QUYỂN VI
PHẨM
"DƯỢC-VƯƠNG BỔ-TÁT BỒN-SỰ"
THỨ HAI MƯƠI BA
1. Lúc bấy
giờ, ngài Tú-Vương-Hoa Bồ-Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Ngài Dược-Vương
Bồ-Tát dạo đi nơi cõi Ta-bà như thế nào? Thế Tôn! Ngài Dược-Vương Bồ-Tát đó, có
bao nhiêu nghìn muôn ức na-do-tha hạnh khổ khó làm? Hay thay Thế Tôn! Nguyện
giải, nói cho một ít, các hàng trời, rồng, thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la,
Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-đà, nhơn, cùng phi-nhơn v.v.. và các vị Bồ-Tát
ở các nước khác đến cùng chúng Thanh-văn đây nghe đều vui mừng".
2. Lúc đó, Phật bảo ngài Tú-Vương-Hoa Bồ-Tát: "Về thuở quá
khứ vô lượng hằng-hà-sa kiếp trước, có Phật hiệu Nhựt-Nguyệt-Tịnh-Minh-Đức
Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải,
Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự-trượng-phu, Thiên-nhân sư, Phật Thế-Tôn.
Phật đó có tám mươi ức đại Bồ-Tát, bảy mươi hai hằng-hà-sa chúng
đại Thanh-văn. Phật sống lâu bốn muôn hai nghìn kiếp, Bồ-Tát sống lâu cũng bằng
Phật. Nước đó không có người nữ, điạ-ngục, nga-quỷ, súc-sanh, A tu la v.v... và
với các khổ nạn. Đất bằng như bàn tay, chất lưu ly làm thành, cây báu trang
nghiêm, màn báu trùm lên, thòng các phan báu đẹp, bình báu, lò hương khắp cùng
cả nước, bảy món báu làm đài, một cây có một đài, cây đó cách đài đều một lằn
tên. Các cây báu đó đều có Bồ-Tát, Thanh-văn ngồi ở dưới. Trên các đài báu đều
có trăm ức chư thiên trổi kỹ nhạc trời, ca khen Đức Phật để làm việc cúng dường.
3. Bấy giờ, Đức Phật đó vì ngài Nhứt-Thiết Chúng-Sanh Hỷ-Kiến
Bồ-Tát cùng chúng Bồ-Tát và chúng Thanh-văn nói kinh Pháp-Hoa.
Ngài Nhứt-Thiết Chúng-Sanh Hỷ-Kiến Bồ-Tát đó ưa tu tập khổ hạnh,
ở trong pháp hội của đức Nhựt-Nguyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật, tinh tấn kinh hành,
một lòng cầu thành Phật, mãn một muôn hai nghìn năm được "Hiện-
nhứt-thiết-sắc-thân-tam-muộị".
Được tam muội đó rồi lòng rất vui mừng, liền nghĩ rằng: "Ta
được "Hiện- nhứt-thiết-sắc-thân-tam-muội" này đều là do sức được nghe
kinh Pháp-Hoa, ta nay nên cúng dường Nhựt-Nguyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật và kinh
Pháp-Hoa".
Tức thời nhập tam muội đó, ở giữa hư không rưới hoa mạn-đà-la,
hoa ma-ha mạn-đa-la, cùng bột kiên-hắc chiên-đàn đầy trong hư không như mây mà
rưới xuống. Lại rưới hương hải-thử-ngạn chiên-đàn, sáu thù (8) hương này giá trị cõi Ta-bà để cúng
dường Phật.
Cúng dường như thế đó rồi, từ tam-muội dậy mà tự nghĩ rằng:
"Ta dầu dùng thần lực cúng dường nơi Phật, chẳng bằng dùng thân cúng
dường". Liền uống các chất thơm; chiên-đàn, huân-lục, đâu-lâu-bà,
tất-lực-ca, trầm-thủy-giao-hương; lại uống dầu thơm các thứ bông chiên-bặc
v.v.. mãn một nghìn hai trăm năm, rồi lấy dầu thơm xoa thân ở trước đức
Nhựt-Nguyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật dùng y báu cõi trời mà tự quấn thân, rưới các
thứ dầu thơm, dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt thân.
