Chương 3.
Triết lý về đôi dép
Giảng
tại Chùa Ấn Quang, ngày 06-10-2008
Đôi
điều về đôi dép
Có một khoảng thời gian ở những
ngôi chùa lớn, vào những ngày rằm hoặc ngày lễ hội của Phật và Bồ tát, khách
thập phương hễ cứ mang dép mới đến chùa thì khi trở về phải đi chân không. Một
số đạo chích thường khéo léo ăn mặc bảnh bao để người khác không chú ý và cảnh
giác về họ. Họ cũng lên chính điện giả vờ lạy Phật như mọi người, nhưng khi
xuống, nhìn thấy đôi dép nào mới, tốt nhất thì họ xỏ chân vào và mang về. Rủi
ro lắm mới bị chủ nhân của nó phát hiện. Trong tình huống bị phát hiện thì lý
do đưa ra rất đơn giản là “nhầm”,
còn không ai thấy thì mang luôn. Cho nên đi chùa lễ Phật, thọ trì các khóa tu,
chúng ta nên mang những loại dép thường để khi ra về còn được nguyên vẹn.
Có một bài thơ nói về triết lý
đôi dép của nhà thơ Nguyễn Trung Kiên gồm bảy khổ, theo thể tự do, mỗi khổ có
bốn câu cho thấy đôi dép có lắm điều hấp dẫn, nhất là đối với đời sống của
người tại gia.
Không
rời nửa bước
Khổ thứ nhất của bài thơ nói về
sự gắn bó của đôi dép như sau:
“Hai chiếc dép kia gặp nhau tự bao giờ
Có yêu
nhau đâu mà chẳng rời nửa bước
Cùng
gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm
nhung, xuống cát bụi cùng nhau”
Sự mô tả này cho thấy việc đôi
dép có mặt trên cuộc đời không phải do tự thân nó muốn, vì nó nào có ý thức đâu
mà muốn. Những nhà sản xuất giày dép đã tính rất kỹ, nghĩ rất sâu rằng mỗi cặp
đôi phải cùng một chiều kích, cùng kích thước, cùng màu sắc, hình thù, chỉ có
khác nhau ở bên trái và bên phải. Cho nên sự gặp nhau của chúng là một tiến
trình tình cờ, nhưng lại thể hiện ra đặc tính “không rời nhau nửa bước”. Có khi nào chúng ta chỉ mang dép
một chiếc chưa?. Dĩ nhiên không ai mang một chiếc.
Trong nhà tổ các chùa Bắc tông
chúng ta thấy tổ Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc hài trên cây gậy và chiếc hài còn
lại nằm trên mặt nước, lướt sóng qua bờ bên kia với ba chữ Tây Lai Ý. Đi sang
Tây phương với ý nghĩa siêu vượt, giải thoát hết tất cả mọi chấp trước và những
nỗi khổ niềm đau ở bờ bên này. Điều đó nói lên sự dấn thân trên con đường tâm
linh đôi lúc là một sự độc hành:
“Đường độc lộ những dặm trình
Một mình
cất bước một mình vân du
Hạ đông
rồi lại xuân thu
Thế gian
làm cảnh thái hư làm nhà”.
(Thích
Nhật Từ)
Càng đi trên con đường tâm linh
ở mức độ cao xa, thì chúng ta càng thấy nó mang hình kim tự tháp. Nó nhọn từ từ
và đối tượng đạt được nó giảm tỷ lệ thuận. Nhưng đó không phải là trường hợp
của đôi dép. Chức năng của đôi dép được tạo ra là để gánh vác và không rời
nhau. Lúc thì đi lên trên thảm nhung để hưởng niềm vui, hạnh phúc, các giá trị
được thăng hoa. Khi thì đi xuống cát bụi nhưng không vì thế mà ta bỏ chiếc này
giữ chiếc nọ. Nó luôn đồng hành song đôi. Mô tả hiện thực đôi dép từ cái nhìn
của Phật giáo như một đối tượng để quán chiếu, rằng đời sống vợ chồng được sánh
ví như chiếc dép trái và chiếc dép phải sánh bước bên nhau trên mọi hướng của
cuộc đời. Còn người xuất gia thì chỉ cần đi một chiếc như hình thái của tổ Bồ
Đề Đạt Ma.
Bản chất của đời sống tại gia là
hưởng phước báu do mình tạo từ trái tim, từ lòng từ bi, từ nhận thức của tuệ
giác, và từ những phước nhân đã gieo trồng nhưng không nên đắm lụy vào nó. Đức
Phật dạy rất nhiều bài kinh phân tích về tính đồng hành làm thế nào để cả hai
được sống đến răng long tóc bạc trong chung thủy và hiểu biết thương yêu lẫn
nhau.
Mô tả hiện thực nhằm giúp chúng
ta có một cái nhìn quán chiếu mà bản chất của quán chiếu luôn diễn ra theo hai
vế. Vế một, dựa vào một mô hình vật lý cụ thể. Vế thứ hai là nội dung tâm linh
chúng ta có thể đạt từ sự quán chiếu này. Cho nên bằng cái nhìn quán chiếu thì
những vật tầm thường như đôi dép lót đường, đảm bảo sự an toàn sức khỏe của bàn
chân và cơ thể lại trở thành một triết lý để chúng ta nghiền ngẫm mà sống. Các
tổ gọi tinh thần đó là “nhất thiết chư
pháp vô phi Phật pháp”. Tất cả mọi sự vật hiện tượng từ cái nhìn
tuệ giác đều trở thành phương tiện để chúng ta tuyên nhiệm pháp mầu.
Điều này được đức Phật nói trong
kinh A Di Đà rằng, các hành
giả Tịnh độ tông hãy quán chiếu gió thoảng mây bay, suối chảy thông reo, chim
hót líu lo… đều là những phương tiện tuyên diễn pháp âm Tứ diệu đế, Bát chánh
đạo, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, .v.v... giúp hành giả nhiếp tâm tịnh
thức trở về giác ngộ để hưởng được an lạc và hạnh phúc ngay hiện tại.
Những vị xuất gia theo đạo Phật,
năm tháng đầu khi còn là chú tiểu hay cô tiểu trong chùa đều được hướng dẫn học
các bài thi kệ nhật dụng vốn được trích từ kinh Hoa Nghiêm. Mỗi bài thi kệ chỉ có bốn hàng, mỗi hàng gồm
năm chữ nhưng nó là một triết lý để hành trì. Uống nước phải quán tưởng; ăn
cơm, mặc áo, mang dép, xuống giường, đi những bước đi đầu tiên, nói chung đi
đứng nằm ngồi hầu như không có sự vận động nào của thân thể và tâm là không
được làm chủ bởi các bài thi kệ quán chiếu. Quán chiếu giúp cho hành giả nhiếp
chánh niệm vào từng động tác vận động của mình. Do đó các bước đi đứng nằm ngồi
của những vị xuất gia thể hiện sự thư thái, thanh thoát nhờ vào chánh niệm
thông qua các bài thi kệ.
