lúc đó tôi thấy bất hạnh đến với mọi người chúng tôi, vì chúng ta nghĩ mình
là trung tâm thế giới, vì chúng ta có một niềm tin khốn khổ là chỉ có mình chúng
ta đau khổ đến mức không chịu nổi. Sự bất hạnh là cảm thấy mình luôn bị cầm tù
trong cái đẫy da bọc thân của mình, trong tâm trí của mình."
'NHƯNG ĐIỀU ĐÓ KHÔNG CÔNG BẰNG'
Trong đời sống hàng ngày, khó khăn luôn luôn
phát sinh. Nhưng bản thân khó khăn không tự động gây đau khổ. Nếu chúng ta có
thể trực tiếp giải quyết các khó khăn và tập trung nghị lực của chúng ta vào
việc tìm giải pháp, chẳng hạn, khó khăn có thể biến đổi thành thử thách. Tuy
nhiên nếu chúng ta rơi vào sự lẫn lộn, cảm thấy khó khăn của ta là "không công
bằng", tức là chúng ta đã thêm chất liệu để nó trở thành nhiên liệu mạnh tạo
tinh thần bất an và cảm xúc đau đớn. Và bây giờ chúng ta có không chỉ hai khó
khăn thay vì một, mà còn cảm thấy "bất công" làm rối trí chúng ta, làm hao mòn
chúng ta, và cướp đi nghị lực cần thiết để giải quyết khó khăn gốc ban đầu.
Nêu vấn đề với Đức Đạt Lai Lạt Ma vào một buổi
sáng, tôi hỏi:"Làm sao có thể đối phó với cảm nghĩ bất công xem ra thường hành
hạ chúng ta khi khó khăn phát sinh?
Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời, "Có thể có nhiều cách đối trị với cảm tưởng đau
khổ của ta là bất công. Tôi đã nói về tầm quan trọng của sự chấp nhận khổ đau là
việc tất yếu trong đời sống con người. Và tôi nghĩ rằng ở một số khía cạnh người
Tây Tạng đã ở trong vị thế chấp nhận thực tại khó khăn tốt hơn, vì họ sẽ nói "Có
thể đó là do Nghiệp của tôi trong quá khứ". Họ sẽ đổ việc đó cho những hành động
tiêu cực phạm ở đời này hay đời trước, do vậy có mức chấp nhận lớn hơn. Tôi đã
thấy một số gia đình định cư tại Ấn Độ trong tình trạng hết sức khó khăn, sống
trong cảnh hết sức nghèo và con cái còn bị mù cả hai mắt hoặc đôi khi đôi khi
trì độn. Và bằng cách này hay cách khác bà mẹ khổ sở đó vẫn trông nom chúng, đơn
giản chỉ than, "Đó là vì nghiệp của chúng, số phận của chúng".
"Nói đến Nghiệp, ở đây tôi nghĩ rằng quan trọng
là phải lưu ý và hiểu rằng đôi khi vì hiểu nhẩm học thuyết về Nghiệp, chúng ta
hay đổ lỗi mọi việc cho Nghiệp và cố gắng tự miễn cho mình trách nhiệm hay sự
cần thiết phải có chủ động. Ta hoàn toàn có thể dễ dàng nói, đó là do Nghiệp quá
khứ của tôi, Nghiệp quá khứ tiêu cực của tôi, và tôi phải làm gì? Tôi bất lực.
Đó là một sự lầm lẫn hoàn toàn về Nghiệp, vì lẽ dầu ta chịu hậu quả của những
hành vi trong quá khứ, nhưng không có nghĩa là cá nhân ta không còn lựa chọn nào
khác hay không còn khả năng chủ động để thay đổi, để tiến hành sự thay đổi tích
cực. Và nó cũng vậy trong tất cả các lãnh vực đời sống. Ta không nên trở thành
thụ động, và cố bào chữa cho mình không phải chủ động với lý do mọi thứ đều là
kết quả của Nghiệp, vì lẽ nếu ta hiểu quan niệm về Nghiệp một cách đứng đắn, ta
sẽ hiểu rằng Nghiệp có nghĩa là "hành động". Nghiệp là một tiến trình hết sức
tích cực. Và khi chúng ta nói về Nghiệp, hay hành động thì đó là chính hành động
của mỗi người gây ra, trong trường hợp này của chính chúng ta trong quá khứ. Vậy
kiểu tương lai nào sẽ xẩy ra, nói rộng ra, nằm trong tay bạn ở hiện tại. Nó sẽ
được quyết định bởi loại chủ động mà bạn áp dụng bây giờ. "Cho nên Nghiệp không
nên được hiểu là loại tác động thụ động, tĩnh tại, mà đúng ra phải hiểu là tiến
trình tích cực. Điều này cho thấy tác động cá nhân đóng một vai trò quan trọng
trong việc quyết định diễn biến của tiến trình Nghiệp. Chẳng hạn, ngay cả một
hành động bình thường hay một mục đích bình thường, như nhu cầu ăn uống... Muốn
đạt được mục tiêu đơn giản ấy, chúng ta cần một hành động của chính chúng ta.
Chúng ta cân phải kiếm thực phẩm, rồi thì chúng ta cần phải ăn, điều này cho
thấy cả đến một hành động tầm thường nhất, thậm chí một mục tiêu đơn giản chỉ có
thể đạt được nhờ hành động..."