Ánh sáng khắp soi cả tám mươi ức hằng-hà-sa thế giới, các Đức
Phật trong đó đồng thời khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Thiện-nam-tử! Đó
là chân thật tinh tấn gọi là chân pháp cúng dường Như-Laị. Nếu dùng hoa hương
chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan, lọng, bằng lụa cõi trời và
hương hải-thử-ngạn chiên-đàn, dùng các món vật cúng dường như thế đều chẳng
bằng được.
Giả sử quốc thành thê tử bố thí cũng chẳng bằng. Thiện-nam-tử!
Đó gọi là món thí thứ nhất, ở trong các món thí rất tôn rất thượng, bởi dùng
pháp cúng dường các đức Như-Lai vậy", các Đức Phật nói lời đó rồi đều yên
lặng. Thân của Bồ-Tát lửa cháy một nghìn hai trăm năm, qua sau lúc đó thân
Bồ-Tát mới hết.
4. Ngài Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh Hỷ-Kiến Bồ-Tát, làm việc pháp cúng
dường như thế xong, sau khi mạng chung, lại sanh trong nước của
Nhật-Nguyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật, ở nơi nhà vua Tịnh-Đức bỗng nhiên ngồi xếp bằng
hoá sanh ra, liền vì vua cha mà nói kệ rằng:
Đại vương nay nên biết!
Tôi kinh hành chốn kia
Tức thời được nhứt thiết
Hiện chư thân tam-muội
Siêng tu rất tinh thân
Bỏ thân thể đáng yêu
Cúng dường đức Thế-Tôn
Để cầu huệ vô thượng.
Nói kệ đó rồi thưa vua cha rằng: "Đức
Nhật-Nguyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật nay vẫn hiện còn, tôi trước cúng dường Phật
xong, đặng "Giải-nhứt-thiết chúng-sanh ngữ-ngôn đà-la-ni" lại nghe
kinh Pháp-Hoa này tám trăm nghìn muôn ức na-do-tha, chân-ca-la, tần-bà-la,
a-súc-bà (A) các bài kệ.
Đại-Vương! Tôi nay lại nên cúng dường Đức Phật đó". Thưa
xong, liền ngồi đài bảy báu, bay lên hư không, cao bằng bảy cây đa-la, qua đến
chỗ Phật đầu quay mặt lạy chân, chấp tay nói kệ khen rằng:
Dung nhan rất đẹp lạ
Ánh sáng soi mười phương
Con vừa từng cúng dường
Nay lại về thân thấy.
5. Lúc đó ngài Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát nói kệ xong
và bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Đức Thế-Tôn vẫn còn ở đời ư?".Bấy giờ,
đức Nhật-Nguyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật bảo ngài Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh-Hỷ-Kiến
Bồ-Tát rằng: "Thiện-nam-tử! Giờ ta nhập Niết-bàn đã đến, giờ diệt tận đã
đến, ông nên sắp đặp giường tòa. Ta trong đêm nay sẽ nhập Niết-bàn".
Phật lại bảo ngài Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát rằng:
"Thiện-nam-tử! Ta đem Phật pháp giao phó cho ông, và các Bồ-Tát đại đệ tử
cùng pháp vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, cũng đem cõi thất bảo tam-thiên
đại-thiên, các cây báu, đài báu và hàng chư thiên cung cấp hầu hạ đều giao phó
cho ông.
Sau khi ta diệt độ có bao nhiêu xá-lợi cũng phó chúc cho ông,
nên làm lưu bố rộng bày các việc cúng dường, nên xây bao nhiêu nghìn tháp".
Đức Nhật-Nguyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật bảo ngài
Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát như thế rồi, vào khoảng cuối đêm nhập
Niết-bàn.
