PHẦN IV
VƯỢT QUA CÁC CHƯỚNG
NGẠI
-ooOoo-
CHƯƠNG 12
ĐƯỜNG DẪN ĐẾN QUÁ TRÌNH THAY ĐỔI
QUÁ TRÌNH THAY ĐỔI
"Chúng ta đã thảo luận về khả năng hạnh phúc
bằng cách tiến tới loại bỏ cách hành xử và trạng thái tâm tiêu cực của chúng ta.
Nói chung, cái gì là phương pháp đạt được hạnh phúc để vượt qua những ứng xử
tiêu cực và có những thay đổi tích cực trong đời sống của con người?" Tôi hỏi.
Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời, "Bước đầu
tiên liên quan đến học tập, giáo dục.
"Trước đây, tôi có nói đến tầm quan trọng của
học tập..."
"Có phải Ngài muốn nói về sự quan trọng của sự
hiểu biết về những cảm xúc và hành xử tiêu cực tai hại đến thế nào cho sự theo
đuổi hạnh phúc và những cảm xúc tích cực lại rất hữu ích ra sao?
"Phải. Nhưng trong lúc thảo luận về con đường
dẫn đến những thay đổi tích cực của chính mình, thì học tập là bước đi đầu tiên.
Cũng có những nhân tố khác như: niềm tin chắc, quyết tâm, hành động, và nỗ lực.
Vậy bước kế tiếp là phát triển niềm tin chắc. Học tập và giáo dục rất
quan trọng vì chúng giúp người ta phát triển niềm tin chắc về nhu cầu cần thay
đổi và giúp tăng cường trách nhiệm của con người. Niềm tin chắc muốn thay đổi sẽ phát triển thành quyết
tâm. Kế tiếp, ta biến quyết tâm thành hành
động - quyết tâm mạnh mẽ muốn thay đổi
khiến chúng ta có nỗ lực bền bỉ để thực hiện những thay đổi thực tế.
Nhân tố nỗ lực cuối cùng này có tính chất
quyết định.
"Cho nên, thí dụ, nếu bạn muốn không hút thuốc
nữa, trước tiên bạn phải ý thức là hút thuốc có hại cho cơ thể. Bạn phải được
dạy dỗ. Tôi nghĩ, chẳng hạn, sự thông tin và giáo dục công chúng về hậu quả tai
hại của hút thuốc để thay đổi hành động của con người, tôi nghĩ rằng ngày nay
một số người hút thuốc tại các nước Phương Tây ít hơn ở các nước cộng sản như
Trung Hoa vì sự hiệu lực của thông tin. Nhưng chỉ học không thôi chưa đủ. Bạn
phải tăng cường ý thức đó cho đến khi tiến tới tin chắc về những hậu quả tai hại
của hút thuốc. Điều này củng cố sự quyết tâm thay đổi. Cuối cùng, bạn phải nỗ
lực lập kiểu thói quen mới. Đấy là con đường mà thay đổi và sự biến đổi nội tâm
xẩy ra trong mọi sự việc, bất cứ vấn đề gì mà bạn đang cố hoàn thành.
"Giờ đây, dù bạn đang tìm cách thay đổi hành vi
nào, dù bạn đang hướng nỗ lực vào bất cứ mục tiêu đặc biệt nào hay hành động
nào, bạn cần phải bắt đầu bằng cách phát triển một sự sẵn sàng mạnh mẽ hay mong
ước làm việc đó. Bạn cần phải có lòng nhiệt tình to lớn. Và ở đây, ý thức cấp bách là nhân tố chủ
chốt. Ý thức cấp bách này là một nhân tố
mạnh mẽ giúp bạn vượt qua các khó khăn. Thí dụ, kiến thức về những hậu quả
nghiêm trọng của bệnh AIDS đã tạo ra một ý thức cấp bách đã ngăn chặn hoạt động
tình dục của nhiều người. Tôi nghĩ rằng, thường khi bạn nhận được thông tin xác
đáng, thì ý thức về tính chất nghiêm trọng và cam kết sẽ tới.
"Vì vậy ý thức cấp bách này có thể là một nhân
tố quan trọng đem lại sự thay đổi. Nó sẽ cho chúng ta nguồn sinh lực to lớn. Ví
dụ trong một biến động chính trị, nếu có một ý nghĩ tuyệt vọng, sẽ có có một ý
thức cấp bách to lớn - đến nỗi người ta quên cả đói, và không có cảm gì mệt mỏi
hay kiệtsức trong việc theo đuổi mục tiêu của họ.
"Ý nghĩa quan trọng của sự cấp bách không chỉ áp
dụng để vượt khó khăn ở mức độ cá nhân, mà cón còn ở mức độ cộng đồng và toàn
cầu. Khi tôi ở St Louis, tôi gặp ông thống đốc. Tại đây, nạn lụt nặng nề mới xẩy
ra. ông thống đốc cho tôi biết khi lụt mới xẩy ra, ông rất quan ngại về tính
chất chủ nghĩa cá nhân của xã hội, có thể dân chúng không mấy góp phần hợp tác,
họ có thể không cam kết dân thân vào nỗ lực phối hợp và cộng tác này. Nhưng khi
việc khủng hoảng xẩy ra, ông hết sức sửng sốt bởi sự đáp ứng của dân chúng. Dân
chúng hết sức hợp tác và dân thân vào nỗ lực phối hợp ứng phó với những vấn đề
lụt khiến ông hết sức cảm kích. Cho nên theo tôi, điều này cho thấy muốn đạt
được mục tiêu quan trọng, chúng ta cần một sự đánh giá cao ý thức cấp bách,
giống như trường hợp này, cơn nguy cấp bách đến nỗi dân chúng tự động tham gia
các lực lượng và phản ứng nhanh lúc nguy kịch Bất hạnh thay, "ông nói một cách
buồn bã, "thường thường chúng ta không có ý thức cấp bách đó".
Tôi hết sức ngạc nhiên nghe thấy ông nhân mạnh
sự quan trọng của ý thức cấp bách căn cứ vào ân tượng sâu sắc của người Tây
Phương. Về thái độ "Mặc kệ nó " của người Á Châu sinh ra bởi tin rằng có nhiều
kiếp sống, nếu bây giờ không xẩy ra, thì bao giờ cũng xẩy ra vào lần kế tiếp.
"Nhưng rồi câu hỏi làm sao Ngài có thể phát
triển ý thức nhiệt tình mạnh mẽ để thay đổi hoặc ý thức cấp bách trong đời sống
hàng ngày? Có một con đường đặc biệt nào của Phật Giáo giải quyết vấn đề không?"
Tôi hỏi Ngài.
"Đối vói những người hành trì Phật Giáo, có
nhiều kỹ thuật được dùng để tạo ra lòng nhiệt tình". Đức Đạt Lai Lạt Ma trả
lời." Muốn sản sinh lòng tin và lòng nhiệt tình chúng ta tìm thấy trong kinh
điển Phật Giáo cuộc thảo luận về tính quý báu của đời sống con người. Chúng ta
nói về bao nhiêu tiềm năng nằm trong phạm vi cơ thể, ý nghĩa của nó như thế nào,
những mục đích thiện mà nó có thể được sử dụng lợi ích và thuận lợi có hình dạng
con người, vân vân... Và những cuộc thảo luận này là để thấm nhuần lòng tin cậy
và lòng can đảm và dem lại ý thức cam kết sử dụng thân người của ta một cách
tích cực.
"Rồi, muốn sản sinh ý thức cấp bách góp phần vào
việc tu tập tinh thần, người hành trì phải nhớ đến vô thường, cái chết. Khi
chúng ta nói đến vô thường trong phạm vi này là chúng ta đang nói bằng ngôn ngữ
rất thông thường, không phải về khía cạnh huyền ảo của quan niệm vô thường. Nói
một cách khác, chúng ta phải nhớ rằng một ngày nào đó, chúng ta sẽ không còn ở
đây nữa. Loại hiểu biết đó, sự nhận thức vô thường đó được khuyến khích, cho nên
khi nó đi đôi với sự đánh giá cao về tiềm năng to lớn của đời sống con người, nó
sẽ cho ta ý thức về sự cấp bách mà chúng ta phải sử dụng trong mọi giờ
phút."".
"Suy tưởng về vô thường và cái chết của chúng ta
dường như là một kỹ thuật mạnh" Tôi nhận xét, " giúp thúc đẩy ta, phát triển ý
thức cấp bách đem lại những sự thay đổi tích cực. Kỹ thuật này có thể sử dụng
cho người không phải Phật Tử được không?
"Tôi nghĩ rằng ta có thể nên cẩn thận trong việc
áp dụng những kỹ thuật khác nhau cho người không phải là Phật Tử." Ngài nói một
cách suy tư." Có lẽ có thể áp dụng nhiều hơn trong sự tu tập Phật Giáo: "Rút
Cuộc".. Ngài cười, " ta có thể sử dụng sự suy tưởng đúng là cho mục tiêu trái
ngược- "Ồ, không cần gì bảo đảm là ngày mai tôi còn sống, cho nên tốt hơn là tôi
nên có nhiều điều vui hôm nay!"
"Ngài có gợi ý gì cho người không phải là Phật
Tử, cách phát triển ý thức cấp bách?"
Ngài trả lời, "Như tôi đã lưu ý, đó là chỗ có
thông tin và giáo dục dồi dào. Thí dụ, trước khi tôi gặp một số chuyên gia hay
các nhà chuyên môn, tôi không có ý thức gì về khủng hoảng môi sinh. Nhưng một
khi tôi gặp họ rồi, và họ giảng giải những vấn đề mà chúng ta đang đối mặt, thì
tôi nhận thức được tính nghiêm trọng của tình hình. Điều này cũng có thể áp dụng
cho những vấn đề khác mà chúng ta phải đối đầu.
"Nhưng đôi khi, dù có tin tức, chúng ta vẫn
không có nghị lực để thay đổi. Làm sao ta có thể vượt qua được?" Tôi hỏi Ngài.
Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng một chút để suy nghĩ rồi nói, " Tôi nghĩ ở đây chúng
ta có nhiều loại khác nhau. Một loại có thể phát sinh từ một số nhân tố sinh
học, nhân tố này có thể gây ra tính lãnh đạm hay thiếu nghị lực. Khi nguyên nhân
là tính lãnh đạm hay thiếu nghị lực do nhân tố sinh học, ta cần phải tác động
vào lối sống của ta. Cho nên, nếu ta cố gắng ngủ cho đủ, ăn uống điều độ, không
uống rượu, vân vân.., những điều ấy làm cho đầu óc ta sáng suốt hơn. Trong một
số trường hợp, ta cũng cần đến thuốc men hay những vật lý trị liệu nếu nguyên
nhân là do bệnh tật. Nhưng có một loại lãnh đạm hay lười biếng khác - loại này
phát sinh do nhược điểm của tâm..."
"Phải, chính là loại mà tôi đề cập tới"
"Muốn vượt qua loại lãnh đạm này, và tạo ra sự
cam kết và lòng nhiệt tình là để khắc phục cách hành xử hay tâm trạng tiêu cực,
tôi nghĩ phương pháp hiệu quả nhất, và có lẽ giải pháp duy nhất là luôn luôn ý
thức những hậu quả phá hoại của hành xử tiêu cực. Ta cần phải luôn nhắc nhở mình
về những hậu quả phá hoại ấy.
Những lời nói của Đức Đạt Lai Lạt Ma nghe có vẻ
đúng, tôi là một thầy thuốc trị bệnh tâm thần, tôi ý thức sâu xa về số hành xử
tiêu cực và cách suy nghĩ đã trở thành cố hữu nặng như thế nào, khó khăn biết
bao cho một số người để thay đổi. Giả sử là có những nhân tố có động lực tâm lý
dang hoạt động, tôi đã bỏ ra không biết bao nhiêu thì giờ vào quan sát và phân
tích kỹ lưỡng những sự chống đối thay đổi của bệnh nhân. Đắn đo điều này, tôi
hỏi:
"Người ta thường muốn có những sự thay đổi tích
cực trong đời sống, tham gia và những hành động lành mạnh hơn, vân vân... Nhưng
đôi khi hồ như đó chỉ là quán tính hay sự chống lại... Làm sao Ngài có thể giải
thích việc đó xẩy ra như thế nào? "Thật dễ dàng..." Ngài bắt đầu một cách tự
nhiên.
