Chương
5. Hôn nhân và hạnh phúc
Giảng
tại Chùa Sơn, Boston, Hoa Kỳ, ngày 07-07-2007
Con
số 7 và hôn nhân
Phần lớn các dân tộc trên thế
giới kỵ ngày 06 tháng 06 năm 2006 vì nghĩ rằng đó là ngày bất hạnh. Gốc rễ của
nền văn hóa phương Tây, cụ thể là Thiên Chúa giáo thường né tránh con số 6 khi
đăng lý số nhà, số xe hay số điện thoại… Trong khi đó, số 6 trong nhà Phật
tượng trưng cho hành động trọn vẹn và gắn liền với sáu pháp môn toàn hảo giúp
hành giả đến được bến bờ an vui giải thoát, đó là sáu Ba La Mật gồm bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ.
Riêng thứ bảy ngày 07 tháng 07
năm 2007 được thế giới quan niệm là ngày may mắn đặc biệt trong hôn nhân. Cứ
mỗi 100 năm chỉ có một ngày 07 tháng 07. Bản chất của con số 7 đuợc phần lớn
các nền văn hóa quan niệm tượng trưng cho sự may mắn. Theo thống kê của công ty
môi giới hôn nhân, theknot.com,
Hoa Kỳ có đến 65,000 cặp trai gái đăng ký đính hôn trong ngày này.
Nền văn hóa phong thủy của Trung
Quốc đã tác động khá tích cực vào Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới. Văn hóa
Trung Hoa quan niệm con số 7 là con số hội tụ, nó được lý giải rằng khi hai
trái tim yêu thương đã thông qua một khế ước hôn nhân dưới sự chứng kiến của
hai họ tộc thì cần phải có sự hòa hợp và nối kết với nhau. Bằng không sẽ dẫn
đến tình trạng “đồng sàng dị mộng”,
mỗi người mỗi khuynh hướng, mỗi cá tính, mỗi cách ứng xử.
Người ta còn tính toán đong đo
để được càng nhiều con số 7 càng tốt. Chẳng hạn, họ sẽ tổ chức vào 7giờ 7phút
sáng hoặc tối, mời 7 cặp cô dâu và chú rể phụ, làm 7 loại bánh với 7 sắc màu…
Nói chung, càng nâng cao cấp số cộng của con số 7 thì niềm tin vào sự may mắn
càng gia tăng.
Ước muốn một đời sống hôn nhân
hạnh phúc trên nền tảng biểu tượng của con số 7 phản ánh thái độ và lòng quyết
tâm duy trì cuộc hôn nhân như một khế ước xã hội lâu dài. Nhưng bản chất của sự
lâu dài với hiểu biết của hai trái tim yêu thương đến mức độ nào thì đời sống
sẽ kéo dài đến mức độ đó, nó sẽ tồn tại theo ý muốn chủ quan của con người.
Nương vào quan niệm phong thủy của các con số chỉ có ý nghĩa biểu tượng cho sự
ước muốn. Để biến ước muốn đó thành công thì phải cần đến rất nhiều yếu tố khác
mà nhà Phật gọi là nhân quả.
Đa số các nhà tư tưởng không có
cảm tình về hôn nhân có thể vì đã thất bại nhiều lần. Cho nên họ thường đưa ra
các phát biểu rằng “Tình yêu là bình minh
của hôn nhân” và “Hôn nhân là
hoàng hôn của tình yêu”. Vì có tình yêu cho nên hai trái tim nỗ lực
nối kết thông qua cuộc đính hôn, nhưng khi đã đính hôn thì tình yêu đó dần dần
phai nhạt và mất đi các giá trị ban đầu.
Nhà thơ Hồ Dzếnh đã viết:
“Cái buổi ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn
năm hồ dễ mấy ai quên”
Nhưng sự thật thì người ta quên
rất nhanh và không mấy người trong chúng ta nhớ những kỷ niệm đẹp với niềm hạnh
phúc dồi dào khi còn ở trong mối tình đậm đà nhiều ấn tượng.
Con
số 7 trong tôn giáo và khoa học
Thế giới duy trì con số 7 qua
việc bầu chọn bảy kỳ quan thế giới. Người Mỹ gốc liên hệ số 7 đến phương hướng
đông, tây, nam, bắc, trên, dưới và trung tâm gộp lại thành một cái gì đó hội
tụ. Nền văn hóa của Hoa Kỳ dễ dàng tiếp nhận con số 7 phong thủy của nền văn
hóa Trung Hoa và đã nâng tầm quan trọng của biểu tượng này làm cho người ta có
cảm giác đó là biểu tượng của sự may mắn trong hôn nhân.
Do Thái giáo quan niệm thứ bảy
là ngày Sabát, tức là ngày tinh thần và tâm linh. Thiên Chúa giáo khi phát sinh
và làm mới nền văn hóa của Do Thái giáo lại cho ngày Chúa nhật, chủ nhật, mới
là ngày quan trọng, vì theo vị thứ thì ngày đó đúng là ngày thứ bảy, ngày nghỉ
ngơi của Chúa sau khi công trình tạo dựng được hoàn tất.
Ấn độ giáo lý giải cấu trúc nhân
thể học của con người gồm bảy vùng. Mỗi vùng tương ứng với một luân sa, và mỗi
luân sa là tâm điểm quan trọng nhất cho phần nhân điện về sự phát quang của con
người. Nếu biết huấn luyện để bảy luân sa này được phát huy theo nghệ thuật có
lợi thì sức khỏe, thể trí và tinh thần của con người sẽ ngày càng phát triển.
Sử dụng các luân sa giúp con người sống lạc quan và hạnh phúc trong cuộc đời.
Đức Phật được mô tả trong kinh
điển, khi được sinh ra dưới cội cây Vô ưu, ngài đi bảy bước, mỗi bước có một
đóa sen nâng đỡ bàn chân, và ngài đã tuyên bố: “Trên trời dưới đất chỉ có ta là trên hết”. Chúng ta cần lý
giải để hiểu điều này trên phương diện biểu tượng và triết lý hơn là hiểu theo
nghĩa đen của nó.
Đạo Phật có mặt chịu ảnh hưởng
một cách gián tiếp hay trực tiếp từ nền văn hóa của Ấn Độ giáo cũng đã sử dụng
các dữ liệu văn hóa này để mô tả thuyết lý của nhà Phật. Nếu bạch thoại là loại
ngôn ngữ nói huỵch toẹt mà người Trung Hoa sử dụng như là quốc ngữ để thống
nhất về sự giao tiếp và quan hệ hành chính, thì nền văn hóa Ấn Độ mà đạo Phật
sử dụng để mô tả trong kinh điển là cách mô tả mang tính biểu tượng. Người Ấn
Độ không thích nói huỵch toẹt. Các tác phẩm văn học Ấn Độ đều ít nhiều sử dụng
nghệ thuật tu từ làm cho tác học đó được xem như là một kiệt tác về văn chương.
Triết lý của người Ấn Độ cũng vậy, nói đâu hiểu đó thì người ta sẽ không cảm
tưởng có ấn tượng rằng đây là một đạo lý hấp dẫn. Vì vậy sự mô tả về cách thức
ra đời của Thế Tôn cũng mang tính cách biểu tượng trong nền văn hóa Ấn Độ.
Nếu chỉ mô tả rằng “Thế Tôn có mặt trong cuộc đời này mang lại sự trang
nghiêm, thanh tịnh, an lạc, hạnh phúc, và giải thoát cho con người”
thì người Ấn Độ không thấy ấn tượng, vì nó không có giá trị nào để phải tư duy
giải mã các biểu tượng chứa đựng trong sự mô tả đó. Cho nên thay vì vậy, người
ta mô tả mỗi bước chân đi của đức Phật có một đóa sen nâng đỡ. Giác ngộ của
ngài được nở trên đống sình của sinh tử trần ô. Đây là triết lý nhập thế rất
sâu sắc giúp các hành giả Phật giáo không chán nản những cảnh bất hạnh vốn như
là thực tại có mặt trong cuộc đời này. Trên thực tế, không có bất kỳ người nào
ngay cả đức Phật vừa ra đời có thể đi được, huống hồ phát biểu tuyên ngôn.
Chúng ta buộc phải hiểu cách mô tả đó chỉ mang tính biểu tượng. Câu tuyên ngôn
trong tình huống này được hiểu như một sự quyết tâm cao độ dẫn đến lý tưởng
không thuộc về việc thừa kế ngôi vua mà là sự lựa chọn con đường tâm linh để
giải quyết nỗi khổ niềm đau cho toàn nhân loại và tất cả chúng sinh.
Các nhà bác học Hy Lạp cổ đã
phát kiến ngẫu nhiên về sự kết hợp của con số 3 và con số 4 để tạo thành con số
7. Hình tam giác có ba cạnh nối kết với hình vuông bốn cạnh mang đến sự tuyệt
hảo trọn vẹn đầy đủ của hình học không gian. Không có hình vuông và hình tam
giác thì không có hình học không gian. Không gian n chiều là không gian của các
hình tam giác và hình vuông.
Niềm
tin và biểu tượng
Như nhiều nước trên thế giới,
nền văn hóa Nhật Bản cũng cho rằng con số 7 tượng trưng cho hạnh phúc thế gian.
Hạnh phúc đó được hiểu cao nhất là hôn nhân, mặc dù trên thực tế nhiều người
không thấy tầm quan trọng của hôn nhân đối với đời sống của người tại gia.
Người ta cho rằng gia tài, địa vị, chức tước mới là tiêu chí quan trọng nhất.