6. Lúc đó, ngài Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát thấy Phật
diệt độ buồn cảm sầu khổ, luyến mộ nơi Phật, liền dùng hải-thử-ngạn chiên-đàn
làm giàn để cúng dường thân Phật mà thiêu đó.
Sau khi lửa tắt, thâu lấy xá-lợi đựng trong tám muôn bốn nghìn bình báu, để xây
tám muôn bốn nghìn tháp cao ba thế giới, chưng dọn trang nghiêm thòng các phan
lọng treo các linh báu.
Bấy giờ ngài Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát lại tự nghĩ
rằng: "Ta dầu làm việc cúng dường đó lòng còn chưa đủ, ta nay lại nên cúng
dường xá-lợi". Liền nói với các Bồ-Tát đại đệ tử và trời, rồng, Dạ-xoa
v.v..., tất cả đại chúng rằng: "Các ông phải một lòng ghi nhớ, tôi nay
cúng dường xá-lợi của đức Nhật-Nguyệt-Tịnh-Minh-Đức Phật". Nói xong liền ở
trước tám muôn bốn nghìn tháp đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm, mãn bảy
muôn hai nghìn năm để cúng dường. Khiến vô số chúng cầu Thanh-văn, vô lượng vô
số người phát tâm vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác, đều làm cho trụ trong
"Hiện-nhứt-thiết-sắc-thân tam-muội".
Lúc đó, các Bồ-Tát, trời, người, A-tu-la v.v.., thấy ngài không
có tay bèn sầu khổ buồn thương mà nói rằng: "Ngài
Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát này là thầy chúng ta, giáo hoá chúng ta,
mà nay đốt tay, thân chẳng đầy đủ.
Lúc ấy, Ngài Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát ở trong đại
chúng lập lời thề rằng: "Tôi bỏ hai tay ắt sẽ được thân sắc vàng của Phật,
nếu thật không dối, thời khiến hai tay tôi hoàn phục, như cũ". Nói lời thề
xong hai tay tự nhiên hoàn phục, đó là do phước đức trí huệ thuần hậu của Bồ
tát cảm nên.
Đương lúc đó cõi tam-thiên đại-thiên thế giới sáu điệu vang
động, trời rưới hoa báu, tất cả người, trời được việc chưa từng có.
7. Đức Phật bảo ngài Tú-Vương-Hoa Bồ-Tát: "Ý ông nghĩ sao?
Nhứt-Thiết-Chúng-Sanh-Hỷ-Kiến Bồ-Tát đâu phải người nào lạ, chính là Dược-Vương
Bồ-Tát đó. Ông ấy bỏ thân số nhiều vô lượng trăm nghìn muôn ức na-do-tha như
thế.
Tú-Vương-Hoa! Nếu người phát tâm muốn đặng đạo vô-thượng
chánh-đẳng chánh-giác, có thể đốt một ngón tay nhẫn đến một ngón chân để cúng
dường pháp của Phật, hơn đem quốc thành, thê tử và cõi tam-thiên đại-thiên:
Núi, rừng, sông, ao, các vật trân báu mà cúng dường.
Nếu lại có người đem bảy thứ báu đầy cả cõi tam-thiên đại-thiên
cúng dường nơi Phật, cùng đại Bồ-Tát, Duyên-giác và A-la-hán, công đức của
người đó được, chẳng bằng người thọ trì kinh Pháp-Hoa này nhẫn đến một bài kệ
bốn câu, phước của người này rất nhiều.
8. Tú-Vương-Hoa! Thí như trong các dòng nước: Sông, ngòi, kinh,
rạch, thời biển là lớn nhất; kinh Pháp-Hoa này cũng như thế, ở trong các kinh
của đức Như-Lai nói rất là sâu lớn.
Lại như trong các núi non: Thổ sơn, Hắc sơn, núi tiểu Thiết-vi,
núi đại Thiết-vi cùng núi báu thời núi Diệu-Cao bậïc nhất, kinh Pháp-Hoa này
cũng như thế, ở trong các kinh rất lớn là bậc thượng.
Lại như trong các ngôi sao, mặt trăng là bậc nhất, kinh Pháp-Hoa
này cũng như thế, ở trong nghìn muôn ức các kinh pháp là sáng.