"Vậy thì, giảm thiểu cảm nghĩ bất công bằng cách
chấp nhận điều đó là kết quả của Nghiệp có thể rất hữu hiệu cho người Phật Tử"
Tôi xen vào, " Nhưng đối với những người không tin tưởng vào học thuyết về
Nghiệp, chẳng hạn rất nhiều người Phương Tây thì thế nào?...
"Những người tin tưởng vào khái niệm Đâng Sáng
Tạo, Thượng Đế, có thể chấp nhận những hoàn cảnh khó khăn dễ dàng hơn bằng cách
xem mình là một phần sáng tạo của Thượng Đế hay ý định của Thượng Đế. Họ có thể
cảm thấy rằng dầu vậy, tình hình dường như rất tiêu cực. Thượng Đế toàn năng và
rất nhân từ, cho nên có một ý nghĩa lnào đó, một tầm quan trọng nào đó là ẩn sau
tình thế đó mà người ta không biết được. Tôi nghĩ là hồ như niềm tin như vậy có
thể trợ sức và giúp đỡ họ trong lúc khổ đau.
"Những người không tin học thuyết về Nghiệp và
khái niệm Thượng Đế Sáng Tạo thì sao?"
"Với những người không có niềm tin.., "Đức Đạt
Lai Lạt Ma suy nghĩ một lát trước khi trả lời, "... có lẽ một cách giải quyết
thực tiễn và khoa học có thể giúp ích. Tôi nghĩ rằng các khoa học gia thường coi
trọng cách nhìn vào vấn đề một cách khách quan, nghiên cứu vấn đề mà không để
cho tình cảm dính líu. Bằng cách giải quyết như vậy, bạn có thể nhìn vào vấn đề
với một thái độ "Nếu có cách tranh đấu, thì tranh đấu, thậm chí có phải ra tòa?
Ngài cười ." Nếu bạn không thể thắng được, bạn chỉ có thể quên nó
đi."
"Một phân tích khách quan khiến tình thế khó
khăn hay giải quyết có thể rất quan trọng, vì lẽ với cách nắm bắt vấn đề này bạn
thường sẽ thấy có thể có nhiều nhân tố liên can khác ở hậu trường. Chẳng hạn,
nếu bạn cảm thấy bị xử đối bất công bởi ông chủ nơi làm việc, có nhiều nhân tố
khác liên quan, có thể ông ta bị khó chịu bởi điều gì đó, cãi vã với vợ ông ta
sáng này hay điều gì đó, và cách hành xử của ông ta chẳng liên quan gì đến cá
nhân bạn cả, có thể không rõ ràng là nhằm vào bạn. Đương nhiên, bạn vẫn phải đối
đầu mặc dù tình thế như thế nào, nhưng ít nhất với cách thức giải quyết này, bạn
không thêm phần lo ấu vào sự lo ấu đã có." "Loại giải quyết 'khoa học' này phân
tách tình hình một cách khách quan, có thể giúp ta khám phá ra những khía cạnh
mà chính ta đã góp phần vào vấn đề không? Điều đó giúp giảm thiểu cảm nghĩ bất
công liên quan đến tình huống khó khăn không?"
"Có chứ" Ngài trả lời một cách nhiệt tình."Điều
đó nhất định có tác động. Thông thường, nếu ta xem xét tỉ mỉ bất cứ trạng huống
nào với một cách không thiên vị và chân thật, chúng ta sẽ nhận ra rằng ở một
phạm vi rộng, chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm về cái bộc phát các sự việc.
"Chẳng hạn, nhiều người đổ lỗi Chiến Tranh Vùng
Vịnh cho Saddam Hussein. Sau đó, trong một vài dịp, tôi đã nói. 'Như vậy không
công bằng '! Trong những hoàn cảnh như vậy, tôi thật sự cảm thấy phần nào tiếc
cho Saddam Hussein. Đương nhiên ông là một nhà độc tài, đương nhiên có nhiều
chuyện xấu về ông ta. Nếu nhìn vào tình thế một cách đại khái, rất dễ dàng đổ
tất cả tội lỗi cho ông ta - ông là kẻ độc tài, chuyên chế, và thậm chí mắt ông
ta cũng có vẻ đáng sợ? Ngài cười."Nhưng nếu ông không có quân đội, khả năng gây
tác hại sẽ bị giới hạn và nếu không có trang bị quân sự, đạo quân hùng mạnh ấy
không thể hoạt động được. Tất cả trang bị quân sự không tự nó sinh ra từ không
khí loãng! Cho nên khi ta nhìn vào điều đó như vậy, ta thấy có nhiều quốc gia
dính líu vào. "Vậy" Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp, " thường thường ta hay đổ lỗi cho
người khác về những khó khăn của chúng ta, về những nhân tố bên ngoài. Hơn nữa
chúng ta chỉ tìm kiếm nguyên nhân một chiều, rồi cố miễn trách nhiệm cho mình.