"Dễ dàng?"
"Chính là vì chúng ta hoàn toàn có thói quen hay
làm việc theo một số cách nào đó. Rồi chúng ta phần nào bị hư hỏng, chỉ thích
làm những điều mình muốn làm, những điều mình thường vẫn làm."
"Nhưng làm sao có thể vượt qua được những điều
đó?
"Bằng cách dùng quá trình làm quen với hoàn cảnh
thuận lợi của ta. Do tính quen thuộc liên
tiếp, nhất định chúng ta có thể lập được kiểu hành xử mới. Đấy là một thí dụ: Tại Dharamsala tôi luôn luôn dậy và
bắt đầu làm việc lúc 3:30 sáng, mặc dù tại Arizona, tôi dậy vào lúc 4:30 sáng,
tôi ngủ thêm được một giờ", Ngài cười."Lúc đầu bạn cần phải có chút cố gắng để
tập cho quen, nhưng sau một vài tháng, nó trở thành thường lệ và bạn không cần
phải nỗ lực đặc biệt nữa. Cho nên dù bạn đi ngủ muộn, bạn có thể có khuynh hướng
muốn ngủ thêm ít phút nữa, nhưng bạn vẫn dậy vào lúc 3:30 sáng mà không phải có
một ý định gì đặc biệt cả, và bạn có thể dậy và làm các công việc thường lệ hàng
ngày. Đó là do sức mạnh của thói quen.
"Cho nên, bằng nỗ lực kiên định, chúng ta có thể
khắc phục được bất cứ hoàn cảnh tiêu cực nào và làm những thay đổi tích cực
trong đời sống chúng ta. Nhưng bạn vẫn cần hiểu rằng sự thay đổi thật sự không
thể xẩy ra trong một đêm được. Bây giờ, thí dụ, trường hợp của chính tôi, tôi
cho rằng nếu tôi so sánh tâm trạng bình thường của tôi ngày nay với 20 hay 30
năm trước đây chẳng hạn,rõ ràng là có một sự khác biệt lớn. Nhưng sự khác biệt
này, xẩy ra bước một, tôi bắt đầu học Phật Giáo khoảng năm hay sáu tuổi, nhưng
vào lúc đó tôi không quan tâm gì đến lời Phật dạy, " Ngài cười, "Mặc dầu người
ta gọi tôi là hiện thân cao nhất. Tôi cho rằng không phải cho đến năm tôi khoảng
16 tuổi, tôi mới thực sự có một số cảm giác nghiêm túc nào đó về Phật Giáo. Và
tôi cố gắng bắt đầu tu tập đứng đắn. Rồi qua nhiều năm, tôi bắt đầu phát triển
sự am hiểu sâu xa về những nguyên tắc Phật Giáo, về những cách tu tập, lúc mới
đầu dường như khó có thể thực hành được và hầu như là trái tự nhiên, nhưng rồi
trở nên rất tự nhiên và dễ hiểu. Điều này xẩy ra qua sự làm quen dần dần. Đương
nhiên, tiến trình này đã mất dến hơn 40 năm.
"Cho nên, bạn biết đây, trong thực tế, sự phát
triển tinh thần cần có nhiều thì giờ. Nếu ai đó nói, "Ồ, qua nhiều năm khó nhọc
mọi việc đã thay đổi ", tôi nghiêm chỉnh đồng ý. Có nhiều khó khăn thay đổi là
đúng và lâu dài. Nếu một người nào đó nói 'õ chỉ trong một thời gian ngắn, hai
năm chẳng hạn, đã có một sự thay đổi lớn lao' tôi nghĩ rằng điều đó không thực
tế."
Trong khi con đường thay đổi của Đức Đạt Lai Lạt
Ma là hợp lý không cần phải bàn cãi, có một vấn đề dường như cần phải điều
hòa:
"Ngài đã nói đến sự cần thiết phải có một mức
nhiệt tình và quyết tâm cao độ để biến đổi tâm, để có những thay đổi tích cực.
Nhưng cùng lúc chúng ta thừa nhận sự thay đổi đích thực xẩy ra rất chậm và phải
mất nhiều thì giờ ". Tôi ghi nhận."Khi thay đổi xẩy ra rất chậm chạp, rất dễ trở
nên chán nản. Có bao giờ Ngài cảm thấy chán nản bởi mức tiến bộ chậm chạp về sự
tu tập tinh thần của Ngài hay chán nản ở những lãnh vực khác trong đời sống của
Ngài."
Ngài nói: "Có chứ, chắc chắn có"
Tôi hỏi: "Ngài xử trí với việc ấy ra
sao?"
"Ở một chừng mực nào đó trong việc tu tập tinh
thần của tôi nếu tôi gặp một số trở ngại
hay khó khăn, tôi thấy nó rất hữu dụng để lùi lại và có một quan điểm lâu dài
chứ không phải một quan điểm ngắn hạn.
Về mặt này, tôi thấy nghĩ về một bài kệ đặc biệt cho tôi lòng can đảm và giúp
tôi giữ vững quyết tâm. Cấu kệ ấy như sau:
Chừng nào còn có chỗ tồn tại
Chừng nào còn
chúng sanh
Xin cho tôi được sống
Để xua tan nỗi khổ trên thế gian
này.
"Tuy nhiên, trong chừng mực liên quan đến cuộc
tranh đấu cho tự do của Tây Tạng, nếu tôi sử dụng niềm tin này, những vần thơ
ấy- phải sẵn sàng chờ đợi "hết vạn kỷ này đến vạn kỷ khác ...chừng nào còn có
chỗ tồn tại " và vân vân... thì tôi nghĩ rằng tôi sẽ là kẻ dại dột. Ở đây ta cần
phải dồn hết tâm trí tức khắc và tích cực hơn. Đương nhiên, trong tình trạng
này, sự tranh đấu cho tự do, khi tôi nghĩ về nỗ lực 14 và 15 năm thương lượng mà
không kết quả, khi tôi nghĩ đến 15 năm thất bại, tôi nhiễm một cảm giác nôn nóng
hay nản lòng. Nhưng cảm nghĩ nản lòng này không làm tôi mất can đảm đến mức mất
không hy vọng".
Nhân mạnh vấn đề thêm một chút nữa tôi hỏi Ngài,
"Nhưng đúng ra là cái gì ngăn cản Ngài không mất hy vọng?
"Dù trong tình trạng của Tây Tạng, tôi nghĩ rằng
quan sát tình hình từ một triển vọng rộng hơn, nhất định sẽ có ích. Cho nên,
chẳng hạn tôi nhìn tình hình bên trong Tây Tạng từ một tiển vọng hẹp chỉ tập
trung vào điều đó, rồi thì tình hình có vẻ hầu như vô vọng. Tuy nhiên khi nhìn
từ một triển vọng rộng hơn, nhìn từ triển vọng thế giới, thì tôi thấy tình hình
quốc tế trong đó toàn bộ hệ thống cộng sản và độc tài đang sụp đổ, ngay cả Trung
Hoa cũng có phong trào dân chủ và tinh thần của người Tây Tạng vẫn còn cao. Cho
nên tôi không bỏ cuộc".
Căn cứ vào kiến thức rộng và sự rèn luyện về
triết lý và thiền định Phật Giáo, quả là thú vị thấy Đức Đat Lai Lạt Ma nhận
biết học tập và giáo dục là bước thứ nhất mang đến sự biến đổi bên trong chứ
không phải là sự tu tập tinh thần huyền bí. hay tiên nghiệm. Mặc dù giáo dục
được thừa nhận chung là quan trọng trong việc học tập những kỹ năng mới hay để
bảo đảm công việc nhưng vai trò của giáo dục là một nhân tố chủ yếu để giành
hạnh phúc đã không được mọi người chú ý tới. Tuy nhiên các nghiên cứu ngay cả
giáo dục lý thuyết thuần túy cũng trực tiếp liên kết tới cuộc sống hạnh phúc.
Nhiều cuộc khảo sát đã tìm thấy kết luận là mức giáo dục càng cao đã có mối
tương quan tích cực với sức khỏe càng tốt và sống càng thọ, và thậm chí còn bảo
vệ cá nhân khỏi suy nhược. Trong cố gắng xác định lý do vì sao tác động của giáo
dục có nhiều lợi ích, các khoa học gia đã lý luận là những cá nhân có giáo dục
tốt hơn nhận thức được nhiều hơn về những yếu tố rủi ro xho sức khỏe, có nhiều
khả năng hơn trong việc chọn lựa lới sống lành mạnh hơn, cảm nhận được quyền hạn
được trao và tự trọng hơn, có kỹ năng giải quyết vấn đề tốt hơn, và có những
chiến lược đối phó hiệu nghiệm hơn - tất cả những nhân tố có thể góp phần cho
đời sống hạnh phúc và lành mạnh hơn. Cho nên, nếu chỉ giáo dục lý thuyết đơn
thuần liên hệ đến đời sống hạnh phúc hơn, thì sự học tập và giáo dục mà Đức Đạt
lai Lạt Ma nói mạnh đến như thế nào - giáo dục đặc biệt tập trung vào sự hiểu
biết và thi hành toàn bộ các nhân tố dẫn đến một hạnh phúc trường cửu?
Bước kế tiếp trong con đường thay đổi của Đức
Đạt Lai Lạt Ma đòi hỏi phải tạo ra 'quyết tâm và lòng nhiệt tình'. Bước này cũng
được khoa học hiện đại Tây phương chấp nhận là một nhân tố quan trọng trong việc
đạt mục tiêu của mình. Trong một cuộc nghiên cứu, chẳng hạn, nhà tâm lý học giáo
dục Benjamin Bloom đã khảo sát đời sống của một số người Hoa Kỳ thành đạt như
nghệ sĩ, lực sĩ, và khoa học gia. ông khám phá ra nỗ lực và quyết tâm chứ không
phải tài năng thiên phú dẫn đến thành công trong lãnh vực của mình. Vì trong bất
cứ lãnh vực nào khác, ta có thể cho rằng nguyên tắc này được áp dụng đồng đều
vào nghệ thuật tạo hạnh phúc.
Những nhà khoa học nghiên cứu cách cư xử của con
người đã nghiên cứu sâu rộng cơ cấu đề xướng, duy trì và hướng dẫn những hoạt
động của chúng ta liên quan đến lãnh vực này là việc nghiên cứu "động cơ thúc
đẩy của con người". Những nhà tâm lý học nhận dạng ra ba loại động cơ chính.
Loại thứ nhất, động cơ chính yếu, là nỗ lực căn cứ vào nhu cầu sinh học phải
được đáp ứng để tồn tại. Thí dụ loại này gồm có nhu cầu về thực phẩm, nước và
không khí. Một loại động cơ khác đòi hỏi con người cần phải có sự kích thích và
thông tin. Những nhà điều tra nghiên cứu giả thuyết rằng đó là nhu cầu bẩm sinh,
bắt buộc để trưởng thành, phát triển và hoạt động hệ thống thần kinh. Loại cuối
cùng, gọi là động thứ yếu, là những động cơ căn cứ vào những nhu cầu đòi hỏi có
học vân và những nỗ lực. Những động cơ thứ yếu này liên quan đến nhu cầu cần
phải thành công, có quyền lực, địa vị và thành tích. Ở mức động cơ thúc đẩy này,
hành vi và nỗ lực của ta có thể bị ảnh hưởng bởi những thế lực xã hội và được
định hướng do học tập. Chính trong giai đoạn này, những lý thuyết về tâm lý học
hiện đại trùng hợp với quan niệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma về "quyết tâm và lòng
nhiệt thành". Tuy nhiên trong hệ thống của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tạo ra được nỗ
lực và quyết tâm không chỉ sử dụng để tìm cầu thành công vật chất mà còn để phát
triển khi ta đạt được sự hiểu biết rõ ràng hơn về các nhân tố dẫn đến chân hạnh
phúc và được sử dụng vào các mục tiêu cao hơn như lòng tốt, từ bi, và mở mang
tinh thần.