Chúng ta thử thực tập quán tưởng
đôi dép, chiếc áo, cái quần, và mọi thứ trong cuộc đời, hầu như không có cái gì
không có chức năng, không có cái gì không thể tạo ra một đối tượng quán chiếu
để đưa chúng ta vào đạo và sống với chất liệu đạo ở trong cuộc đời. Thiền tông
Việt Nam
gọi là “ở đời vui đạo”. Dữ
liệu là cuộc đời nhưng nếu biết quán tưởng thì niềm hạnh phúc là với đạo. Còn ở
đời mà vui đời tức là sự đắm nhiễm.
Bản chất của đôi dép tạo ra sự
gắn bó liên hệ đến hai phương diện rất quan trọng đó là nghĩa vụ và quyền lợi.
Nghĩa vụ của chúng là gì? “Chẳng rời nửa
bước”. Hai bước đi, bước trước bước sau và nếu ta đo đường huyền
của những bước đi này nó không rời quá một thước tây. Dù người phương Tây cao
hơn hai mét, đi nhanh đi nữa thì khoảng cách của đôi dép này cũng chỉ trong
khoảng đường kính tám tấc và nó đều đều với nhau. Cứ như thế, nó tạo ra đích
điểm cuối cùng mà con người cần phải đến.
Đối với đời sống tại gia thì
tình vợ nghĩa chồng được quan niệm như một đôi dép với quyền lợi và nghĩa vụ
bình đẳng ngang nhau. Chồng đâu vợ đó, vợ đâu chồng đó. Hôm nào vợ hoặc chồng
đi đâu mà không muốn người bạn đời của mình đi theo thì chúng ta biết có thể có
vấn đề, ngoại trừ sự hờn dỗi giúp tình yêu được khắng khít và bền chặt hơn. Sự
tách rời nửa bước bằng tâm thức giữa hai bên sẽ làm cho tình cảm bớt đi sự mặn
nồng.
Sau thời gian chung sống, người
nam bắt đầu có những thói quen mới, chẳng hạn cố trụ ở quán nhậu, quán bia ôm,
nghiện không gian tấp nập ồn ào cùng bạn bè và cảm giác mỏi mệt mỗi khi phải về
nhà. Thay vì dành thời gian cho vợ con thì họ dành thời gian cho riêng họ. Một
chầu nhậu tốn vài ba triệu là chuyện bình thường, trong khi ở nhà, vợ con đói
meo đôi lúc chẳng quan tâm.
Ở khổ thơ đầu, nếu dùng con mắt
quán chiếu của nhà Phật, chúng ta sẽ có một tấm gương để soi lại chính mình xem
mình đã chăm sóc người bạn đời chu đáo chưa, cuộc sống vợ chồng có khắng khít,
lúc lên thảm nhung, khi xuống cát bụi cùng nhau chưa. Chỉ khi khổ đồng khổ, vui
đồng chia mới tạo ra sự gắn bó.
Gắn
bó và chia sẻ
Khổ thứ hai của bài thơ nói về
sự chung sức gắn bó và chia sẻ trách nhiệm:
“Cùng bước cùng mòn, không kẻ thấp người cao
Cùng
chia sẻ sức đời người chà đạp
Dẫu vinh
nhục không đi cùng kẻ khác
Số phận
chiếc này phụ thuộc ở chiếc kia”
Khổ thơ minh họa rõ hơn sự đồng
hành. Trước nhất, tính đồng hành ở đây được hiểu là bình đẳng, cùng bước cùng
đi. Đôi dép sau một thời gian vài tháng sử dụng sẽ trở nên mòn. Nó cùng mòn chứ
không có chiếc mòn trước, chiếc mòn sau, ngoại trừ người đi khập khiễng phải
mang dép đế cao thấp khác nhau. Nhờ tính chất ngang bằng về chiều cao nên người
mang nó cũng không phải đi chân cao chân thấp dẫn đến tình trạng lệch vai, gù
lưng hay các triệu chứng cột sống.
Tương tự, chúng ta có thể phân
tích về tình nghĩa vợ chồng với những ngang bằng trong sự chia sẻ, gánh vác vai
trò, trách nhiệm với nhau. Người chồng không đổ lỗi cho vợ để mắng nhiếc, bạo
hành mà ngược lại phải thương yêu chăm sóc vợ vì những mỏi mệt lo toan nhiều
thứ trong gia đình.
Giá trị chịu đựng của đôi dép
nằm ở chỗ nó là vật lót đường dưới sức nặng của toàn bộ cơ thể của một con
người nào đó đè lên. Nó trải những bước đi suốt mười mấy tiếng mỗi ngày mà
không hề than thở. Trong khi ở đời sống vợ chồng, cứ mỗi lần người này phải
gánh vác một việc gì đó có phần trội hơn người còn lại thì sau đó người này sẽ
than thở trách cứ tạo ra những căng thẳng, mỏi mệt cho cả hai.
Tính hy sinh của đôi dép nằm ở
chỗ nó nâng cả khối lượng và trọng lực của một con người. Đời sống vợ chồng
cũng cần phải hy sinh như thế để tạo cái nền cho con cháu, cho gia tộc. Hầu như
các bậc cha mẹ sau khi đã lo cho con cái an phận còn tiếp tục phải lo và chăm
sóc các cháu. Suốt cuộc đời không lúc nào rảnh rỗi. Đó là những nỗ lực mang
tính cách cộng nghiệp, nó tạo ra giá trị và lợi ích cho cả đôi bên.
Dưới góc độ duyên khởi, mọi sự
vật hiện tượng trong cuộc đời này đều tương thuộc lẫn nhau. Không có vật gì,
người nào có thể tồn tại độc lập một cách lâu dài và qua hình ảnh của đôi dép,
chúng ta thấy rõ hơn về điều đó: “Số phận
chiếc này phụ thuộc ở chiếc kia”. Một chiếc bị mất thì chủ nhân của
nó lập tức sẽ quẳng luôn chiếc còn lại để đi mua đôi dép mới. Do đó muốn đời
sống hạnh phúc của chính mình lâu dài thì phải biết bảo hộ hạnh phúc của người
bạn đường với mình. Khi người bạn đường đón nhận tình cảm tốt đẹp cũng phải hết
sức trân quý, không để nó vuột mất dù chỉ một phần.
Có những lúc chúng ta sống một
cách rất hời hợt, vô tư, đến khi đối diện với mất mát mới sinh tâm tiếc nuối
thì cũng đã muộn màng. Nỗi đau lúc bấy giờ trỗi dậy khiến sự trầm cảm hay cảm
xúc liên kết thành một chuỗi dài của những phản ứng tiêu cực, làm cho chúng ta
không bao giờ lắng yên tâm thức. Do đó ứng dụng học thức duyên khởi thì người
nam phải hy sinh bởi vì mình có sức mạnh cơ bắp, ý chí lớn và vững chãi hơn
người nữ, do đó chúng ta phải gánh vác hy sinh cho cả gia đình được hạnh phúc
và bình an.
Ý tưởng hay nhất trong khổ thơ
thứ hai này là “Dẫu vinh nhục không đi
cùng kẻ khác”. Nếu một trong hai chiếc được người ta ưa thích, khen
ngợi thì chiếc đó cũng không vì thế mà bỏ chiếc đồng hành với mình. Tính cách
chung thủy của chúng trong mọi tình huống thuận hay nghịch, khổ đau hay bất
hạnh không bao giờ tách rời nhau. Con người chúng ta cũng nên học tập như thế.