Dường như bất cứ lúc nào có cảm xúc mạnh thì thường hay có sự sai biệt giữa
những sự việc biểu lộ như thế nào và chúng thực đúng ra sao. Trong trường hợp
này, nếu bạn đi xa hơn nữa và phân tích trạng huống thật cẩn thận, bạn sẽ nhận
thấy Saddam Hussein chỉ là một phần của vấn đề, một trong nhiều yếu tố, ngoài ra
còn có nhiều điều kiện khác góp phần vào. Một khi bạn nhận thức được như vậy,
thái độ trước đây cho rằng chỉ mình ông ta là nguyên nhân tự động không còn nữa
và thực tế của tình hình sẽ hiện ra.
"Thói quen này dẫn đến đến việc nhìn vào sự việc
một cách toàn diện hơn - nhận thức rằng nhiều biến cố góp phần vào tình hình.
Thí dụ, vấn đề của chúng tôi với Trung Hoa- cũng vậy chúng tôi đã góp phần gây
ra. Tôi nghĩ rằng có lẽ thế hệ của chúng tôi có thể đã góp phần tạo ra tình hình
này, nhưng nhất định thế hệ trước chúng tôi, tôi suy xét, rất rất chểnh mảng, ít
nhất cũng một vài thế hệ trước. Cho nên tôi nghĩ rằng, chúng tôi, người Tây
Tạng, đã góp phần vào tình trạng bi thảm này. Sẽ không công bằng nếu đổ lỗi tất
cả cho Trung Hoa. Nhưng có nhiều mức độ. Đương nhiên, mặc dù chúng tôi có thể là
nhân tố góp phần vào tình hình, nhưng không có nghĩa là chỉ trách cứ mình chúng
tôi. Thí dụ, người Tây Tạng không bao giờ chịu khuất phục dưới sự áp bức của
Trung Hoa, để có sự kháng cự liên tục. Vì điều đó người Trung Hoa triển khai một
chính sách mới - di dân Trung Hoa sang Tây Tạng, để dân số Tây Tạng trở thành
thiểu số, người Tây Tạng bị chiếm chỗ, phong trào tranh đấu đòi tự do không thể
còn hữu hiệu. Trong trường hợp này, chúng ta không thể nói là cuộc kháng chiến
của người Tây Tạng đáng trách hay chịu trách nhiệm về chính sách của Trung
Hoa."
Tôi hỏi, "Khi chúng ta nhìn vào sự góp phần của
mình vào tình huống, Ngài nghĩ sao khi tình huống ấy rõ ràng không phải là do
lỗi của mình dù mình không mảy may dính líu gì đến, ngay cả những tình huống
không đáng kể hàng ngày, như khi một người cố ý nói dối bạn?"
"Đương nhiên, đầu tiên tôi có thể cảm nhận thấy
thất vọng khi một người nào đó không thành thực, nhưng dù vậy, nếu tôi xem xét
tình huống, tôi có thể khám phá thực ra động cơ thúc đẩy họ dấu giếm tôi một
điều gì đó không phải là kết quả của một động cơ xấu. Có thể đơn giản chỉ là
thiếu tin tôi. Cho nên thỉnh thoảng khi tôi cảm thấy thất vọng bởi những loại vụ
việc đó tôi cố nhìn họ dưới một góc độ khác, tôi sẽ nghĩ rằng có lẽ người đó
không hoàn toàn tin tôi vì tôi không thể giữ bí mật. Tính tôi thường thẳng thắn,
vậy nên vì lẽ đó người ấy có thể đã quyết định tôi đúng không phải là người có
thể giữ bí mật, và tôi có lẽ không thể giữ được bí mật khi nhiều người mong
muốn. Nói một cách khác, tôi không phải là người đáng tin cậy vì bản tính cá
nhân của tôi. Cho nên, nhìn vào điều đó bằng cách ấy, tôi phải coi nguyên nhân
là vì lỗi của chính tôi.
Thậm chí bắt nguồn từ Đức Đạt Lai Lạt Ma, cách
phân tích nguyên nhân này dường như hơi giống sự suy rộng nghĩa - tìm ra sự góp
phần của chính mình" vào tính không trung thực của người khác. Nhưng có một sự
thành thật xác thực trong giọng nói của Ngài khi Ngài nói, gợi ý rằng thực tế
đâu là kỹ thuật Ngài đã sử dụng ưu thế thực tiễn trong đời tư của Ngài để đối
trị nghịch cảnh. Áp dụng kỹ thuật đó vào đời sống của chúng ta, đương nhiên
chúng ta có thể không thường thành công trong việc tìm ra sự đóng góp phần của
chính mình vào tình huống khó khăn. Nhưng dù thành công hay không, ngay cả sự cố
gắng chân thật muốn tìm ra sự góp phần của mình vào vấn đề cho phép thay đổi
trọng tâm giúp khắc phục được lối suy nghĩ hẹp hòi dẫn đến cảm nghĩ thiếu xấy
dựng về bất công mà nó là nguồn bất mãn trong chính chúng ta và trên thế giới.
