PHẦN IV
VƯỢT QUA CÁC CHƯỚNG
NGẠI
(tiếp theo)
-ooOoo-
CHƯƠNG 14
ĐỐI TRỊ VỚI LO ÂU VÀ XÂY DỰNG LÒNG TỰ TRỌNG
Người ta đánh giá rằng trong một đời người, ít
nhất một phần tư người Mỹ bị suy nhược bởi lo ấu hay lo lắng đủ nghiêm trọng
theo tiêu chuẩn chẩn bệnh y tế về chứng lo ấu. Nhưng ngay cả những người chưa
bao giờ bị chứng bệnh lo ấu hay tình trạng bất lực trước lo ấu vào lúc này hay
lúc khác, sẽ trải qua nhiều mức độ phiền muộn và lo ấu thái quá mà không đáp ứng
được mục đích hữu ích nào cả và chẳng tác dụng gì cả ngoài việc xói mòn hạnh
phúc và ngăn cản khả năng đạt mục tiêu.
Bộ não con người được trang bị với một hệ thống
phức tạp dành để ghi nhận những cảm xúc sợ sệt và lo lắng. Hệ thống này đáp ứng
một chức năng quan trọng - nó huy động chúng ta phản ứng với nguy hiểm bằng cách
phát động hàng loạt những phản ứng sinh lý và sinh hóa. Khía cạnh thích ứng cho
lo lắng là làm cho chúng ta biết trước nguy hiểm và có hành động phòng ngừa. Cho
nên, một số loại sợ hãi, và mức lo ấu nào đó có thể là lành mạnh. Tuy nhiên, cảm
xúc sợ hãi và lo ậu có thể dai dẳng và thậm chí leo thang khi không có đe dọa
đích thực, và khi những cảm xúc này phát triển không cân xứng với bất cứ nguy
hiểm thực sự nào, chúng trở thành thích ứng sai. Lo ấu và lo lắng thái quá giống
như giận dữ và sân hận có thể có những tác động tàn phá đến tâm và thân, trở
thành nguồn khổ đau nhiều về xúc cảm và cả đến bệnh về thể chất.
Về mặt tinh thần lo ấu kinh niên có thể làmsuy
yếu phán xét, tăng tính dễ nổi cáu, và cản trở toàn bộ tính hiệu quả của ta. Nó
cũng dẫn đến những vấn đề về thể chất gồm có giảm chức năng miễn dịch, bệnh tim,
rối loạn ruột dạ dày, mệt mỏi, cơ bắp căng thẳng và đau đớn. Những rối loạn của
lo ấu chẳng hạn, cho thấy đã gây còi cọc cho sự phát triển của các thiếu nữ..
Trong việc tìm các chiến lược đối trị với lo ấu,
trước hết chúng ta phải công nhận rằng như Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ vạch ra, có
nhiều nhân tố góp phần làm tăng thêm sự lo ấu. Trong một vài trường hợp, có thể
là một thành tố sinh học mạnh mẽ. Một số người dễ bị thương tổn thần kinh khi
trải qua trạng thái lo nghĩ và lo ấu. Các nhà khoa học gia mới khám phá ra,
"gien" (di truyền) liên quan đến những người hay lo lắng và suy nghĩ tiêu cực.
Tuy nhiên không phải tất cả mọi trường hợp về độc tố lo lắng đều do nguyên nhân
di truyền, mà hầu như chắc chắn là học tập và tình huống cũng đóng một vai trò
lớn trong nguyên nhân gây bệnh.
Nhưng dù cho sự lo ấu của chúng ta chủ yếu là
bẩm sinh thể chất hay tâm lý đi nữa, thì tin vui là chúng ta vẫn có cách để chữa
trị. Trong những trường hợp lo ấu trầm trọng, thuốc men có thể là một phần hữu
dụng trong chế độ điều trị. Nhưng hầu hết trong chúng ta phiền muộn bởi lo nghĩ
và lo ấu dai dẳng hàng ngày sẽ không cần can thiệp bằng thuốc. Những chuyên viên
về điều trị lo ấu nhận thấy phương pháp giải quyết đa diện là tốt nhất. Trước
hết nó gồm có việc loại bỏ việc xem tình trạng sức khỏe cơ bản có phải là nguyên
nhân gây ra lo ấu. Tác động cải thiện bằng cách ăn uống cho thích hợp và tập
luyện cũng rất kiến hiệu. Và, như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhân mạnh, trau dồi tình
thương và tăng cường quan hệ với người khác cũng thúc đẩy tinh thần phân khởi và
chống lại được trạng thái lo ấu.
Tuy nhiên trong công việc tìm kiếm những chiến
lược thực tiễn để khắc phục lo ấu, một kỹ thuật nổi bật là có hiệu quả đặc biệt:
can thiệp bằng nhận thức. Đó là một trong những phương pháp chính mà Đức Đạt Lai
Lạt Ma áp dụng để khắc phục phiền muộn và lo ấu hàng ngày. Áp dụng cùng một
phương pháp để chế ngự giận dữ và sân hận, kỹ thuật này đòi hỏi tích cực không
chấp nhận những ý nghĩ phát sanh lo ấu và thay thế chúng bằng ý nghĩ và thái độ
tích cực và hợp lý.
Vì lo ấu lan tràn trong văn hóa của chúng ta,
tôi hăm hở nêu đề tài này ra với Đức Đạt Lai Lạt Ma để xem Ngài đối trị nó ra
sao. Lịch trình của Ngài vào ngày đó rất bận nên tôi cảm thấy sự lo lắng của
chính tôi cũng tăng lên, trước cuộc phỏng vấn, tôi được người thư ký của Ngài
báo phải rút ngắn cuộc nói chuyện ngày hôm nay. Cảm thấy bị áp lực vì thời giờ
và lo không thể nói hết những đề tài mong muốn,, tôi ngồi nhanh xuống và bắt dầu
trở lại xu hướng lúc hỏi lúc không để cố lấy ra được những câu trả lời đơn giản
của Ngài.
"Ngài biết, sợ hãi và lo ấu là chướng ngại chính
trong việc hoàn thành mục tiêu của chúng ta,liệu chúng là mục tiêu bên ngoài hay
là sự tiến triển bên trong. Trong khoa tâm thần chúng tôi có nhiều phương pháp
giải quyết vấn đề này, nhưng tôi vẫn muốn biết quan điểm của Ngài, cách tốt nhất
để khắc phục sợ hãi và lo ấu là gì ?
Không đồng ý việc quá đơn giản hóa vấn đề theo ý
tôi, Ngài trả lời bằng phương pháp rất đặc trưng.
"Khi đối trị với sợ hãi, trước nhất chúng ta cần
phải biết có nhiều loại lo sợ. Có những loại sợ rất chính đáng, căn cứ vào những
lý do hợp lý, thí dụ như sợ bạo lực, sợ đổ máu. Chúng ta có thể thấy những điều
ấy rất là xấu. Rồi có những sự lo sợ về những hậu quả tiêu cực xẩy ra sau này từ
những hành động tiêu cực của ta, sợ khổ sở, sợ những cảm xúc tiêu cực như sân
hận. Tôi nghĩ đó là những loại sợ hãi đứng đắn, những loại sợ hãi này đưa chúng
ta vào chánh đạo, giúp chúng ta tiến tới thành người có lòng tốt." Ngài ngừng
lại suy nghĩ và trầm ngâm: "Mặc dù trong một ý nghĩa nào đó đây là những loại lo
sợ, tôi nghĩ có khác biệt giữa sự lo sợ những điều ấy và sự tìm hiểu của tâm về
tính chất phá hoại của những điều ấy".