Dù thấy người khác đẹp hơn, duyên dáng hơn, giàu có hơn vợ hoặc chồng mình thì
cũng không vì thế mà ta từ bỏ để sánh vai đồng hành với người đó.
Hình ảnh này là cách gợi ý về sự
thủy chung mà đức Phật đã dạy. Bản chất của tình yêu đôi lứa là không chấp nhận
hình ảnh của người thứ ba dù bất cứ dưới hình thức tồn tại trong tâm tưởng hay
tồn tại rõ ràng bên ngoài. Ít ai chịu tình trạng “đắp mền chung” trong quy luật loại trừ của tình yêu. Khi
ta chọn đối tượng này thì phải buông hết tất cả mọi đối tượng còn lại. Hành
động bắt cá hai tay cùng một lúc sẽ phá vỡ khế ước hôn nhân xã hội được luật
pháp chấp nhận và được hai trái tim của chúng ta tạo ra như một sự đồng tình.
Bước đi và nhịp nhảy của người
này cũng tạo sự đồng hành với người kia và ngược lại. Học thuyết duyên khởi dạy
chúng ta điều đó. Cho nên trong thăng trầm hãy cố gắng giữ. Nhiều người đến gặp
chúng tôi kể lể, than vãn rằng lúc nghèo khó thì hai vợ chồng rất hạnh phúc,
khi giàu lên chút xíu thì mỗi khi có chút gì đó không hài lòng lẫn nhau là
người trong cuộc dễ dàng cáu gắt khiến người còn lại thất vọng khổ đau vô cùng.
Một số ông chồng tỏ ra hào hiệp, ga lăng với các nhân viên nữ trong khi cư xử
với vợ lại nặng nhẹ, thô lỗ. “Sang đổi vợ”
là khuynh hướng tâm lý phổ biến. Gần đây trong chương trình CNN có một tiết mục
mang tựa đề “More Money Better Sex”
mà các bản dịch thường dịch là “Nhiều tiền
đẹp tình”, ý muốn nói, khi người ta có đủ phương tiện đã không còn
hài lòng với những gì đang có. Việc sử dụng nguồn tiền mà mình tạo dựng để mua
các mối tình khác ngoài mối tình chính thức được luật pháp bảo hộ.
Cho nên để giữ vững hạnh phúc
lứa đôi thì các gia đình nên mặc ước phương pháp quản trị tiền. Người chồng trụ
cột kinh tế nhưng mỗi tháng vẫn nên đưa tiền cho vợ giữ. Bởi vì người chồng giữ
tiền sẽ khó giữ được tình. Vợ giữ tiền để có trách nhiệm đong đo tính đếm xem
ông làm gì, đi đâu, và sử dụng như thế nào. Cơ hội bị phát hiện dễ dàng hơn. Do
đó để giữ hạnh phúc, chúng ta cần có những phương pháp phòng hộ dù tưởng chừng
như một sự mất tự do nhưng đó lại là phương pháp bảo hộ rất tích cực cho cả
hai. Người vợ được giữ tiền cũng phải hết sức tinh tế trong quyết định chi xài
cho những việc làm mang tính cách nghĩa cử cao thượng đối với xã hội như là
những đóng góp. Đừng vì thế mà chúng ta cho mình quyền nặng nhẹ hoặc tính từng
đồng từng cắc khiến người kia cảm giác mình không có quyền chi dụng vào những
việc hợp lý.
Thay
thế nghĩa là mất
Khổ thứ ba nói về giá trị song
hành của đôi dép, mà một trong hai chiếc bị hư hay bị đánh mất, không thể tìm
chiếc khác thế vào:
“Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay
thế đều trở thành khập khiễng
Giống
nhau lắm nhưng người đi sẽ biết
Hai
chiếc này chẳng phải một đôi đâu”
Tác giả đã đặt tình huống vô
thường xảy ra với đôi dép mà cả hai chiếc đều không muốn có mặt với mình. Đối
với đời sống của kiếp người thì sự vô thường đó có thể hiểu là sự ra đi của một
người và người còn lại trở thành góa phu hay góa phụ. Sự thay thế một người
khác trong thời gian đầu được xem như những nỗ lực để khỏa lấp vào khoảng trống
tâm lý của người kém tự lập trên cuộc đời. Còn khi đã sống với nhau mấy chục
năm, hiểu nhau và hạnh phúc trong chia sẻ ngọt bùi thì dù một trong hai người
ra đi cũng không làm cho người kia bị ức chế muốn tiến thêm bước nữa.
Người nữ thường ở vậy đến trọn
đời trong khi người nam có khuynh hướng bước thêm bước nữa. Đôi khi người ta bị
ám ảnh bởi hình ảnh người cũ nên tìm kiếm một người nào đó để lấp vào. Trong
trường hợp này thì người mới trở thành bản sao của người trong quá khứ. Những
cuộc tình như vậy thường sẽ không bền. Mọi sự lựa chọn thay thế đều tạo ra sự
khập khiễng vì nó không phải là chính nó. Từ quan điểm này ta có thể đưa ra
nhận xét: cái gì giống, tức cái đó không phải là. Khi nói rằng “vật này hơi tròn tròn” đồng nghĩa vật
đó không tròn; “hình này hơi vuông vuông”,
có nghĩa hình đó không vuông. Cái gì hơi giống tức hoàn toàn khác. Tương tự, một
hình ảnh giống với người nào đó ta đã từng yêu trong quá khứ sẽ làm cho tình
yêu hiện tại khập khiễng đi rất nhiều. Bởi vì tâm thức của chúng ta sẽ bị rơi
vào trục xoay của sự so sánh và đối chiếu. Rất nhiều cuộc tình diễn ra theo cơ
chế này. Thương người tình của mối tình đầu tiên nhưng bị cha mẹ họ hàng hai
bên bắt buộc phải đính hôn với người khác. Rốt cuộc hôn nhân đó chỉ còn thể
xác, tâm vẫn nặng trĩu hướng về người kia.
Mỗi buổi sáng tại chùa Giác Ngộ
có một bà lão khoảng ngoài bảy mươi tuổi thường đến lễ lạy trước tượng Bồ tát
Quan Thế Âm. Một hôm chúng tôi
quan sát thấy sau khi lễ Bồ tát, bà ngồi trầm ngâm với những giọt nước mắt lăn
dài trên má. Tôi thắc mắc hỏi: “Điều gì
khiến bà buồn đến độ phải khóc trước đức Bồ tát Quan Thế Âm? Chồng con bà đã
làm gì không phải với bà?”.
Bà trả lời: “Những đứa con của tôi đã trưởng thành, đều là kỹ
sư, tiến sĩ. Chúng có cuộc sống ổn định và thường xuyên chu cấp rất chu đáo cho
tôi. Chồng tôi cũng là người chồng lý tưởng, ở ông không có điểm gì đáng chê
trách”.
Tôi hỏi tiếp: “Vậy bà khóc vì cái gì?”