TỘI LỖI
Là sản phẩm của một thế giới không hoàn hảo, tất
cả chúng ta đều không hoàn hảo. Mỗi người trong chúng ta đều đã làm điều gì đó
sai trái. Có nhiều sự việc chúng ta hối hận.- những sự việc chúng ta đã làm hay
những sự việc chúng ta đáng lẽ phải làm. Thừa nhận sự sai lầm với ý thức hối hận
chân thành, giúp ta bám sát được con đường chính đáng trong đời và khích lệ
chúng ta sửa chữa những lỗi lầm lúc có thể và có biện pháp để uốn nắn những sự
việc trong tương lai. Nhưng nếu chúng ta để sự hối tiếc chuyển thành tội lỗi
thái quá cứ bám chặt vào ký ức về những tội lỗi trong quá khứ mà tự trách mình
và tự căm ghét mình triền miên, điều đó chẳng đi đến đâu ngoài việc là nguyên
nhân hành hạ mình không ngưng và tự gây đau khổ.
Trong cuộc đàm đạo trước đây chúng ta có nói qua
về cái chết của người anh Ngài, tôi nhớ là Đức Đạt Lai Lạt Ma có nói đến điều
Ngài hối hận về cái chết của anh Ngài. Tò mò về cách Ngài đối trị với cảm nghĩ
hối hận, và có thể là cảm nghĩ tội lỗi, tôi trở lại vấn đề trong cuộc đàm luận
sau đó, hỏi Ngài, " Khi Ngài nói về cái Chết của Lobsang, Ngài có nói đến hối
hận. Có tình huống nào khác trong đời Ngài mà Ngài hối hận nữa
không?"
Ồ, có chứ. Chẳng hạn có một nhà sư già sống ẩn
tu. Trước đây vị sư này có đến gặp tôi để thỉnh giáo, mặc dầu tôi nghĩ rằng vị
này thực sự cao đạo hơn tôi nhưng đến gặp tôi như thể là thủ tục. Dầu vậy một
hôm nhà sư này đến và hỏi tôi về tu tập bí truyền mức cao. Tôi vô tình nhận xét
sự tu tập này rất khó thực hành và có lẽ nó thích hợp với người trẻ hơn, và theo
truyền thống việc tu tập này bắt đầu ở giữa tuổi vị thành niên. Sau này tôi khám
phá ra nhà sư này đã tự tử để được tái sanh vào một thân thể trẻ hơn hầu tu tập
theo cách này cho được hiệu quả hơn..."
Ngạc nhiên về câu chuyên này, tôi nhận xét "Ồ,
thật là ghê gớm. Hẳn là khó khăn cho Ngài khi Ngài hay tin...
Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu buồn bã.
Ngài làm thế nào đối trị với cảm nghĩ hối hận
như vậy? Làm sao cuối cùng Ngài có thể rũ bỏ được nó?"
Đức Đạt Lai Lạt Ma trầm ngâm một lát trước khi trả lời, "Tôi không quên được,
nó vẫn còn đây" Ngài ngừng lại một lúc rồi mới tiếp tục, "Tuy cảm nghĩ hối hận
vẫn còn đó, nhưng nó không liên kết với cảm nghĩ buồn phiền hay có tính chất lôi
kéo tôi quay về. Nó không ích lợi gì cho ai cả nếu tôi để cảm nghĩ hối tiếc đó
đè nặng lên tôi là nguyên nhân gây nản chí và thất vọng không có mục đích gì
hoặc cản trở khả năng tôi tiếp tục phát huy hết của tôi trong đời
sống."
Vào lúc đó, hoàn toàn theo bản năng, điều làm
tôi chú ý là con người có khả năng thực sự đối đầu hoàn toàn với những bi kịch
của cuộc đời và phản ứng bằng cảm xúc, thậm chí bằng hối tiếc, mà không cho phép
mình mặc cảm tội lỗi thái quá hoặc coi thường mình. Con người hoàn toàn có khả
năng chấp nhận mình, là có giới hạn, nhược điểm, và suy xét lầm lẫn. Có khả năng
thừa nhận tình hình khó khăn về vấn đề nào đó và có phản ứng bằng cảm xúc, nhưng
không phản ứng quá mức. Đức Đạt Lai Lạt Ma thành thực cảm thấy hối hận về việc
xẩy ra mà Ngài đã mô tả nhưng kèm theo tâm trạng hối hận là phẩm giá và tình
thương. Và trong khi mang tâm trạng hối hận này, Ngài không để sự hối tiếc này
đè nặng lên Ngài thay vì như vậy Ngài vẫn tìm cách tiến lên và tập trung vào
giúp đỡ người khác bằng khả năng tối đa của Ngài.
Đôi khi tôi băn khoăn rằng liệu khả năng sống mà lại không để cho tội lỗi dằn
vặt mình là một phần của văn hóa không. Kể lại cuộc đàm luận với Đức Đạt Lai Lạt
Ma về hối hận với người bạn, một học giả Tây Tạng, tôi được biết, thực ra trong
ngôn ngữ Tây Tạng, thấm chí không có từ ngữ nào tương đương với từ "tội lỗi"
trong tiếng Anh, mặc dù có những từ có nghĩa "ăn năn", "hối hận" hay "hối tiếc"
nhưng có ý nghĩa sửa chữa trong tương lai."
Tuy nhiên dù ý nghĩa thành phần cấu tạo văn hóa
như thế nào, tôi tin tưởng rằng bằng cách cân nhắc lại thói quen suy tư của
chúng ta, và bằng cách trau dồi cách nhìn tinh thần khác biệt dựa vào những
nguyên tắc mà Đức Đạt Lai Lạt Ma nêu ra, bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể
học được cách sống không có vết nhơ tội lỗi khi nó chẳng làm được gì cả ngoài
việc gây cho chính mình khổ đau không cần thiết.