Nhưng thực ra, cái mà người ta hướng về đầu tiên là hôn nhân. Và cũng vì tình
yêu giới tính đó mà kinh điển nhà Phật xác quyết rằng nó trở thành như là điểm
hội tụ và lực hút của sinh tử. Đó là quỹ đạo của tiến trình tái sinh làm cho
các chủng loại có mặt chạy theo nghiệp và trở thành kẻ thừa tự những gì mình đã
tạo thông qua lời nói, ý nghĩ và việc làm.
Ngày 07 tháng 07 năm 2007 cũng
là lần thứ hai chính phủ Tony Blair, Anh Quốc, làm lễ tưởng niệm 52 người chết
tại London do
cuộc khủng bố diễn ra vào ngày này hai năm về trước. Nếu so sánh đối chiếu
những điều bất hạnh diễn ra trên hành tinh này thì chúng ta sẽ thấy rằng con số
7 chỉ mang ý nghĩa biểu tượng hơn là mô tả một sự thật rằng bất cứ điều gì gắn
liền với số 7 thì tượng trưng cho may mắn, thành tựu.
Nếu thống kê xã hội học về giao
thông thì lưu lượng di chuyển trên đường phố vào ngày 07 tháng 07 có thể cao
hơn những ngày thường, bởi vì người ta đổ xô ra đường với mục đích đi dự tiệc
cưới hay những sự kiện quan trọng. Ở những quốc gia thuộc về thế giới thứ ba,
các bữa tiệc hầu như đều gắn liền với rượu bia. Sau những buổi tiệc nhậu như
thế, ẩu đả, đánh đập dẫn đến thương tích và cái chết là điều khó tránh khỏi.
Cho nên trong quan niệm số 7
mang lại hạnh phúc lớn nhất của hôn nhân, chúng ta vẫn thấy đồng hành với nó
còn có sự bất hạnh. Từ góc độ Phật giáo, chúng ta nên sử dụng ý niệm biểu tượng
này là nỗi niềm mong đợi của con người trong cuộc đời hơn là những sự thật. Bản
chất của ước muốn theo nhà Phật là động năng đẩy chúng ta tới phía trước, lực
đẩy đó trở thành một trong những yêu cầu đầu tiên mà nếu thiếu nó, chúng ta
không thể tiến xa và thành công được. Trong 37 phẩm trợ đạo nó được gọi bằng
khái niệm “Dục như ý túc”.
Một ước muốn chân chính phù hợp với đời sống đạo đức kết hợp với các yếu tố tâm
linh sẽ tạo ra sự thành công và làm cho người nỗ lực được hài lòng. Bản chất
của ước muốn hoàn toàn không xấu nếu chúng ta biết sử dụng nó cho những mục
tiêu tích cực.
Tu theo Phật giáo không phải là
diệt dục mà là chuyển hóa các dục vọng tiêu cực có ích lợi cho bản thân nhưng
lại hại cho cộng đồng. Còn những ước muốn và các nguyện vọng chân thành thì cần
phải phát huy. Liên tưởng đến sự kiện Thế Tôn quyết tâm ngồi liên tục bốn mươi
chín ngày đêm dưới cội Bồ Đề, lời phát nguyện của ngài là một ước muốn rất chân
thành, “nếu không thành tựu được đạo quả
giác ngộ giải thoát thì dù cho thịt nát xương tan vẫn không rời khỏi nơi này”.
Lòng quyết tâm đó là điểm hội tụ của những nguyện ước chân thành và sử dụng có
nghệ thuật các nguyện ước đó có thể đạt thành công.
Nguyện ước ngày đính hôn là làm
thế nào để các hôn nhân được bền bỉ trong hạnh phúc, còn các quan niệm mê tín
thông thường chỉ dựa trên con số mà không có sự chuẩn bị về đời sống tinh thần,
tri thức và đạo đức, thì dù sử dụng bài toán cấp số cộng để có nhiều con số 7
vẫn không có giá trị gì, ngược lại nó có thể để lại nhiều sự tiếc nuối khi gặp
thất bại về sau. Mong mỏi mà không thành tựu làm cho con người thất vọng dẫn
đến khổ đau được gọi là “cầu bất đắc khổ”.
Nguyện ước về một đời sống hôn
nhân bền vững thì ai cũng có nhưng không mấy ai thành công. Thống kê năm
2007, Hoa Kỳ có tỷ lệ ly dị lớn
nhất thế giới, 49.5%, có nghĩa là trung bình hai cặp hôn nhân thì có một cặp ly
dị. Khó có quốc gia nào có tỷ lệ lớn như thế. Có nhiều cách lý giải nguyên nhân
dẫn đến ly dị. Một trong những lý giải đó cho rằng Hoa Kỳ là quốc gia tự do
nhất, tự do cá nhân đã làm cho cái “tôi”
của con người nhân rộng trở thành hàng rào kẽm gai bao bọc xung quanh. Phát
triển tự do cá nhân theo tình huống vừa nêu thì cái “tôi” trở nên mang tính thách đố trong
tất cả các mối quan hệ đặc biệt là quan hệ hôn nhân. Khi hai cái “tôi” của vợ và chồng đụng nhau sẽ có
một cái bị vỡ và một cái bị thương tật. Nền văn hóa tự do tuyệt đối ở Hoa Kỳ là
tiêu điểm hướng đến của phương Tây và các nước Châu Á, gây ra sự hụt hẫng rất
lớn về phương diện hôn nhân và hạnh phúc gia đình. Vì tự do quá mức mà phần lớn
những bà vợ khi không cảm thấy hài lòng về hôn nhân đã đương đơn ly dị.
Ấn Độ là quốc gia có tỷ lệ ly dị
thấp nhất thế giới, 1,1%. Tuy nhiên hôn nhân kéo dài tuổi thọ chưa chắc phản
ánh rằng gia đình đó được hạnh phúc. Thử làm một so sánh nhỏ các cặp hôn nhân ở
Hoa Kỳ và Ấn Độ. Cứ vào ngày thứ bảy và chủ nhật hàng tuần, quốc gia Ấn Độ có
khoảng vài trăm tờ nhật báo tiếng Anh và các ngôn ngữ địa phương, trong đó từ
tám đến ba mươi trang quảng cáo về hôn nhân dưới sự sắp đặt của cha mẹ. Nội
dung bài quảng cáo nêu rõ rất nhiều tiêu chuẩn tìm bạn đời. Chẳng hạn, phía
đàng trai đăng thông tin tuổi tác, vóc dáng, nghề nghiệp, học vị,… của chú rể,
và nêu nhu cầu tìm một cô dâu đáp ứng các tiêu chuẩn abcd. Hồ sơ thủ tục phải
nộp gồm sơ yếu lý lịch, một bài tử vi đính kèm hai tấm hình chân dung và toàn
thân. Bên đàng trai sẽ dựa vào những đương đơn mà chọn lựa. Sau đó, người ta
thỉnh mời nhà tiên tri, nhà phong thủy, hoặc nhà tử vi lỗi lạc theo truyền
thống này để định đoạt ngày tháng năm lễ cưới.
Người Ấn Độ xưa nay có khuynh
hướng thích được cha mẹ đặt để. Từ khi Hồi Giáo và Anh Giáo có mặt tại Ấn Độ
thì quan niệm hôn nhân này được thay đổi đôi chút nhưng vẫn không ảnh hưởng đến
nền văn hóa của quốc gia. Dù thuộc về tôn giáo nào thì quan niệm văn hóa hôn
nhân đó vẫn có sức đè mạnh rất lớn và con người luôn hoan hỉ hoặc chấp nhận.
Nghĩa là họ cưới người mà cha mẹ họ muốn hơn là chính bản thân họ muốn. Ấy thế
mà các cuộc hôn nhân đó vẫn rất thọ và hạnh phúc. Bởi vì các cặp vợ chồng luôn
xem nhau như những người bạn.
Hôn
nhân theo lời Phật dạy
Tình yêu trong quan hệ như những
người bạn có gốc rễ từ văn hóa Phật giáo. Trong kinh, đức Phật giảng cho cô con
dâu cư sĩ Cấp Cô Độc. Vì cô dâu này ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ chồng, nên
nhân cơ hội đức Phật đi ngang qua nhà và nhận phẩm vật cúng dường, Cấp Cô Độc
đã thỉnh cầu Thế Tôn dành chút thời gian giáo dục đứa con dâu của mình. Thế Tôn
đã giảng một bài kinh ngắn rất ấn tượng nói về bảy loại vợ đối chiếu với bảy
loại chồng. Trong đó, loại vợ thứ tư được xem là lý tưởng nhất, “người vợ là bạn đồng hành cùng người chồng”.
Cách đây 26 thế kỷ mà Thế Tôn đã
dạy quan niệm hôn nhân như bạn đồng hành, điều đó cho thấy, yêu cầu về quyền
lợi được giảm ở mức độ tối đa. Trong hôn nhân, ai quan niệm cần nhận được nhiều
hơn cho thì hôn nhân đó đã bị đỗ vỡ ngay từ cách thức đặt vấn đề. Đây là yếu tố
dẫn đến sự ly dị cao nhất của nền văn hóa phương Tây khi nền tảng kinh tế không
còn đứng vững.