Lại như mặt trời hay trừ các chỗ tối tăm, kinh Pháp-Hoa này cũng
như thế, hay phá tất cả sự tối bất tiện.
Lại như trong các vua nhỏ, vua Chuyển-luân-thánh-vương rất là
bậc nhất, kinh này cũng như thế, ở trong các kinh là bậc tôn kính hơn cả.
Lại như Đế-Thích là vua trong ba mươi cõi trời (9) , kinh này cũng thế, là vua trong các
kinh.
Lại như trời đại Phạm-thiên-vương là cha tất cả chúng sanh, kinh
này cũng như thế, là cha tất cả hiền thánh: Bậc hữu-học, vô-học cùng hàng pháp
lòng Bồ-đề.
Lại như trong tất cả các phàm phu thời bậc Dự-lưu, Nhất-lai,
Bất-lai, Vô-sanh, Duyên-giác, (10) là bậc nhất, kinh này cũng như thế,
tất cả Như-Lai nói, hoặc Bồ-Tát, hoặc Thanh-văn nói trong, các kinh pháp là bậc
nhất hơn cả, có người thọ trì được kinh điển này cũng lại như thế, ở trong tất
cả chúng sanh cũng là bậc nhất.
Trong tất cả Thanh-văn cùng Duyên-giác, Bồ-Tát là bậc nhất, kinh
này cũng lại thế trong tất cả các kinh pháp rất là bậc nhất.
Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng thế là vua của các
kinh.
9. Tú-Vương-Hoa! Kinh này có thể cứu tất cả chúng sanh, kinh này
có thể làm cho tất cả chúng sanh xa rời các khổ não, kinh này có thể lợi ích
cho tất cả chúng sanh, đầy mãn chỗ mong cầu của chúng như ao nước trong mát có
thể đầy đủ cho những người khát nước, như kẻ lạnh được lửa, như kẻ trần truồng
được y phục, như người buôn được chủ(11) , như con gặp mẹ, như qua sông gặp
thuyền, như người bệnh gặp thầy thuốc, như tối được đèn, như nghèo gặp của báu,
như dân gặp vua(12) , như
khách buôn được biển(13) ,
như đuốc trừ tối. Kinh Pháp-Hoa này cũng thế, có thể làm cho chúng sanh xa rời
tất cả khổ, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể mở sự trăn trói của tất cả sanh tử.
Nếu người nghe được kinh Pháp-Hoa này, hoặc chép hoặc bảo người
chép, được công đức, dùng trí huệ cuả Phật tính lường nhiều ít chẳng thể được
ngằn mé đó. Nếu chép kinh sách này, dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt,
hương bột, hương xoa, phan, lọng, y phục, các thứ đèn: Đèn nến, đèn dầu, các
thứ đèn dầu thơm, đèn dầu chiêm-bặc, đèn dầu tu-mạn-na, đèn dầu ba-la-la, đèn
dầu bà-lợi-sư-ca, đèn dầu na-bà-ma-lợi đem cúng dường, công đức cũng là vô lượng.
10. Tú-Vương-Hoa! Nếu có người nghe phẩm "Dược-Vương Bồ-Tát
Bổn-Sự" này cũng được vô lượng vô biên công đức.
Nếu có người nữ nghe phẩm "Dược-Vương Bồ-Tát Bổn-Sự"
này mà có thể thọ trì, thời sau khi dứt báo thân đàn bà đó không còn thọ lại
nữa.
Sau khi Như-Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe
kinh điển này, đúng như lời mà tu hành, thời khi ở đây chết liền qua cõi
An-Lạc, chỗ trụ xứ của đức A-Di-Đà-Phật(14) cùng chúng đại Bồ-Tát vây quanh, mà
sanh trên tòa báu trong hoa sen.