"Tinh Tân" là nhân tố cuối cùng mang đến về sự
thay đổi. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận dạng tinh tân là một nhân tố cần thiết để
thiết lập điều kiện mới. Thay đổi lối ứng xủ và tư tưởng tiêu cực nhờ điều kiện
mới là ý tưởng không những được đồng quan điểm với tâm lý gia Tây Phương, mà
thực ra còn là nền tảng củapháp điều trị cách ứng xử hiện đại. Loại điều trị này
dựa vào lý thuyết căn bản là phần lớn con người biết tình trạng của họ (cá tính,
lề thói...), và bằng cách đưa ra chiến lược tạo các điều kiện mới, phép điều trị
cách ứng xử chứng tỏ rất hữu hiệu với hàng loạt vấn đề.
Trong khi khoa học mới khám phá ra rằng khuynh
hướng của 'gen' rõ ràng là đóng một vai trò trong cách phản ứng đặc thù trước
việc đời của một cá nhân, hầu hết các nhà khoa học xã hội và các nhà tâm lý học
cảm thấy rằng phần lớn cách ứng xử, suy nghĩ và cảm nhận của con người là do học
tập và điều kiện hoàn cảnh, ấy là do sự dạy dỗ và ảnh hưởng của văn hóa và xã
hội chung quanh chúng ta. Và vì người ta tin rằng cách ứng xử phần lớn được
thiết lập bởi điều kiện tùy thuộc, được củng cố và khuếch đại bởi "thói quen"
đưa đến khả năng như Đức Đạt Lai Lạt Ma khẳng định, phá bỏ các điều kiện có hại
hay tiêu cực và thay thế chúng bằng điều kiện có ích, nâng cao đời sống.
Tinh tân bền bỉ thay đổi cách ứng xử bên ngoài
không những giúp ích cho việc khắc phục những thói xấu mà còn có thể thay đổi
thái độ và cảm nghĩ cơ bản. Những cuộc thử nghiệm cho thấy không những thái độ
và đặc diểm tâm lý của chúng ta quyết định cách ứng xử, một khái niệm thường
được chấp nhận, mà cách ứng xử của chúng ta cũng có thể thay đổi thái độ của
chúng ta. Những nhà nghiên cứu thấy cả đến một cái cau mày, hay nụ cười giả tạo
cũng có khuynh hướng gây nên những cảm xúc giận dữ hay hạnh phúc, điều này có ý
là "trải qua những cảm xúc", và làm đi làm lại trong cách ứng xử tích cực cưối
cùng sẽ mang lại sự thay đổi thật sự ở bên trong. Điều này có thể có những hàm ý
quan trọng trong cách xấy dựng một cuộc sống hạnh phúc hơn của Đức Đạt Lai Lạt
Ma. Nếu chúng ta bắt đầu bằng một hành động đơn giản giúp đỡ thường xuyên người
khác chẳng hạn, dù chúng ta không cảm thấy đặc biệt tử tế hay quan tâm, chúng ta
có thể nhận ra biến đổi bên trong đang xẩy ra, khichúng ta dần dà phát triển từ
bi đích thực.
MONG ƯỚC THỰC TẾ
Để dem lại sự biến đổi và thay đổi đích thực bên trong, Đức Đạt Lai Lạt Ma
nhân mạnh đến tầm quan trọng của sự tinh tân bền bỉ. Đó là một tiến trình diễn
tiến từng bước một. Điều này trái ngược hẳn lại với sự nẩy nở của các "kỹ thuật
và phép chữa trị tự lực sửa sang nhanh' trở nên quá đại chúng trong văn hóa Tây
Phương trong những thập niên gần đây... những kỹ thuật từ "xác nhận tích cực"
đến "khám phá đứa con bên trong của bạn".
Phương pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma cho thấy sự
phát triển và trưởng thành chậm. Ngài tin tưởng vào sức mạnh to lớn của tâm thấm
chí đến mức vô hạn - nhưng đó là tâm đã được huân luyện có hệ thống, được nhắm
đúng hướng và tập trung, tâm được tôi luyện bằng nhiều năm kinh nghiệm và biết
suy luận. Phải mất nhiều thời gian lâu mới làm cho cách ứng xử và thói quen của
tâm góp phần vào những vấn đề của chúng ta. Cũng phải mất nhiều thời gian tương
đương để thiết lập những thói quen mới đem lại hạnh phúc. Không có gì ngoài các
thành tố thiết yếu này: quyết tâm, tinh tân và thời gian. Đấy là những bí quyết
thực sự của hạnh phúc.
Khi đã dân thân trên con đường thay đổi, điều
quan trọng là đề ra những mong ước hợp lý. Nếu những mong ước quá cao tự chúng
ta sẽ thất vọng. Nếu mong ước quá thấp, ta dễ dàng chấp nhận giới hạn của chúng
ta và không sẵn sàng vươn tới tiềm năng thực sự của chúng ta.Sau cuộc đàm luận
về tiến trình thay đổi, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích:
"Không bao giờ bạn nên bỏ qua tầm quan trọng
phải có một thái độ thực tế - phải nhậy cảm và tôn trong tình hình thực tế cụ
thể của bạn trong khi bạn trên con đường tiến tới mục tiêu tối hậu. Công nhận
những khó khăn cố hữu trên con đường của bạn, và sự thật nó đòi hỏi phải mất thì
giờ và tinh tân bền bỉ. Quan trọng là phải nhớ phân biệt tâm giữa lý tưởng và
tiêu chuẩn để đánh giá sự tiến bộ của bạn. Chẳng hạn là một Phật Tử, bạn đặt lý
tưởng rất cao : giác ngộ viên mãn là mong ước tối hậu của bạn.Tin rằng giác ngộ
viên mãn là thành tựu lý tưởng không phải là một cực đoan. Nhưng mong ước đạt
được nhanh chóng, ngay tại chỗ trở thành cực đoan. Dùng điều đó làm tiêu chuẩn
cho lý tưởng bạn trở nên chán nản và hoàn toàn mất hy vọng khi không nhanh chóng
đạt được giác ngộ. Cho nên bạn cần các phương pháp thực tế. Mặt khác nếu bạn
nói, "Tôi sẽ tập trung ngay bây giờ, đó là điều thiết thực, và tôi không cần
quan tâm đến tương lai hay cuối cùng đạt được chủ yếu Phật Quả" thì đó lại là
một cực đoan khác. Cho nên chúng ta cần tìm ra cách giải quyết ở khoảng giữa.
Chúng ta cần tìm ra thế quân bình. "Xử lý vấn đề mong ước thực ra là một vấn đề
phức tạp. Nếu bạn có những mong muốn thái quá mà không có nền móng chính đáng,
thì nó thường dẫn đến có vấn đề Mặt khác, không có mong ước và hy vọng, không có
khao khát thì không có tiến bộ. Một số hy vọng rất cần thiết. Cho nên tìm thế
quân bình thích đáng không phải là dễ dàng. Ta phải suy xét tình hình ngay tại
chỗ".
Tôi vẫn còn có những sự nghi ngờ dai dẳng mặc dù
dứt khoát chúng ta có thể sửa chữa một số lối ứng xử và thái độ tiêu cực nếu đủ
thời gian và tinh tân, thực ra có thể loại bỏ được những xúc cảm tiêu cực tới
mức độ nào? Nói với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi bắt đầu: "Chúng ta có nói đến đến
smột thực tế là hạnh phúc cơ bản tùy thuộc vào việc loại bỏ cách ứng xử và tình
trạng tinh thần tiêu cực - như giận dữ, sân hận, tham lam và vân vân..."
Đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu.
"Nhưng những loại cảm xúc ấy dường như là một
phần tự nhiên thuộc bản chất tâm lý. Tất cả con người đều kinh qua những cảm xúc
xấu ấy ở mức độ này hay mức độ khác. Và nếu điều đó là đúng, phải chăng ghét bỏ,
phủ nhận, và chiến đấu với một phần của chính mình là hữu ý? Tôi muốn nói dường
như không thực tế, thậm chí trái tự nhiên nếu cố gắng loại bỏ hẳn cái gì đó mà
nó là một phần không thể thiếu trong bản chất tự nhiên của chúng ta? Lắc đầu,
Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời "Đúng, một số người cho là giận dữ, sân hận và những
cảm xúc tiêu cực khác là một phần tự nhiên trong tâm chúng ta. Họ cảm thấy vì
chúng là một phần tự nhiên của bản chất chúng ta, không có cách chi có thể thay
đổi những trạng thái tinh thần này. Nhưng điều đó sai. Thí dụ, tất cả chúng ta
sinh ra trong một tình trạng vô minh (không biết gì). Trong nghĩa ấy, vô minh
cũng hoàn toàn tự nhiên. Dù sao, khi chúng ta còn trẻ, chúng ta hầu như không
biết gì. Nhưng khi chúng ta lớn lên, ngày lại ngày, qua giáo dục và học tập
chúng ta có thể giành được kiến thức và xua tan vô minh. Tuy nhiên nếu chúng ta
sao lãng với chính mình trong tình trạng vô minh không có ý thức mở mang sự học
hỏi, chúng ta sẽ không thể xua tan vô minh. Cho nên, nếu chúng ta bỏ quên mình
trong "trạng thái tự nhiên" mà không nỗ lực xua tan vô minh, thì các nhân tố đối
kháng hay tác động của giáo dục và học tập không tự nhiên mà đến. Và cũng giống
như vậy, nhờ rèn luyện thích đáng, chúng ta dần dần có thể giảm những cảm xúc
tiêu cực và tăng thêm trạng thái tâm tích cực như tình thương từ bi và khoan
dung"
"Nhưng nếu những điều này lại là một phần của
tâm trí chúng ta, rút cục làm sao ta có thể thành công trong việc chiến đấu
chống lại cái gì đó là một phần của chính chúng ta?"
"Để cân nhắc cách chống lại cảm xúc tiêu cực,
rất cần biết tâm con người hành hoạt ra sao", Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời." Bây
giờ, tâm con người đương nhiên rất phức tạp. Nhưng nó cũng rất tài tình. Nó có
thể tìm ra nhiều cách giải quyết nhiều tình trạng và hoàn cảnh. Đối với một vấn
đề tâm có khả năng tiếp nhận những cách nhìn khác nhau, qua đó nó có thể suy
nghĩ về những vấn đề khác nhau.
"Trong phạm vi tu tập Phật Giáo, khả năng tiếp
nhận những cách nhìn khác nhau được dùng trong một số cách thiền tập trong đó
bằng tinh thần bạn phân lập chính mình thành những khía cạnh khác nhau rồi tham
gia đối thoại với nhau. Chẳng hạn, trong một buổi thiền tập để nâng cao tính vị
tha, qua đó bạn tham gia cuộc đối thoại giữa "thái độ tự cho mình là trung tâm
của bạn", cái tôi là hiện thân của tính tự cho mình là trung tâm với chính bạn
là người tu tập tinh thần. Hồ như có một quan hệ đối thoại. Ở đây cũng như vậy,
mặc dù những nét tiêu cực như sân hận và giận dữ là một phần của tâm bạn, nhưng
bạn có thể dùng sự cố gắng trong đó bạn lấy giận dữ và sân hận làm đối tượng và
bạn chiến đấu với nó.
"Thêm vào, từ kinh nghiệm hàng ngày, bạn thường
thấy mình trong tình trạng tự trách mình hay tự phê bình mình. Bạn nói, "ôi ngày
ấy, ngày đó, tôi đã tự hạ mình. Rồi bạn tự phê bình bạn. Hay, bạn trách cứ mình
đã làm điều sai hay đã không làm điều đó, và bạn cảm thấy giận mình. Cho nên ở
đây cũng vậy, hồ như bạn tham gia vào vào cuộc đối thoại với chính bạn. Trong
thực tế không có hai cái tôi riêng biệt, đó chỉ là sự tiệm tiến duy nhất của
cùng một cá nhân. Dẫu vậy phê bình mình, cảm thấy giận dữ với chính mình là khôn
ngoan. Đó là điều bạn biết rõ từ kinh nghiệm riêng của bạn.