Ngài ngừng lại hồi lâu, và có vẻ cân nhắc, trong
khi tôi lén nhìn vào đồng hồ đeo tay. Rõ ràng là Ngài không cảm thấy thì giờ đã
hết như tôi. Cuối cùng Ngài tục nói một cách thong thả.
"Mặt khác có những loại sợ hãi do chính tinh
thần chúng ta tạo nên. Những loại lo sợ này hoàn toàn dựa trên hình chiếu tinh
thần. Thí dụ như có nhiều cái sợ hãi rất con nít; Ngài cười, "như khi còn nhỏ,
đi qua chỗ tối, nhất là các phòng tối trong điện Potola thì thấy sợ [*] -- cái
sợ này hoàn toàn do tưởng tượng. Hay khi còn nhỏ những người quét tước và trông
nom tôi thường khuyến cáo tôi có con chim cú hay bắt trẻ con ăn thịt", Đức Đạt
Lai Lạt Ma cười to hơn nữa ."Và tôi tin là họ đã nói thật".
[*] Potola là cung điện mùa đông truyền thống
của Đức Đạt Lai Lạt Ma, biểu tượng của di sản lịch sử và tôn giáo Tây Tạng. Dược
Vua Tây Tạng là Song-Tsen Gampo xấy dựng vào thế kỷ thứ 7, sau này bị phá hủy và
không được xây dựng lại đến tận thế kỷ thứ 17 của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5. Công
trình hiện thời đứng uy nghiêm với chiều cao 440 feettren đỉnh "Đồi Đỏ ở Lhasa.
Dài hơn 1/4 dặm, có trên 1000 phòng, lễ đường, và phòng nhỏ.
Ngài tiếp tục, " Có những loại lo sợ khác căn cứ
vào tưởng tượng, Thí dụ nếu bạn có những cảm tưởng tiêu cực do tình trạng tinh
thần, rồi bạn suy bụng ta ra bụng người, thấy người này có vẻ tiêu cực và thù
nghịch. Kết quả, bạn cảm thấy sợ hãi. Loại sợ hãi này, tôi nghĩ liên quan đến
sân hận và hầu như dẫn đến sự sáng tạo tinh thần. Cho nên, đối trị lo sợ trước
hết bạn cần phải sử dụng khả năng suy luận và cố gắng khám phá xem có cơ sở vững
vàng nào để bạn sợ không"
Tôi hỏi, "Vậy thì, thay vì quá lo sợ, hay tập
trung lo sợ vào một cá nhân hay tình huống, nhiều người trong chúng tôi bị khó
chịu nhiều hơn là những lo lắng lan truyền đang diễn ra về nhiều vấn đề hàng
ngày. Vậy Ngài có gợi ý gì về cách giải quyết chúng không?"
Gật đầu Ngài đáp, "Một trong những cách giải
quyết mà chính tôi thấy rất hữu hiệu để giảm bớt loại lo lắng này là trau dồi tư
tưởng: nếu thấy tình huống hay khó khăn có thể sửa chữa được thì không cần phải
lo lắng. Nói một cách khác, nếu có giải pháp hay có lối thoát khỏi khó khăn, thì
ta không cần để nó áp đảo. Hành động thích hợp là tìm ra giải pháp. Sáng suốt
hơn là tập trung năng lực tìm giải pháp hơn là lo lắng về vấn đề. Còn nếu không
có cách giải quyết nào thoát ra khỏi khó khăn, thì cũng không có lý do gì phải
lo, vì dù sao đi nữa ta cũng đâu làm được điều gì hơn. Trong trường hợp đó, nếu
bạn chấp nhận sự thật càng sớm thì bạn càng cảm thấy dễ chịu hơn. Dĩ nhiên công
thức này ngụ ý, ta nên trực tiếp đương đầu với vấn đề. Nếu không bạn sẽ không
thể thấy liệu có cách nào để giải quyết không."
"Còn như đã nghĩ như vậy mà vẫn không làm dịu
bớt được sự lo lắng thì ta phải làm sao?"
"Vậy thì bạn phải suy nghĩ về những ý nghĩ này
một chút nữa và phải củng cố những ý nghĩ này. Hãy liên tục tự nhắc nhở mình. Dù
sao tôi nghĩ rằng phương pháp này có thể giúp giảm lo lắng, nhưng không phải lúc
nào nó cũng có kết quả. Nếu bạn đang đối phó với sự lo lắng đang diễn ra, tôi
nghĩ bạn cần phải xét đến vấn đề một cách cụ thể. Có nhiều loại lo lắng và
nguyên nhân khác nhau. Thí dụ như có những loại lo lắng và bối rối có thể vì lý
do sinh học; như có người bị mồ hôi ướt lòng bàn tay mà hệ thống y khoa Tây Tạng
cho đó là sự mất quân bình tinh vi về mức độ sinh lực. Có vài loại lo lắng giống
như suy nhược, có thể có nguồn gốc sinh học, và đối với những loại này, cách
điều trị y tế có thể có ích cho loại này. Do đó, để đương đầu với lo lắng một
cách có hiệu quả, bạn cần xem xét về kiểu loại và nguyên nhân.
Giống như sợ sệt, lo lắng có nhiều loại khác
nhau. Thí dụ như loại lo lắng mà tôi cho là thông thường bao gồm sự lo sợ tỏ ra
khờ dại truớc mặt người khác hay sợ người khác nghĩ xấu về mình."
Tôi ngắt lời: "Ngài có bao giờ sợ hay lo lắng
như thế không?"
Đức Đạt Lai Lạt Ma cười phá lên và không hề do dự, trả lời: "Có
chứ"
"Xin Ngài cho một thí dụ"
Ngài nghĩ một chút rồi nói: "Thí dụ như năm
1954, ở Trung Quốc, vào ngày đầu tiên gặp Chủ Tịch Mao Trạch Đông, và trong một
dịp khác gặp Chu Ân Lai. Lúc ấy tôi không biết hết mọi nghi thức và tập quán
ngoại giao. Thủ tục thông thường của cuộc gặp là bắt đầu bằng vài câu xã giao
rồi mới đi vào phần thảo luận công việc. Nhưng lúc đó, tôi bối rối đến nỗi mới
ngồi xuống đã nhảy ngay vào công việc! Đức Đạt Lai Lạt Ma cười khi nhớ lại
chuyện này."Tôi còn nhớ là sau đó, người phiên dịch của tôi, một người cộng sản
Tây Tạng, rất đáng tin cậy và là người bạn tốt, đã nhìn tôi cười và chế nhạo tôi
về chuyện ấy.
"Tôi nghĩ rằng ngay cả bây giờ, trước buổi
thuyết giảng hay nói chuyện trước công chúng, tôi vẫn cảm thấy hơi lo, cho nên
những phụ tá của tôi hay nói, "Nếu vậy tại sao Ngài lại nhận lời mời thuyết
giảng.?" Ngài lại cười.
Tôi hỏi: "Vậy bản thân Ngài, Ngài làm sao để đối
phó với loại lo lắng này?"