Nhìn quanh một lúc bà mới chia
sẻ. Thuở thanh xuân bà thương yêu một chàng trai nghèo khó, hai bên rất tâm đầu
ý hợp. Tuy nhiên gia đình bà không chấp nhận gả con vì không môn đăng hộ đối.
Cha mẹ ruột buộc bà phải lấy người chồng hiện tại của bà. Khi bà lên xe hoa về
nhà chồng, người tình cũ đã viết cho bà một lá thư tuyệt mệnh trước khi tự tử.
Bà âm thầm ôm nỗi đau đó suốt mấy chục năm không dám nói với người chồng mới
của mình và cũng không hề tự sự với các con. Mỗi ngày đối diện trước bàn Phật,
bà thầm niệm chư Phật và Bồ tát Quan Thế Âm độ hương hồn người yêu tha thứ cho
hoàn cảnh của bà và siêu sinh thoát hóa. Sánh đôi và cùng bước với người chồng
mới, có được những người con hiếu kính, nói theo dân gian đây là mẫu vợ chồng
lý tưởng, ấy thế mà, tâm của bà lúc nào cũng canh cánh nghĩ về người xưa. Bởi
vì người đó đã hy sinh và nguyện giữ trái tim của mình chứ không muốn bước với
một người nào khác. Anh ta chấp nhận bạn gái của mình đến với người thứ hai,
còn anh ta sẽ ở vậy để chờ một kiếp sau.
Nỗi đau đó khiến bà luôn trong
trạng thái so sánh, đối chiếu mối tình đã qua với mối tình hiện tại và dù mối
tình hiện tại hạnh phúc cỡ nào đi nữa, bà vẫn thấy sự thay thế này khập khiễng.
“Giống nhau lắm nhưng người đi sẽ biết”.
Thử hình dung nếu chúng ta thay thế một chiếc dép mới y hệt mô hình của chiếc
dép cũ. Người chưa từng đi trên đôi dép có thể không biết, nhưng người đã từng
bước trên hai chiếc sẽ dễ dàng cảm nhận sự khác biệt. Trọng lực về khối lượng
của người đi đặt trên chiếc dép đã làm cho chiếc dép đó giãn nở ở một mức độ
nhất định. Nếu đã sử dụng vài chục ngày, độ giãn nở cũng tương thích trong vài
chục ngày đó. Chiếc dép mới thay thế vào sẽ không có độ giãn nở tương tự và
người tinh ý sẽ nhận ra bằng thân thức của mình thông qua sự xúc chạm. Vì bản
chất “hai chiếc này chẳng phải một đôi
đâu”. Chiếc có trước, chiếc được lắp ghép vào sau luôn khập khiễng.
Trong tình yêu, nếu cứ để tâm mình trôi về quá khứ, về một mối tình nào đó rất
đẹp thì ta không thể nào sống hạnh phúc trong hiện tại. Cho nên đừng ôm hình
ảnh quá khứ mà làm chết mối tình trong hiện tại. Chúng ta hãy chuyển hóa nỗi
đau từng có bằng những hành động tích cực hơn.
Đính hôn với người mới mà tâm cứ
hoài vọng và khổ đau về người cũ thì dù hiện tại có hạnh phúc đi chăng nữa,
người đó cũng không cảm nhận được. Đó là tình trạng hạnh phúc bất đắc dĩ. Ngoài
ra còn một số trường hợp dễ dàng bước sang ngang, nhưng sau đó nghĩ lại, bị
lương tâm dằn xé, nhất là khi sống không hạnh phúc với người mới này. Bấy giờ người
ta mới cảm nhận rằng sự mất mát người kia do quyết định sai lầm của bản thân là
một điều đáng trách. Cho nên phải hết sức thận trọng chúng ta mới có thể giữ
được giá trị và làm cho tính cách bền bỉ của sóng đôi còn mãi với ta.
Nỗi
nhớ chênh vênh
Khổ thứ tư nói về sự chênh vênh
khi một trong hai người yêu nhau đã chia tay, để lại nỗi đau trống vắng ở người
còn lại:
“Cũng như mình trong những lúc vắng nhau
Bước hụt
hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên
cạnh đã có người thay thế
Mà trong
lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh”
Tác giả mượn hình ảnh của chiếc
dép để nói về nỗi đau tình cảm mà mình dành tặng người yêu khi ý thức rõ rằng
mối tình đã không còn nằm trong vòng tay của mình nữa. Trạng thái cô đơn luôn
luôn đòi hỏi chúng ta tìm kiếm một cái khác để lấp vào. Nhưng càng lấp nhiều
chừng nào trong tình huống chưa được thỏa mãn thì trạng thái trống trải sẽ càng
trỗi dậy nhiều hơn bao giờ hết. Đó không phải là giải pháp. Nó chỉ là một sự
chữa lửa như tình huống của bà lão ngoài bảy mươi tuổi. Mấy chục năm trôi qua
mà hình ảnh xưa vẫn không bao giờ nguôi ngoai trong tâm thức. Nỗi đau đó làm
cho bà tắt lịm cả hạnh phúc có mặt tại bây giờ. Việc có người thay thế bên cạnh
thường diễn ra bằng ba tình huống:
Tình huống một, người ta nỗ lực
sang ngang với mẫu người đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn a, b, c hấp dẫn hơn, ít nhất
về phương diện vật chất để có được điểm nương tựa lâu dài trong an ổn.
Thứ huống hai, do hoàn cảnh môi
trường không cho phép sự sóng đôi được diễn ra. Chẳng hạn một bên theo Thiên
Chúa giáo, một bên theo đạo Phật. Họ tộc hai bên không đồng tình. Như mối tình
câm của Hàn Mạc Tử và Mộng Cầm. Mộng Cầm là Phật tử thuần thành, còn Hàn Mạc Tử
là một nhà thơ Thiên Chúa giáo. Do khác tôn giáo nên tình yêu của họ không được
hai bên chấp nhận. Từ đó chất thơ trong tình yêu tuyệt vọng đã trỗi dậy trở
thành những áng thơ bất hủ.
Vừa rồi khi tham quan đồi tưởng
niệm nhà thơ Hàn Mạc Tử, chúng tôi gặp phó tổng giám đốc của khu du lịch này.
Anh hỏi phải làm gì để thu hút
du khách. Chúng tôi đề nghị, muốn khu du lịch trở nên thịnh vượng thì phải mạnh
dạn đưa thêm yếu tố Phật giáo vào. Bởi vì đại đa số du khách Việt Nam theo đạo
Phật. Nếu chỉ đặt mộ Hàn Mạc Tử cùng hình ảnh của cây thập giá thì chắc chắn
chỉ thu hút được những nhà yêu thơ và những mối tình lãng mạn, còn phần lớn sẽ
không ghé chân vào. Mộng Cầm là người theo Phật giáo. Chúng ta có thể gắn hình
ảnh Mộng Cầm đang quỳ lạy trước đức Bồ tát Quan Thế Âm. Đó là lý do chính đáng
để dựng tượng Bồ tát Quan Thế Âm trên đồi thờ Hàn Mạc Tử. Du khách vì tôn thờ
Bồ tát Quan Thế Âm nên sẽ đến. Như vậy nhờ hình ảnh của Mộng Cầm mà tượng Bồ
tát Quan Thế Âm được dựng lên, tuy thế, nó vẫn không phản lại văn hóa truyền
thống mà gốc rễ là Thiên Chúa giáo của nhà thơ Hàn Mạc Tử này.