Xem chồng như người bạn đồng
hành chúng ta không chỉ quý người đó như người bạn thân, người tâm giao hoặc
tri kỉ mà còn thể hiện trách nhiệm bình đẳng giữa hai bên. Điều hoàn toàn phù
hợp với học thuyết bình đẳng về giới tính mà cuộc cách mạng Pháp trở thành niềm
hãnh diện nhất của dân tộc nước này. Nhờ đó, thế giới phương Tây nương theo,
tạo ra sự bình đẳng giữa nữ giới so với nam giới. Đôi khi sự bình đẳng đó đi
quá đà, thay vì hiểu vai trò vị trí xã hội của hai bên ngang nhau thì một số
người nữ có khuynh hướng đánh đồng mình như nam giới. Họ bắt đầu dấn thân vào
các loại thể thao mạnh, như đô vật, quyền anh,… làm mất đi phong cách dịu dàng,
mềm mại vốn có. Quan điểm đánh đồng đã vượt ra khỏi yếu tố bình đẳng. Bình đẳng
mục đích là sử dụng các dữ liệu giới tính vốn có để khẳng định sự đóng góp của
mình trong xã hội và cộng đồng như là một thế mạnh, không có nghĩa đánh đồng
những gì mình chưa có với thế giới đàn ông và cố gắng để người ta thấy rằng đàn
ông vai u thịt bắp thì phụ nữ cũng tương đồng như vậy. Đánh đồng và bình đẳng
khác biệt rất cơ bản, đôi lúc nhiều phụ nữ không thấy được điều này. Càng lao
theo nhiều chừng nào càng đánh mất đi nét đặc trưng của nữ tính.
Khi vợ chồng xem nhau như người
bạn đồng hành thì cả hai bên sẽ không đòi hỏi các quyền lợi cho bản thân, và
người chồng sẽ không còn thói quen ứng xử với vợ như quan tòa, buộc vợ và con
phải tuân theo.
Nguyên
nhân rạn nứt
Một thống kê xã hội học cho biết
tỷ lệ ly dị của những cặp vợ châu Á định cư trên đất nước Hoa Kỳ trong vòng 30
năm trở lại khá cao so với người bản địa. Lý do phần lớn người di dân từ Châu Á
có quan niệm trọng nam khinh nữ.
Họ nhập cảng nguyên xi nền văn
hóa châu Á sang Hoa Kỳ. Do đó khi sống với người vợ có kiến thức, bằng cấp, học
vị, tiếp xúc với nền văn hóa phương Tây nói chung, nhiều ông chồng cảm thấy dị
hợm vô cùng. Hôn nhân bắt đầu rạn nứt khi người chồng không còn được phục vụ và
trở thành tâm điểm của gia đình.
Chúng ta có thể định nghĩa ly
hôn là việc kết thúc khế ước hôn nhân giữa vợ và chồng khi cả hai còn đang
sống, nó khác với tình trạng một trong hai người ra đi do tuổi thọ, tai nạn, bệnh
tật. Sự chấm dứt khế ước hôn nhân như vậy làm cho tình yêu trong hai trái tim
với nhu cầu cùng nhịp đập trở nên lạnh nhạt và không còn như thuở ban đầu nữa.
Mỗi bước đi của mỗi người tạo thành sự song song chứ không còn đan xen và nối
kết với nhau. Càng đi, càng dấn thân thì điểm kết thúc còn rất xa và ly tâm.
Tình yêu là hướng về để hóa giải những khác biệt trở thành thống nhất thì tình
yêu đó mới có thể lâu dài, bền bỉ với niềm an vui và hạnh phúc.
Câu hỏi đặt ra là tại sao một
quốc gia tự do như Hoa Kỳ lại có tỷ lệ ly hôn cao nhất thế giới, trong khi Ấn
Độ là quốc gia có hôn nhân định đoạt bởi cha mẹ lại có tỷ lệ ly hôn thấp nhất,
mặc dù Ấn Độ giáo và Hồi giáo tại đây không hề cấm việc ly hôn như giáo hội
Thiên Chúa giáo La Mã?
Các nhà xã hội học Ấn Độ đưa ra
lý giải rằng, phần lớn người phụ nữ Ấn Độ sống trong xó nhà chỉ làm hai công
việc chăm sóc chồng và nuôi con. Những đứa trẻ đa phần được gần gũi mẹ hơn mười
tiếng đồng hồ mỗi ngày nên đa số rất nên người. Họ phân công chức năng rõ rệt,
người cha tạo dựng kinh tế còn người mẹ đóng vai trò giáo dục, đi ngược nền văn
hóa Việt Nam ở một vài điểm, chẳng hạn, người cha đóng vai trò giáo dục nhiều
hơn người mẹ và cũng đồng thời gánh vác luôn vai trò kinh tế. Gắn liền tình mẫu
tử thì yếu tính tình cảm sẽ được phát triển một cách thăng bằng ở những đứa con
dẫn đến sự bền bỉ và hạnh phúc trong gia đình.
Một lý do khác, vì kinh tế lệ
thuộc vào người chồng cho nên dù phải sống trong hoàn cảnh bi đát và bất bình
đẳng, nhiều người nữ đã chấp nhận như một thói quen không hề có sự lựa chọn nào
khác.
Vấn đề thứ hai được đặt ra, tại
sao đất nước Tích Lan vốn đạo Phật là quốc giáo, lại không hề chịu sự áp đặt
hôn nhân như Ấn Độ mà vẫn có tỷ lệ ly hôn thấp thứ hai trên thế giới?
Do đó, tính đồng hành giữa vợ và
chồng theo quan niệm loại vợ chồng thứ tư được nêu trong kinh Tăng Chi là dữ liệu chúng ta cần
phải tham khảo.
Tổ
ấm gia đình
Nho giáo có quan niệm ứng xử vợ
chồng như khách quý. Cho nên các nhà tâm lý học phương Tây đã đề nghị một
phương cách nhằm giảm bớt tỷ lệ ly dị vì lý do nhàm chán có thể xuất hiện, đó
là vợ chồng nên ngủ riêng gường và phòng, để mỗi buổi sáng thức dậy gặp nhau sẽ
tạo ra sự thu hút giới tính. Gần gũi sinh nhàm chán là yếu tố tâm lý khi bản
năng của sự hưởng thụ các khoái lạc giác quan được bảo bọc bởi luật pháp dưới
hình thức tự do cá nhân ở mức độ cao nhất. Nghiên cứu về phương diện khoái lạc
giác quan với những vướng mắc và nhàm chán của nó, các nhà kinh tế phương Tây
đã khai thác thị hiếu của con người. Cứ vài tháng họ đưa ra các sản phẩm với
mẫu mã mới mặc dù nội dung không thay đổi bao nhiêu.
Trong quan hệ tình bạn, hiếm khi
chúng ta cảm thấy nhàm chán vì chúng ta đến với nhau vì tình thân, hỗ trợ, giúp
đỡ, và trong bàn tay giúp đỡ đó chúng ta cảm giác mình có giá trị đóng góp.
Tính cách giúp đỡ đó là vô điều kiện, không tính toán như trong tình yêu.
Hãy tâm niệm “hơi đâu mà giận người dưng”. Tập buông
xả nếu ai đó lỡ làm chúng ta phiền lòng. Thực tập như vậy, chúng ta sẽ buông
được nỗi khổ niềm đau, sự chướng tai gai mắt được xả bỏ một cách dễ dàng. Tuy
nhiên có một số người lại cho rằng “anh
ta là chồng tôi, tại sao lại đối xử với tôi như thế?”, từ đó tự cho
mình quyền nhớ dai, thù hận. Nếu đi theo khuynh hướng tâm lý ứng xử lợn cợn như
thế, nó sẽ trở thành những cái gai gây đau thương, bất hạnh và kết thúc hôn
nhân như là cơ hội để giải phóng sự bế tắc. Một nhà tư tưởng đã nói, “hôn nhân là hoàng hôn của tình yêu”,
khi đã đạt được nó thì giá trị hạnh phúc không còn là chính nó ngay thời kỳ
thịnh vượng của bình minh
Có rất nhiều lý do xã hội, gia
đình, cá nhân dẫn đến sự đổ vỡ trong hôn nhân. Nếu chúng ta không quan tâm để ý
thì dù có tổ chức đính hôn vào những ngày có hàng loạt con số 7 cũng không bảo
đảm được hạnh phúc.
Đức Phật lý giải mọi thứ trong
cuộc đời dù khổ đau hay hạnh phúc đều có các nguyên nhân gần hay xa, trực tiếp
hay gián tiếp, mình hay người. Học thuyết Tứ Diệu Đế của ngài gồm hai giai
trình nhân quả. Lớp nhân quả đầu tiên là nhân quả khổ đau của cuộc đời. Ngài đã
dạy nhân loại bản lĩnh nhìn thẳng vào khúc mắc nội kết, những khó khăn nhất mà
con người hay vấp phải, sau đó nâng nó lên tầm quan trọng nhất gọi là “khổ”.
Sau đó ngài yêu cầu chúng ta
truy manh mối dây mơ rễ má để xem nguồn gốc của khổ là gì. Bản lĩnh của thái độ
nhận thức như thế giúp chúng ta lạc quan đối mặt với khó khăn xuất hiện xung
quanh.
Nhiều người khi tiếp xúc với
chân lý về nỗi khổ niềm đau mà đức Phật khám phá trong lớp nhân quả thứ nhất đã
vội vã cho rằng Thế Tôn chủ trương yếm thế, cường điệu quá nỗi khổ niềm đau,
bôi đen bản chất hạnh phúc trong cuộc đòi. Trong khi đó chân lý đức Phật phát
hiện trong Tứ Diệu Đế gồm có bốn bước: bản chất bất hạnh, gốc rễ của nó, hạnh
phúc khi giải phóng bất hạnh và con đường đạt được.
Lớp nhân quả thứ hai là cách
thức giải quyết vấn đề. Bám víu vào lớp thứ nhất mà bỏ qua những lớp còn lại là
bỏ đi cơ hội tìm hạnh phúc. Phê bình chỉ trích đạo lý đó chẳng những phản ánh
rằng chúng ta không hiểu được đạo lý đức Phật dạy mà còn trở thành nạn nhân của
quan niệm sai lầm. Ứng dụng hai lớp nhân quả này vào trong các bế tắc của xã
hội, nhất là bế tắc của hôn nhân, chúng ta sẽ tìm ra được giải pháp.