Với giọng nói bình thản, Ngài nhỏ nhẹ: "Tôi
không biết" .. Ngài ngập ngừng, và chúng tôi ngồi lặng thinh một lúc lâu, và một
lần nữa, Ngài có vẻ cân nhắc và ngẫm nghĩ thận trọng. Cuối cùng, Ngài nói: "Tôi
nghĩ rằng có một động cơ thích hợp và thành thật là những điều chủ yếu để chế
ngự những loại sợ hãi và lo lắng này. Do đó, nếu tôi lo lắng trước buổi nói
chuyện thì tôi sẽ tự nhắc nhở mình lý do chính yếu, mục đích của buổi giảng, là
ít ra cũng trình bày được một vài lợi ích cho người khác chứ không phải là khoe
kiến thức của mình. Vậy thì cái gì tôi biết, tôi sẽ giải thích. Còn những gì tôi
không hiểu rõ ràng - thì đâu có hề gì; tôi chỉ cần nói "cái này khó đối với
tôi". Không có lý do gì phải dấu diếm hay giả vờ. Từ quan điểm này với động cơ
đó tôi không phải lo lắng về điệu bộ ngờ nghệch hay quan tâm đến chuyện người
khác nghĩ gì về tôi. Do đó tôi thấy rằng động cơ thành thật là một loại thuốc
giải để giảm bớt sợ hãi và lo lắng."
Vậy đôi khi sự lo lắng còn hơn là sợ cái vẻ khờ
dại trước mặt người khác. Còn hơn cả sợ thất bại, cảm tưởng kém cỏi..." Tôi suy
nghĩ một lúc để xem bộc lộ được bao nhiêu ý riêng.
Đức Đạt Lai Lạt Ma chăm chú lắng nghe, gật đầu im lặng trong khi tôi nói, tôi
không biết chắc Ngài nghĩ gì. Có thể đó là thái độ đồng tình, nhưng trước khi
hiểu được, tôi đã chuyển việc thảo luận những vấn đề chung sang khẩn khoản xin
lời khuyên của Ngài về cách đối phó với sợ hãi và lo lắng của chính tôi.
"Tôi không biết sao... đối với bệnh nhân có khi
tôi thấy thật khó điều trị... những trường hợp không thể nào chẩn đoán được rõ
ràng, như là suy nhược thần kinh hay những bệnh dễ trị khác. Có những bệnh nhân
bị rối loạn tính cách nghiêm trọng như những người không chữa được bằng thuốc
hay không có tiến triển nhiều với tâm lý trị liệu dù tôi đã hết sức cố gắng. Đôi
khi tôi không biết làm gì với những người này, làm sao để giúp đỡ họ. Hình như
tôi không thể nắm được chuyện gì xẩy ra cho họ. Việc này làm tôi tê liệt, phần
nào bất lực." Tôi than phiền: "Tôi cảm thấy bất tài, và điều này thực sự gây ra
một loại lo lắng nào đó",
Ngài lắng nghe tôi một cách nghiêm trang rồi hỏi
với giọng thân mật: "Có phải ông nói rằng ông có thể giúp cho bẩy mươi phần trăm
bệnh nhân của ông?"
Tôi trả lời: "Ít nhất là như vậy"
Vỗ nhẹ vào tay tôi, Ngài nói: "Vậy tôi nghĩ
không có vấn đề gì ở đây. Nếu ông chỉ có thể giúp cho ba mươi phần trăm bệnh
nhân, thì tôi khuyên ông nên nghĩ đến việc đổi sang nghề khác. Nhưng tôi nghĩ
ông làm tốt lắm. Người ta cũng thường đến nhờ tôi giúp đỡ. Có nhiều người tìm
kiếm phép mầu, hay phép lạ vân vân... và tôi không thể nào giúp hết mọi người.
Nhưng tôi nghĩ vấn đề chính là động cơ thúc đẩy - có một động cơ thực sự trong
việc giúp người. Rồi thì hãy cố làm hết sức của mình và không phải lo lắng gì
nữa.
Về trường hợp của tôi, dĩ nhiên cũng có những
tình thế dễ bị tổn thương hay nghiêm trọng, và một trách nhiệm nặng nề. Tôi nghĩ
điều tồi tệ nhất là khi người ta đặt quá nhiều tin tưởng vào tôi trong những
trường hợp ngoài khả năng của tôi. Trong trường hợp này, đôi khi tôi đấm ra lo
lắng. Một lần nữa, chúng tôi quay trở lại ý nghĩa quan trọng của sự động cơ. Rồi
tôi có gắng nhắc nhở mình trong chừng mực liên quan đến động cơ, hãy thành thật
và cố gắng hết sức mình. Bằng động cơ thành thực, động cơ từ bi, cho dù tôi có
gây lỗi lầm, hay thất bại thì cũng không có lý do gì để hối tiếc. Tôi đã cố hết
sức làm tốt phần của tôi. Rồi, bạn sẽ thấy, nếu tôi thất bại, đó là vì tình thế
vượt quá những cố gắng hết sức của tôi. Vậy động cơ thúc đẩy thành thật đó loại
bỏ sợ hãi và cho bạn lòng tự tin. Mặt khác, nếu động cơ thầm kín là để lường gạt
người ta, khi thất bại, bạn thực sự trở nên bối rối. Nhưng nếu bạn trau dồi động
cơ từ bi, nếu bạn có thất bại, bạn không hối tiếc.
"Cho nên, nói đi nói lại, tôi nghĩ động cơ thích
hợp có thể là cái bảo vệ, che chở cho bạn chống lại những cảm nghĩ sợ hãi và lo
lắng. Động cơ quan trọng như vậy. Thực ra tất cả hành động của con người có thể
được nhìn thấy bằng hoạt động, và động lực đằng sau tất cả những hành động là
động cơ của ta. Nếu bạn phát triển một động cơ trong sáng và thành thật, nếu bạn
được thúc đẩy bởi mong muốn giúp đỡ trên cơ sở của lòng nhân ái, từ bi và tôn
trọng, thì bạn có thể thi hành bất cứ công việc gì, trong bất cứ lãnh vực nào,
và hoạt động một cách hữu hiệu hơn với ít sợ hãi và lo lắng hơn, không sợ hãi gì
về điều người ta nghĩ về bạn hay liêu cuối cùng bạn có đạt được mục tiêu hay
không. Cho dù bạn không đạt được mục tiêu, bạn vẫn cảm thấy hài lòng vì bạn đã
hết sức cố gắng. Nhưng bằng một động cơ xấu, người ta có thể khen bạn, hay bạn
có thể đạt được mục tiêu, nhưng bạn vẫn không cảm thấy vui".
Trong việc bàn luận thuốc giải bệnh lo lắng, Đức
Đạt Lai Lạt Ma đưa ra hai phương cách trị liệu, mỗi phương cách tốt ở một mức
độ. Cách thứ nhất liên quan đến việc tranh đấu tích cực chống lại sự tư lự và lo
lắng kinh niên bằng cách áp dụng tư duy đề kháng: hãy nhắc nhở mình,
nếu có cách giải quyết vấn đề thì không
cần phải lo. Nếu không có cách giải quyết, thì cũng không có lý do gì phải
lo.