"Cho nên mặc dù trong thực tế chỉ có một sự tiệm
tiến cá nhân mà thôi, nhưng bạn có thể tiếp nhận hai cách nhìn khác nhau. Điều
gì xẩy ra khi bạn tự phê bình? Cái tôi đang phê bình được tiến hành từ một cách
nhìn của chính bạn là một tổng thể toàn bộ bản thân của bạn, và cái tôi đang bị
bị phê bình là một cái tôi từ một cách nhìn của một kinh nghiệm đặc biệt hay của
một biến cố đặc biệt. Cho nên bạn có thể nhìn thấy mối quan hệ của cái tôi
-với-cái-tôi này.
Để nói rõ thêm về điểm này, có thể là rất hữu ích nếu suy nghĩ vế các khía
cạnh thuộc cá tính của một người. Hãy lấy thí dụ một nhà sư Tây Tạng. Người đó
có thể có ý thức về cá tính riêng từ cách nhìn của bản thân là một nhà sư, chính
mình là một nhà sư'. Và rồi người đó cũng có thể có mức độ cá tính riêng không
quan tâm nhiều đến tình trạng là một nhà tu hành mà là nguồn gốc sắc tộc, như
một người Tây Tạng. cho nên người ấy có thể nói "Tôi là một người Tây Tạng". Rồi
ở một mức độ khác, người ấy có thể có một cá tính khác trong đó tình trạng tu
hành và sắc tộc không đóng bất cứ vai trò quan trọng gì. Người ấy có thể nghĩ,
"Tôi là một con người". Cho nên bạn có thể thấy những cách nhìn khác nhau trong
cá tính riêng của mỗi người. "Những gì điều này cho thấy là khi chúng ta hiểu về
một cái gì đó bằng khái niệm, chúng ta có thể có khả năng nhìn vào một hiện
tượng từ nhiều góc độ khác nhau. Và khả năng nhìn sự việc từ nhiều góc độ khác
nhau hoàn toàn là lựa chọn, chúng ta có thể nhắm vào một góc độ đặc biệt nào đó,
vào một khía cạnh đặc biệt nào đó của hiện tượng đó và áp dụng một cách nhìn đặc
biệt nào đó. Khả năng này hết sức là quan trọng khi ta tìm cách nhận biết và
loại bỏ một số khía cạnh tiêu cực của chính mình và nâng cao những nét tích cực.
Vì khả năng áp dụng cách nhìn khác, chúng
ta có thể tách mình ra làm nhiều phần rồi tìm cách loại bỏ và chiến đấu với
chúng.
"Bây giờ, để xem xét thêm đề tài này, một câu
hỏi rất quan trọng phát sinh: Mặc dù chúng ta có thể tham gia vào việc chiến đấu
chống lại giận dữ, sân hận và những trạng thái tiêu cực khác của tâm, nhưng cái
gì bảo đảm hay chắc chắn chúng ta có thể giành chiến thắng?
"Khi nói về những trạng thái tiêu cực của tâm,
phải nhân mạnh rằng tôi đề cập đến điều mà chúng tôi gọi là Nyon Mong trong
tiếng Tây Tạng hay Kesha trong tiếng Phạn. Từ này có nghĩa đen là 'đau đớn ở bên
trong'."Đó là một từ dài, cho nên nó thường được dịch là 'ảo tưởng'. Chính từ
nguyên học của tiếng Tây Tạng, chữ Nyong Mong cho bạn hiểu ý nghĩa, đó là một sự
cố xúc cảm và nhận thức bất thần làm bạn khổ tâm, phá hoại sự thanh thản, đầu óc
của bạn, gây xáo trộn trong tâm trí bạn khi nó phát sinh. Nếu bạn chú ý thật kỹ,
rất dễ nhận ra bản chất gây khổ sở của những "ảo tưởng" ấy chỉ vì chúng có
khuynh hướng phá hoại sự an tĩnh và sự nhanh trí. Nhưng để xem chúng ta có thể
khắc phục được chúng không thì khó hơn nhiều. Đó là câu hỏi trực tiếp liên quan
đến toàn bộ khái niệm về sự nhận thức đầy dủ tiềm năng của tinh thần chúng ta có
thể đạt được hay không. Và đó là một câu hỏi rất nghiêm túc và khó.
"Cho nên, cớ gì chúng ta phải chấp nhận rằng
những xúc cảm khổ sở và sự cố nhận thức hay 'ảo tưởng' cuối cùng sẽ bị bật gốc
hay bị loại bỏ khỏi tâm chúng ta. Trong tư tưởng Phật Giáo có ba tiền đề hay căn
cứ mà chúng tôi tin tưởng rằng điều đó có thể xẩy ra.
"Tiền đề
thứ nhất là tất cả những trạng thái tâm
bị "đánh lừa", tất cả những tư tưởng và cảm xúc khổ sở, thực chất là bị bóp méo,
trong đó chúng bám chắc vào nhận thức sai về hoàn cảnh thực tế. Dù mạnh đến đấu,
thì trong cảm xúc tiêu cực ấy không có nền móng vững chắc. Chúng dựa vào vô
minh. Mặt khác, mọi xúc cảm hay những trạng thái tâm tích cực như tình thương,
từ bi, tuệ giác, vân vân... có nền móng vững chắc. Khi tâm trải qua những trạng
thái tích cực này, không còn có sự bóp méo. Hơn nữa, những nhân tố tích cực này
có căn cứ trên thực tế. Chúng có thể được kiểm chứng bằng kinh nghiệm của chính
chúng ta. Hồ như có rèn luyện căn bản và bén rễ trong lý trí và hiểu biết điều
này không đúng với những xúc cảm khổ sở như giận dữ và sân hận. Thêm vào đó tất
cả những trạng thái tích cực của tâm có đặc tính nâng cao khả năng của chúng và
tăng thêm tiềm năng của chúng đến mức vô hạn, nếu bạn tu tập chúng đều đặn qua
rèn luyện và làm quen không ngừng..."
Tôi ngắt lời Ngài, "Ngài có thể giải thích một
chút nữa về điều mà Ngài muốn nói qua trạng thái tâm tích cực có một 'cơ sở vững
chắc và trạng thái tâm tiêu cực ckhông có cơ sở vững chắc?
Ngài minh định, "Thí dụ, từ bi là một cảm xúc
tích cực. Để phát tâm từ bi, bạn bắt đầu bằng cách công nhận bạn không muốn khổ
đau và bạn có quyền có hạnh phúc. Điều này có thể kiểm chứng hay được công nhận
có giá trị bằng kinh nghiệm của chính bạn. Rồi bạn công nhận rằng những người
khác, cũng giống mình, cũng không muốn khổ đau và họ cũng có quyền có hạnh phúc.
Điều này trở thành cơ sở để bạn bắt đầu phát tâm từ bi.
"Về cơ bản, có hai loại cảm xúc và trạng thái
tâm: tích cực và tiêu cực. Một cách phân loại những cảm xúc ấy là, bằng hiểu
biết thì những cảm xúc tích cực là những cảm xúc có thể chứng minh, và những cảm
xúc tiêu cực thì không thể chứng minh được. Chẳng hạn, ở phần trên chúng ta có
thảo luận về đề tài tham dục, làm sao có thể có tham dục tích cực hay tham dục
tiêu cực. Tham dục vì nhu cầu căn bản là một loại tham dục tích cực. Nó có thể
chứng minh được. Dựa vào thực tế là tất cả chúng ta đều sống và có quyền sinh
tồn Và muốn tồn tại, có một số thứ chúng ta cần đến, một số nhu cầu cần phải có.
Vậy loại tham dục này có nền móng vững chắc. Và như chúng ta đã thảo luận, có
những loại tham dục tiêu cực như dục vọng và tham lam quá đáng. Những loại tham
dục này không dựa vào những lý do có căn cứ, và thường gây rắc rối và làm phức
tạp cho đời sống. Những loại tham dục này đơn giản là dựa vào cảm nghĩ bất mãn,
muốn nhiều, cả đến những thứ không thực sự cần thiết. Những loại tham dục này
không có lý do vững chắc ủng hộ chúng. Cho nên, trên phương diện này, chúng ta
có thể nói những xúc cảm tích cực có một nền móng vững vàng có giá trị, và những
xúc cảm tiêu cực không có nền móng có giá trị này".
Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp tục cuộc khảo sát tâm con người, mổ xẻ cách hoạt động
của tâm trí bằng sự xem xét tỉ mỉ như nhà thực vật học sử dụng trong việc xếp
loại các loài hoa hiếm.
"Bây giờ điều này mang chúng ta tới
tiền đề thứ hai dựa vào lời khẳng định rằng những cảm xúc tiêu cực có
thể trừ tận gốc và loại bỏ. Tiền đề này
căn cứ trên thực tế là các trạng thái tâm tích cực có thể thực hiện vai trò như
thuốc giải độc cho những khuynh hướng tiêu cực và trạng thái ảo tưởng của tâm.
Cho nên tiền đề thứ hai là khi bạn nâng cao khả năng của những nhân tố giải độc,
sức mạnh của nó càng lớn thì bạn càng có thể giảm thiểu sức mạnh của các đau đớn
tinh thần và cảm xúc, bạn càng có thể giảm thiểu ảnh hưởng và hiệu qủa của những
vấn đề đó.
Khi nói về việc loại bỏ trạng thái tiêu cực của
tâm, có một điểm phải nhớ. Trong phạm vi tu tập Phật Giáo, sự trau dồi một số
các đức tính tích cực tinh thần đặc trưng như nhẫn nại, khoan dung, tử tế, vân
vân... có thể thực hiện vai trò chất giải độc đặc biệt cho những trạng thái tiêu
cực của tâm như giận dữ, sân hận, và luyến ái. Dùng chất giải độc như tình
thương và từ bi có thể giảm thiểu đáng kể mức độ hay ảnh hưởng của những đau đớn
tinh thần và cảm xúc, nhưng vì người ta tìm cách chỉ loại bỏ một số cảm xúc đau
đớn riêng hay cá nhân,về một ý nghĩa nào đó, chúng có thể chỉ được coi là biện
pháp cục bộ. Về cơ bản những xúc cảm khổ sở này như luyến ái và sân hận, bắt rễ
nơi vô minh - quan niệm sai lầm về bản chất thực sự của thực tế. Cho nên, dường
như có một sự nhất trí trong tất cả các truyền thống Phật Giáo là muốn khắc phục
hoàn toàn những khuynh hướng tiêu cực này, ta phải dùng thuốc giải độc cho vô
minh - "nhân tố Trí Tuệ". Điều này không thể thiếu được "Nhân tố Trí Tuệ" đòi
hỏi phải có hiêu biết thấu đáo về bản chất thực sự của thực tế. "Vậy, trong phạm
vi truyền thống Phật Giáo, chúng ta không những có thuốc giải độc đặc biệt cho
trạng thái đặc biệt của tâm, thí dụ, nhẫn nại, khoan dung thực hiện vai trò
thuốc giải độc đặc biệt cho giận dữ và sân hận, mà chúng ta còn có thuốc giải
độc chung - thấu hiểu bản chất cơ bản của thực tế- nó thực hiện vai trò giải độc
cho tất cả những trạng thái tiêu cực của tâm. Nó cũng giống như loại bỏ một cấy
có chất độc: bạn có thể loại bỏ những hậu quả có hại bằng cách chặt những cành
cấy chính và lá cấy, hay bạn có thể loại bỏ toàn bộ cái cấy bằng cách tìm rễ nó
và bật rễ đi.
Kết luận cuộc thảo luận về khả năng loại bỏ
trạng thái tinh thần tiêu cực, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích, "Tiền đề thứ ba
nói về bản chất cốt lõi của tâm là thuần khiết. Nó căn cứ vào niềm tin là ý thức
căn bản tiềm ẩn tinh tế không bị ô nhiễm bởi những xúc cảm tiêu cực. Bản chất
của nó là thuần khiết, một trạng thái được coi là "Sáng Tỏ". Bản chất căn bản
này của tâm cũng được gọi là Phật Tính. Cho nên, vì những xúc cảm tiêu cực không
phải là một phần nội tại trong Phật Tính, ta có khả năng loại bỏ chúng và thanh
tịnh tâm.