Ngoại
tình và bất hạnh
Phản ứng phổ biến trước tình
huống bị ngoại tình là thái độ “ông ăn
chả, bà ăn nem”. Hôn nhân giới tính theo cái nhìn của Phật giáo là
một sự ích kỉ có thể chấp nhận dưới góc độ của con người với hạnh phúc giác
quan giới hạn cần phải có. Tính chất ích kỉ đó không cho phép con tim của một
trong hai người đã kết hôn được quyền nghĩ tưởng đến người thứ ba ngoài vợ hay
chồng mình. Trong tình yêu mà không có sự ích kỉ thì không thể nào bền bỉ vì nó
thiếu yếu tố yêu thương nhau tha thiết. Vì vậy mà thái độ ghen tuông trở thành
một yếu tính “bóng không rời hình”
và nó gần gũi với tình yêu.
Phụ nữ có khuynh hướng sống về
cảm xúc, cho nên khi cơn ghen xuất hiện làm cho tình cảm vợ chồng bị thách đố
rất lớn. Nếu không biết thể hiện thì nỗi ghen đó trở thành sự đe dọa, khiến
người thương cảm thấy ngột ngạt khó thở, và phát sinh nhu cầu tìm kiếm nơi khác
bình yên hơn. Giải quyết bế tắc về tính hoa nguyệt, chúng ta phải tạo cơ hội
cho người đó quay về và đừng khơi gợi hay cường điệu hóa nỗi đau vốn đã từng
xảy ra trong quá khứ.
Vừa qua, một anh chồng ở
Melbourn, Úc châu, khóc sướt mướt khi tâm sự với chúng tôi rằng hôn nhân của họ
đã kết thúc sau mười năm chung sống. Lý do chính yếu do người vợ quá ghen. Sự
ghen tuông làm cho người vợ không thể nào chấp nhận sơ xuất của anh chồng. Có
lần khi mối quan hệ của vợ chồng anh đang lận đận, nỗi khổ niềm đau kéo dài
khiến anh mỏi mệt. Ngay lúc đó, một người phụ nữ khác đã xuất hiện nâng đỡ và
lấp đầy nỗi trống vắng trong anh. Anh đã rơi vào tình cảm và mối quan hệ bất
chính với cô này. Sau đó anh biết đây là điều sai lầm. Anh ăn năn hối lỗi kể
lại cho vợ mình. Nhưng ngờ đâu cô vợ không thể vượt qua cú sốc khi biết sự
thật. Cô nhất quyết không tha thứ và bỏ qua. Cuối cùng, cuộc hôn nhân của họ bị
đổ vỡ hoàn toàn. Anh chồng khóc lóc vì nghĩ rằng, nếu không chân thật báo cáo
cho vợ thì có lẽ đâu dẫn đến kết thúc bế tắc như hiện nay.
Bản chất tình yêu cần sự hiểu
biết rộng lượng để hai bên có thể tha thứ những lỗi lầm của nhau. Sai lầm là
thuộc tính của người phàm. Vấn đề ở chỗ người đó có nhận diện sự sai lầm của
chính mình và không tái phạm. Nếu chúng ta may mắn gặp được một người như thế
thì hãy tạo cơ hội để người đó trở về, hơn là đẩy họ đi đến với một người khác
mà vốn chúng ta không muốn.
Kinh điển của nhà Phật dạy, có
hai hạng thánh trong cuộc đời. Hạng thứ nhất là chưa từng tạo tội lỗi, sơ xuất
cũng như lỗi lầm. Hạng thứ hai là người biết đứng dậy sau khi vấp ngã, cảm nhận
đó là một vết nhơ trong lương tâm, và không bao giờ tái phạm. Đức Phật nói,
hạng thánh nhân thứ hai mới đáng tôn kính và tán thán hơn cả. Điều này khiến
rất nhiều người ngạc nhiên, đặc biệt những người có thái độ tâm lý nghiêm túc,
muốn chuyện gì ra chuyện đó, chỉ cần một lần sai phạm thì con người đó không
còn được sử dụng trong tương lai. Người mang thái độ tâm lý như thế khó có thể
chấp nhận đạo lý vừa nêu.
Đức Phật thấy rõ tâm lý con
người có những lúc rất yếu. Trong lúc phần tâm lý bị sa sút tới mức độ yếu nhất
thì bất kỳ cái gì khác đến sẽ trở thành cái nêm gài vào sự trống vắng dẫn dắt
con người đến với những sai lầm. Vấn đề ở chỗ nhận ra sai lầm, không tái phạm
mới là con người đáng quí, đáng trân trọng. Tất cả các sai lầm đều có khả năng
chữa trị và làm mới. Nhận dạng và hiểu điều này thì tất cả những tình huống
ngoại tình đều có cơ hội quay về, trở về với con người trước kia của chính
mình. Quên đi quá khứ của nhau trở thành yếu tố vô cùng quan trọng.
Nhiều người có cái “tôi” rất lớn. Mỗi khi cái “tôi” bị xúc phạm, họ cảm thấy khổ đau
cùng cực, và sẵn sàng vẫy tay chào với người mình thương, mặc dù người đó không
có gì đáng trách. Cái “tôi”
đó cho rằng mình phải là cuộc tình đầu tiên của vợ hay chồng. Sau thời gian vui
vẻ với nhau, khi tình cờ biết hay được khơi gợi lại chuyện tình cũ của bạn đời,
nhiều người đã nổi cơn ghen. Cái “tôi”
bị tổn thương, dằn vặt dẫn đến kết quả chia tay nhau.
Cái “tôi” đòi hỏi sự trọn vẹn đó đã làm cho người ta không còn
rộng lượng và tha thứ, dù trên thực tế, trước cuộc hôn nhân diễn ra như một khế
ước xã hội thì ai cũng được quyền yêu người khác, thậm chí có thể yêu vài ba
lần mới có thể chọn ra mẫu người lý tưởng nhất. Miễn không vi phạm tinh thần
đạo đức của nhà Phật thì không có gì được coi là lỗi lầm. Yêu một người nào đó
nhưng phải chia tay, đến với người khác bằng hôn nhân thật sự. Suốt thời gian
duy trì hôn nhân trong khế ước xã hội, người này không hề ngoại tình dù chỉ
trong tâm tưởng thì người đó không được xem là có lỗi lầm trong quá khứ. Tuy
nhiên, với người xem yếu tố đầu tiên là quan trọng thì khi phát hiện người bạn
đời đã từng có những mối tình trước đó, họ phản ứng gay gắt và không thể chấp
nhận.
Tảo
hôn và bất hạnh
Phần lớn các hôn nhân tảo hôn
đến với nhau vì thiếu sự chuẩn bị tâm sinh lý. Cả vợ lẫn chồng chưa chín chắn
trong tình cảm và nhận thức. Kết thúc của các cuộc hôn nhân này là tờ đơn li dị
và những đứa con dại khờ, mô côi dù cha mẹ chúng vẫn còn đang sống.
Người Việt Nam có câu “già nhân ngãi, non vợ chồng”. Câu đối
này cho thấy bản chất các mối quan hệ giới tính đòi hỏi tính cách đặc biệt, cái
gì dễ dàng được thì sẽ dễ dàng mất. Cuộc tình giống như ngọn lửa, rơm dễ cháy
nhưng cũng dễ tàn. Đến với nhau bằng quan hệ giới tính trong nền văn hóa phương
Tây là điều được luật pháp bảo vệ nhưng nó lại trở thành một trong những đoạn
tuyệt của hôn nhân. Quan hệ giới tính diễn ta trước khi khế ước xã hội được
thiết lập sẽ không bền bỉ vì hai bên không cảm thấy còn cái gì đó quý trọng.
Nền văn hóa phương Tây ảnh hưởng
rất nhiều từ phim ảnh và nghệ thuật quảng cáo kích thích khoái lạc giác quan
một cách tinh vi và khéo léo, đã làm cho yếu tố gợi dục, gợi tình gia tăng. Do
đó tuổi trẻ với phản ứng của hooc môn làm cho cơ thể phát triển sớm, khoái lạc
về tình yêu tăng sớm hơn các quốc gia phát triển chậm về kinh tế.
Ấn Độ là quốc gia có tỷ lệ tảo
hôn lớn nhất thế giới. Ngày nay, nữ 13 tuổi vẫn được quyền làm mẹ. Phụ nữ ở
tuổi 50 đã trở thành bà nội hoặc bà ngoại. Khi sự chuẩn bị tâm sinh lý và kiến
thức nuôi dưỡng con cái không được đảm bảo thì sẽ kéo theo nhiều hệ lụy. Rất may
tỷ lệ ly dị ở nền văn hóa này vẫn không cao.
Khi áp lực của sự dị biệt giữa
hai bên đã lên tới mức độ đỉnh điểm thì tuổi trẻ với các cuộc tảo hôn, có
khuynh hướng dùng kim nhọn đâm vào bong bóng của hôn nhân để nó vỡ tung.
Một số quốc gia xem hôn nhân không
phải trò đùa. Người ta thường khuyên các cặp vợ chồng trẻ phải giữ lời, giữ ý
tứ với nhau, rộng lượng thông cảm và vượt qua những sơ xuất. Còn theo nền văn
hóa đề cao sự tự do thì dù một xúc phạm nhỏ chẳng đáng cũng trở thành vấn nạn
lớn dẫn đến ly dị.
Sự
lệch lạc về vai trò giới tính
Phần lớn mâu thuẫn phát sinh khi
người vợ thành công hơn chồng, không còn nhu cầu lệ thuộc vào chồng như trước
đây. Do đó người vợ có suy nghĩ mình phải được ứng xử bình đẳng trong gia đình.