Phương thuốc giải thứ hai là phương pháp trị
liệu có tính cách bao quát hơn. Nó liên quan đến việc biến đổi động cơ tiềm ẩn
của ta. Có một sự trái ngược đáng lưu ý giữa cách giải quyết về động cơ thúc đẩy
con người của Đức Đạt Lai Lạt Ma với tâm lý học Tây Phương Như đã thảo luận
trước đây, các nhà nghiên cứu chuyện về động cơ thúc đẩy con người đã điều tra
về những động cơ bình thường của con người, nhìn vào cả hai nhu cầu bẩm sinh và
nhu cầu do biết được. Ở mức độ này, Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắm vào sự phát triển và
sử dụng lòng ham học được để nâng cao "nhiệt tình và quyết tâm" của ta. Trong
một số khía cạnh, nó giống như quan điểm của nhiều "chuyên gia về động cơ "
truyền thống Tây Phương, tìm cách đẩy mạnh tinh thần hăng hái và quyết tâm đạt
mục đích. Nhưng điều khác biệt là Đức Đạt Lai Lạt Ma tìm cách xấy dựng quyết tâm
và niềm say mê làm những hành động thiện nhiều hơn nữa, và loại bỏ những nét
tinh thần tiêu cực hơn là nhân mạnh vào sự đạt được những thành công vật chất,
tiền bạc hay quyền thế. Và có lẽ sự khác biệt nổi bật nhất là trong khi "những
phát ngôn viên về động cơ" bận bịu thổi phồng lên ngọn lửa của những động cơ
hiện có về những thành công vật chất, và những lý thuyết gia Tây Phương bận tâm
đến việc phân loại những động cơ tiêu chuẩn của con người, thì mối quan tâm hàng
đầu về động cơ con người của Đức Đạt Lai Lạt Ma lại nằm trong việc uốn nắn và
thay đổi động cơ tiềm ẩn thành động cơ của từ bi và nhân ái.
Trong hệ thống huân luyện tâm và đạt hạnh phúc
của Đức Đạt Lai Lạt Ma, càng được thúc
đẩy bởi lòng vị tha, thì càng ít sợ trước những hoàn cảnh thậm chí cực kỳ lo ấu
dằn vặt. Nhưng có một ít cách có thể áp
dụng như nguyên tắc này ngay cả khi động cơ thúc đẩy của bạn không hoàn toàn do
lòng vị tha.Đứng xa ra và xem xét và chỉ cần chắc chắn là bạn không có ý hại
người và động cơ thúc đẩy của bạn thành thực có thể giúp bạn giảm thiểu lo ấu
trong hoàn cảnh bình thường hàng ngày.
Không bao lâu sau lần đàm thoại trên với Đức Đạt
Lai Lạt Ma, tôi ăn trưa cùng với một nhóm người gồm có một thanh niên trẻ mà tôi
tôi chưa gặp trước đây, một sinh viên của một trường đại học địa phương. Trong
bữa ăn này, có người hỏi tôi về đợt đàm luận với Đức Đạt Lai Lạt Ma tiến triển
ra sao và tôi có kể lại cuộc đàm thoại về việc khắc phục lo lắng. Sau khi im
lặng nghe tôi miêu tả khái niệm về "động cơ thành thực là một thuốc giải cho
bệnh lo lắng", người sinh viên giãi bày là anh thường khổ tâm vì nhút nhát và
rất lo lắng trong giao tiếp xã hội. Suy nghĩ về cách áp dụng kỹ thuật này để
vượt qua sự lo lắng của mình, người học sinh này thì thầm "Tốt tất cả điều đó
rất hay. Nhưng tôi nghĩ rằng phần khó khăn thường là phải có động cơ cao thượng
về nhân ái và từ bi.
"Tôi nghĩ điều đó rất đúng", Tôi phải thừa nhận.
Cấu chuyện chuyển qua những đề tài khác, và
chúng tôi chấm dứt bữa ăn trưa. Tuần lễ sau đó tôi tình cờ lại gặp người sinh
viên này cũng tại quán ăn này.
Lại gần tôi một cách niềm nở, anh ta nói, " ông
có nhớ bữa trước chúng ta có nói về động cơ thúc đẩy và lo lắng? Tôi có đem thực
hành và nó thực sự hữu hiệu! Có một thiếu nữ làm việc trong tiệm bán đồ tại khu
bán hàng mà tôi đã gặp cô rất nhiều lần, lúc nào tôi cũng định mời cô đi chơi,
vì quá e thẹn và lo lắng sợ cô từ chối nên không bao giờ dám hỏi cô. Vậy mà, hôm
nọ, tôi đến gặp cô, nhưng lần này tôi bắt đầu nghĩ đến động cơ thúc đẩy đã mời
cô đi chơi. Đương nhiên động cơ thúc đẩy là muốn hẹn hò với cô. Nhưng đằng sau
đó chính là lòng mong ước của tôi có thể tìm thấy một người mà tôi thương yêu và
người ấy cũng yêu tôi. Khi tôi nghĩ như vậy, tôi nhận thấy không có gì sai trái
trong việc này, và động cơ thúc đẩy của tôi thành thực. Tôi không muốn làm hại
cô hay chính tôi, mà chỉ mong những điều tốt lành. Ghi nhớ điều này trong tâm và
tự nhắc nhở một đôi lần không hiểu sao nó có vẻ có ích khiến cho tôi đã có can
đảm bắt chuyện với cô. Tim tôi đập mạnh, nhưng tôi cảm thấy tuyệt vời vì đã có
thể can đảm để nói chuyện với cô"
Tôi nói, "Tôi rất vui được biết việc đó" "Rồi
chuyện ra sao nữa?
"À thì ra cô ấy đã có bạn trai chính thức rồi.
Tôi hơi thất vọng một chút nhưng không sao. Tôi cảm thấy vui vì đã có thể vượt
qua được sự rụt rè e thẹn của tôi. Và việc này làm cho tôi hiểu rằng nếu tôi
chắc chắn không có gì sai trái trong động cơ thức đẩy của tôi, và ghi nhớ điều
này trong tâm, nó sẽ giúp tôi lần sau ở trong hoàn cảnh như vậy."
THÀNH THẬT LÀ THUỐC GIẢI ĐỘC CHO TỰ TI VÀ TỰ
TÔN
Ý thức lành mạnh của tự tin là một nhân tố chủ
yếu trong việc đạt mục tiêu của chúng ta. Điều này rất đúng dù mục tiêu của
chúng ta là đạt được bằng cấp đại học, thành công trong công việc làm ăn, có
quan hệ mỹ mãn, hay rèn luyện tâm trí để được hạnh phúc hơn. Thiếu tự tin cản
trở những cố gắng tiến tới, đối đầu với thử thách và cả đến phải chấp nhận may
rủi khi cần thiết để theo đuổi mục tiêu của chúng ta. Quá tự tincó thể ngang
bằng với nguy hiểm. Những người khổ vì có ý nghĩ thổi phồng thái
quá khả năng và thành quả của mình luôn luôn bị
ngã lòng, thất vọng, và nóng giận khi xâm nhập thực tế vàthiên hạ không chấp
nhận giá trịcủa cách nhìn lý tưởng hóa về mình của những người ấy. Và họ lúc nào
cũng gần như sắp bị đắm chìm trong suy nhược khi không thể sống theo hình ảnh lý
tưởng của mình. Thêm vào đó, tính phô trương của những cá nhân này thường dẫn
đến cảm giác có quyền hành hồ như hách dịch khiến họ cách biệt với những người
khác và cản họ trong những mối quan hệ thoải mái về tình cảm.