Chẳng còn bị lòng tham dục làm khổ cũng lại chẳng bị lòng giận
dỗi, ngu si làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng kiêu mạn ghen ghét các tánh nhơ làm
khổ, được thần thông vô-sanh pháp-nhẫn của Bồ-Tát, được pháp-nhẫn đó thì nhãn
căn thanh tịnh. Do nhãn căn thanh tịnh đó thấy bảy trăm muôn hai nghìn ức
na-do-tha hằng-hà-sa các Đức Phật Như-Lai.
Bấy giờ, các Đức Phật đồng nói khen rằng: "Hay thay! Hay
thay! Thiện-nam-tử! Ông có thể ở trong pháp hội của đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật mà
thọ trì, đọc tụng, suy gẫm kinh này vì người khác nói, ông được công đức vô
lượng vô biên, lửa chẳng đốt được, nước chẳng trôi được, công đức của ông,
nghìn Phật nói chung cũng chẳng thể hết được. Ông nay có thể phá giặc ma, hoại
quân sanh tử, các oán địch khác thảy đều trừ diệt.
Thiện-nam-tử! Trăm nghìn các Đức Phật dùng sức thần thông đồng
chung thủ hộ ông, tất cả trời người trong đời không ai bằng ông. Chỉ trừ các
đức Như-Lai, bao nhiêu thiền định trí huệ cuả các Thanh-văn, Duyên-giác, nhẫn
đến Bồ-Tát không có ai bằng ông.
Tú-Vương-Hoa! Vị Bồ-Tát đó thành tựu sức công đức trí huệ như
thế.
11. Nếu có người nghe phẩm "Dược-Vương-Bồ-Tát Bổn-Sự"
này mà có tùy hỷ khen ngợi, thì người đó trong thời hiện tại trong miệng thường
thoảng ra mùi thơm hoa sen xanh; trong lỗ chân lông nơi thân, thường thoảng ra
mùi thơm ngưu-đầu chiên-đàn, được công đức như đã nói ở trên.
Tú-Vương-Hoa! Vì thế ta đem phẩm "Dược-Vương Bồ-Tát Bổn-Sự" này chúc
lũy cho ông. Năm trăm năm sau khi ta diệt độ phải tuyên nói lưu bố rộng truyền
ở nơi cõi Diêm-Phù-đề, chớ để dứt mất. Chớ cho hàng ác ma, dân ma, các trời,
rồng, Da-xoa, Cưu-bàn-trà, v..v.. phá khuấy đặng.
Tú-Vương-Hoa! Ông phải dùng sức thần thông giữ gìn kinh nàî Vì
sao? Vì kinh này là món lương dược của người bệnh trong cõi Diêm-phù-đề; nếu
người có bịnh được nghe kinh này bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.
Tú-Vương-Hoa! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này, phải dùng
hoa sen xanh đựng đầy hương hột rải trên người đó. Rải xong nghĩ rằng:
"Người này chẳng bao lâu quyết sẽ lấy cỏ trải ngồi nơi đạo tràng, phá các
quân ma, sẽ thổi ốc pháp, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sanh ra khỏi
biển sanh, già, bệnh, chết.
Cho nên người cầu Phật đạo thấy có người thọ trì kinh điển này,
nên phải sanh lòng cung kính như thế.
12. Lúc Đức Phật nói phẩm "Dược-Vương Bồ-Tát Bổn-Sự"
này, có tám muôn bốn nghìn Bồ-Tát được pháp "Giải nhứt-thiết chúng-sanh
ngữ-ngôn đà-la-ni".
Đức Đa-Bảo Như-Lai ỏ trong tháp báu khen ngài Tú-Vương-Hoa
Bồ-Tát rằng: "Hay thay! Hay thay! Tú-Vương-Hoa! Ông thành tựu bất-khả
tư-nghì công đức mới có thể hỏi đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật việc như thế, làm vô
lượng lợi ích cho tất cả chúng sanh".
KINH
DIỆU-PHÁP LIÊN-HOA
Quyển Thứ Sáu
Tạm trì tuỳ hỷ thanh tịnh các căn kíp quên "nhân"
"pháp", thể thường còn, thần lực khắp càn khôn trao phó ân cần: Liều
thân mạng để báo ân rộng lớn.