Điều này làm cho người chồng bắt đầu cảm thấy bị va chạm.
Người nữ thấy được giới hạn của
chồng hay nam giới nói chung thì cần phải khéo léo hơn. Dù thăng tiến trong xã
hội nhưng phải giả vờ ứng xử thua chồng mà vẫn không để chồng rơi vào trạng
thái cống cao ngã mạn trong cách ứng xử đối với chúng ta. Hai bên duy trì được
mức độ tôn kính lẫn nhau thì độ bền và tuổi thọ trong hôn nhân mới có thể kéo
dài.
Khuynh hướng những người vợ
thường đòi hỏi chồng có học thức cao hơn, mạnh mẽ về mọi phương diện để có thể
làm điểm tựa. Ngay trong cách thức xưng hô của Việt Nam đã cho thấy rất rõ điều
đó, người vợ luôn là người em gái cho nên xưng hô là “em” và chồng là “anh”. Thấy rõ nhu cầu cần được bảo bọc
ở mọi phương diện, nên mối quan hệ giữa tiếng “anh” và “em”
trong vợ chồng đã làm cho cặp hôn nhân đó bền bỉ hơn. Nhưng khi người vợ có vai
trò xã hội cao thì quan hệ này có thể bị mất. Nếu vợ không khéo ứng xử thì cái
“tôi” của người chồng bị
thách đố, người chồng sẽ cảm thấy vai trò của mình thương tổn và mình không là
gì trong xã hội.
Sự thay đổi vai trò vị trí của
người vợ gây khó khăn cho người chồng, nếu người chồng không thông cảm, hoan hỉ
với sự thành công của vợ. Đặc biệt khi vai trò vị trí xã hội của chồng xuống
dốc, ức chế tâm lý xảy ra hằng ngày, hằng giờ. Vì luôn muốn vợ con và người thân
tôn trọng mình như ngày nào nên chỉ cần một lời nói lầm lỡ vô tình nào đó có
thể tăng mức độ căng thẳng của người chồng. Anh ta sẽ nghĩ rằng mình không còn
chức vị nên mới bị lấn lướt khinh thường, con cái không coi ra gì. Mặc dù trước
đây cũng với những câu nói vô tình ấy, anh đã không để tâm. Trong tình huống
như vậy, không ai khác hơn người vợ phải nâng đỡ chồng, giải thích và giúp
chồng vượt qua khó khăn.
Ngoài ra còn hàng trăm ngàn lý
do dẫn đến sự ly dị và hôn nhân không hạnh phúc.
Không
chấp tướng chung và riêng
Tướng chung là đặc điểm chung
của một chủng loại nào đó, chẳng hạn chủng loại động vật, chủng loại con người,
chủng loại chư thiên, chủng loại ngạ quỷ v.v... Trong mỗi quốc gia có nhiều dân
tộc, mỗi dân tộc có một chủng loại khác nhau. Chẳng hạn người Việt Nam da vàng,
mũi tẹt, thấp bé... Người Châu Âu, Châu Mỹ da trắng, tóc vàng, mắt xanh... Tất
cả các chủng loại đó được gọi là đặc điểm chung.
Khi nhãn thức con người tiếp xúc
với thẩm mỹ, văn hóa y phục thời trang, các trang sức phẩm, ngoại hình, nhà
cửa,… thì tướng chung sẽ dễ dàng thu hút. Nhiều người thích kết hôn với người
khác tướng chung, cho nên khi gặp người ngoại quốc, họ có thiện cảm hơn. Đó là
vì họ đặt nặng tướng chung.
Bám vào tướng chung thường không
dẫn đến đổ vỡ hôn nhân nhiều như việc bám vào tướng riêng, vì tướng riêng
thường để lại ấn tượng. Chẳng hạn, đôi mắt bồ câu, mũi dọc dừa, má nũng nịu
đồng tiền, nước da hồng hào, tướng đi yểu điệu thướt tha v.v... trở thành một
hấp lực giới tính đối với người nam là điều không thể phủ định.
Khác biệt giới tính đối với
ngoại hình hai giới tạo ra sự hấp dẫn tính dục, và người ta đến với nhau bằng
sự hấp dẫn này. Đó là lý do tại sao đàn ông không thương đàn ông, đàn bà không
thương đàn bà, ngoại trừ người đó rơi vào tình trạng đồng tính luyến ái. Do đó
sự hấp dẫn ngoại diện của con người trở thành những đặc điểm riêng mà chỉ có ở
người này mà người khác thì không. Có người thương mái tóc đen, có người thương
chân mày đậm, có người thương nụ cười, có người thương ánh mắt,...
Bám vào tướng riêng, con người
sẽ so sánh đối chiếu với bạn đời của mình. Càng so sánh đối chiếu, sự ám ảnh
của tướng riêng và tướng chung đó càng trở thành cơ hội đầu tiên của ngoại tình
tâm tưởng. Về nhà mà tâm trí nhớ nhung cô bạn nói chuyện có duyên trong khi vợ
mình đanh đá. Cảm giác tủi phận và tiếc nuối sẽ đánh mất hạnh phúc trong hiện
tại. Cơ hội tiếp xúc với tướng riêng như thế làm cho người chồng trong tình
huống này đi quá đà, và trở thành người lén lút.
Các hành giả Phật giáo cần thực
tập quan sát, không chấp lấy tướng chung cũng không bám víu tướng riêng. Hãy
quan niệm đơn giản rằng, đó chỉ là một người nam hay người nữ không có đặc điểm
gì. Thái độ liên hệ đến tính từ đẹp xấu, hấp dẫn hay không hấp dẫn, trắng đen
v.v... ở tướng trạng của người khác phái không được ý thức chúng ta diễn dịch,
phân tích, so sánh, quy nạp, loại suy, thì lúc đó yếu tố của sự chấp trước về
tướng riêng không được thiết lập. Nhờ thế, con người có thể giao du tiếp xúc
với nhiều thành phần khác nhau trong xã hội, thậm chí với người đẹp hơn, giàu
hơn, hấp dẫn hơn bạn đời của mình, nhưng mình vẫn không cần ghé mắt, để tai. Do
hài lòng và hiểu biết bản chất của hạnh phúc không phải chỉ dựa trên giá trị
thẩm mỹ như vừa nêu mà nó còn bao gồm cả tổng thể của tình cảm, tình yêu, tình
thương, sự chăm sóc, tương trợ, cộng nghiệp, và biệt nghiệp khác nhau, mà các
yếu tố kia không trở thành sự đe dọa ám ảnh chúng ta.
Thực
tập Bát quan trai
Ngày bát quan trai thường được
diễn ra vào những ngày thập trai. Theo nền văn hóa Ấn Độ, ngày thập trai là
ngày ma hiện hồn về phá phách con người. Đức Phật đã sử dụng dữ liệu nền văn
hóa đó để tạo cơ hội cho cả nam lẫn nữ, cả vợ lẫn chồng cùng tu tập vượt qua
nỗi khủng hoảng sợ ma, và thấy rằng hồn ma đang có nhu cầu tâm linh cần sự hỗ
trợ của những người còn sống thông qua các lễ thức cầu siêu. Trong ngày thọ bát
quan trai, vợ lẫn chồng cần được thực tập chuyển hóa năng lực khát ái của tình
dục như là nỗi ám ảnh của rất nhiều cuộc hôn nhân và tình yêu.
Nếu trong một tháng, cả vợ lẫn
chồng thực tập Bát Quan Trai được một ngày thì ngày đó, chúng ta trở thành tu
sĩ khống chế nỗi ám ảnh của hoạt động tính dục đang đe dọa. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến ly dị ở thế giới phương Tây là vì không thỏa mãn được nhu
cầu này. Cho nên thực tập tiết hạnh và sự thanh tịnh trong một ngày sẽ làm cho
nhu cầu hưởng thụ đó giảm đi và không còn là yêu cầu tiên quyết.
Những triệu phú, tỷ phú rất
thành công trong nhiều phương diện khác nhau. Đối với họ, giá trị thẩm mỹ và
giá trị tính dục là quan trọng nhất vì những thứ còn lại, họ đều không thiếu.
Nếu có người tình gợi cảm và hưởng thụ cái đẹp đó thông qua sự thỏa mãn tính
dục sẽ làm cho cái “tôi” của
họ được thỏa mãn. Từ đó có khuynh hướng “giàu
sang đổi vợ” khá phổ biến.
Thực tập Bát quan trai để thấy
rằng, yếu tính của hạnh phúc liên hệ đến nghệ thuật thăng bằng cảm xúc. Cảm xúc
con người thường đi theo hai khuynh hướng, một là hưng phấn dẫn đến chấp trước
và tư hữu hóa; hai là ức chế dẫn đến chối bỏ, chán nản, thất vọng. Cả hai thái
độ này đều là hai phản ứng khác nhau về cái “tôi”, khống chế, làm mất thăng
bằng về phương diện cảm xúc. Thấy rõ điều này thì nhu cầu hưởng thụ tính dục sẽ
giảm bớt, con người sẽ vượt qua được những nỗi ám ảnh.
Thực
tập quán tình thân
Đức Phật dạy phương pháp này cho
tất cả người tại gia và xuất gia để không có những ái cảm diễn ra đối với người
khác phái, ngoài vợ hay chồng chính thức của mình. Gặp tất cả những người nam
thì chúng ta phải quan niệm rằng họ đã từng là ông, bác, cha, chú, cậu, anh
trai, em trai của mình ở một kiếp khác nào đó. Quan niệm về tình thân giúp
chúng ta giữ được lương tâm con người và không rơi vào tình trạng loạn luân.