Cuối cùng, đánh giá quá cao khả năng của mình có
thể dẫn đến những hiểm họa. Như viên thanh tra Dirty Harry Callahan, trong tâm
trạng bình thản, nói cho chúng ta biết trong phim Magnum Force (trong khi theo
dõi tên vô lại quá tự tin nên đã tự hại mình), " Mỗi một người phải biết giới
hạn của mình".
Trong truyền thống tâm lý trị liệu ở Phương Tây,
các nhà lý luận gia đã gắn cả tự ti và tự tôn với những xáo trộn trong hình ảnh
bản thân của con người và tìm nguyên nhân của những xáo trộn này trong cách nuôi
dưỡng đứa trẻ lúc còn bé. Nhiều lý luận gia coi tự ti và tự tôn như hai mặt của
một đồng tiền, quan niệm việc thổi phòng hình ảnh bản thân là sự phòng thủ vô
thức chống lại cái bất an nằm ở dưới và những cảm nghĩ tiêu cực về mình. Những
bác sĩ chuyên khoa phân tích tâm lý đã đặc biệt trình bầy những lý thuyết phức
tạp về sự nhận định sai lạc bản thân mình xảy ra như thế nào. Họ giải thích hình
ảnh bản thân mình ra sao khi người ta tiếp thu thông tin phản hồi từ môi trường.
Họ cũng mô tả làm thế nào mà con người phát triển khái niệm mình là ai bằng cách
kết hợp những thông điệp rõ rệt hay ngấm ngầm về mình từ cha mẹ họ và làm thế
nào mà những sự xáo trộn có thể xẩy ra khi những tương tác lúc nhỏ với những
người chăm sóc không được lành mạnh và không biết cách nuôi nâng.
Khi những xáo trộn về hình ảnh bản thân đủ trầm
trọng để gây ra những vấn đề thật sự trong đời sống, nhiều người quay về với tâm
lý trị liệu. Những bác sĩ tâm lý huân luyện về nhận thức tập trung giúp bệnh
nhân giành được sự hiểu biết về những kiểu bất thường trong quan hệ lúc thơ ấu
là nguyên nhân của vấn đề và cung cấp cho họ cách phản ứng thích hợp và trong
môi trường điều trị mà bệnh nhân có thể từ từ khôi phục lại và sửa chữa hình ảnh
bản thân tiêu cực của mình. Mặt khác, Đức Đạt Lai Lạt Ma lại tập trung vào "nhổ
mũi tên ra" thay vì tốn thì giờ xem ai bắn. Thay vì thắc mắc tại sao người ta
lại tự ti và tự tôn, Ngài đưa ra một phương pháp đánh thẳng vào những trạng thái
tâm tiêu cực.
Trong những thập niên gần đây, tính chất của cái
ngã (cái tôi) đã là một trong những đề tài được nghiên cứu nhiều nhất trong lãnh
vực tâm lý học. Trong "thập niên của tôi", trong những năm 80, có hàng ngàn bài
viết mỗi năm khám phá những vấn đề về tự ti và tự tôn. Nghĩ đến đó trong đầu,
tôi đã đem ra hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma.
"Trong một buổi thảo luận của chúng ta, Ngài có
nói khiêm tốn là một nét tích cực, và nó liên quan ra sao tới việc tu dưỡng tính
kiên nhẫn và khoan dung. Trong khoa tâm lý Tây Phương và văn hóa của chúng tôi
nói chung, dường như khiêm cung không được chú ý tới để phát triển những đức
tính như mức tự trọng và tự tin cao. Thật ra ở Phương Tây, người ta đặt quá
nhiều tầm quan trọng vào những thuộc tính này. Tôi chỉ thắc mắc - Vậy chứ Ngài
có cảm thấy đôi khi người Tây Phương có khuynh hướng nhân mạnh quá mức vào tự
tin, phần nào quá ham mê hay quá say mê?
"Không hẳn vậy" Ngài trả lời, mặc dù đề tài này
có thể là khá phức tạp. Thí dụ, những bậc chân tu là những người đã phát nguyện
hay phát triển quyết tâm loại bỏ tất cả những trạng thái tiêu cực của tâm hầu
mang lại hạnh phúc tối thượng cho tất cả chúng sinh. Họ có tầm nhìn xa và khát
vọng. Điều này cần có ý thức cảm giác tự tin to lớn. Và sự tự tin này rất quan
trọng vì nó cho bạn gan dạ giúp bạn đạt được mục tiêu vĩ đại. Về một ý nghĩa nào
đó, điều này dường như có vẻ là kiêu ngạo, mặc dù không phải trong phương cách
tiêu cực. Nó căn cứ vào những lý do có cơ sở Cho nên, ở đây, tôi có thể coi họ
là rất can đảm- Tôi có thể coi họ là những anh hùng".
"Vậy đối với vị đại đạo sư, cái vẻ kiêu ngạo bề
ngoài chính ra hồ như là loại tự tin và lòng can đảm". Tôi chấp nhận. Nhưng đối
với những người bình thường, trong những hoàn cảnh hàng ngày, lại là điều ngược
lại - một số người có vẻ như rất tự tin và tự trọng nhưng thật ra họ chỉ là
những người rất kiêu ngạo. Tôi hiểu rằng theo Phật Giáo, kiêu ngạo được xếp loại
là một trong những xúc cảm cơ bản gây ra đau khổ. Thật vậy, tôi biết điều đó
theo một hệ thống phân loại, họ liệt kê bảy loại kiêu ngạo khác nhau. Vậy tránh
hay khắc phục kiêu ngạo được coi như rất quan trọng. Nhưng cũng như vậy khi có ý
thực mạnh về tự tin. Đôi khi dường như giữa chúng chỉ có một ranh giới rất nhỏ.
"Làm sao Ngài có thể phân biệt được chúng để
trau dồi cái này và giảm thiểu cái kia?"
Ngài thừa nhận, "Đôi khi thật là khó phân biệt
giữa tự tin và kiêu ngạo, có lẽ chỉ có một cách là xem liệu nó có cơ sở hay
không. Người có thể ý thức thấy mình hơn hẳn ai đó rất có cơ sở hoặc rất đứng
đắn, điều đó có thể chứng minh được và điều đó có thể có cơ sở vững chắc. Và
cũng có thể đó là ý thức cái ta được thổi phồng hoàn toàn vô căn cứ, thì đó lại
là kiêu ngạo. Vấy nói theo tình trạng hiện tượng, chúng có vẻ giống nhau. "Nhưng
một người kiêu ngạo luôn luôn cảm thấy mình có một cơ sở vững vàng về .."
Đức Đạt Lai Lạt Ma công nhận, "Phải, phải"
Tôi lại hỏi, "Vậy làm sao Ngài có thể phân biệt
được?"
"Tôi nghĩ đôi khi chúng ta chỉ có thể phán xét
bằng hồi tưởng hoặc bởi cá nhân đó hoặc từ cái nhìn của người thứ ba. Đức Đạt
Lai Lạt Ma ngưng lại rồi nói đùa, " Có thể người ấy phải ra tòa án để tìm ra có
phải đó là trường hợp tự cao hay kiêu ngạo không! Ngài cười.