CHỐNG LẠI SỰ THAY ĐỔI
Tội lỗi nảy sinh khi chúng ta thuyết phục mình
là chính chúng ta đã gây ra các lầm lỗi không thể sửa chữa được. Sự dày vò của
tội lỗi là cứ cho rằng bất cứ vấn đề gì cũng là không thay đổi. Tuy nhiên vì
không có gì không thay đổi, cho nên đau đớn cũng vậy rồi sẽ dịu đi - Vân đề
không còn tồn tại. Đó là mặt tích cực của đổi thay. Mặt tiêu cực là chúng ta
chống lại sự thay đổi gần như trong mọi phạm vi hoạt động của cuộc sống. Điểm
xuất phát để thoát khỏi khổ đau là khám phá ra một trong những nguyên nhân
chính: chống lại sự thay
đổi.
Mô tả bản chất luôn luôn thay đổi của cuộc sống,
Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích, " Hết sức quan trọng là tìm ra nguyên nhân hay
nguồn gốc của khổ đau, và khổ đau phát sinh ra sao. Ta phải bắt đầu tiến trình
này bằng cách hiểu rõ bản chất tạm bợ phù du trong cuộc sống của chúng ta. Tất
cả mọi sự, các sự kiện và hiện tượng là đông lực thay đởi từng khoảnh khắc,
không có gì đứng yên. Nghĩ về sự tuần hoàn của mạch máu có thể dùng để củng cổ
khái niệm này, máu luôn luôn chảy, chuyển động và không bao giờ đứng nguyên một
chỗ. Bản chất thay đổi từng khoảnh khắc của hiện tượng này giống như một cơ chế
gắn liền. Và vì bản chất của tất cả hiện tượng đều thay đổi từng khoảnh khắc, nó
cho chúng ta thấy tất cả mọi sự vật đều không có khả năng tồn tại mãi không có
khả nâng giữ chúng mãi mãi nguyên như vậy. Vì mọi sự vật đều phải thay đổi,
không có cái gì có thể hiện hữu trong điều kiện vĩnh viễn, không có gì có thể
giữ nguyên bằng sức mạnh của chính nó. Vì mọi sự vật đều phải thay đổi, không có
gì tồn tại mãi, không có gì không thay đổi trước sức tác động độc lập với nó. Vì
thế mọi sự chịu tác động hay ảnh hưởng của những yếu tố khác. Cho nên, vào bất
cứ lúc nào, dù bạn có thích thú hay thú vị đến đâu thì cũng không lâu bền. Điều
này trở thành cơ sở phân loại khổ đau được biết trong Phật Giáo cho là 'đau khổ
về đổi thay'."
Khái niệm vô thường đóng một vai trò chính trong
tư tưởng Phật Giáo, và suy tưởng về vô thường là sự tu tập then chốt. Suy tưởng
về vô thường phục vụ hai chức năng chính yếu trong phạm vi Phật đạo. Ở mức độ
thông thường hay trong ý nghĩa hàng ngày, người tu tập Phật Giáo suy tưởng cái
vô thường của chính mình- sự thật là đời sống rất mong manh và chúng ta không
biết sẽ chết lúc nào. Khi phối hợp suy nghĩ này với niềm tin vào cuộc sống hiếm
có của con người, và khả năng đạt được tình trạng Giải Thoát tinh thần, khả năng
thoát khỏi khổ đau và vòng tái sinh vô tận, thì việc suy tưởng này được dùng để
tăng quyết tâm của người tu tập trong việc sử dụng thời giờ của mình vào lợi ích
tốt nhất, bằng cách dân thân vào việc hành trì đưa đến Giải Thoát. Ở mức độ cao
hơn, suy tưởng về những khía cạnh tinh tế hơn của vô thường, bản chất vô thường
của tất cả hiện tượng, người tu tập bắt đầu truy tìm bản chất thực sự của thực
tại, và nhờ sự hiểu biết này, phá tan vô minh, nguồn gốc khổ đau chủ yếu của
chúng ta.
Cho nên, trong khi suy tưởng về vô thường có một
ý nghĩa to lớn trong phạm vi Phật Giáo, câu hỏi được nêu lên: Suy tưởng và hiểu
biết về vô thường có ứng dụng thực tiễn nào trong đời sống hàng ngày cho người
không phải là Phật Tử không? Nếu chúng ta nhìn khái niệm "vô thường" từ một lập
trường "thay đổi", thì cậu trả lời nhất định là có. Xét cho cùng, dù ta nhìn đời
bằng một nhãn quan Phật Giáo hay Tây Phương, sự thực vẫn là cuộc sống luôn thay
đổi. Tới mức độ này mà chúng ta vẫn không chấp nhận sự thật đó và chống lại
những thay đổi tự nhiên của cuộc sống, chúng ta tiếp tục kéo dài mãi khổ đau của
chúng ta.
Chấp nhận sự thay đổi có thể là một nhân tố quan
trọng trong việc giảm thiểu mức khổ đau do chúng ta tự tạo ra. Cho nên thường là
chúng ta gây nên khổ đau cho chính chúng ta vì không chấp nhận từ bỏ quá khứ.