Người ta thường nghĩ quan niệm
loạn luân chỉ có ở trong họ tộc huyết thống ngay đời hiện tại này mà không để ý
đến loạn luân khác mang tính gián tiếp. Khi ta quán tất cả người nam và nữ đều
là thân thuộc của mình, thì ngoài vợ hay chồng chính thức, chúng ta không còn ý
niệm muốn thoả mãn tính dục, tình yêu với người khác, do đó hạn chế được tối đa
thói quen ong bướm dẫn đến ngoại tình.
Giới trẻ có khuynh hướng đến với
hôn nhân sớm, bởi vì nỗi khát ái về ngoại hình và sự hưởng thụ tính dục đã trở
thành nỗi ám ảnh, nếu không thoả mãn được nó, nỗi khổ niềm đau xuất hiện. Cho
nên đạo Phật dạy, hãy lấy sự nghiệp làm đầu, trí tuệ là sự nghiệp. “Duy Tuệ Thị Nghiệp” không chỉ là phương
châm cho những người xuất gia mà còn cho cả người tại gia. Muốn có cuộc hôn
nhân bền bỉ lâu dài, chúng ta phải lấy tuệ giác làm đầu.
Trong nhận thức của tình yêu,
trái tim có phần nghiêng nặng đặc biệt, mọi sự phán đoán của chúng ta đa phần
có nhiều cảm xúc, và do đó sự lựa chọn trong trường hợp này thường mang tính
chất thiên vị về những gì mình thích và không thích. Cho nên việc chúng ta
tuyển chọn người sai, người không phải là mẫu lý tưởng sẽ diễn ra ở mức độ cao
và kết cuộc sau khi nhận diện rằng người mình thương yêu không thật sự là người
mà mình mong đợi.
Lấy trí tuệ làm sự nghiệp, thì
chúng ta lo cho bản thân ổn định sự nghiệp và kinh tế, mọi thứ chín chắn về
nhận thức, cảm xúc và đời sống trong xã hội. Tới lúc đó việc đính hôn mới thật
sự bền vững. Đây là phương châm đạo Phật dạy mà chúng ta không thể nào quên.
Truyền
thông giữa vợ chồng
Kém truyền thông là một bế tắc
mỗi khi có hiểu lầm va chạm cá tính và cái “tôi”
diễn ra giữa hai bên. Phản ứng thông thường là rút cảm xúc, nhận thức và sự ứng
xử của bản thân vào mai, biến mình thành con rùa để tìm cảm giác trấn an, nỗi
khổ đau tạm thời được nguôi ngoai.
Văn hóa ở của phương Tây theo
khuynh hướng thiết kế căn nhà gồm nhiều phòng riêng biệt. Vợ chồng con cái đều
có phòng riêng. Khi mâu thuẫn trong các mối quan hệ gia đình xảy ra, mỗi người
thường chọn giải pháp tự giam mình trong phòng riêng, tránh tiếp xúc với bất cứ
ai ngoài ti-vi, radio, máy vi tính và các phương tiện khác. Họ thường chia sẻ
tâm sự với những người bạn thân mà họ tin tưởng. Do vậy bế tắc trong truyền
thông giữa các thành viên gia đình sẽ dâng lên. Nếu cả hai đều tự ái cao thì sự
đổ vỡ là rất thường tình và tự nhiên.
Vừa rồi, chúng tôi có dịp trở
lại thăm một gia đình Phật tử quen đã trên mười năm. Chúng tôi thấy khổ đau xuất
hiện trong gia đình này, vợ chồng vừa mới ly dị chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ trong
việc dạy dỗ con cái. Người mẹ theo văn hóa phương Tây, chiều con quá mức, hễ nó
muốn gì thì được đó. Trong khi người cha lại sống theo truyền thống Việt Nam,
muốn con cái phải nối theo truyền thống của mình. Bất đồng quan điểm khiến vợ
chồng tự ái dồn dập, mỗi khi nói chuyện thường lớn tiếng cãi vã nhau. Cuối cùng
không ai chịu nói với ai và việc này kéo dài ba năm trời. Ai cũng nghĩ rằng nếu
làm lành trước thì vô tình đã tự thừa nhận mình có lỗi và người kia là người
chiến thắng. Cho nên thà im lặng còn hơn chấp nhận mình có lỗi. Người vợ lý
luận rằng, nếu anh chồng thật sự là người chồng lý tưởng và thương yêu vợ thì
anh ta phải xin lỗi trước, vì trong nền văn hóa Hoa Kỳ lady first chứ không
phải là đàn ông. Cả hai bên cứ chờ đợi lời xin lỗi mà không cần thanh minh,
cuối cùng người vợ đương đơn li dị vì cho rằng chồng không còn xem mình là quan
trọng nữa.
Một câu rất hay trong luận Bảo
dư tam muội, nhưng nếu không khéo sử dụng sẽ dẫn đến bế tắc, “oan ức không cần biện bạch vì biên bạch là hèn nhát”.
Oan ức mà biện bạch không đúng tình huống sẽ làm cho vấn đề rắc rối hơn. Mọi
người thường cho rằng nếu không có tật thì đâu cần phải sốt sắng thanh minh,
cho nên thanh minh là che đậy tội lỗi. Thật ra, khi gặp đúng tình huống, đúng
người, đúng thời điểm thì chúng ta hãy nên giãi bày để cơ chế bị hiểu lầm đó
được tháo gỡ. Có những tình huống không cần thanh minh nếu yếu tố thanh minh đó
không cần thiết. Khi được hỏi thì hãy nói, nói cho việc hiểu lầm không tiếp tục
diễn ra.
Vế thứ hai “vì biện bạch là hèn nhát” cũng cần được
sử dụng đúng tình huống. Muốn biết cảm giác của sự chịu đựng, cho rằng mình là
người đứng đắn thì không sợ bị hiểu sai quấy nên chọn cách im lặng, câm như
hến, vợ chồng gặp nhau không thèm bày tỏ với nhau lời nào vì sợ rằng việc bày
tỏ chứng minh mình là kẻ hèn nhát. Ứng xử này làm cho cái “tôi” bắt đầu lớn mạnh. Giữ nguyên sự
hiểu lầm ở người khác, cuối cùng sự hiểu lầm đó trở thành băng giá không phải
là giải pháp của các vấn nạn liên hệ đến nghệ thuật truyền thông trong hôn
nhân.
Vợ và chồng nên bằng lòng ngồi
với nhau, thuận vợ thuận chồng để giải quyết, thì chỉ cần năm giờ, năm ngày hay
tối đa là năm tháng, bế tắc đó sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng. Nếu nói
lần thứ nhất mà người kia chưa hiểu thì lần thứ hai trong cơ hội người kia đang
hạnh phúc hay khổ đau, muốn có người tri kỷ cùng chia sẻ, chúng ta đến bằng cả
trái tim và tấm lòng. Trách nhiệm của chúng ta là tháo gỡ sự hiểu lầm. Tuy
nhiên, giống như gỡ mìn, nếu không biết cách, chúng ta sẽ bị vỡ tung trong
trách móc, đổ lỗi và quy kết tội và như thế vấn đề trở nên phức tạp hơn.
Chúng ta chỉ cần giãi bày sự
thật, nói bằng thái độ cảm thông vì biết người kia hiểu sai nên mới ứng xử
không khôn ngoan. Cảm thông để tháo gỡ, không chấp nhặt để vượt qua căng thẳng.
Truyền thông là nghệ thuật tháo
gỡ bế tắc. Con người có phước hơn các loài động vật khác ở khả năng truyền
thông. Thắng thua, thành công thất bại lệ thuộc vào lời ăn tiếng nói.
Trong tình yêu, mỗi lời hằn học
như là nỗi ám ảnh làm con người có khuynh hướng muốn vẫy tay chào một cách lâu
dài và vĩnh viễn.
Nói để hai bên cùng hiểu và chia
sẻ với nhau, không phải để chỉ trích, hơn thua, quy trách nhiệm. Nếu mẫu số
chung của cả hai được tôn trọng thì nó sẽ trở thành ranh giới với sự tương
nhượng. Hai bên phải thấy rằng cần phải tôn trọng và đừng xúc phạm lẫn nhau.
Đôi khi thói quen, bản lĩnh chịu đựng trong cuộc đời đã khiến văn hóa ứng xử
của người chồng xúc phạm đến cái “tôi”
của vợ mình, đặc biệt nếu người vợ lại có tính tình mềm mỏng, cá tính yếu, mỗi
khi va vấp cần có sự nâng đỡ của người chồng thì người chồng lại ứng xử thô lỗ
và mất ý tứ. Khi phải ôm nỗi đau chịu đựng một mình thì nỗi đau đó lớn dần trở
thành nỗi đe dọa quan hệ hôn nhân. Trong tình huống đó, sự xuất hiện của một
người đàn ông khác ga lăng hơn, cảm thông hơn, thì sự so sánh trong người vợ
không thể nào tránh khỏi. Hình ảnh của người đàn ông mới bắt đầu can thiệp vào
như cái nêm ghim vào tâm thức của người vợ. Từ đó những khúc mắc nho nhỏ lẽ ra
trước đây hai vợ chồng có thể chịu đựng được với nhau, bây giờ trở thành sự
khủng hoảng diễn ra ở mức độ mỏi mệt hơn.
Như
bạn đồng hành
Kinh Tăng Chi, đức Phật định
nghĩa vợ chồng như những người bạn đồng hành. Khái niệm đồng hành trong thế giới
phương Tây có thể hiểu theo cách thức rất thoáng ở chỗ người ta đến với nhau
không cần hôn thú, không cần trách nhiệm gia đình. Hưởng thụ tính dục trước hôn
nhân là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ly dị.