Góp ý như thế còn việc thực hiện
hay không tùy thuộc vào ban giám đốc. Nối kết hai hình ảnh gợi lên một chuyện
tình lịch sử gắn liền với nỗi khổ niềm đau do hai bên không đến được với nhau.
Tình huống thứ ba, một trong hai
người vì lý do sức khỏe mà qua đời. Người còn lại trở thành góa bụa hoặc tái
giá. Trạng thái cô đơn dễ dàng đẩy người ta đến với hình bóng khác. Thông
thường ngoài xã hội, một người chồng đóng vai trò gà trống nuôi con sẽ không
được các cô để mắt tới. Anh ta phải tự đi tìm người thay thế chức năng làm mẹ
của mình. Ngược lại, các cô góa phụ vẫn thường được cánh đàn ông săn đón ghé
mắt nhìn với mong muốn trở thành anh hùng nâng đỡ khoảng trống cô đơn bị mất
mát ở người phụ nữ kia.
Chúng ta phải biết tất cả sự
thay thế luôn tạo ra tình trạng chênh vênh và tác giả bài thơ này đã cảm nhận
rất rõ dù có một người khác ở bên cạnh. Người khác ấy thậm chí trẻ đẹp hơn
nhưng hầu như không bằng được giá trị ban đầu vốn đã gây ấn tượng khó nhạt nhòa
trong tâm trí. Và do vậy dòng cảm xúc sẽ làm cho mọi giá trị hiện thực bị đong
đo tính đếm một cách rất chủ quan nếu không nói là sai lầm. Cho nên, giải quyết
cô đơn bằng việc lắp ghép người khác vào không phải là một giải pháp.
Có
mặt cả đôi
Khổ thứ năm nói về giá trị của
sự có đôi trong đời:
“Đôi dép vô tri khắng khít song hành
Chẳng
thề nguyền mà không hề giả dối
Chẳng
hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi
nào cũng có mặt cả đôi”
Sự đồng hành của đôi dép dù
không hề có thề nguyền cũng không hề ước hẹn. Thề nhanh, thề dễ dãi chừng nào
thì bội thề phản ước diễn ra chóng chừng đó. Những người cẩn trọng trong lời
hứa thường là những người biết giữ uy tín cao. Một bài thơ được phổ nhạc của Vũ
Thành An như sau:
“Ôi đớn đau đã nhiều rồi
Một lời
thêm, càng buồn thêm
Còn hứa
gì?
Biết bao
lần anh đã hứa,
Hứa cho
nhiều rồi lại quên,
Em biết
tin ai bây giờ”.
Đó là tiếng nức nở nghẹn ngào
trong nỗi đau của người bị bội ước. Có thể chàng trai này rất giỏi về ăn nói
nhưng dở về cái tâm. Anh ta biết nói làm sao để chinh phục người mình thương.
Rất nhiều thiếu nữ, đặc biệt ở vùng thôn quê nghèo khó khi đối diện trước những
lời hứa hẹn hão huyền đã dễ dàng bị chao đảo cõi tâm và gởi trọn số phận của
mình.
Gần đây chúng tôi đọc những
thống kê xã hội học nói về cô dâu Việt Nam tại Hàn Quốc và Đài Loan mà thấy
thương cho số phận người Việt Nam nghèo khó. Họ có nhan sắc, có tướng hảo. Thông
qua các dịch vụ môi giới, họ nghĩ rằng có thể lấy được một tấm chồng giàu sang
phú quý. Họ chấp nhận hy sinh bản thân như nàng Kiều để giúp cha mẹ và người
thân. Không ngờ khi lên xe hoa về nhà chồng, anh chàng đẹp trai được giới thiệu
đâu chẳng thấy, chỉ thấy một ông già tuổi bằng cha, hoặc ông mình. Có những ông
nằm liệt sụi trên giường, một số khác lừ đừ lẳng đẳng như một kẻ tâm thần. Và
mối tình với những lời ước hẹn lập tức tan thành mây khói, bởi vì người ta chưa
đủ thời gian tìm kiếm. Do đó thiết lập tình yêu trên nền tảng của giải quyết
kinh tế là một sự sai lầm.
Các nhà thống kê xã hội học
người Đài Loan và Triều Tiên đưa ra lý do người Việt Nam thích lấy chồng ngoại
quốc là bởi vì các đ ài truyền hình Việt Nam trình chiếu quá nhiều bộ phim sản xuất
từ hai nước này. Trong đó, các vai diễn viên nam đóng hầu như là những người
chồng lý tưởng, những cậu trai anh hùng, những ông chủ tịch công ty đứng đắn và
có lương tâm. Hình ảnh đẹp để lại ấn tượng rất đẹp về con người khác giới phái
của Đài Loan và Triều Tiên, cho nên các cô gái Việt Nam dễ dàng chấp nhận mà
không cần tìm hiểu sâu sắc về nguồn gốc và tư cách của những người mà họ sẽ
phải sống chung trọn đời. Để rồi khi khắng khít song hành thì lời hẹn ước thông
qua môi giới chỉ đơn thuần là lời hẹn ước. Cô dâu Việt Nam trở thành những kẻ ở
đợ nơi đất khách quê người.
Một lần hòa thượng viện chủ chùa
Ấn Quang đưa chúng tôi sang Đài Loan với Phật sự tham dự Hội thảo Quốc tế.
Trong chuyến thăm viếng các ngôi chùa tại đây có những Phật tử người Việt Nam thưa
thỉnh với hòa thượng rằng: “Chúng con làm
dâu tại đây khổ lắm. Ngôn ngữ chẳng biết là bao, tiếng được tiếng mất, mà lại
sống cảnh cô đơn buồn chán. Viết thư về quê tâm sự thì lại cảm thấy thẹn vì
ngày đưa tiễn mình, lễ hôn nhân đã được tổ chức rất linh đình. Ai cũng đoán lên
xe hoa về nhà chồng sẽ được giàu sang, sung sướng. Bây giờ nói thật những điều
đó ra thì bất hạnh và xấu hổ vô cùng, cho nên chúng con phải cắn răng chịu
đựng. Do đó mong Giáo hội hãy cử các vị pháp sư sang đây để thuyết giảng cho chúng
con nghe Phật pháp, nhằm vơi đi nỗi khổ niềm đau đang phải đối diện”.
Đó là những yêu cầu hết sức chân thành.
Nhiều lần thuyết giảng Phật pháp
tại Hoa Kỳ và Úc Châu, chúng tôi đã tiếp xúc với rất nhiều thành phần. Đa số
các bà vợ than vãn rằng họ không muốn cho chồng mình về thăm quê hương vì như
thế sẽ mất chồng. Vài trăm đô chẳng đáng gì so với thế giới phương Tây, nhưng
về Việt Nam thì đó là số tiền khá lớn. Những người đ àn ông ga lăng khi về thăm
quê hương chỉ cần bỏ ra vài trăm đô như thế là có thể lợi dụng tình cảm của một
số thiếu nữ thôn quê nghèo khó, qua việc giúp các cô trang trải cuộc sống trong
vài tháng. Bằng tiền, tình yêu đã được thiết lập một cách giả dối. Một bên nghĩ
rằng tiền sẽ dễ dàng giải quyết vấn nạn kinh tế bản thân. Một bên khác nghĩ
rằng có tiền, ta sẽ có thể ăn thêm chả hưởng thêm nem. Không hề đoái hoài người
vợ và những đứa con ở nước ngoài phải ngậm đắng nuốt cay sống trong cô đơn uất
hận.