"Vì vậy dựa vào ba cái tiền đề này Phật Giáo
chấp nhận những đau đớn tinh thần và cảm xúc cuối cùng có thể loại bỏ được nhờ
chủ tâm trau dồi các sức mạnh giải độc như tình thương, từ bi, khoan dung, và vị
tha, và nhờ những sự tu tập khác như thiền định."
Khái niệm bản chất tiềm ẩn của tâm là thanh tịnh
và chúng ta có khả năng loại bỏ hoàn toàn những kiểu suy nghĩ tiêu cực là một đề
tài mà tôi đã được nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma nói trước đây. Ngài đã so sánh tâm
như một ly nước đục ngầu, trạng thái tinh thần đau đớn giống như những chất "dơ
bẩn" hay bùn có thể loại bỏ để thấy bản chất thanh tịnh cơ bản của nước. Điều
này có vẻ trừu tượng một chút, để đi vào sự quan tâm thực tiễn nhiều, tôi ngắt
lời.
"Xin nói như thế này người ta chấp nhận khả năng
loại bỏ xúc cảm tiêu cực của mình, thậm chí bắt đầu từng bước tiến theo hướng
ấy. Tuy nhiên từ những cuộc thảo luận của chúng ta, tôi cảm thấy phải có một nỗ
lực ghê gớm để loại bỏ mặt tối - nghiên cứu thật nhiều, suy tư, áp dụng không
ngừng những nhân tố giải độc, tu tập thiền định mạnh mẽ, và vân vân... Việc đó
có thể thích hợp cho một nhà sư hay cho một người có thể dành nhiều thì giờ và
chú tâm vào việc tu tập. Nhưng một người bình thường thì sao, có gia đình và vân
vân..., người đó có thể không có thì giờ hay cơ hội để thực hành những kỹ thuật
này mạnh? Với những người ấy phải chăng thích hợp hơn là chỉ cố gắng kiểm soát
nhũng xúc cảm khổ sở của họ, học cách chấp nhận chúng, và giải quyết chúng đúng
cách, hơn là loại bỏ chúng hoàn toàn? Cũng giống như các bệnh nhân có bệnh tiểu
đường. Họ có thể không có cách chữa khỏi bệnh, nhưng giữ gìn việc ăn uống, uống
insulin vân vân... họ có thể kiểm soát được bệnh và ngăn chặn triệu chứng và dị
chứng tiêu cực của bệnh này."
"Phải, đúng là như vậy" Ngài vui vẻ trả lời."Tôi
đồng ý với bạn. Dù người ta thực hiện biện pháp nào, nhỏ đến đâu chăng nữa để
học cách giảm thiểu ảnh hưởng của cảm xúc tiêu cực thì điều đó rất hữu ích. Nó
nhất định gíúp cho ta có đời sống hạnh phúc hơn và thỏa mãn hơn. Tuy nhiên,
người cư sĩ có thể đạt được mức độ nhận thức tinh thần cao- một số người có công
ăn việc làm, có gia đình, có quan hệ tình dục với người hôn phối, vân vân... Và
không chỉ như thế, nhưng còn có những người không bắt đầu rèn tập nghiêm túc cho
đến cuối cuộc đời, khi họ vào khoảng 40, 50, hay có khi 80, mới có thể trở nên
tinh thông"
Tôi hỏi Ngài: "Có bao giờ đích thân Ngài gặp
những người mà Ngài cảm thấy họ đã đạt được trạng thái tinh thần cao này
không?
"Tôi nghĩ rằng rất khó, rất khó để phán xét. Tôi
nghĩ rằng những người tu tập thành thật không bao giờ khoe ra những thứ ấy".
Ngài cười.
Nhiều người phương Tây tìm đến niềm tin tôn giáo
làm nguồn của hạnh phúc, nhưng đường lối giải quyết căn bản của Đức Đạt Lai Lạt
Ma khác hẳn những tôn giáo Tây Phương trong đó phụ nhiều hơn vào cách lập luận
và huân luyện tâm hơn là vào đức tin. Trong một số khía cạnh, lối giải quyết của
Đức Đạt Lai Lạt Ma giống khoa học tâm trí, một hệ thống mà mà ta có thể áp dụng
rất giống cách người ta sử dụng trong tâm lý liệu pháp. Nhưng những gì mà Đức
Đạt Lai Lạt Ma đưa ra còn đi xa hơn nữa. Trong khi chúng ta đã quen với khái
niệm dùng kỹ thuật điều trị tâm lý như cách chữa trị cách hành vi để nhắm vào
các thói xấu đặc biệt - hút thuốc, uống rượu, nổi nóng - chúng ta không quen
trau dồi những thuộc tính tích cực- như tình thương, từ bi, nhẫn nại, rộng lượng
làm vũ khí chống lại những cảm xúc và trạng thái tinh thần tiêu cực. Phương pháp
giành hạnh phúc của Đức Đạt Lai Lạt Ma căn cứ vào một khái niệm cách mạng: trạng
thái tinh thần tiêu cực không phải là một phần nội tại của tâm, chúng là những
trở ngại nhất thời che lấp sự biểu lộ trạng thái vui sướng và hạnh phúc tiềm ẩn
tự nhiên
Hầu hết các trường điều trị tâm lý truyền thống
Tây Phương có khuynh hướng tập trung vào sự điều chỉnh chứng loạn thần kinh chức
năng của ta chứ không nhắm vào toàn bộ quan điểm con người. Những trường này
khảo sát tiểu sử cá nhân, mối quan hệ, kinh nghiệm hàng ngày (kể cả những giấc
mơ và những ý nghĩ kỳ quặc), thậm chí cả mối quan hệ với bác sĩ chuyên khoa
trong cố gắng giải quyết những mâu thuẫn nội tâm, những động cơ vô ý thức, và
những động lực tâm lý của bệnh nhân góp phần vào khó khăn và bất hạnh của họ Mục
đích là để giành được chiến lược ứng phó lành mạnh hơn, điều chỉnh và cải thiện
các triệu chứng chứ không trực tiếp huân luyện tâm để có hạnh phúc.
Nét khác biệt nhất trong phương pháp huân luyện
tâm của Đức Đạt Lai Lạt Ma liên quan đến khái niệm trạng thái tâm tích cực có thể thực hiện vai
trò thuốc giải độc trực tiếp đối với những trạng thái tâm tiêu
cực. Tìm sự so sánh lối giải quyết này
với khoa học ứng xử hiện đại, có lẽ cách chữa trị bằng nhận thức là gần gũi
nhất. Hình thái điều trị tâm lý này ngày càng trở nên được ưa chuộng vào những
thập niên vừa qua và đã cho thấy rất hiệu nghiệm trong việc điều trị hàng loạt
những vấn đề phổ biến, đặc biệt là rối loạn tâm trạng như suy nhược và lo ấu.
Được phát triển bởi những nhà điều trị bằng tâm lý như Bác Sĩ Albert Ellis và
Bác Sĩ Aaron Beck, cách điều trị nhận thức hiện đại căn cứ vào khái niệm những
xúc cảm gây rối loạn và cách ứng xử sai lầm gây ra bởi sự suy nghĩ méo mó và
niềm tin phi lý. Cách điều trị nhắm vào giúp người bệnh nhận dạng quan sát, và
sửa chữa có hệ thống những suy nghĩ bị bóp méo ấy. Những tư tưởng được uốn nắn,
trong một ý nghĩa nào đó, trở thành thuốc giải độc cho những kiểu suy nghĩ bị
bóp méo mà chúng là nguồn khổ đau của người bệnh.
Thí dụ một người bị hắt hủi bởi một người khác
và phản ứng với cảm giác khổ đau thái quá. Trước hết bác sĩ chuyên khoa điều trị
bằng nhận thức giúp cho người ấy nhận ra dạng niềm tin không hợp lý tiềm ẩn. Thí
dụ, "tôi phải phải luôn luôn được hầu hết mọi người thương yêu và bằng lòng
trong suốt cuộc đời tôi, hay nếu không được điều đó thật là ghê gớm, tôi thật
đáng khinh." Người chữa bệnh trình bày với người đó bằng chứng cớ chứng tỏ niềm
tin không thực tế này. Mặc dầu, lối giải quyết này có vẻ là hời hợt, nhưng nhiều
cuộc nghiên cứu cho thấy cách điều trị nhận thức có tác động Chẳng hạn trong
trường hợp buồn phiền suy nhược, bác sĩ chuyên khoa điều trị bằng nhận thức lập
luận là tư tưởng tự chuốc lấy thất bại tiêu cực của con người tạo sơ hở cho buồn
phiền suy nhược. Cũng chẳng khác gì quan niệm của người Phật Tử là tất cả những
xúc cảm đau đớn bị bóp méo, người điều trị bằng nhận thức quan niệm những tư
tưởng buồn phiền suy nhược tiêu cực phát sinh là những tư tưởng "về cơ bản bị
bóp méo". Trong buồn phiền suy nhược, suy nghĩ có thể bị bóp méo bởi cách nhìn
biến cố được ăn cả ngã về không hay phổ thông quá mức (có nghĩa nếu bạn mất việc
hay không lên lớp, tự động bạn nghĩ rằng, " tôi hoàn toàn thất bại") hay chỉ
chọn lựa nhận thấy một số biến cố (có nghĩa, ba điều tốt và hai điều xấu có thể
xẩy ra trong một ngày, nhưng người buồn phiền quên đi điều tốt mà chỉ nhắm vào
điều xấu). Cho nên chữa trị bệnh suy nhược, với sự giúp đỡ của người điều trị,
bệnh nhân được khuyến khích giám sát sự bộc phát tự động của các tư tưởng tiêu
cực (Thí dụ "tôi hoàn toàn vô dụng") và tích cực sửa chữa những suy nghĩ méo mó
ấy bằng cách thu thập các tin tức và chứng cớ tương phản hay bác bỏ nó (như:
"tôi đã làm việc nhọc nhằn để nuôi hai đứa con", "Tôi có tài năng về ca hát", "
Tôi đã là người bạn tốt" " Tôi vẫn tiếp tục một công việc khó khăn, vân vân...)
Những nhà nghiên cứu đã chứng minh bằng cách thay đổi lối suy nghĩ bị bóp méo
bằng tin tức xác đáng, ta có thể mang lại sự thay đổi cảm nghĩ và cải thiện tâm
trạng của con người.
Chúng ta thay đổi cảm xúc và chống lại ý nghĩ
tiêu cực bằng cách áp dụng đường lối suy nghĩ khác là thực tế hỗ trợ thêm cho
lập trường của Đức Đạt Lai Lạt Ma rằng ta có thể khắc phục trạng thái tinh thần
tiêu cực nhờ áp dụng các thuốc giải độc hay tình trạng tinh thần tích cực tương
ứng. Khi thực tế này được phối hợp với bằng chứng khoa học mới đây chúng ta có
thể thay đổi cấu trúc và chức năng của bộ não bằng cách trau dồi các tư tưởng
mới, thì khái niệm chúng ta có thể đạt hạnh phúc do huân luyện tâm dường như là
một khả năng thực sư.