Đồng hành trong nền văn hóa Phật
giáo là phải hiểu cả hai có vai trò trọng trách ngang nhau trong việc thiết lập
hôn nhân và không nên lý tưởng hóa rằng “túp
lều tranh hai quả tim vàng”. Phải sống bằng trí tuệ và thiết thực,
hiểu biết cảm thông để tháo gỡ những bế tắc.
Chúng tôi có quen một gia đình
rất thuần từ, hiền lương ở Sacramento. Gia đình này có thói quen tổ chức thỉnh
mời các vị thầy hoặc sư cô đến thuyết pháp dù vị giảng sư đó thuộc bất kỳ
truyền thống tông môn pháp phái nào từ Tây Tạng, Việt Nam, Trung Hoa v.v...
Nhìn bề ngoài có vẻ đây là gia đình hạnh phúc và đồng thuận. Vợ phát tâm tổ
chức và người chồng phụ giúp âm thanh, ánh sáng, bàn ghế v.v... Sau mỗi buổi
giảng, gia đình này tổ chức bữa tiệc chay nhỏ với những món ăn khá ngon, miễn
phí mời người tham dự chỉ để khích lệ tinh thần. Nhưng đằng sau vẻ hạnh phúc
đồng thuận ấy lại là cuộc sống băng giá giữa quan hệ vợ chồng. Về nhà hai vợ
chồng không nói chuyện với nhau, việc ai nấy làm.
Chúng tôi đã mời cả hai vợ chồng
đến để tâm sự và chúng tôi yêu cầu anh chị thay vì đóng kịch với nhau trước mặt
mọi người thì hãy làm thật với nhau khi chỉ có hai người. Cái “tôi” sợ bị mặc cảm tự ti rằng vợ hoặc
chồng mình không đồng lòng đã làm nhiều người phải giả tạo và trong cái giả tạo
đó, khổ đau trỗi lên.
Hãy ngồi lại với nhau nói về cá
tính của nhau. Nói với nhau hay hơn nói về nhau. Chúng ta thường có những cách
thức xỉ vả, uất hận đổ trút lên những người thân thay vì chia sẻ với người bạn
đời. Nói về nhau như vậy tạo ra rất nhiều vết hằn gây tổn thương người khác và
chính bản thân mình. Hãy đóng kịch thật với nhau một cách nhập vai, mà nhập vai
theo Phật giáo không gì khác hơn là nhập tâm, tức là thể hiện bằng tấm lòng
thật sự, thấy rõ hai người thương yêu nhau đắm đuối và cần nhau trên mọi nẻo
đường trong sinh tử luân hồi, và phải hài lòng với hạnh phúc như vậy. Chỉ khi
nào nhập vai thật sự trước mặt quần chúng thì chúng ta mới có thể nhập vai thật
sự khi chỉ có hai người. Bằng không thì thà đường ai nấy đi.
Cần để ý tới nhu cầu cảm xúc,
nhu cầu tình thương, nhu cầu chăm sóc và được chăm sóc của người khác khi chúng
ta thương và xem người đó như bạn đồng hành suốt cuộc đời của mình. Khi nhu cầu
này được tưới tẩm thì không có việc gì mà hai bên không thông cảm với nhau
được.
Từ
ái và tôn trọng
Qua truyền thông, vợ chồng có
thể nói thẳng với nhau bằng lòng từ bi, được gọi là ngôn ngữ từ ái. Dùng lòng
từ bi cho chúng ta hiểu nếu sử dụng lòng từ bi ứng xử có nghệ thuật thì dù
người đối diện có cộc cằn thô lỗ chúng ta vẫn tha thứ bỏ qua. Quan trọng trong
truyền thông chúng ta phải hiểu giới hạn của người bạn đời. Không cường điệu
hóa khi người đó không làm được theo cách thức mà chúng ta thể hiện. Thực tập
như vậy thì chúng ta không bị hòa tan trong người kia và người kia cũng không
hòa tan trong ta mà hai bên vẫn giữ riêng cá tính và phong cách của mình nhưng
có thể sống yên bình. Bằng không sẽ trở nên “đồng
sàng dị mộng”, ngủ chung trên cùng một chiếc giường mà tâm tư mơ
tưởng, nhận thức giải quyết vấn đề hoàn toàn khác biệt.
Khi chúng tôi tiếp xúc với cặp
vợ chồng đang trong nguy cơ đổ vỡ ở Sacramento, thì người chồng mới tâm sự rằng
vợ anh không hề tôn trọng anh. Đây là lần đầu tiên chúng tôi nghe lời tâm sự
thẳng thắng như thế. Chúng tôi hỏi lý do tại sao thì anh trả lời rằng, vợ anh
tỏ ra nhiệt tình chăm lo cơm, nước, thức ăn uống ngon, quý nhất cúng dường các quý
thầy mà bản thân anh thì chưa bao giờ được chăm sóc như vậy. Đó là sự va chạm
của cái “tôi”.
Tâm lý người nữ là có thể tôn
kính mà không có tình thương đối với tôn giáo. Nhưng sẽ là một sai lầm nếu có
tình yêu mà không tôn trọng lẫn nhau. Phụ nữ thường có sự phân biệt về phương
diện cảm tính, cảm xúc, cho nên người chồng cũng cần thông cảm. Trong tâm người
nữ có thể có hai đối tượng, tâm linh và tôn giáo. Đối tượng tôn giáo dù muốn
hay không vẫn có vai trò cao hơn vị trí của người nam, bày tỏ lòng tôn kính như
thế là chuyện rất bình thường. Nếu không cảm thông được quan niệm như vậy thì
mâu thuẫn của cái “tôi” sẽ có
mặt.
Người vợ xông xáo năng động lại
khó có được hạnh phúc, vì tính cách đó thường nằm ở người nam. Nam giới thích
thể hiện mình có khả năng nâng đỡ, bao bọc, lo lắng cho phái yếu. Nếu người vợ
trở thành người quán xuyến cả trong lẫn ngoài, xem chồng như em trai, con trai,
thì rất nhiều người chồng bị va chạm, nghĩ rằng mình mất vai trò, mất tư thế,
mất sự tôn trọng v.v...
Kéo dài tình huống này mà không
có sự rộng lượng, thông cảm dần dần sẽ trở thành thế giới của biệt lập. Người
vợ nỗ lực tôn kính Tam Bảo nhiều chừng nào thì người chồng có khuynh hướng xa
lánh chừng đó. Cho nên phải hết sức để ý đừng để cái “tôi” của người bạn đời bị va chạm. Đây
là nghệ thuật đòi hỏi tuệ giác, khôn ngoan, sáng suốt thì mới có thể giải
quyết.
Nói với nhau bằng tình thông cảm
của trái tim yêu thì mỗi sự giao lưu tiếp xúc sẽ tạo ra một giá trị nồng nàn.
Khi nỗi đau có mặt, nếu được nói những gì mình muốn thì nỗi đau đó sẽ được
phóng thích ra. Đây là phương pháp xả hơi trong tâm lý học trị liệu của phương
Tây.
Đừng để cho tình trạng lặng tắt
kéo dài quá lâu sẽ gây ngạt thở. Hai người cần thực tập hạnh bồ tát, nghĩa là
ôm
phần lỗi về phía mình mặc dù
mình không có lỗi. Nhận mình có lỗi để người kia có cơ hội nối kết và hàn gắn,
còn hơn là lặng thinh. Tịnh khẩu theo Phật giáo không phải là sự ngưng nói, mà
là nói những điều có đạo đức, có giá trị đoàn kết, thương yêu, xây dựng, hỷ xả,
bao dung. Nói cách khác, tịnh khẩu là nói những điều tích cực.
Trong kinh Tăng Chi, đức Phật nói: Không có sự hấp
dẫn giới tính nào bằng giọng nói ngọt ngào của người nữ dành cho người nam, và
lời nói của người nam đối với người nữ. Trong sự thu hút giới tính, sắc thái và
lời lẽ qua âm thanh đóng vai trò quan trọng. Khó ai có thể thương một người
câm, vì thiếu sự truyền thông để biểu đạt tình cảm. Hành động là yêu cầu không
thể thiếu nhưng phải thể hiện ra bằng lời nói để người khác cảm nhận sâu sắc
hơn. Không phải ai cũng có được sự tinh tế của tâm lý học để thấy não trạng và
sự vận hành cảm xúc cũng như tâm tính của người kia, do đó chúng ta phải thể
hiện.
Tác phẩm “Bông hồng cài áo” của thiền sư Nhất
Hạnh có một câu ấn tượng mang chất liệu Phật pháp rất lớn, thể hiện tình thương
kính của người con đối với mẹ, “Mẹ ơi! Mẹ
có biết rằng con thương mẹ không?”. Cách biểu đạt như thế là một
trong những nghệ thuật truyền thông, mà nếu thiếu nó nhiều người sẽ không cảm
nhận được. Người cha vốn kiệm lời hơn người mẹ, còn người mẹ thương con và thường
tâm sự với con như bạn thân, do đó sự bế tắc giữa mẹ và con ít hơn. Người cha
nghiêm nghị, ít nói, khô khan nên dù thương con mà la rầy đôi lúc khiến con
không cảm nhận được tình thương, ngược lại chỉ thấy rằng cha khác mẹ như lửa và
nước. Gần mẹ cảm thấy thoải mái còn gần cha cảm thấy dội ngược. Kiệm lời quá
mức là không tốt, nhưng nói quá nhiều sẽ làm người khác mỏi mệt.