Hoặc những trường hợp đính hôn
với nhau, được bảo lãnh sang Hoa Kỳ, Pháp, Úc, Canada… Vài ba tháng cuộc ly dị
diễn ra. Bởi vì từ khi còn ở Việt Nam, người nữ được chu cấp đời sống vật chất
vài trăm đô mỗi tháng khiến họ có cảm giác người chồng tương lai của họ rất
giàu. Không ngờ sang bên kia mới biết chồng mình thất nghiệp, phải ăn nhờ tiền
lương trợ cấp của nhà nước sáu bảy trăm đô mỗi tháng. Sử dụng hai ba trăm đô
cho mình mà mình đã tưởng đang được ở tận mây xanh. Do đó đến với nhau bằng
tiền bạc mà lầm tưởng đó là tình yêu thì sẽ phải trả bằng một cái giá rất đắt.
Những lời thề ước giả dối không
bao giờ có tuổi thọ. Tin vào những lời thề ước này là ta đang đốt cháy hạnh
phúc của mình từ ngay giây phút đặt niềm tin. Còn đôi dép, chẳng thề thốt chẳng
hứa hẹn nhưng sống bằng sự phát tâm, gắn bó khắng khít: “Lối đi nào cũng có mặt
cả đôi”. Bớt lời hẹn ước mà thay thế nó bằng những hành động cụ thể, bằng sự
hiểu biết, bằng một niềm tin, bằng lương tâm, nhận thức sáng suốt thì độ bền
mới giúp ta sóng đôi nhau cho đến giờ phút cuối của cuộc đời.
Gắn
bó đường đời
Khổ thứ sáu của bài thơ gợi lên
sự gắn bó nhau là yêu cầu tạo hạnh phúc:
“Không thể thiếu nhau trên bước đường đời
Dù mỗi
chiếc ở mỗi bên phải trái
Nhưng
tôi yêu em ở những điều ngược lại
Gắn bó
nhau vì một lối đi chung”
Tác giả bài thơ này đã giải
thích lý do cần phải có sự gắn bó trong đời sống vợ chồng là vì hai người đi
cùng một hướng. Đây là yếu tố nền tảng không thể thiếu nhưng nó chưa phải là
yếu tố đủ. Trước nhất, vợ chồng đến với nhau vì cảm giác không thể sống cô đơn
một mình. Còn người xuất gia được huấn luyện sống trạng thái cô độc nhưng không
cô đơn.
Cô độc thuộc về vật lý, cô đơn
thuộc về tâm lý. Rất nhiều người mặc dù được bao bọc bởi hàng trăm thuộc hạ, kẻ
hầu người hạ xung quanh nhưng nếu không có sự đồng hành với người thân thì
trạng thái cô đơn vẫn diễn ra. Cho nên cô đơn không lệ thuộc vào điều kiện vật
lý dù đông người, hay đang bóng chiếc đơn côi. Người cô độc là người làm chủ
được trạng thái cô đơn, sống hoài mà không cảm thấy cần bất kỳ sự sánh đôi với
một người nào khác. Ở Láng Le Bàu Cò có ngôi chùa Phật Cô Đơn. Kể từ khi đức
Phật đó được đặt là Phật Cô Đơn thì dòng người hành hương đổ về đây nhiều hơn
chưa từng thấy, đến độ khu làng trước và làng sau của tượng Phật trở thành
trung tâm dịch vụ cho khách hành hương.
Trước năm 1975, tượng Phật này
được đặt ngồi tại đồng hoang cỏ cháy. Sau đó người ta dùng trực thăng để thỉnh
Ngài dời đến một nơi khác. Nhưng khi vừa thỉnh lên thì bị đứt dây rơi xuống, cứ
ba bốn lần như vậy cho nên dân làng góp ý hãy để Ngài ở lại đây, bằng không sẽ
bị tổn phước, bệnh tật mà chết. Kể từ đó, đức Phật này được gọi là đức Phật Cô
Đơn. Thực ra Phật nào có cô đơn. Chỉ người phàm mới cô đơn, còn đức Phật sống
bằng tuệ giác, Ngài ở một mình như ở trước mặt mọi người, không hề có trạng
thái cô đơn. Vì không cô đơn cho nên sáu năm Ngài ở rừng sâu núi thẳm, biết bao
nhiêu thú rừng độc, ấy thế mà Ngài vẫn không hề sợ, vượt qua hết tất cả thách
đố, chứng đắc đạo quả và truyền bá con đường tâm linh cho chúng ta.
Một số khái niệm trong cuộc đời
sử dụng sai về Ngài. Tuy nhiên, xét về phương diện nào đó, nhờ khái niệm sai mà
nhiều người mới cảm thấy hấp dẫn. Vì không muốn cô đơn cho nên người ta đến lạy
Phật Cô Đơn để Phật gia phước cho mối tình buồn khổ ở hiện tại trở thành mối
tình sóng đôi trọn đời trọn kiếp. Âu cũng là một ý hay.
Sự tương duyên nhằm giúp chúng
ta hiểu rằng đời sống vợ chồng cần có nhau trên mọi bước đường đời. Ta có nhau
vì nhiều mục đích chứ không phải chỉ một mục đích duy nhất là đi cùng một lối.
Trong kinh đức Phật nêu ra bốn yếu tố.
Thứ nhất là đồng tín, hiểu theo
nghĩa lớn nhất là hai bên phải cùng tôn giáo, còn hiểu theo nghĩa đơn giản hơn,
thực tế hơn là hai bên phải sống cùng một pháp môn. Người tu theo mật tông,
người kia lại tu theo thiền thì cách lý giải và giải quyết các vấn đề liên hệ
đến con cái và bản thân luôn gặp mâu thuẫn. Một bên cho tự lực là cứu cánh. Bên
kia lại cho tha lực là tuyệt đối thì hai bên không thể thuận hòa. Cho nên chung
niềm tin, chung tôn giáo là yếu tố quyết định.
Thứ hai là đồng chí, tức là lý
tưởng, lập trường, quan điểm, khuynh hướng phải tương thích với nhau. Người đi
theo chủ nghĩa xã hội, người kia đi theo chủ nghĩa tư bản, hoặc người thì cho
rằng chết là hết, người kia lại cho rằng chết rồi sẽ tiếp tục tái sinh. Mâu
thuẫn đó không thể mang lại hạnh phúc. Vì hầu như quan điểm của hai bên rất khác
biệt về thế giới quan, nhân sinh quan, đạo đức quan, và luân hồi quan.