-ooOoo-
CHƯƠNG 13
ĐỐI TRỊ VỚI GIẬN DỮ VÀ SÂN HẬN
Nếu ta tình cờ gặp một người bị tên bắn, ta
không nên mất thì giờ băn khoăn xem mũi tên từ đâu bay đến, hay đẳng cấp xã hội
của người bắn, hay phân tích mũi tên được làm bằng gỗ nào, hay cách chế tạo đầu
mũi tên. Tốt hơn là ta phải nhắm ngay vào rút mũi tên ra. --Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni
Nay chúng ta quay về một số "mũi tên", những
trạng thái tiêu cực của tâm phá hoại hạnh phúc của chúng ta, và những thuốc giải
độc tương ứng của chúng. Tất cả trạng thái tinh thần tiêu cực gây chướng ngại
cho hạnh phúc của chúng ta, nhưng chúng ta lại bắt đầu bằng giận dữ, dường như
đó là một trong những chướng ngại lớn nhất. Giận dữ được nhà hiền triết học
Stoic (Chịu đựng) Seneca mô tả là một cảm xúc ghê tởm và điên cuồng nhất trong
tất cả các cảm xúc". Hậu quả phá hoại của giận dữ và sân hận đã được chứng minh
bằng tài liệu bởi các công cuộc nghiên cứu mới đây. Đương nhiên ta không cần
bằng chứng khoa học để nhận biết những cảm xúc này có thể làm lu mờ sự suy xét
của chúng ta nhu thế nào, gây ra cảm giác khó chịu cùng cực hay tàn phá những
mối quan hệ cá nhân. Kinh nghiệm cá nhân có thể nói cho chúng ta biết điều đó.
Nhưng những năm gần đây, sự chứng minh bằng tài liệu những hậu quả thể chất tai
hại của giận dữ và thái độ thù địch ngày càng phổ biến. Nhiều cuộc nghiên cứu
cho thấy những cảm xúc này là nguyên nhân đáng kể của bệnh tật và chết non.
Những nhà nghiên cứu như Bác Sĩ Redford Williams của Trường Đại Học Duke và Bác
Sĩ Robert Sapolsky của Trường Đại Học Stanford đã tiến hành việc nghiên cứu
chứng minh giận dữ, nổi nóng, và thù địch đặc biệt làm hại hệ thống tim mạch.
Ngày càng có quá nhiều bằng chứng về những hậu quả tai hại của thái độ thù địch,
thực ra, ngày nay nó được coi là một nhân tố nguy hiểm chính của bệnh tim, ít
nhất cũng ngang bằng hay lớn hơn những nhân tố truyền thống được công nhận như
chất cholesterol cao hay áp huyết cao.
Cho nên, một khi thừa nhận những hậu quả tai hại
của giận dữ và sân hận, câu hỏi kế tiếp là: Làm sao khắc phục chúng?
Vào ngày đầu tiên làm chuyên viên tâm lý cho một
cơ sở điều trị, tôi đang được chỉ đến văn phòng mới của tôi bởi một nhân viên
hành chính thì tôi nghe thấy tiếng kêu thét khủng khiếp vang lại từ cuối tòa nhà
...
"Tôi giận lắm"
"Nói to nữa lên"
"TÔI GIẬN LẮM"
"NÓI TO NỮA LÊN, CHỈ CHO TÔI. ĐỂ TÔI XEM"
"TÔI GIẬN LẮM! TÔI GIẬN LẮM!! TÔI GHÉT ÔNG!!!
TÔI GHÉT ÔNG!!!!"
Quả là thực đáng sợ. Tôi lưu ý nhân viên này
rằng hình như có điều gì như thể là nguy cấp cần phải được lưu ý tới ngay.
"Xin đừng lo lắng gì về việc ấy " cô ta cười.
Vừa mới có một buổi điều trị cho một nhóm người ở cuối tòa nhà - giúp cho bệnh
nhân tiếp xúc với cơn giận dữ của mình".
Vào cuối ngày hôm đó tôi gặp riêng bệnh nhân
này. Bà ta có vẻ mệt lử.
"Tôi cảm thấy dịu đi rất nhiều" bà ta nói, "
buổi điều trị thực tốt. Tôi cảm thấy hồ như tôi đã trút hết cả nỗi giận dữ của
tôi ra ngoài".
Tuy vậy vào buổi điều trị kế tiếp ngày hôm sau,
bà ta thuật lại " Tôi chắc rằng rút cuộc tôi chưa trút được hết tất cả giận dữ
của tôi ra ngoài. Ngay khi tôi ra về ngày hôm qua, khi vừa ra xe khỏi bãi đậu xe
thì một thằng xuẩn ngốc nào đó chặn đường tôi và tôi hết sức giận dữ. Và tôi
không ngớt nguyền rủa thầm thằng xuẩn ngốc này suốt dọc đường trở về nhà. Tôi
nghĩ rằng tôi cần phải có một vài buổi điều trị giận dữ nữa để có thể trút hết
nó ra ngoài."
Bắt tay vào chinh phục giận dữ và sân hận, Đức
Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu bằng cách điều tra bản chất của các xúc cảm phá hoại ấy.
Ngài giải thích, "Nói chung, có nhiều loại cảm xúc tiêu cực hay khổ sở khác
nhau, như tự phụ, cao ngạo, ganh ghét, tham dục, tham lam, hẹp hòi vân vân...
Nhưng ngoài những loại ấy ra, giận dữ và sân hận được coi là tai họa lớn nhất vì
chúng là những chướng ngại lớn nhất cho việc phát triển từ bi và vị tha, và
chúng phá hoại đức hạnh và sự tĩnh lặng của tâm.
"Suy xét về giận dữ, có thể có hai loại. Một
loại giận dữ có thể là tích cực. Có thể chủ yếu là do động cơ thúc đẩy của người
ta. Có một số giận dữ do từ bi hay ý thức trách nhiệm thúc đẩy. Ở nơi giận dữ
được thúc đẩy bởi từ bi, nó có thể được dùng làm sự thúc đẩy hay chất xúc tác
cho một hành động tích cực. Trong những hoàn cảnh ấy, cảm xúc của con người
giống như giận dữ có thể hoạt động như một sức mạnh dẫn đến hành động mau lẹ. Hồ
như nó thể tạo ra nghị lực làm cho người ta có thể hành động nhanh chóng và dứt
khoát. Nó có thể là một ynhân tố thúc đẩy mạnh mẽ. Cho nên, đôi khi loại giận dữ
này có thể là tích cực. Tuy nhiên quá thông thường, là dù loại giận dữ này hồ
như có thể hoạt động là vật bảo vệ và mang lại thêm sinh lực, thì sinh lực ấy
cũng là mù quáng, cho nên cũng không chắc chắn nó sẽ trở thành xấy dựng hay phá
hoại lúc chung cuộc.
"Cho nên dù trong những trường hợp hiếm hoi, một
số loại giận dữ có thể là tích cực, nói chung, giận dữ dẫn đến cảm nghĩ xấu và
sân hận. Và trong chừng mực liên quan đến, nó chẳng bao giờ là tích cực cả. Nó
không có lợi ích gì cả. Nó bao giờ cũng hoàn toàn là tiêu cực.
"Chúng ta không thể khắc phục giận dữ và sân hận
chỉ bằng cách nén chúng xuống. Chúng ta
cần tích cực trau dồi những thứ giải độc cho sân hận như nhẫn nại và khoan
dung. Theo kiểu mà ta đã nói trước đây,
để có thể trau dồi thành công nhẫn nại và khoan dung, bạn cần phải tạo ra lòng
nhiệt tình, một sự ham muốn mạnh mẽ tìm kiếm nó. Lòng nhiệt tình của bạn càng
mạnh thì khả năng chịu đựng những khó khăn gặp phải trong quá trình này càng
lớn. Khi bạn dân thân
vào tu tập nhẫn nại và khoan dung, trong thực
tế, cái đang xẩy ra là bạn dân thân vào cuộc chiến với giận dữ và sân hận. Vì là
trong tình trạng chiến đấu, bạn tìm chiến thắng, nhưng bạn cũng phải chuẩn bị
khả năng bị thua trận. Cho nên khi bạn lấm trận, bạn không nên bỏ qua thực tế là
trong tiến trình này bạn sẽ đương đầu đầu với nhiều vấn đề. Bạn phải có khả năng
chịu đựng gian khổ. Người chiến thắng được giận dữ và sân hận qua tiến trình cam
go như vậy là một anh hùng thực sự.
"Chính bằng điều này trong tâm, chúng ta phát
sinh lòng nhiệt tình mạnh mẽ. Nhiệt tình do học tập và suy ngẫm về những tác
dụng của khoan dung, nhẫn nại., và sự tác hại hay hậu quả tiêu cực của giận dữ
và sân hận. Và chính cái hành động ấy, chính trong cái nhận thức được, sẽ tạo
được sự lôi cuốn hướng về cảm nghĩ khoan dung và nhẫn nại và bạn cảm thấy thận
trọng hơn và đề phòng những ý nghĩ giận hờn và thù ghét. Thường thường, chúng ta
không mấy bận tâm về giận dữ hay sân hận, cho nên nó đến bất chợt. Nhưng khi
chúng ta phát triển một thái độ thận trọng đối với những cảm xúc này, thái độ
miễn cưỡng tự nó hoạt động nhự một biện pháp phòng ngừa chống lại giận dữ và sân
hận.
"Những tai hại của sân hận rất dễ thấy rõ ràng
và trực tiếp. Thí dụ, khi một ý nghĩ sân hận mạnh mẽ phát sinh trong con người
bạn, chính vào lúc ấy nó hoàn toàn tràn ngập và phá hoại sự an tĩnh trong tâm
bạn, sự nhanh trí của bạn hoàn toàn mất hẳn. Khi giận dữ và sân hận dữ dội nổi
lên, nó tàn phá phần tốt nhất bộ não của bạn, phần này chính là khả năng phán
xét giữa đúng và sai, và hậu quả trước mắt hay dài hạn về những hành động của
bạn. Sức phán xét của bạn trở nên hoàn toàn bế tắc, nó không còn hoạt động được.
Hầu như như bạn trở thành mất trí. Cho nên giận dữ và sân hận này có khuynh
hướng ném bạn vào tình trạng bối rối làm cho những vấn đề và khó khăn của bạn tệ
hại hơn.
"Ngay cả về mặt thể chất, sân hận dẫn đến sự
biến đổi thể chất rất xấu và đáng ghét cho một cá nhân. Chính vào lúc cảm giác
giận dữ và sân hận phát sinh, dù người ấy cố gắng giả cách hay làm điệu bộ có tư
cách thế nào đi nữa, nhưng rõ ràng mặt của người đó trông nhăn nhó và xấu xí. Có
một sự biểu lộ thật khó chịu, và người ấy toát ra sự rung cảm rất thù nghịch.
Những người khác có thể cảm thấy điều đó. Dường như họ có thể cảm thấy hơi toát
ra từ thân thể người ấy. Đến nỗi không những con người có thể cảm giác thấy, cả
đến thú vật, chó mèo cũng cố tránh người đó vào lúc ấy. Hơn nữa k hi một người
chất chứa những ý nghĩ sân hận, những tư tưởng này có khuynh hướng góp nhặt vào
trong tâm người ấy, và có thể gây ra những vấn đề như ăn mất ngon, mất ngủ, và
chắc chắn làm cho người ấy cảm thấy căng thẳng và bực dọc hơn.
Vì những lý do như trên đây, sân hận được so
sánh như một kẻ thù. Kẻ thù trong bên trong này, kẻ thù trong nội tâm này, không
có chức năng nào khác ngoài việc gây tổn hại. Nó thật sự là kẻ thù của chúng ta,
kẻ thù đích thật. Nó không có nhiệm vụ nào khác hơn ngoài việc chỉ để phá hoại
chúng ta, cả trước mắt lẫn lâu dài.
"Nó rất khác với một kẻ thù bình thường. Mặc dầu
là một kẻ thù bình thường, người mà ta coi như kẻ thù, có thể có những hành động
có hại cho chúng ta, ít nhất người ấy cũng có những chức năng khác, như người đó
cũng phải ăn, phải ngủ. Cho nên người đó có nhiều nhiệm vụ khác và không thể bỏ
24 giờ một ngày trong cuộc sống vào kế hoạch phá hoại chúng ta. Mặt khác, sân
hận không có nhiệm vụ nào khác, không có mục đích nào khác, ngoài việc phá hoại
chúng ta. Cho nên nhận thức được sự thật này, chúng ta phải kiên quyết không bao
giờ để cho kẻ địch có cơ hội sân hận phát sinh trong chúng ta."