Nên nói đủ lời, đủ câu, tròn
chữ, nói những điều cần nói và có giá trị thì lời nói đó tăng cường nội dung
của tình yêu, tình thương, chất liệu hạnh phúc. Nhờ sử dụng ngôn ngữ, con người
mới hơn động vật. Các động vật thương con cái của chúng nhưng không thể bày tỏ
bằng lời. Phạm vi truyền thông của động vật kém hơn thế giới loài người và con
người phải tận dụng giá trị truyền thông bằng ngôn ngữ này để giải quyết các bế
tắc với nhau. Trong gia đình nếu có người ít nói và người nói quá nhiều thì nó
chỉ hấp dẫn nhau trong giai đoạn đầu, nhàm chán nhau trong giai đoạn phát triển
và phải ly thân trong giai đoạn cuối vì hai bên không hợp. Truyền thông cần đi
hai chiều, không phải bên này nói còn bên kia chỉ im lặng và ngược lại. Nói với
nhau đúng phương pháp có thể tháo gỡ những bế tắc trong xã hội và cộng đồng.
Hàn
gắn bằng tình yêu
Sẵn sàng bỏ ra một phần tiền
bạc, thể hiện qua một món quà hoặc một chuyến du lịch xa để hai vợ chồng có
không gian riêng tư hâm nóng lại những kỷ niệm đẹp trong tình yêu hôn nhân.
Hình thức này rất phù hợp với đạo Phật và đây cũng là nhu cầu tâm sinh lý của
con người. Trong kinh Thiện Sanh có nêu ra một trong năm yếu tố dẫn đến hạnh
phúc hôn nhân lâu dài, đó là người chồng nên dành ra khoản tiền nhỏ tô điểm cho
vợ mình trở nên xinh đẹp hơn bằng phần quà hay những trang sức.
Người nữ thường cảm thấy hạnh
phúc và đặc biệt các cô có thể cảm nhận được đều này từ sự chăm sóc dù nho nhỏ
nhưng cụ thể. Cho nên khi bế tắc diễn ra, người chồng hiểu tâm lý hiện đại từ
lời kinh Phật dạy có thể mua một phần quà nào đó gợi kỷ niệm đẹp của của nhiều
năm về trước hoặc kỷ vật nào đó mà người bạn đời của mình không thể nào quên khi
nhìn thấy, kỉ niệm ngày xưa sẽ tái hiện trong tâm thức hai người trong cuộc.
Đèn xanh của hòa bình, hàn gắn,
sẽ khiến hai bên đều đi tới phía trước chứ không dừng lại ở đèn vàng hay đỏ.
Đây là dấu hiệu cần thiết và là khởi điểm không thể thiếu.
Biểu tượng tình yêu phải thể
hiện qua hành động cụ thể. Trong các ngôi chùa thường thờ rất nhiều hình tượng
của Quan Âm, đôi khi có đức Thiên thủ thiên nhãn như một biểu tượng. Trong mỗi
bàn tay của Quan Âm đều có một con mắt. Con mắt tượng trưng cho nhãn thức hay tuệ
giác, còn bàn tay tượng trưng cho hành động cụ thể là tình thương yêu. Như vậy,
yêu một người nào đó thì không thể không có sự chăm sóc lo lắng, bảo hộ, nâng
đỡ, tặng biếu v.v...
Ngay cả tình thương kính của con
cái đối với cha mẹ, ông bà, anh em cũng cần được thể hiện bằng hành động cụ
thể. Món quà không cần lớn nhưng phải nói lên trọng tâm của tình thương yêu và
sự hàn gắn. Chúng ta có thể chọn những phần quà mang tính văn hóa biểu tượng.
Trong biểu tượng đó, người thân yêu của mình đủ năng lực để giải mã nó, bằng
không chúng ta phải nói bằng lời để giải thích ý nghĩa của món quà nhằm được
người kia dễ dàng cảm thông, xúc cảm dâng trào và dễ dàng bỏ qua những bế tắc
trong mối quan hệ tình thân.
Ngày nay, các loại thiệp điện tử
được phát minh cho phép chúng ta gởi lời chúc mừng để làm quà trước đó vài ngày
hoặc xa hơn nữa. Chúng ta có thể ấn định ngày nhận nhằm gây sự ngạc nhiên cho
người mà ta yêu mến. Cảm giác ngạc nhiên mang lại hiệu ứng rất đặc biệt duy trì
hạnh phúc lâu dài.
Hiện nay, Việt Nam cũng như
nhiều nước trên thế giới có dịch vụ gửi quà đến mọi nơi. Hai vợ chồng giận nhau
dù người ở phương trời này và người ở phương trời nọ nhưng họ vẫn có thể tặng
quà cho nhau. Chỉ cần tốn một khoản tiền nho nhỏ yêu cầu dịch vụ mang đúng loại
quà theo nhu cầu đến tận nơi, vào ngày tháng này, dịch vụ sẽ gọi điện thoại báo
trước có quà và sẽ trao nhận tận tay. Chúng ta còn có thể yêu cầu người giao
quà phải ăn mặc quần áo, hình thù, màu sắc theo ý muốn để gợi nhớ những kỉ niệm
ngày xưa. Dịch vụ này khá phổ biến trong thế giới phương Tây. Cảm giác ngạc
nhiên làm cho người ta thích thú và dễ dàng bỏ qua những chuyện buồn.
Có hai tình huống tâm lý mà sự
hàn gắn dễ dàng nhất là trong lúc những người trong cuộc có quan hệ khúc mắc,
đau khổ cùng cực thì sự quan tâm chăm sóc trong lúc này cho thấy chúng ta đang
thương yêu người đó, cho nên chúng ta đến với họ một cách có dụng ý ở một thời
điểm phù hợp cần thiết.
Tình huống thứ hai là tình huống
trong hạnh phúc dâng trào. Người ta có cảm giác tâm mình rộng lượng sẵn sàng tha
thứ, và nâng đỡ. Hai tình huống này, việc tặng quà chia sẻ tình cảm, biểu hiện
qua những hành động cụ thể làm cho người kia đón nhận dễ dàng hơn. Một trong
những nghệ thuật đó là cùng đi du lịch để hàn gắn vì không bị các yếu tố, điều
kiện và hoàn cảnh khác chi phối. Khi đó qua sự hàn gắn, sức sống tình yêu bắt
đầu tái hiện trở lại.
Với tư cách người tại gia, chúng
ta có thể sử dụng các kĩ năng này mặc dù biết rằng bản chất của tình yêu là đắm
trước, dính mắc một cách ghê gớm. Trong sự dính mắc đó, con người nảy sinh
nhiều hận thù với nhau. Người ngoài đôi khi không gây hận thù cho chúng ta
nhiều bằng những người thân yêu nhất. Lúc đó phải biết thực tập buông xả để khi
người ta thể hiện thiện chí muốn quay trở về thì chúng ta đừng bao giờ bật đèn
đỏ khiến sự nối kết đó lẽ ra trở thành hạnh phúc cho cả hai, cho gia đình, cho
những người thân và họ tộc trở thành vết đau khó chữa lành.
Trong tình huống người muốn hàn
gắn nhưng không có tiền, chúng ta vẫn có thể căn cứ qua việc thể hiện tấm lòng
bằng ánh mắt, nụ cười, sự săn sóc và quan tâm. Nếu người kia có tính hờn dỗi,
thái độ tâm lý bất cần, thì chúng ta thể hiện nụ cười dù không được đáp lại.
Trước phản ứng không cần, quay mặt đi, chúng ta cũng đừng tự ái mà phải nỗ lực
hàn gắn một cách kiên trì và thành tâm. Thái độ mệt mỏi muốn rút lui sẽ hoàn
toàn đổ vỡ mối quan hệ. Sự đổ vỡ này khó có thể hàn gắn trở lại.
Cho nên một khi đã nỗ lực hàn
gắn thì phải nêu quyết tâm lớn dẫn đến thành công, không bao giờ cho phép mình
bỏ cuộc nửa chừng. Đây là nghệ thuật tâm lý rất quan trọng, và khi đã thành
công thì tình cảm đó sẽ không còn phải hàn gắn thêm lần nào nữa.
May
mắn trong tình yêu
Bản chất của niềm tin vào ngày
may mắn của tình yêu không có gì là sai trái nhưng chúng ta có thể nương vào
niềm tin đó để tạo giá trị hiện thực. Tâm lý học hiện đại có vài kỹ năng về
việc ứng dụng hành trì Phật pháp giúp chúng ta có nhiều giải pháp giải quyết
khúc mắc trong tình yêu. Nền văn hóa phương Tây có lệ tổ chức kỷ niệm năm mươi
năm ngày cưới như là nghệ thuật làm mới. Đôi khi hôn nhân lâu dài bền bỉ khiến
người ta cảm thấy nhàm chán thì vào những dịp mười năm, hai mươi năm, ba mươi,
bốn mươi, năm mươi năm, người ta tái hôn, mặc dù vợ chồng đó chưa từng ly dị
nhau. Đây là truyền thống văn hóa khá hay mà chúng ta có thể tham khảo.
Ngày 07/07/2007, người Phật tử
nên ứng dụng với tư cách những người tại gia cùng ngồi bên gia đình nhắc nhở
lại những kỉ niệm đẹp ngày xưa. Đây cũng là cách hâm nóng hạnh phúc.
Bản chất của tình yêu không có
gì xấu, đạo Phật không bao giờ kháng cự lại tình yêu. Có lẽ chúng ta sẽ ngạc
nhiên khi đọc lại những trang kinh của đức Phật nói trong suốt 49 năm của ngài.
Trong số đó có vài chục bài kinh đức Phật dạy về các kỹ năng xây dựng hạnh phúc
hôn nhân tình yêu gia đình. Có thể khẳng định chính xác rằng đạo Phật có số bài
kinh đề cập đến bản chất của tình yêu và các nghệ thuật xây dựng hạnh phúc
nhiều nhất trong các loại văn học tôn giáo.