Thứ ba là đồng hạnh, tức là đời
sống đạo đức, tư cách phẩm hạnh của hai bên phải ngang nhau. Một bên giữ “chính chuyên một chồng”, còn bên kia
lại “năm thê bảy thiếp” thì
sớm muộn cũng chia tay, ngoại trừ các bậc vua chúa thời cổ xưa. Còn hiện nay,
phong cách sống như thế không được chấp nhận. Một bên rượu chè be bét, còn một
bên không hề biết ăn chơi cũng không thể sóng đôi cùng lứa lâu dài. Do đó chúng
ta phải nâng trình độ đạo đức của hai bên ngang bằng nhau.
Thứ tư là đồng thí, nghĩa là
cùng tính cách rộng lượng, chia sẻ những sở hữu tài sản của mình cho tha nhân
và cộng đồng trong những tình huống mà sự chậm trễ giúp đỡ sẽ mang lại nỗi khổ
niềm đau nhiều hơn cho nạn nhân. Tuy nhiên, nếu một người quá rộng lượng, kẻ
lại quá keo kiết
cũng chẳng thể vui vẻ với nhau.
Rất nhiều bà vợ phát tâm cúng kính nhiều chùa với các Phật sự, nhưng khi được
chùa gởi phiếu công đức thì không dám nhận. Họ đưa lý do sợ chồng biết sẽ la
rầy, cho rằng “vợ ngu si đem tiền đút mấy
ông thầy chùa ăn”. Đút cho Phật sự là phải mừng, còn đút cho ông
nào ăn mới đáng sợ.
Chúng tôi khuyên quý bà cứ mang
phiếu công đức về nhà, để mỗi khi chồng hoài nghi, ghen bóng ghen gió thì đưa
phiếu công đức ra làm bằng chứng chứng tỏ số tiền đó chúng ta đã làm công đức
từ thiện nhằm tạo âm đức cho gia đình và cho con cháu mình lâu dài. Dù nếu anh
không tin có phước báu trong tương lai đi nữa thì ít nhất, việc làm những nghĩa
cử cao thượng này cũng giúp cho xã hội bớt đi một phần nỗi đau. Nó rất có giá
trị. Ông chồng dù ngang đầu cứng cổ hay tâm keo kiệt bỏn xẻn cỡ nào đi nữa cũng
không nỡ tiếp tục la rầy quở mắng người vợ của mình. Anh ta sẽ chấp nhận hoan
hỉ để cả hai cùng làm. Đi cùng một hướng một cách song hành sẽ bền bỉ hơn nhiều
so với sự đi đơn chiếc.
Tác giả bài thơ cho biết, sở dĩ
anh yêu cô nàng nào đó bởi vì cô có những điều ngược lại mà anh ta không có. Ở
đây nó chỉ phản ánh sự khác biệt nhau về giới tính, hay một sự đối lập gây hấp
dẫn đến cho nhau như là điều không thể thiếu. Tuy nhiên, về lâu về dài thì hấp
lực đó sẽ không bền, nếu chúng ta không có những mẫu số chung bốn yếu tố như
vừa nêu từ kinh điển của nhà Phật.
Trên thực tế, nhiều trường hợp
hai người tương khắc với nhau như nước với lửa, ấy vậy mà lại dễ sống bền chặt
với nhau. Chúng ta phải hết sức cẩn trọng, thà chậm một bước còn hơn cưới lầm,
ở lầm. Chẳng lẽ mỗi lần cưới lầm ở lầm như vậy là ly dị. Đó không phải là cách
giải quyết vấn đề một cách trọn vẹn và dứt điểm. Chọn đúng người thì sau này
chúng ta sẽ không phải nuối tiếc. Phải thấy rõ nam nữ đến với nhau trên tư cách
vợ chồng không mâu thuẫn, ngược lại phải hỗ trợ lẫn nhau để ta không tạo ra ức
chế tâm lý cho bên còn lại, không có những phân biệt đối xử, những bất công
trong gia đình và bất công xã hội.
Lặng
bước một mình
Khổ thứ bảy đề cập đến tình
huống một trong hai người rời bỏ cõi đời, để người còn lại trong nỗi cô đơn,
trống trải:
“Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng
lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn
một là không còn gì hết
Nếu
không tìm được chiếc thứ hai kia”
Thông thường, một chiếc dép bị
hư thì chiếc dép còn lại cũng mất tác dụng và bị quẳng đi không thương tiếc.
Một người qua đời thì người kia ắt cảm thấy cô đơn buồn chán tột cùng. Rất
nhiều mối tình cũng diễn ra như thế. Một con thiên nga qua đời, con thiên nga
còn lại giữ chung thủy rồi chết theo. Cũng có một số người khi vợ hoặc chồng
mình chết thì trong vòng vài chục ngày kéo theo sau, vì buồn và uất hận quá mà
qua đời. Thiên hạ không biết cứ nghĩ rằng chết trùng tang, chết tam tai.
Thực ra vì thương quá nên ngày
đêm sầu não, dòng cảm xúc dâng trào, máu, tim mạch bị rối loạn, sức khỏe ngày
càng giảm sút dẫn đến biến cố, và cái chết có mặt. Hãy hiểu theo tinh thần Phật
dạy, khi một người kia đi, chúng ta đừng bi lụy quá mức bởi vì làm như thế sẽ
trở ngại cho người ra đi. Người còn lại phải tâm sự sao cho người đi trước có
được trạng thái an tâm không lo lắng phần còn lại.
Sự an tâm lớn nhất trong tình
huống này là chúng ta phải cam kết rằng sẽ không tái giá và vẫn đủ sức nuôi
nấng dạy dỗ con cháu đang còn ở tuổi trẻ thơ, mặc dù trên thực tế chúng ta cũng
đang bối rối. Tuy nhiên ta vẫn cam đoan như thế để người đi kia mạnh dạn vẫy
tay chào vĩnh biệt cuộc đời. Sau khi người kia đi xong, thì chuyện còn lại sẽ
tính sau, lúc đó có quỵt lời hứa cũng không sao vì đức Phật cho phép. Khi khế
ước hôn nhân đã kết thúc, một trong hai người đi thì người còn lại được quyền
tái giá. Nhưng trong suốt thời gian bốn mươi chín ngày, xa hơn nữa là hai năm
phòng hờ tình trạng người ra đi còn luyến tiếc thì vợ hay chồng còn lại không
nên tái giá gây niềm uất hận. Hương hồn người ra đi cứ theo dõi ngày đ êm và
dẫn đến tình trạng bị vướng dính lại ở ngôi nhà của mình. Do đó chúng ta phải
hy sinh, giữ trọn mối tình đẹp cho người kia, tốt hơn nữa, không nên có nhu cầu
để bước thêm bước nữa. Như vậy là ta hỗ trợ cho người quá cố rất nhiều.
Câu thơ “Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc”.
Quan điểm này hơi bi quan. Trong việc sử dụng đôi dép, còn một chiếc vẫn tốt
hơn không còn chiếc nào. Chẳng hạn, nếu đang đi trên con đường chông gai, sỏi
đá hay cát nóng, có một chiếc dép sẽ giúp ta đỡ phỏng chân, bàn chân còn lại,
ta có thể dùng vải quấn vào. Như vậy chúng ta nào đâu thất hứa mà là đang sử
dụng chức năng của chiếc còn lại.