Nếu chúng ta xác định hình ảnh cho chúng ta bằng những gì thường có vẻ giống
hoặc có thể có vẻ giống hay không thể có vẻ giống thì chắc chắn chúng ta sẽ hạnh
phúc hơn khi về già. Đôi khi, chúng ta càng cố bám níu thì đời lại càng trở nên
kỳ cục và méo mó. Khi chấp nhận sự thay đổi không tránh được như một nguyên tắc
tổng quát, chúng ta có thể đối phó được nhiều vấn đề, giữ một vai trò tích cực
hơn nhờ học riêng về những thay đổi bình thường trong cuộc sống có thể ngăn chặn
được nhiều hơn nữa những lo ấu hàng ngày, nguyên nhân của nhiều phiền muộn của
chúng ta.
Phát giác ra giá trị của việc công nhận sự thay
dổi bình thường trong cuộc sống, một bà mới sanh kể cho tôi nghe chuyện bà đến
phòng cấp cứu lúc 2 giờ sáng.
"Có chuyện gì thế?" viên bác sĩ nhi khoa hỏi
bà.
"Con tôi, tôi không biết nó làm sao!", bà ta
khóc dữ dội, "tôi nghĩ rằng nó bị ngạt thở hay sao ấy. Lưỡi nó cứ thè ra; đúng
là nó cứ thè lưỡi ra, lặp đi lặp lại nhiều lần như nó muốn nhổ ra một cái gì,
nhưng trong miệng nó không có gì cả ..."
Sau một vài câu hỏi và khám bệnh lẹ làng, viên
bác sĩ bảo đảm với bà ta, " Không có gì lo ngại cả. Khi đứa trẻ lớn lên nó ngày
càng phát triển ý thức nhiều về thân thể nó và nó xem thân thể có thể làm gì.
Con bà mới khám phá ra cái lưỡi của nó" Margaret, một ký giả ba mươi mốt tuổi,
minh họa tầm quan trọng chủ yếu của việc hiểu biết và chấp nhận thay đổi trong
phạm vi quan hệ cá nhân. Cô đến gặp tôi phàn nàn về một ít lo ấu mà cô cho là
khó thích ứng với việc ly dị mới đây của cô.
Cô giải thích, "tôi nghĩ rằng có một vài cuộc
gặp gỡ để chuyện trò với một người nào đó là một ý kiến hay, nó giúp tôi bỏ quá
khứ và trở về đời sống độc thân. Thật thà mà nói, tôi hơi bồn chồn về việc
ấy"
Tôi hỏi cô về hoàn cảnh ly dị của cô.
"Chắc tôi phải nói việc ly dị được giải quyết êm
thấm. Không có mâu thuẫn, lục đục gì lớn hay điều gì tương tự. Chồng tôi và tôi
đều có công ăn việc làm tốt, cho nên chúng tôi không có vấn đề gí phải giải
quyết về tài chánh cả. Chúng tôi có một đứa con trai và dường nhu nó có thể
thích nghi với việc ly dị của chúng tôi, chồng tôi và tôi đồng ý cả hai đều có
quyền trông nom con, và việc này tiến triển tốt đẹp..."
"Ồ, tôi muốn hỏi là điều gì đã dẫn đến ly
dị?
"Hừm... Tôi cho rằng chúng tôi không còn thương
yêu nhau", bà thở dài " dường như tình yêu lãng mạn dần dần không còn nữa, chúng
tôi không còn khăng khít như lúc ban đầu mới cưới. Chúng tôi đều quá bận về công
ăn việc làm và con chúng tôi hầu như bị bỏ mặc. Chúng tôi đã có một vài lần đến
văn phòng cố vân về hôn nhân, nhưng cũng chẳng đi tới đâu. Chúng tôi vẫn sống
với nhau, nhưng giống như tình anh em chị em. Không cảm thấy tình yêu, tình yêu
vợ chồng thực sự Dù sao, chúng tôi cùng thỏa thuận, tốt hơn là chúng tôi nên ly
dị, để không còn điều gì nữa.
Sau hai lần đến khám bệnh mô tả vấn đề của cô,
chúng tôi quyết định áp dụng một phương pháp chữa tâm lý ngắn hạn, đặc biệt tập
trung vào giúp cô giảm thiểu lo ấu và điều chỉnh những thay đổi cuộc sống gần
đây của cô. Nhìn chung, cô là một người thông minh và là một người thích nghi dễ
dàng về mặt cảm xúc. Cô đã đáp ứng tốt đẹp trong đợt trị bệnh ngắn ngày và dễ
dàng chuyển trở lại cuộc sống độc thân.