Ngài tiếp, "Muốn phân biệt tính tự cao tự đại và
lòng tự tin đứng đắn, ta có thể nghĩ đến hậu quả về thái độ của người đó - tự
phụ và kiêu ngạo thường dẫn đến những hậu quả tiêu cực trong khi lòng tự tin
lành mạnh đem đến những hậu quả tích cực hơn nhiều. Do đó khi đề cập về tự tin,
bạn cần nhìn xem cái gì là ý nghĩa tiềm ẩn của "cái tôi". Theo tôi ta có thể
chia thành hai loại. Ý thức về bản thân hay "cái tôi" chỉ quan tâm đến đáp ứng
quyền lợi bản thân, đến ham muốn ích kỷ của chính mình, và hoàn toàn không đếm
xỉa đến phúc lợi của người khác. Một kiểu cái tôi khác hay ý thức về bản thân
dựa vào mối quan tâm chân thành vì người khác và khao khát được giúp ích. Để
thực hiện ước muốn giúp ích, ta cần có ý thức mạnh về bản thân, ý thức tự tin.
Loại tự tin này dẫn đến những kết quả tích cực."
Tôi nhận xét, "Trước đây Ngài có đề cập đến cách
giảm bớt kiêu ngạo hay hãnh diện, nếu thừa nhận kiêu ngạo là xấu và mong muốn
khắc phục nó thì phải suy ngẫm về nỗi đau khổ của con người - suy nghĩ đến tất
cả các cách mà bạn bị hay dễ bị đau khổ và vân vân... Ngoài cách suy ngẫm về nỗi
đau khổ của con người, còn có những kỹ thuật nào khác hay thuốc giải độc đối với
kiêu ngạo nữa không?
Ngài nói, "Có một cách giải độc là nghĩ đến tính
đa dạng của việc rèn luyện trí óc mà bạn có thể không biết. Thí dụ như trong hệ
thống giáo dục tiên tiến, có rất nhiều môn học. Vậy nghĩ xem biết bao nhiêu lãnh
vực mà bạn không biết, nghĩ như vậy bạn sẽ khắc phục được tính kiêu ngạo.
Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại và nghĩ rằng đó là tất cả những gì Ngài muốn nói
về đề tài này, tôi nhìn vào quyển sổ ghi chép rồi chuyển sang đề tài mới. Đột
nhiên Ngài lại nói với giọng đầy suy tư, "Bạn biết không, chúng ta đang nói về
việc phát triển lòng tự tin lành mạnh.. Tôi nghĩ rằng sự thành thật và tự tin
có liên hệ chặt chẽ với nhau". Tôi hỏi, "Ý Ngài muốn nói về thành thực với
chính mình về khả năng của chính mình, hay ý Ngài muốn nói thành thật với người
khác?"
Ngài trả lời, "Cả hai, bạn càng thành thật, càng
cởi mở thì bạn càng ít sợ, vì không có lo lắng gì khi phơi bầy hay bộc lộ với
người khác. Do đó tôi nghĩ càng thành thật lại càng tự tin".
Tôi nói, "Tôi muốn biết thêm một chút về sự đối
trị với vấn đề tự tin của chính bản thân Ngài? Ngài nói dường như nhiều người
đến yêu cầu Ngài làm phép lạ. Dường như họ đã đặt nhiều áp lực cho Ngài và có
nhiều mong muốn nơi Ngài. Cho dù Ngài có một động cơ căn bản chính đáng, việc
này không làm cho Ngài cảm thấy thiếu tin tưởng về khả năng của Ngài hay sao?"
"Ở đây, tôi nghĩ rằng bạn nên nhớ khi nói đến
'thiếu lòng tin' hay có 'lòng tin' liên quan đến một hành động đặc biệt nào đó
hay có thể là bất cứ cái gì. Để nói rằng bạn thiếu lòng tin trong việc gì đó, có
nghĩa là hồ như bạn tin mình có thể làm được., nghĩa là nói chung trong phạm vi
của bạn. Và rồi tuy nằm trong khả năng của bạn, bạn lại không thể làm, bạn bắt
đầu cảm thấy, "Ồ, có lẽ tôi không đủ sức hay tài giỏi để làm việc đó hay cái gì
đó theo hướng ấy ". Tuy nhiên với tôi, tôi biết tôi không làm được phép lạ -
điều đó không dẫn đến mất lòng tin vì ngay từ đầu, tôi không bao giờ tin rằng
tôi có khả năng này. Tôi không cho rằng tự mình có thể hoàn thành những nhiệm vụ
như những Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ - mình có thể biết mọi thứ có thể làm
đúng bất cứ điều gì và bất cứ lúc nào. Do đó, khi người ta đến với tôi để xin
chữa bệnh hay thi triển phép lạ hay những thứ như vậy, thay vì làm cho tôi thiếu
lòng tin thì tôi chỉ cảm thấy lúng túng mà thôi.
"Tôi nghĩ
rằng, nói chung, thành thật với mình và người về những điều mình có thể làm hay
không thể làm được, có thể chống lại cảm nghĩ thiếu lòng tin".
Nhưng, thí dụ, hiện nay trong việc đối phó với
Trung Quốc, đôi khi tôi cảm thấy thiếu tự tin. Nhưng tôi luôn luôn tham khảo
tình thế với các quan chức và trong một số trường hợp với những người không phải
là quan chức. Tôi hỏi ý kiến và bàn thảo với bạn tôi. Vì nhiều quyết định được
thực hiện trên cơ sở thảo luận với nhiều người khác nhau không hấp tấp vội vàng,
nên bất cứ quyết định nào đã được tiến hành, làm cho tôi đủ tin, không có lý do
hối tiếc trong việc đã làm.
Không sợ hãi và đánh giá mình một cách thành
thật có thể là một vũ khí mạnh mẽ chống lại sự tự ngờ vực và thiếu tự tin. Đức
Đạt Lai Lạt Ma tin rằng loại thành thật này có thể làm thuốc giải độc cho những
tâm trạng tiêu cực đã được thực sự xác nhận bởi một số những nghiên cứu gần đây
cho thấy rõ ràng là những người có quan điểm thực tế và đứng đắn về mình có
khuynh hướng cầu thị và có lòng tin hơn những người ít tự biết về mình hoặc biết
không đúng về mình.
Qua nhiều năm, tôi thường được chứng kiến Đức
Đạt Lai Lạt Ma minh họa lòng tự tin bắt nguồn từ tính thành thật và ngay thẳng
về khả năng của một người. Thật quá kinh ngạc khi lần đầu tiên nghe Ngài nói một
cách đơn giản, "Tôi không biết" trước một số đông cử tọa để trả lời một câu hỏi.
Không giống như những điều tôi thường thấy ở những giảng viên đại học hay ở
những người cho mình là có thẩm quyền, Ngài đã nhận là mình thiếu kiến thức mà
không hề lúng túng, không cần nói rõ hơn về những lời phát biểu hay giả vờ mình
biết đây bằng cách nói quanh co.
Thực tế hình như Ngài rất thích thú trước câu
hỏi khó khăn mà không có câu trả lời và thường hay nói đùa về việc này. Thí dụ
như, vào một buổi chiều ở Tuscon, Ngài đang bình luận về một câu kệ của
Shantideva trong cuốn "Hướng dẫn về Lối Sống của Bồ Tát" có lý luận rất
phức tạp. Sau một lúc cố gắng, Ngài thấy lộn xộn, bèn phá lên cười và nói rằng:
"Tôi thấy lộn xộn! tốt hơn là bỏ lại, không bàn luận nữa. Bây giờ đến bài kệ
tiếp..." Để đáp lại tiếng cười tán thưởng từ phía khán giả, Ngài con cười lớn
hơn nữa và nói rằng, " Có một cách diễn đạt gần giống điều này. Cách diễn đạt đó
giống như người già ăn uống - người già thì răng long - Cho nên cái gì mềm thì
ăn, còn cái gì cứng thì bỏ". Vẫn còn cười Ngài tiếp tục, " Vậy ngày hôm nay
chúng ta bỏ cái đó lại". Ngài chẳng bao giờ nao núng vào lúc ấy nhờ lòng tin
tuyệt đối của mình.