Đối trị với giận dữ, Ngài nghĩ gì về một vài phương pháp điều trị tâm lý của
người Phương Tây, phương pháp nào khuyến khích việc bộc lộ giận dữ của người ta?
"Nơi đây, tôi nghĩ chúng ta phải hiểu rằng có
thể có những tình trạng khác nhau" Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích. Trong một số
trường hợp, người ta nuôi dưỡng những cảm giác mạnh mẽ về giận dữ và đau đớn căn
cứ vào điều gì đó đã gây cho họ trong quá khứ, một sự lạm dụng hay bất cứ điều
gì và cảm giác này cứ bị nén lại trong lòng. Có một thành ngữ Tây Tạng nói rằng
nếu có bệnh gì trong cái vỏ ốc, bạn có thể làm sạch bằng cách thổi nó đi. Nói
một cách khác, có thứ gì cản trở trong vỏ ốc, hày thổi nó đi, và nó sẽ sạch. Cho
nên tương tự như vậy, có thể tưởng tượng một tình trạng do nén lại một cảm xúc
nào đó hay mộtgiận dữ nào đó, thì tốt hơn hãy giải thoát nó và bộc lộ nó ra.
"Tuy nhiên, tôi tin rằng nói chung, giận dữ và
sân hận là những loại cảm xúc nếu bạn bỏ mặc không kiềm chế và không lưu ý, có
khuynh hướng trầm trọng thêm và cứ tăng lên. Nếu bạn hoàn toàn ngày càng để
chúng xẩy ra và cứ bộc lộ chúng, điều này thường làm cho chúng phát triển chứ
không giảm bớt Cho nên tôi có cảm thấy là bạn càng áp dụng một thái độ thận
trọng và tích cực cố giảm bớt mức độ sức mạnh của chúng càng tốt "
"Vì thế nếu bạn cảm thấy bộc lộ hay giải thoát
giận dữ không phải là câu trả lời, thế thì điều gì là câu trả lời?" tôi hỏi
Ngài.
"Trước hết cảm giác giận dữ và sân hận phát sinh
từ cái tâm lo phiền bởi bất toại nguyện và bất mãn. Cho nên bạn cần phải chuẩn
bị trước bằng cách không ngừng cố gắng thực hiện việc xấy dựng mãn nguyện nội
tâm và trau dồi lòng tốt và từ bi. Điều này mang lại sự bình tĩnh nào đó cho tâm
vì thế giúp ngăn chặn giận dữ phát sinh ngay từ lúc đầu. Và khi một tình thế
phát sinh làm cho bạn giận dữ, bạn phải trực tiếp đối đầu với giận dữ và phân
tích nó. Điều tra xem những nhân tố nào đã gây ra trường hợp giận dữ và sân hận
đặc biệt này. Rồi phân tích xa hơn nữa, xem điều đó có phải là một phản ứng
thích đáng không và nhất là nó có tính chất xấy dựng hay phá hoại. Và bạn cố
gắng sử dụng một số kỷ luật bên trong nào đó và kiềm chế, tích cực chiến đấu với
nó bằng việc áp dụng các loại giải độc để chống lại những cảm xúc tiêu cực bằng
những ý nghĩ kiên nhẫn và khoan dung"
Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng một chút rồi với tính thực dụng thường lệ. Ngài
thêm, " Đương nhiên khi cố gắng khắc phục giận dữ và sân hận ở giai đoạn đầu bạn
vẫn còn thấy những cảm xúc tiêu cực. Nhưng có nhiều mức độ khác nhau, nếu là mức
độ giận dữ vừa phải, thì vào lúc đó bạn có thể cố gắng trực tiếp đối đầu và
chiến đấu với nó. Tuy nhiên nếu là một cảm xúc tiêu cực mạnh mẽ đang bùng lên,
thì vào lúc đó, có lẽ là rất khó thách thức hay đối đầu với nó. Nếu đúng là như
vậy, thì vào lúc đó, tốt nhất là cố quên nó đi. Hãy nghĩ đến chuyện khác. Một
khi tâm bạn bình tĩnh lại một chút, bạn có thể phân tách, bạn có thể lý luận."
Nói một cách khác, tôi ngẫm nghĩ, Ngài đang nói, "Cứ thong thả".
Ngài tiếp tục, "Trong việc tìm cách loại bỏ giận
dữ và sân hận, ý định trau dồi kiên nhẫn và khoan dung rất cần thiết. Bạn có thể
nhận thức được giá trị và tầm quan trọng của kiên nhẫn và khoan dung trong câu
sau: Trong chừng mực liên quan đến những hậu quả phá hoại của ý nghĩ giận dữ và
sân hận liên hệ, bạn không được bảo vệ trước những điều đó bằng của cải. Dù cho
bạn là triệu phú, bạn vẫn phải chịu những hậu quả phá hoại của giận dữ và sân
hận. Giáo dục không thôi cũng chẳng bảo đảm cho bạn sẽ được bảo vệ trước những
hậu quả ấy. Tương tự như thế, luật pháp cũng không cho bạn sự bảo đảm hay che
chở như vậy. Thậm chí cả vũ khí hạt nhân, dù hệ thống phòng thủ có tinh vi đến
thế nào đi nữa, cũng không thể cho bạn sự che chở hay phòng thủ trước những hậu
quả ấy.
Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng lại một chút để lấy đà, rồi với một giọng chắc nịch,
rành rọt, Ngài kết luận, " Nhân tố duy nhất cho bạn nơi nương tựa hay che chở
trước những hậu quả phá hoại của giận dữ và sân hận là tu tập khoan dung và kiên
nhẫn".
Một lần nũa, sự thông thái truyền thống của Đức
Đạt Lai Lạt Ma hoàn toàn trùng hợp với dữ kiện khoa học. Tiến Sĩ Dolf Zillmann
của Trường Đại Học Alabama đã tiến hành các cuộc thí nghiệm cho thấy những ý
nghĩ giận dữ hay tạo ra tình trạng khuấy động sinh lý làm cho chúng ta dễ giận
dữ hơn. Giận dữ xấy dựng trên giận dữ. và khi trạng thái khuấy động tăng lên,
chúng ta dễ dàng bị kích hoạt bởi tác nhân - kích thích trong môi-trường
gây-giận dữ.
Nếu không được kiềm chế, giận dữ có khuynh hướng
leo thang. Cho nên, làm sao để xả giận? Như Đức Đạt Lai Lạt Ma góp ý, trút cơn
giận thịnh nộ và sân hận có lợi ích rất giới hạn. Biểu lộ giận dữ để trị bệnh là
cách giải thoát xúc cảm mạnh dường như bắt nguồn từ lý thuyết về xúc cảm của
Freud, mà ông thấy nó hoạt động theo kiểu thủy lực : Khi áp lực tăng, nó phải
giải thoát ra. Khái niệm loại bỏ giận dữ bằng cách giải thoát nó có một sự hấp
dẫn khá ân tượng và ở mức đô nào đó thấm chí có vẻ như trò đùa nhưng vấn đề này
là phương pháp hoàn toàn không hữu hiệu. Nhiều cuộc nghiên cứu trong bốn thập
niên vừa qua đã không ngưng cho thấy biểu lộ giận dữ bằng lời nói và thể chất
không xua tan nó được chút gì mà còn làm cho sự việc tệ hại hơn. Tiến Sĩ Aaron
Siegman, nhà tâm lý học và nhà nghiên cứu về giận dữ của Trường Đại Học
Maryland, tin rằng, chẳng hạn, chính kiểu biểu lộ lập đi lập lại sự giận dữ và
cơn thịnh nộ gây ra hệ thống khuấy động bên trong và phản ứng sinh hóa gây tai
hại cho mạch máu của chúng ta.
Trong khi việc trút giận rõ ràng không phải là
câu trả lời, cũng đừng bỏ qua cơn giận của mình hay làm ra vẻ không giận dữ. Như
chúng ta đã thảo luận ở Phần III, cố né tránh những vấn đề của mình không làm
cho chúng nhạt phai. Vậy thì, lối giải quyết nào tốt nhất? Đáng chú ý là có sự
nhất trí trong số nhà nghiên cứu giận dữ hiện đại như Tiến sĩ Zillman và
Williams là những phương pháp tương tự phương pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma tỏ ra
hữu hiệu nhất. Vì toàn bộ tâm trạng căng thẳng hạ thấp mức gây giận dữ, bước đầu
là đề phòng: trau dồi sự mãn nguyện nội tâm và làm cho tâm bình tĩnh hơn, như
khuyên nhủ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhất định có ích. Và khi giận dữ nẩy sinh, sự
nghiên cứu cho thấy tích cực chống lại, phân tích hợp lý, và đánh giá lại những
ý nghĩ gây giận dữ có thể xua tan nó. Có bằng chứng đã được thử nghiệm là những
kỹ thuật mà chúng ta bàn thảo trước đây, như thay đổi cách nhìn hay nhìn tình
hình dưới những góc độ khác, cũng có thể rất hữu hiệu. Đương nhiên những cách
này thường dễ thực hiện hơn ở mức độ giận dữ thấp hoặc vừa phải, cho nên thực
hành sự can thiệp sớm những ý nghĩ giận dữ và sân hận trước khi chúng leo thang
là một nhân tố quan trọng. Vì tầm quan trọng to lớn của chúng trong việc khắc
phục giận dữ và sân hận, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói chi tiết về ý nghĩa và giá
trị của nhẫn nại và khoan dung.
Trong kinh nghiệm sống hàng ngày của chúng ta,
khoan dung và nhẫn nại có những lợi ích to lớn. Chẳng hạn, phát triển chúng cho
phép chúng ta có sự chống đỡ và duy trì sự nhanh trí của chúng ta. Cho nên nếu
một cá nhân có khả năng khoan dung và nhẫn nại, thì bất chấp sống trong môi
trường rất điên cuồng và căng thẳng, miễn là người đó có khoan dung và nhẫn nại
thì sự bình tĩnh và an của tâm người ấy sẽ không bị xáo trộn.
"Một lợi ích khác khi phản ứng trước những tình
thế khó khăn bằng kiên nhẫn chứ không phải giận dữ là bảo vệ mình trước những
hậu quả rắc rối tiềm tàng có thể xẩy ra nếu bạn phản ứng bằng giận dữ. Nếu bạn
phản ứng tình thế bằng giận dữ hay sân hận, không những nó không che chở trước
tổn thương hay tổn hại đã gây ra cho bạn - tổn thương và tổn hại đã xẩy ra rồi-
mà ngoài ra còn gây ra thêm lý do cho sự khổ đau của bạn trong tương lai. Tuy
nhiên nếu bạn phản ứng trước sự tổn thương bằng nhẫn nại và khoan dung, thì dù
bạn có phải đối đầu tạm thời với khó chịu và đau đớn, nhưng bạn vẫn tránh được
những hậu quả nguy hiểm tiềm tàng về lâu dài. Bằng cách hy sinh những điều nho
nhỏ, bằng cách chịu đựng những khó khăn nhỏ hay gian khổ, bạn có thể bỏ được
những điều đã kinh qua hay khổ đau có thể rất to lớn hơn trong tương lai. Để
minh họa, nếu một người tù đã bị kết án có thể cứu đời mình bằng cách hy sinh
một cánh tay làm hình phạt, phải chăng người đó không cảm thấy biết ơn vì cơ hội
này? Bằng cách chịu đựng đau đớn và khổ đau có một cánh tay bị chặt, người đó sẽ
cứu được mình khỏi chết còn đau khổ hơn nhiều
Tôi nhận xét, "Với đầu óc người Phương Tây, nhẫn
nại và khoan dung chắc chắn được coi là đức hạnh, nhưng khi bạn trực tiếp bị
phiền muộn bởi người khác, khi một người nào đó chủ động hại bạn, phản ứng bằng
'nhẫn nại và khoan dung' dường như là có hương vị nhu nhược thụ động"
Lắc đầu không đồng ý, Đức Đạt Lai Lạt Ma nói,
"Vì nhẫn nại hay khoan dung bắt nguồn từ một khả năng kiên quyết và vững vàng,
không phải bị quá áp đảo trước tình hình trái ngược hay hoàn cảnh mà ta phải đối
đầu, ta không nên coi khoan dung hay nhẫn nại là dấu hiệu nhu nhược nhượng bộ,
đúng hơn là một dấu hiệu của sức mạnh, bắt nguồn từ khả năng sâu xa kiên quyết.