Nam-Mô Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần)
Ngài Di-Lặc Bồ-Tát so lường kinh nhân, sáu căn thanh tịnh hiện
thiên-chân, Bất-Khinh thể thường còn, vì pháp thiêu thân cúng dường Phật
Tịnh-Minh.
Nam-Mô Tú-Vương-Hoa Bồ-Tát. (3lần)
THÍCH NGHĨA:
(1). Tuỳ hỷ: Vui theo, vui mừng ưng thuận tán thành.
(2).
1) Loài từ trứng
sanh ra như chim v.v...
2) Loài từ bào thai sanh ra
như người v.v...
3) Loài từ ẩm ướt sanh ra như
trùng, đom đóm v.v...
4) Loài từ biến hóa sanh ra như
trời, địa-ngục v.v...
(3). Vô-gián địa-ngục, người ở trong
địa-ngục này một ngày một đêm muôn lần chết muôn lần sống, bị khổ hình không có
giây phút nào ngớt nghỉ nên gọi là Vô-gián.
(4). Cõi trời cùng tột, cũng là chót của ba
cõi.
(5). Quang-âm-thiên là một trong ba từng
trời nhị-thiền, cũng là từng thứ ba, Biến-tịch-thiên là một trong ba từng
tam-thiền, cũng là từng thứ ba.
(6). Thiện lành; Tịch vắng-bặt. Tức là môn
thiền định vô lậu lớn.
(7). Người thế tục ưa mặc y phục sắc trắng
nên gọi là "bạch-y".
(8). Hai mươi bốn "thù" làm một
lượng.
(9). Trên chót núi Tu-di (Diệu-cao-sơn) bằng
phẳng bốn phương có 32 cỏi trời, mỗi cõi đều có một vị Thiên vương quản trị.
Trung ương, có một cõi trời, ông Thích-Đề-Hoàn-Nhơn (Đế-Thích, ở trong đây,
quyền quản lãnh cả 33 cõi trời, hợp lại là trời "Đao-Lợi").
(10). Người tu hành theo Phật Pháp phá 88
món "kiến-sở-đoạn-hoặc" thì rời phàm phu dự vào hàng Thánh nên gọi
"Dự-Lưu". Cõi dục có 9 phẩm "tư-hoặc", cõi sắc có 36 phẩm
"Tư-Hoặc". Cõi vô sắc có 36 phẩm "tư-hoặc". Cộng là 81 phẩm
"tư-hoặc". Sau khi phá hết 88 món "kiến-hoặc", tu hành lần
lần phá "tư-hoặc". Trong 9 phẩm cõi dục, phá được 6 phẩm trước thì
chứng bậc "tư-đà-hàm" (Nhất-Lai) nghĩa là còn một lần sanh xuống nhân
gian. Phá cả 9 phẩm thì không còn sanh xuống nhân gian nữa nên gọi
"Bất-Lai" (A-na-hàm). Phá cả 81 phẩm tư hoặc thì dứt haün sanh tử
luân hồi nên gọi "Vô-Sanh" (A-La-Hán).
(11). hương-Chủ: Người dẫn đạo cho các con
buôn.
(12). Vua: Vị cai trị một nước, người đem sự
an ninh cho dân chúng.
(13). Xưa các người buôn châu báu thường ra
biển tìm châu báu.
(14). An-Lạc tức là nước Cực-Lạc ở
Tây-phương, của đức Giáo-Chủ A-Di-Đà Phật.
(A). Tên những con số lớn của xứ Ấn-Độ xưa. Từ nghìn muôn ức sắp
lên. Như một Chân-ca-la: Một nghìn muôn ức.