Mặc dù lo lắng cho nhau, rõ ràng Margaret và
chồng cô đã hiểu sự thay đổi mức độ say mê là dấu hiệu chấm dứt hôn nhân. Nhiều
khi chúng ta thường hiểu sự giảm thiểu say mê là một dấu hiệu báo có vấn đề tai
hại trong mối quan hệ. Những lời to nhỏ đầu tiên về sự thay đổi trong mối quan
hệ có thể tạo ra ý nghĩa hoảng sợ, một cảm giác hết sức sai lầm. Có lẽ xét cho
cùng là chúng ta đã không chọn đúng người bạn đường. Người bạn đường không giống
người mà chúng ta mê say. Những bất đồng xuất hiện - chúng ta có ý muốn quan hệ
tình dục, nhưng người bạn đường của chúng ta lại mệt mỏi, chúng ta muốn đi xem
một bộ phim đặc biệt nhưng người bạn đường lại không thích hoặc luôn luôn bận
rộn. Chúng ta khám phá ra có nhiều dị biệt mà trước đây chúng ta không bao giờ
thấy. Cho nên, chúng ta kết luận, phải chấm dứt, rốt cuộc, không phải lẩn tránh
sự thật là chúng tôi trở nên có khoảng cách. Mọi việc không còn như cũ nữa,
chúng tôi nên ly dị.
Cho nên chúng ta phải làm gì? Những chuyên gia
về quan hệ đẻ ra háng tá sách, những cuốn sách nấu ăn bảo chúng ta phải làm gì
khi đam mê và ngọn lửa tình ái lãng mạn trở nên yếu dần. Họ đưa ra vô số gpợ ý
được đứa ra để nhen nhóm lại ngọn lửa tình yêu lãng mạn -sắp xếp lại thời khóa
biểu nhằm ưu tiên cho tình yêu lãng mạn, trù tính các bữa ăn chiều mơ mộng lãng
mạn, hoặc đi chơi xa ngày nghỉ cuối tuần, khen ngợi người bạn đường, học hỏi
cách trò chuyện có ý nghĩa. Đôi khi những việc này có kết quả, đôi khi không.
Nhưng trước khi tuyên bố mối quan hệ này chết,
một trong những việc có lợi ích nhất mà chúng ta có thể làm được là khi chúng ta
nhận thấy có thay đổi thì hãy lùi lại, đánh giá tình hình, và trang bị cho mình
càng nhiều kiến thức càng tốt những mẫu bình thường về thay đổi trong mối quan
hệ.
Khi đời sống của chúng ta tiến triển, chúng ta
phát triển từ lúc ẵm ngửa đến tuổi thiếu niên, đến tuổi trưởng thành, đến tuổi
già. Chúng ta chấp nhận những thay đổi trong sự phát triển cá nhân như một tiến
triển tự nhiên. Nhưng mối quan hệ cũng là một hệ thống động, gồm có hai cơ quan
tác động lẫn nhau trong môi trường sinh động. Là một hệ thống sống, cũng tự
nhiên và bình thường là sự quan hệ phải đi qua các giai đoạn. Bất cứ mối quan hệ
nào cũng có những phương diện gần gũi thân mật khác nhau- thể xác, cảm xúc, và
trí tuệ. Tiếp xúc thể xác chia sẻ cảm xúc, tư tưởng và trao đổi ý kiến hoàn toàn
là những cách chính đáng của sự liên hệ với người mình thương yêu. Mạnh lên rồi
yếu đi là bình thường nhằm cân bằng: đôi khi gần gũi thể xác suy giảm nhưng gần
gũi cảm xúc có thể tăng lên, có nhiều lúc chúng ta không muốn chia sẻ bằng lời
mà chỉ muốn được ôm ấp. Nếu chúng ta nhậy cảm với vấn đề này, chúng ta sẽ vui
hưởng thời kỳ say mê tươi đẹp đầu tiên trong mối quan hệ, nhưng nếu nó nguội
lạnh, thay vì cảm thấy lo ấu hay giận dữ, chúng ta có thể tự mình đi tới những
hình thái thân mật mới cùng đem lại thỏa mãn - hay có thể thỏa mãn nhiều hơn
nữa. Chúng ta có thể thích bạn tình là bạn đường đời, thích tình yêu vững chắc
hơn, mối ràng buộc sâu đậm hơn.
Trong tác phẩm Cư Xử Thân Mật Riêng Tư, Desmond
Morris mô tả những thay đổi bình thường xẩy ra trong nhu cầu gần gũi thân mật
của con người. ông đưa ra giả thiết mỗi người chúng ta lập đi lập lại qua ba
giai đoạn: "Ôm chặt lấy tôi", "Đặt tôi xuống", và " Để mặc tôi". Chu trình này
trước nhất trở nên rõ ràng trong những năm đầu cuộc đời khi đứa trẻ chuyển từ
giai đoạn "ôm chặt lấy tôi' tiêu biểu thời kỳ ẵm ngửa rồi đến giai đoạn "Đặt tôi
xuống" khi đứa trẻ lần đầu tiên thám hiểm thế giới, tập bò, tập đi, và đạt được
sự độc lập và tự quản nào đó tách khỏi người mẹ. Đấy là một phần của sự phát
triển và nẩy nở tự nhiên. Tuy vậy những giai đoạn ấy không chỉ tiến theo một
hướng, mà ở nhiều giai đoạn, đứa trẻ có thể kinh qua một số lo ấu khi cảm giác
tách rời trở nên quá lớn, thì đứa trẻ quay về với người mẹ để tìm sự xoa dịu và
gần gũi. Ở tuổi trưởng thành, giai đoạn "Để mặc tôi" trở thành giai đoạn dễ nhận
thấy nhất khi đứa trẻ vật lộn để hình thành cá tính. Mặc dù điều ấy có thể là
khó khăn và làm cha mẹ đau đớn, hầu hết các chuyên gia đều công nhận đó là môt
giai đoạn bình thường và cần thiết để chuyển tiếp từ tuổi thơ ấu đến trưởng
thành. Ngay trong giai đoạn này vẫn có sự pha trộn của các giai đoạn. Trong đứa
trẻ mới lớn la lối :"Để mặc tôi" với cha mẹ, nhu cầu "ôm chặt lấy tôi" có thể
được đáp ứng bởi sự đồng cảm mạnh với nhóm bè bạn cùng lứa tuổi.