Đối phó tình thế căng thẳng bằng nhẫn nại và khoan dung thay vì phản ứng bằng
giận dữ và sân hận đòi hỏi đến sự kiềm chế tích cực mà nó là sản phẩm của tâm kỷ
luật tự giác mạnh mẽ.
"Đương nhiên, bàn luận về khái niệm nhẫn nại như
trong hầu hết mọi vấn đề, có thể có những loại nhẫn nại tích cực hay tiêu cực
.Nôn nóng không phải lúc nào cũng xấu. Chẳng hạn, nó có thể giúp bạn làm ngay
cho xong việc. Ngay cả những việc lặt vặt hàng ngày như dọn dẹp căn phòng của
mình, nếu bạn có quá nhiều kiên nhẫn, bạn sẽ quá chậm trễ và chỉ làm được ít
việc. Hoặc, nôn nóng để giành được hòa bình thế giới - điều này chắc chắn là
tích cực. Nhưng trong những tình thế khó khăn và thử thách, kiên nhẫn gíúp duy
trì ý chí và trợ giúp bạn.
Càng trở nên sinh động khi Ngài đi sâu vào việc
nghiên cứu ý nghĩa của kiên nhẫn, Ngài thêm vào, "Tôi nghĩ rằng có sự liên hệ
rất mật thiết giữa khiêm nhường và kiên nhẫn. Khiêm nhường đòi hỏi đến khả năng
có một lập trường đương đầu, có khả năng trả đũa nếu bạn muốn, nhưng chủ ý quyết
định không làm như vậy. Điều đó có thể gọi là sự khiêm nhường chân chính. Tôi
nghĩ là khoan dung thực sự hay kiên nhẫn có một thành tố hay thành phần của kỷ
luật tự giác và kiềm chế - hiểu rõ điều đó nên bạn có thể hành động cách khác dù
bạn có thể áp dụng cách giải quyết hung hăng hơn, nhưng quyết định không làm như
vậy. Mặt khác bị bắt buộc áp dụng một phản ứng thụ động nào đó do cảm giác không
tự lo liệu được hay bất lực - điều đó tôi không thể gọi là khiêm nhường đích
thực. Hồ như điều đó có thể là loại nhu mì, chứ không phải là khoan dung chân
chính.
"Bây giờ khi chúng ta nói về tính cách phát
triển lòng khoan dung với những kẽ hãm hại ta, chúng ta không nên hiểu nhầm điều
đó có nghĩa là chúng ta chỉ ngoan ngoãn chấp nhận bất cứ điều gì đã được làm
chống lại ta", Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngưng một chút rồi cười." Đúng hơn là, nếu
cần thiết, điều tốt nhất, cách khôn ngoan nhất có lẽ là bỏ đi- xa chạy cao
bay!"
"Bạn thường không thể tránh khỏi bị hại bằng
cách chạy trốn"
Ngài đáp lại, "Đúng, điều đó đúng, đôi khi bạn
có thể chạm trán những tình huống cần có biện pháp đối phó mạnh mẽ. Tuy nhiên
tôi tin rằng, bạn có thể có một lập trường mạnh mẽ và có cả biện pháp phản ứng
mạnh vì cảm nghĩ từ bi, hoặc ý thức quan tâm cho người khác chứ không phải vì
giận dữ. Một trong những lý do tại sao cần phải áp dung biện pháp phản ứng rất
mạnh mẽ chống lại người nào đó là nếu bạn bỏ qua - bất cứ cái tai hại hay tội ác
nào đang được thực hiện chống lại bạn- rồi thì có một nguy cơ là người ấy quen
theo cung cách tiêu cực, trên thực tế, sẽ là nguyên nhân sa sút cho người ấy và
rút cục là rất có thể tổn hại cho chính người ấy. Cho nên, biện pháp phản ứng
mạnh rất cần thiết, nhưng với tư tưởng ấy trong tâm trí, bạn có thể làm điều đó
do từ bi và lo lắng cho người ấy. Thí dụ trong chừng mực liên quan đến việc đối
phó với Trung Hoa dù cho có khả năng một số cảm giác sân hận nào đó phát sinh,
chúng tôi vẫn chú ý kiềm chế mình và cố gắng giảm bớt điều đó; chúng tôi cố phát
triển một cách có ý thức, cảm nghĩ từ bi đối với Trung Hoa. Và tôi nghĩ rằng
những biện pháp đối phó này cuối cùng sẽ hữu hiệu hơn nếu không có cảm nghĩ giận
dữ và sân hận.
"Bây giờ, chúng ta khảo sát phương pháp phát
triển nhẫn nại và khoan dung và buông bỏ giận dữ và sân hận, những phương pháp
như dùng lập luận để phân tích tình hình, áp dụng cách nhìn rộng lớn hơn, và
nhìn tình hình bằng nhiều góc độ khác nhau. Kết quả cuối cùng hay một sản
phẩm của kiên nhẫn và khoan dung, là sự tha thứ. Khi chúng ta thực sự kiên nhẫn và khoan dung, thì sự tha
thứ tự nhiên đến.
"Mặc dù chúng ta có thể đã kinh qua nhiều biến
cố tiêu cực trong quá khứ, với sự phát triển kiên nhẫn và khoan dung, chúng ta
có thể buông bỏ cảm giác giận dữ và sân hận. Nếu bạn phân tích tình hình, bạn sẽ
hiểu rằng quá khứ là quá khứ, cho nên chẳng ích gì cứ tiếp tục cảm thấy giận dữ
hay sân hận khi nó không thay đổi tình hình mà chỉ gây nên rối rắm trong tâm và
tiếp tục gây ra bất hạnh. Đương nhiên, bạn vẫn có thể nhớ đến những biến cố.
Quên và tha thứ là hai điều khác nhau. Không có gì sai khi chỉ nhớ đến những
biến cố tiêu cực, nếu bạn có một đầu óc nhậy bén, bạn sẽ lúc nào cũng nhớ " Ngài
cười, " Tôi nghĩ Đức Phật nhớ đến tất cả mọi thứ. Nhưng với sự phát triển kiên
nhẫn và khoan dung, nó có thể buông bỏ các cảm nghĩ tiêu cực liên tưởng với các
biến chuyển ".
THIỀN ĐỊNH VỀ GIẬN DỮ
Trong nhiều cuộc thảo luận, phương pháp đầu tiên
của Đức Đạt Lai Lạt Ma là khắc phục giận dữ và sân hận đòi hỏi đến việc sử dụng
lý luận và phân tích để điều tra nghiên cứu những nguyên nhân của giận dữ, chiến
đấu chống lại tình trạng tinh thần tai hại này nhờ sự hiểu biết. Trong một ý
nghĩa nào đó, cách giải quyết này có thể được coi như sử dụng sự hợp lý để vô
hiệu hóa giận dữ. và sân hận, trau dồi thuốc giải độc kiên nhẫn và khoan dung.
Nhưng đó không phải là chỉ là kỹ thuật duy nhất của Ngài. Trong những buổi nói
chuyện với công chúng, Ngài có bổ sung cuộc thảo luận của Ngài bằng cách trình
bày hai cách thiền đơn giản nhưng hữu hiệu để khắc phục giận dữ.
Thiền Định Về Giận Dữ - Bài Tập 1
"Chúng ta hãy tưởng tượng một cảnh trong đó một
người mà bạn biết rõ, một người rất gần gũi hay thân cận với bạn, đang ở trong
tình trạng nổi nóng. Bạn có thể tưởng tượng nó đang xẩy ra hoặc trong mối quan
hệ chua cay, hoặc người đó đang trong tình trạng rối loạn. Người đó nóng giận
đến nỗi mất hết tinh thần bình tĩnh, gây ra những rung cảm rất tiêu cực, thậm
chí đi đến mức đánh đập mình hay đập phá đồ vật. "Rồi, hãy suy ngẫm về những hậu
quả tức khắc về cơn thịnh nộ của người ấy. Bạn sẽ thấy sự biến đổi thể chất đang
xảy ra đến cho người ấy. Người mà bạn cảm thấy gần gũi với bạn, người mà bạn
thích, người mà trước đây bạn rất vừa ý, thì nay trở thành xấu xí, thậm chí nói
về bề ngoài. Lý do tại sao bạn nên quán tưởng điều xẩy ra cho người khác là vì
nhìn thấy lỗi của người khác dễ hơn thấy lỗi của chính mình. Cho nên, dùng trí
tưởng tượng của bạn, hãy hành thiền và quán tưởng (hình dung, tưởng tượng) một
vài phút.
"Vào lúc cuối cùng khi quán tưởng, hãy phân tích
tình hình và liên hệ những hoàn cảnh ấy với kinh nghiệm riêng của chính bạn. Hãy
hình dung chính bạn đã ở trong tình trạng ấy nhiều lần. Hãy kiên quyết là tôi sẽ
không bao giờ để mình rơi vào ảnh hưởng của cơn giận dữ và sân hận dữ dội như
vậy, vì lẽ nếu tôi làm như vậy, tôi sẽ cũng ở trong vị thế như vậy. Tôi cũng sẽ
chịu tất cả những hậu quả ấy, mất an lạc nội tâm, mất bình tĩnh, phô bày thể
diện xấu xí vân vân... Cho nên một khi bạn có quyết định đó, vào những phút cuối
cùng của buổi thiền tập, hãy tập trung tâm bạn vào kết luận ấy, không cần phải
lý giải thêm nữa, đơn giản là để tâm bạn tiếp tục quyết tâm không để rơi vào ảnh
hưởng của giận dữ và sân hận".
Thiền Định Về Giận Dữ - Bài Tập
2
Hãy thiền tập nữa bằng cách sử dụng quán tưởng.
Bắt đầu quán tưởng đến một người mà bạn không thích, một người quấy rầy bạn, gây
nhiều khó khăn cho bạn hoặc làm bạn bực mình. Rồi tưởng tượng một cảnh người ấy
chọc tức bạn, hay làm việc gì đó tân công hay quấy nhiễu bạn. Và trong tưởng
tượng, khi bạn quán tưởng chuyện này, hãy để phản úng tự nhiên của bạn xẩy ra,
hãy để nó trôi chảy tự nhiên. Rồi xem bạn cảm thấy ra sao, hãy xem nó có khiến
nhịp tim của bạn tăng lên không, vân vân...Quan sát xem bạn thoải mái hay không
thoải mái, hãy xem liệu bạn có tức khắc bình tâm nhiều hơn không hay liệu bạn có
phát triển một cảm giác khó chịu tinh thần không. Bạn hãy tự phán xét, điều tra.
Như vậy trong vài phút, có lẽ ba đến bốn phút, phán xét, và thử nghiệm. Và rồi
vào lúc cuối của cuộc điều tra, nếu bạn khám phá thấy, "Đúng, không ích gì để sự
cáu kỉnh đó phát triển. Tức khắc tâm tôi mất an lạc và nói với mình: -Trong
tương lai, tôi không bao giờ làm như thế nữa." Hãy phát triển sự quyết tâm này.
Cuối cùng, vào những phút cuối cùng của bài tập, hãy tập trung tâm bạn vào sự
kết luận hay quyết tâm ấy. Như thế là thiền định".
Đức Đạt Lai Lạt Ma ngưng giây lâu, rồi nhìn chung quanh những học sinh thành
thật trong phòng đang sửa soạn thiền tập, Ngài cười và nói thêm, "Tôi nghĩ nếu
tôi có năng lực nhận thức, khả năng, hay mẫn cảm rõ rệt, có thể đọc được ý nghĩ
người khác, thì nơi đây phải là một cảnh tượng tuyệt vời? "
Tiếng cười rì rầm trong số thính giả nhanh chóng
tắt biến và những thính giả bắt đầu cuộc thiền tập, bắt đầu công việc nghiêm túc
chiến đấu với giận dữ.
-ooOoo-