Sự Tích
Tụng Kinh Thoát Nữ Thân
Đời Tuỳ, huyện Đắc-Lăng, có ông Thôi-Ngạn-Võ niên hiệu
Khai-Hoàng, làm quan Thứ-Sử châu Nguî. Một hôm, nhân đi thanh tra trong địa
phận mình quản trị, đến một ấp nọ, bổng ngạc nhiên vừa sợ vừa mừng, bảo kẻ tùng
giả rằng: "Ta xưa từng làm vợ người ở trong ấp này, nay vẫn biết nhà
cũ". Liền cỡi ngựa đi vào đường hẻm trong ấp, quanh quẹo đến một nhà, sai
người gõ cửa. Oâng chủ nhà đó đã già chạy ra lạy chào.
Oâng Ngạn-Võ vào nhà, chỉ trên vách phía đông cách đất chừng năm
sáu thước (thước Tàu) có chỗ lồi cao lên mà bảo chủ nhà rằng: "Chỗ trên
cao đó là chỗmà ta xưa kia cất năm đôi thoa vàng, với bộ kinh Pháp-Hoa của ta
đọc hàng ngày. Bộ kinh ấy cuối quyển bảy, lửa cháy xém mất chữ hết một tờ. Vì
cớ đó nên hiện naymỗi khi ta tụng kinh Pháp-Hoa đến trang đó, thường quên lãng
không ghi nhớ được". Nói xong sai người đục chỗ vách đó ra, quả thật dược
hộp đựïng kinh; thoa vàng cùng quyển thứ bảy cháy xém một tờ cuối quyển như lời
nói trước.
Ông chủ nhà rơi nước mắt khóc rằng: "Thoa vàng và cùng kinh
thật là vật của vợ tôi, ngày còn sanh tiền, vợ tôi thường đọc bộ kinh Pháp-Hoa
này".
Ông Ngạn-Võ lại nói: "Cây hòe trước sân kia ngày trước khi
ta sắp đẻ, tự cởi đầu tóc mượn để vào bọng cây đó". NÓi xong bảo người thử
lại tìm, thật quả được tóc.
Chủ nhà thấy việc như thế, biết chính quan Thứ-sử hiện nay, là
vợ của mình ngày trước tái sanh, vừa buồn vừa mừng.
Thôi-Ngạn-Võ để đồ vật vàng bạc lại, hậu cấp cho ông chủ nhà mà
đi.
(Lai-Bộ-Thượng-Thơ Đường-Lâm biên)
"Trong phẩm "Dược-Vương Bồ-Tát Bổn-Sự" có nói:
Nếu có người nữ nào nghe kinh này mà có thể thọ trì, thời sau khi bỏ báo thân
đàn bà đó, không còn thọ lại nữa". Chuyện của ông Thôi-Ngạn-Võ trên đây đủ
chứng thật lời trong kinh. Làm cho chúng ta lại càng kính tin đức Như-Lai là
đấng chơn thật ngữ.
Một người đàn bà vợ tên dân quê ở trong ấp cùng đọc kinh
Pháp-Hoa mà đã sớm khỏi thân hèn khổ chuyển thành thân quan cao tước lớn, trong
khi ấy người chồng vẫn còn là tên dân quê. Chồng lại rước vợ, nào biết đó là vợ
cũ của mình ngày xưa.
Tên dân quê đó cùng một ít kẻ lân cận, khi người đàn bà đọc kinh
Pháp-Hoa chết, hoặc giả lại có niệm nghĩ rằng: "Tụng kinh không phước,
trái lại bị chết yểu. Niệm ngu si, lòng chê khinh ấy, khi gặp Thôi-Ngạn-Võ, như
tuyết gặp nước sôi vậy.
Ôi! Công đức bất-khả tư-nghì của kinh, cùng lý nhân quả nhiệm
mầu, kẻ tâm vụng về, trí thức thô thiển có thể nào mà thấu đáo được. Tôi rất lo
ngại cho hạng người bác nhân quả, huỷ báng kinh Đại-thừa và thiết tha mong sao
những hạng người ấy không nên quá nông nổi.
Vì khổ báo của người huỷ báng kinh, Đức Phật Thế-Tôn đấng
vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác như thật ngữ đã có huyền ký rõ ràng.
(Xem đoạn cuối phẩm Thí-Dụ - quyển 2)