Điều đó có nghĩa, một người đi
trước thì người còn lại đừng vì thế mà chết theo. Đừng tự vẫn, đừng uất hận mà
chết. Chúng ta phải sống để tạo phước báu hồi hướng công đức cho người quá cố.
Nhà thơ Hàn Mạc Tử từng viết:
“Người đi một nửa hồn tôi mất,
Một nửa
hồn kia bỗng dại khờ”.
Quan điểm của Hàn Mạc Tử cũng
giống như rất nhiều người chưa hiểu đạo. Tình yêu là cả một thái hư hạnh phúc
mà nếu mất nó bằng bất kỳ lý do nào gồm sức ép của gia đình, sức ép của xã hội,
hay sức ép khác biệt giữa hai bên sẽ làm cho thái hư, hoặc vòng tròn hạnh phúc
đó bị chẻ làm đôi. Một bên mất không còn vết tích, bên còn lại có cũng như
không, “bỗng dại khờ”. Đó là
vì người ta đã lầm tưởng, đã đánh đồng tình yêu với toàn bộ khối hạnh phúc mà
con người có thể có. Thực chất, ngoài tình yêu chúng ta còn lý tưởng, còn lòng
từ bi, còn tình thương hiếu kính đối với ông bà cha mẹ, con cái và hàng loạt
các giá trị phụng sự khác. Ai cường điệu hóa và sống với quan niệm như Hàn Mạc
Tử thì sự chia tay của cuộc tình sẽ làm cho người đó “dại khờ”, mất sức sống.
Có lần chúng tôi đi làm từ thiện
tại Trung tâm Bảo trợ Xã hội tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Trung tâm này gồm nhiều
thành phần: điên, già, tàn tật, trẻ mồ côi, và HIV-AIDS. Đến trại của những
người điên, chúng tôi quan sát thấy những người điên tại đây bị nhốt vào trong
một cái máng, phía trước máng có một hàng rào cách xa khoảng hai mét. Tất cả
phải xếp hàng tuần tự đi ngang qua. Những người điên ít hơn quản lý người điên
nhiều bằng gậy gộc để đưa họ qua bên kia nhận thực phẩm.
Trong lúc chuyền tay nhau những
phần quà đến những mảnh đời khổ đau này, thì có một chị thiếu phụ khoảng chừng
ba mươi tuổi nói liên miên với chúng tôi rằng: “Thầy ơi, thầy nhớ giới thiệu em cho thằng Mỹ trắng nghe hông, đừng
giới thiệu thằng Mỹ đen xấu lắm”. Có lẽ chị này đã được người ta
hứa hẹn làm ông tơ bà nguyệt cho chị giải quyết những khổ đau vật chất trong
đời thường, nào ngờ lại bị lợi dụng mất trinh tiết, mất luôn cả hạnh phúc. Chịu
đựng không nổi dẫn đến cuồng điên. Với trạng thái điên như thế, chị chỉ còn nhớ
hình ảnh duy nhất đã được hứa hẹn khi mình lên thành phố, đó là lấy chồng Mỹ
trắng giàu sang, đẹp trai. Tình huống điên như vậy có thể trị liệu được.
Trong các nguyên nhân dẫn tới
điên loạn từ xã hội và người thân, chúng ta chỉ cần đến bằng tình cảm chân
thật, theo dõi bền bỉ diễn biến tâm lý của người đó để tạo ra một năng lượng
tích cực. Việc gần gũi và truyền tâm lực của mình thì sau một thời gian, những
chứng bệnh sẽ có thể vượt qua phần nào.
Trường hợp những người bị điên
bởi cấu trúc của tâm và thần kinh trục trặc chẳng hạn sau tai nạn va đập đầu
v.v... dẫn đến một bộ phận nào đó không còn hoạt động như trước thì vấn đề trở
nên nan giải hơn. Còn ngoài ra điên do hoàn cảnh xã hội có thể phục hồi lại
được.
Đạo Phật dạy trong bất kỳ tình
huống nào, một người đi trước vì bệnh tật, vì lý do tai nạn hay chia tay với
ta, thì bên còn lại cũng không nên quá đau khổ. Đừng dừng lại mà phải tiếp tục
đi. Chỉ cần quán tưởng chúng ta đang vẫy tay chào với ba mươi sáu thể trược.
Dùng triết lý của Phật giáo để
nỗi đau và uất hận không nối kết với chúng ta ngay đời này lẫn đời sau. Đức
Phật dạy trong kinh rằng thân thể vật lý được cấu tạo bởi ba mươi sáu yếu tố.
Những yếu tố đó vô thường biến hoại và làm cho chúng ta không bao giờ đạt được
ước vọng. Nó sẽ còn hoài với hình ảnh rất đẹp và dài lâu. Cho nên vẫy tay chào
với ba mươi sáu thể trược như thế càng sớm càng tốt chứ có đâu mà sầu khổ.
Có lần, một cô đến nhờ chúng tôi
tư vấn. Cô nói: “Thầy ơi, con biết cái
thằng thương con này nó bội bạc lắm, nó sở khanh lắm, miệng nó dẻo lắm, nhưng
con lỡ thương nó rồi, bỏ hổng nổi. Ngày nào cũng thấy nó chở hết cô này đến cô
khác, tức quá. Thầy có bùa phép nào của nhà Phật để giúp cho nó trở về với con
không?”.
Đã biết nó lừa như một kẻ sở
khanh mà còn muốn trở về với mình. Lúc đó chúng ta chỉ còn cách vẫy tay chào
với ba mươi sáu thể trược. Mình có phước nên mới sớm nhận diện ra rằng người
kia là kẻ sở khanh để không phải lún sâu trên con đường khổ đau khi mối tình
trổ hoa kết trái. Thà biết sớm ta sẽ có cách ứng xử thích hợp cho bản thân.
Trong tình huống này, tốt nhất phải thương chính mình, rũ bỏ đừng nên tiếc
nuối.
Vẫy tay chào là thái độ rất thân
thiện. Ai làm xấu kẻ đó phải chịu hậu quả trước pháp luật, trước nhân quả, và
trước tòa án lương tâm. Chúng ta không cần phải trả thù trả đũa. Làm như vậy
chính ta cũng bị hậu quả thêm. Cho nên hãy cứ vẫy tay chào, xem rằng mình đã
tách ly khỏi khối khổ đau, đang trở thành một người tự do để hưởng những giá
trị hạnh phúc của tự do này. Đừng quan niệm sai lầm như Hàn Mạc Tử để nỗi đau
không có mặt với ta một cách lâu dài.
Nói tóm lại, bài thơ “đôi dép” nói về triết lý chung thủy
giữa vợ và chồng. Triết lý này có thể áp dụng cho người tại gia dù theo Phật
giáo hay không theo Phật giáo. Chúng tôi đề nghị người tại gia nên nhớ thuộc
lòng nội dung của bài thơ này. Người con Phật khi chỉ còn một chiếc dép vẫn
tiếp tục đi trong hạnh phúc, trong bình an để hồi hướng công đức cho người đã
ra đi trước bằng đời sống chung thủy, ứng dụng hành trì Phật pháp để vượt qua
sự cô đơn và trống vắng trong tâm.