NGHĨ VỀ TIỀM NANG CỦA CHÚNG TA NHƯ THUỐC GIẢI
CHO SỰ THÙ HẬN BẢN THÂN
Trong chuyến đi Ấn Độ vào năm 1991, hai năm
trước chuyến viếng thăm Arizona của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi có được gặp Ngài một
lần tại tư gia ở Dharamsala. Tuần lễ ấy Ngài có buổi họp hàng ngày với một nhóm
các khoa học gia, thầy thuốc, bác sĩ tâm lý, và giảng viên về thiền xuất xắc Tây
Phương để tìm cách khám phá mối liên hệ giữa cơ thể và tinh thần và tìm hiểu sự
liên quan giữa kinh nghiệm xúc cảm và sức khỏe của cơ thể. Tôi gặp Đức Đạt Lai
Lạt Ma vào buổi xế chiều, sau một trong những cuộc gặp gỡ với các khoa học gia.
Vào cuối buổi phỏng vấn, Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi tôi, "Ông biết tuần này tôi đang
gặp gỡ các khoa học gia?"
"Vâng tôi có biết..." "Có điều này tôi thấy rất
ngạc nhiên. Đó là khái niệm 'thù ghét bản thân mình'! ông có thấy quen thuộc với
khái niệm này không?"
"Rất quen; khá nhiều bệnh nhân của tôi đau khổ
về chứng này".
"Khi họ nói về điều này, mới đầu tôi không chắc
có hiểu đúng hay không."
Ngài cười và nói, "Tôi nghĩ : -'dĩ nhiên chúng
ta yêu chính mình! Sao lại có người ghét bản thân mình?' Mặc dù tôi nghĩ rằng
mình hiểu tinh thần hoạt động như thế nào, nhưng ý nghĩ ghét mình quả thật hoàn
toàn mới đối với tôi. Lý do tại sao tôi không thể tin được vì người Phật Tử tu
tập chăm chỉ cố gắng khắc phục thái độ cho mình là trung tâm, tư tưởng và động
cơ ích kỷ. Từ quan điểm này, tôi nghĩ chúng ta thương yêu trìu mến bản thân mình
quá nhiều. Vậy nghĩ đến khả năng không thương yêu chính mình mà lại còn ghét
chính mình, thì quả thật không thể tin được. Là bác sĩ tâm lý ông có thể nào
giải thích về khái niệm này, tại sao nó lại xẩy ra?"
Tôi diễn tả ngắn gọn cho Ngài nghe quan niệm tâm
lý về vấn đề thù ghét bản thân nẩy sanh ra sao. Tôi giải thích hình ảnh bản thân
chúng ta được hình thành bởi cha mẹ và cách nuôi dưỡng như thế nào; chúng ta đã
tập nhiễm những thông điệp ẩn tàng về mình từ cha mẹ trong khi lớn lên và phát
triển ra sao, và tôi phác qua hoàn cảnh đặc biệt tạo nên hình ảnh bản thân tiêu
cực. Tôi đi vào chi tiết những nhân tố làm tăng sự thù hận chính mình, như cách
hành xử của chúng ta không xứng đáng hình ảnh lý tưởng về bản thân và miêu tả
một vài khía cạnh mà hận thù bản thân được nặng thêm vì văn hóa, đặc biệt ở một
số phụ nữ và dân tộc thiểu số. Trong khi tôi bàn luận về những điều này, Đức Đat
Lai Lạt Ma tiếp tục gật đầu suy tư với vẻ mặt khó hiểu như thể Ngài vẫn thấy khó
hiểu khái niệm mới lạ lùng này.
Groucho Marx có lần châm biếm, "Tôi không bao
giờ gia nhập bất cứ câu lạc bộ nào mà có tôi là thành viên". Để mở rộng loại
quan niệm bản thân tiêu cực này thành nhận xét về bản chất con người, Mark Twain
nói, " Thực ra trong thấm tâm, chẳng có ai tôn trọng mình tý nào ". Và
lấy quan điểm bi quan về con người này và hợp nó thành lý thuyết tâm lý của
mình, nhà tâm lý học nhân văn Carl Rogers, đã từng nói, "Hầu hết con người đều coi thường bản thân mình, cho mình
là vô giá trị và không đáng yêu thương".
Có một khái niệm rất phổ biến trong xã hội chúng
ta, được chia sẻ bởi hầu hết các bác sĩ tâm lý đương đại là thù hận bản thân
đang lan tràn trong văn hóa Tây Phương. Trong khi điều này chắc chắn đang tồn
tại thì may thay nó không lan tràn như nhiều người tin tưởng. Chắc chắn nó là
vấn đề chung trong số những người cần được chữa trị, nhưng đôi khi các bác sĩ
tâm lý ở phòng khám lại có một cái nhìn lệch lạc, có khuynh hướng dựa trên nhận
xét tổng quát về bản chất con người áp dụng cho một số ít người bước vào văn
phòng của họ. Hầu hết các dữ kiện đều dựa trên thí nghiệm, tuy nhiên xác minh
được sự việc có thật là người ta có khuynh hướng (hay ít ra cũng muốn) nhìn mình
trong ánh sáng đẹp đẽ, tự đánh giá mình "trên trung bình" trong hầu hết các cuộc
thăm dò ý kiến về những đức tính chủ quan và đáng có về mặt xã hội.
Như vậy, mặc dầu thù hận bản thân có thể không
phổ biến như người ta tưởng, nó vẫn là một chướng ngại lớn cho nhiều người. Tôi
ngạc nhiên trước phản ứng của Đức Đạt Lai Lạt Ma về khái niệm thù hận bản thân.
Chỉ cần phản ứng đầu tiên của Ngài thôi cũng đủ thấy rõ ràng và chữa bệnh.
Có hai điểm liên quan đến phản ứng đáng lưu ý
của Ngài bảo đảm cho sự phân tích. Điểm thứ nhất thật đơn giản là Ngài không
quen với sự tồn tại của thù hận bản thân. Mặc nhiên công nhận ngầm thù hận là
một vấn đề lan tràn của con người dẫn đến cảm giác ân tượng rằng đó là một đặc
tính thấm căn cố đế trong tâm trí con người. Nhưng sự thực không ai nghe thấy có
trong mọi nền văn hóa, trong trường hợp này là văn hóa Tây Tạng, đã mạnh mẽ nhắc
nhở chúng ta đây chính là tình trạng rối loạn tinh thần, giống như tất cả những
tình trạng tinh thần tiêu cực khác mà chúng ta đã thảo luận, nó không phải là
phần nội tại trong tâm trí con người. Nó không phải là điều ta có từ lúc
sinh ra, không phải là điều mà ta bị dồn cho, cũng không phải là đặc điểm không
thể tẩy xóa được khỏi bản tính của chúng ta. Ta có thể loại bỏ nó được. Chỉ nhận
thức này thôi có thể làm yếu đi sức mạnh của nó, cho chúng ta hy vọng, và gia
tăng quyết tâm loại trừ nó.