Trong mối quan hệ người lớn cũng vậy, sự thay
đổi liên tục như vậy cũng diễn ra. Mức thân mật gần gũi thay đổi, có những thời
kỳ thân mật nhiều hơn lẫn với những thời kỳ xa cách lâu hơn. Đấy cũng là một
phần của chu trình sinh trưởng và phát triển bình thường. Muốn tiến tới tiềm
năng đầy đủ với tư cách con người, chúng ta cần biết quân bình nhu cầu gần gũi
và hòa hợp với các thời kỳ khi chúng ta phải quay về nội tâm, với ý thức tự quản
sinh trưởng và phát triển với tư cách cá nhân. Nếu ta hiểu được như vậy, chúng
ta sẽ không còn phản ứng bằng kinh hãi và hoảng sợ khi lần đầu tiên nhận thấy
mình " đang tách rời khỏi" người bạn đường, không còn hoảng sợ gì khi nhìn nước
thủy triều xuống ở bờ biển. Đương nhiên, đôi khi sự xa cách tình cảm tăng lên có
thể báo hiệu những vấn đề nghiêm trọng trong mối quan hệ (giận dữ ngấm ngầm
không nói ra chẳng hạn) và thậm chí sự tan vỡ có thể xẩy ra. Trong những trường
hợp đó, những biện pháp như chữa bệnh có thể rất hữu ích. Nhưng đừng quên vấn đề
chính yếu là xa cách phát triển không tự động có nghĩa báo hiệu là tai họa. Nó
cũng có thể là một phần của chu kỳ đáp lại việc xác định mối quan hệ một lần nữa
trong một hình thái mới mà nó thể đoạt lại hay còn hơn cả sự thân mật gần gũi
trong quá khứ.
Cho nên, việc chấp nhận, hay thừa nhận sự thay
đổi là một phần tự nhiên trong phản ứng qua lại của chúng ta với người khác,
đóng môt vai trò quan trọng trong quan hệ. Chúng ta sẽ vỡ lẽ ra rằng chính vào
lúc chúng ta cảm thấy thất vọng, nhất như thể mối quan hệ không còn là cái gì
đó, thì sự thay đổi sâu xa xẩy ra. Giai đoạn chuyển tiếp này có thể trở thành
điểm then chốt khi tình yêu thực sự bắt đầu chín mùi và thăng hoa. Mối quan hệ
của chúng ta không còn dựa vào sự đam mê cao độ, coi người kia là hiện thân của
sự tuyệt hảo, hoặc cảm thấy hợp nhau. Nhưng trong khi trao đổi vì điều đó, chúng
ta nay ở một vị trí bắt đầu thực sự biết người kia - hiểu người kia là như thế,
một cá nhân riêng rẽ, có thể có khuyết điểm và nhược điểm, nhưng là một con
người như chúng ta. Chính ở điệm trọng tâm này mà chúng ta có thể đưa ra lời cam
kết trước sự tăng trưởng của một người kia - một hành động của tình yêu thực sự.
Có lẽ cuộc hôn nhân của Margaret có thể cứu được
bằng cách chấp nhận sự thay đổi tự nhiên trong quan hệ và thiết lập mối quan hệ
mới dựa vào những nhân tố không phải là đam mê và lãng mạn.
Tuy vậy may mắn là câu chuyện chưa chấm dứt tại
đây. Hai năm sau lần khám bệnh cuối cho Margaret, tôi tình cờ gặp cô trong khu
vực cửa hàng cửa hiệu (cảnh ngẫu nhiên gặp bệnh nhân cũ trong môi trường xã hội
làm cho tôi, cũng như hầu hết các bác sĩ chuyên khoa, cảm thấy một chút lúng
túng).
Tôi hỏi, "Dạo này cô ra sao?"
Cô reo lên "Còn gì tốt hơn! Tháng trước, tôi và
chồng cũ của tôi tái hôn"
"Thực sao?"
"Vâng đúng, và mọi việc diễn ra tuyệt trần.
Chúng tôi tiếp tục gặp nhau vì cùng trông nom con. Dầu sao, lúc đầu cũng khó
khăn... nhưng sau khi ly dị, không biết làm sao áp lực không còn nữa. Chúng tôi
không còn ước vọng gì nữa. Và chúng tôi thấy chúng tôi thực sự thích nhau, và
thương yêu nhau. Mọi việc không giống như khi chúng tôi cưới nhau lần đầu.,
nhưng không thành vấn đề, chúng tôi thực sự hạnh phúc. Tôi cảm thấy đúng như
vậy."
-ooOoo-