Điểm thứ hai liên quan đến phản ứng đầu tiên của Đức Đạt Lai Lạt Ma là câu
trả lời của Ngài: "Ghét mình ư? Dĩ nhiên chúng ta yêu bản thân mình". Đối với
một số người bị bị khổ vì hận thù bản thân hay biết ai đó có chứng bệnh giống
như vậy, thì câu trả lời này thoạt đầu nghe có vẻ ngấy thơ lạ thường. Nhưng khi
xét kỹ, ta thấy có một sự thật sâu sắc trong câu trả lời của Ngài. Tình thương
yêu rất khó định nghĩa, và có thể có nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng có một
định nghĩa có lẽ là loại tình yêu trong sáng, được tán dương nhiều nhất, đó là
ước mong dứt khoát, tuyệt đối và hoàn toàn vì hạnh phúc của một người khác. Đó
là sự mong muốn chân thành vì người khác được hạnh phúc dù rằng có làm thương
tổn chúng ta hay dù ta có thích người đó hay không thích. Từ tận đáy lòng, chắc
chắn là mọi người chúng ta đều mong được hạnh phúc. Vậy nếu định nghĩa về tình
thương yêu dựa trên sự mong ước chân chính vì hạnh phúc cho người thì đúng là
mỗi chúng ta đều mong ước yêu thương cho chính mình. Trong khi điều trị, đôi khi
tôi gặp những trường hợp thù ghét bản thân cực đoan đến nỗi họ tái diễn có ý
định tự tử. Nhưng ngay cả trong trường hợp cực đoan nhất, ý tưởng quyên sinh chủ
yếu là dựa trên mong ước cá nhân (dù là ý nghĩ méo mó hay lầm lạc) để giải thoát
mình khỏi đau khổ chứ không phải gây ra đau khổ.
Vậy có lẽ Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đi tới cái đích
trong niềm tin của Ngài là tất cả chúng ta đều tiềm ẩn lòng thương yêu chính
mình, và ý tưởng này gợi ý một loại thuốc giải độc cực mạnh cho sự thù hận bản
thân: Chúng ta có thể chống lại tư tưởng khinh miệt bản thân bằng cách nhắc nhở
mình dù chúng ta không thích một số tính nết của mình nhiều đến thế nào đi nữa,
thì bên dưới điều đó tất cả chúng ta đều mong mình được hạnh phúc, và đó là loại
tình yêu sâu sắc.
Trong cuộc viếng thăm Dharamsala kế đó, tôi trở
lại vấn đề thù hận bản thân với Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đến lúc đó thì Ngài đã quen
thuộc với khái niệm này và bắt đầu triển khai phương pháp để chiến đấu với nó.
Ngài giải thích, "Theo quan điểm Phật Giáo, ở
trong tình trạng thất vọng một tình trạng chán nản hồ như được coi là cực đoan
rõ ràng là một chướng ngại để thực hiện những bước đi cần thiết nhằm hoàn tất
mục tiêu. Trạng thái thù hận bản thân còn cực đoan hơn chán nản nhiều, và nó có
thể vô cùng nguy hiểm. Với những ai tu tập Phật Giáo, thuốc giải độc cho thù hận
bản thân có thể là suy nghĩ việc có thật là tất cả chúng sinh kể cả chính mình,
đều có Phật tính - hạt giống hay tiềm năng vươn tới sự viên mãn, sự giác ngộ
hoàn toàn cho dù hoàn cảnh hiện tại có yếu kém, nghèo nàn hay thiếu thốn. Vậy
những người tu tập Phật Giáo đau khổ vì thù hận bản thân hay ghê tởm bản thân,
nên tránh suy ngẫm về bản chất đau khổ của cuộc sống hay bản chất bất toại
nguyện tiềm ẩn trong cuộc sống, và thay vì làm như vậy họ nên tập trung nhiều
hơn nữa vào những khía cạnh tích cực của cuộc sống, như hiểu rõ về tiềm năng to
lớn nằm trong bản thân của mỗi con người. Và bằng cách suy nghĩ về những cơ hội
và tiềm năng này, họ có thể gia tăng cảm giác giá trị và lòng tự tin vào chính
mình.
Nêu lên câu hỏi thông thường từ cái nhìn của một
người không phải là Phật Tử, tôi hỏi, "Vậy thì cái gì có thể là thuốc giải độc
cho một người chưa bao giờ biết đến khái niệm Phật Tính hay một người không phải
là Phật Tử?"
"Một điểm chung mà ta có thể vạch ra cho những
người đó là chúng ta có phước được làm người với trí thông minh tuyệt vời. Trên
hết, tất cả mọi người có khả năng quyết tâm và hướng ý thức quyết tâm vào bất cứ
chiều hướng nào mình muốn. Không có gì ngờ vực về điều đó cả. Cho nên là giữ
được ý thức về những tiềm năng này và luôn luôn nhắc nhở mình cho đến khi ý thức
này trở thành một phần trong thói quen nhận thức về chúng sinh - gồm cả chính
mình - thì điều này sẽ giúp họ giảm thiểu cảm nghĩ chán nản, bất lực và tự khinh
miệt mình". Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại một chút rồi tiếp tục với giọng như
thăm dò nói lên Ngài đang tích cực tìm kiếm và tiếp tục tiến trình khám
phá.
"Tôi nghĩ rằng chỗ này có một phần nào giống với
cách chúng tôi trị bệnh. Khi bác sĩ trị bệnh cho bệnh nhân, không những họ cho
bệnh nhân uống thuốc kháng sinh trong những trường hợp đặc biệt, mà họ còn phải
chắc chắn rằng với tình trạng sức khỏe của bệnh nhân như vậy có thể uống được
thuốc kháng sinh và chịu đựng được thuốc này. Vậy muốn bảo đảm như vậy, bác sĩ
phải chắc chắn rằng bệnh nhân đủ dinh dưỡng và đôi khi còn cho uống thêm sinh tố
hay thuốc bồi dưỡng cơ thể. Nếu bệnh nhân có sức khỏe tiềm ẩn trong thân, thì có
tiềm năng hay khả năng trong thân thể để hồi phục nhờ thuốc men. Tương tự như vậy, nếu chúng ta biết và duy trì ý thức là
chúng ta có món quà tuyệt vời của trí thông minh và khả năng phát triển quyết
tâm và sử dụng chúng một cách tích cực, trong một ý nghĩa nào đó, chúng ta có
sức khỏe tinh thần tiềm ẩn. Sức mạnh tiềm ẩn đến từ sự nhận thức chúng ta có
tiềm năng vĩ đại.của con người Sự nhận
thức này hồ như có thể thực hiện vai trò của một cơ cấu gắn liền nhằm đối trị
với bất cứ khó khăn nào, dù tình trạng phải đương đầu ra sao, không mất hy vọng
hay chìm đắm trong thù hận bản thân. Tự nhắc mình những phẩm tính cao quý mà ta
chia sẻ với tất cả chúng sinh làm mất tác dụng của việc cứ nghĩ cho rằng mình
xấu hay không xứng đáng. Nhiều người Tây Tạng thực hành điều này trong việc hành
thiền thường nhật. Có lẽ đó là lý do tại sao thù hận bản thân không bao giờ có
trong nền văn hóa Tây Tạng.
-ooOoo-