VIỆN CAO ĐẲNG PHẬT HỌC HẢI ĐỨC NHA TRANG
維 摩 詰 所 說
KINH DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT
VIMALAKĪRTINIRDEŚA-SŪTRA
Bản Hán Ngữ
DUY-MA-CẬT-SỞ THUYẾT KINH
Của Tam Tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-thập
Tham Chiếu
THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH
Đường Huyền Trang Dịch
Bản Dịch Việt: Tuệ Sỹ
BAN TU THƯ PHẬT HỌC
2546 - Nhâm Ngọ
TIỂU DẪN
LỊCH SỬ TRUYỀN DỊCH CÁC BẢN HÁN
Được ấn hành trong Đại
chánh hiện tại, trước sau có tất cả ba bản Hán dịch. Bản dịch sớm nhất do Chi Khiêm,[1] tựa đề
«Phật thuyết Duy-ma-cật kinh», thực hiện trong khoảng niên hiệu Hoàng vũ thứ 1
(222) dưới thời Ngô Tôn Quyền, đến giữa niên hiệu Kiến hưng (253) thời Ngô Tôn
Lượng. Bản dịch này hình như không còn được lưu hành dưới thời Tăng Hựu.
Bản dịch do
Cưu-ma-la-thập được kể là bản thư hai, gần 200 năm sau đó.
Theo mục lục của Tăng
Hựu, giữa bản dịch của Chi Khiêm và của Cưu-ma-la-thập còn có ít nhất hai bản
nữa đã được lưu hành.
Theo đó, kế tiếp theo
«Phật thuyết Duy-ma-cật kinh» do Chi Khiêm dịch, là «San Duy-ma-cật kinh»[2] 1 quyển,
do Sa-môn Trúc Pháp Hộ, thực hiện trong khoảng niên hiệu Thái thủy, Tấn Vũ đế
(265), đến khoảng niên hiệu Vĩnh gia năm thứ 2, đời Tấn Hoài đế (308), cùng lúc
với nhiều kinh điển khác, mà Tăng Hựu nói là do Trúc Pháp Hộ sang Tây vực tìm
được bản Phạn mang về. Tuy vậy, Tăng Hựu cũng cho biêt ý kiến là, Pháp Hộ cắt
xén bớt một số kệ trong bản dịch cũ của Chi Khiêm được xem là hơi rườm rà.
Bản dịch tiếp theo đó nữa
là «Dị Duy-ma-cật kinh» do Trúc Thúc Lan,[3] thực hiện dưới thời Tấn Huệ đế, niên
hiệu Nguyên khang năm thứ 1 (291).
Khoảng trên dưới 10 năm
sau, cũng trong thời Tấn Huệ đế, Sa môn Chi Mẫn Độ tập hợp hai bản dịch trước
đó, của Trúc Pháp Hộ và Trúc Thúc Lan, biên tập thành một hiệp bản, tựa đề là «
Hiệp Duy-ma-cật kinh», 5 quyển.[4]
Như vậy, theo liệt kê của
Tăng Hựu, về các bản dịch cổ, hay được gọi là «cựu dịch», trước sau có tất cả 4
bản. Nếu kể luôn cả hiệp bản do Chi Mẫn Độ biên tập, có tất cả 5 bản.
Trong liệt kê của Pháp
Kinh,[5] chỉ kể có 4:
1. Duy-ma-cật, 3 quyển, Chi Khiêm
dịch, đời Ngô, niên hiệu Hoàng vũ.
2. Duy-ma-cật kinh, 1 quyển, Trúc
Pháp Hộ dịch, đời Tấn.
3. Dị Duy-ma-cật kinh, 3 quyển, do
Trúc Thúc Lan, đời Tấn Huệ đế.
4. Duy-ma-cật sở thuyết kinh, 3
quyển, do Cưu-ma-la-thập, đời Hậu Tần, niên hiệu Hoằng thủy.
Các bản dịch nêu trên,
trừ bản của Chi Khiêm, đến nay đều không còn được lưu hành. Tuy nhiên, Tăng Hựu
cũng ghi lại được bài tựa của Chi Mẫn Độ viết cho «Hiệp Duy-ma-cật kinh.»[6] Qua bài tựa này, cùng với bài tựa của
Tăng Triệu, cũng như vị trí của Tăng Triệu trong sự hoằng truyền tư tưởng Tánh
Không tại Trung quốc, cho thấy ngay từ đầu khi bản dịch của Chi Khiêm mới được
phổ biến, tư tưởng Duy-ma-cật đã có tầm ảnh hưởng nhất định. Thêm vào đó, nhiều
bản dịch, kể cả hiệp bản, cũng cho thấy những nỗ lực của các dịch giả và các
nhà nghiên cứu, cố gắng truyền đạt nội dung uẩn áo của Duy-ma-cật bằng phương
tiện ngôn ngữ, mà như chính trong đối thoại giữa Duy-ma-cật và Văn-thù thể hiện
rất sinh động qua những biểu tượng phong phú hình tượng văn học lãng mạn để
vượt qua giới hạn mà ngôn ngữ không thể vượt qua.
Trong các bản dịch, bản
do La-thập được truyền bá rộng rãi nhất, với rất nhiêu bản chú giải khác nhau
qua nhiều thế hệ khác nhau.
Khi La-thập đang ở Cô
tạng, một thanh niên trí thức tìm đến. Đó là Tăng Triệu.[7] Bấy giờ chưa đầy 30 tuổi. Ngay vừa
gặp gỡ và trao đổi lần đầu tiên, La-thập rất trân trọng không những tài năng
văn học và cả về tư tưởng uyên áo của người thanh niên này.
Trước đó, Tăng Triệu rất
hâm mộ tư tưởng Lão Trang, nghiền ngẫm lẽ huyền vi của Đạo đức kinh. Nhưng
Triệu cũng từng than thở: « Đẹp thì đẹp thật. Nhưng vẫn chưa thể tận thiện chỗ
u vi mờ mịt của Thần minh.» Sau đó, nhân gặp kinh Duy-ma-cật, bản cựu dịch, cảm
thấy bị lôi cuốn, nói rằng, «Bây giờ mới biết đâu là chỗ quay về.» Rồi Triệu
xuất gia. Vào luc tuổi chưa quá hai mươi, mà danh tiếng đã khiến nhưng thanh
niên cùng thế hệ cảm thấy phải ganh tị vì sở học quảng bác, tư tưỏng sâu sắc,
tài biện luân bén nhọn không dễ có người đương nổi.
La-thập đến Trường an năm
401. Bấy giờ Triệu mới 27 tuổi. Dưới sự hỗ trợ, và cũng là đại tín thí rất
ngưỡng mộ La-thập, của Dao Hưng (366-416) vua nước Hậu Tần, La-thập khởi đầu sự
nghiệp phiên dịch vĩ đại tại Trung quốc cùng với người môn sinh xuất sắc và
cũng là người trợ thủ đắc lực trong công trình phiên dịch; đó là Tăng Triệu.
Văn dịch của La-thập được các thế hệ nghiên cưu Phật học Hán tạng rất hâm mộ vì
sự lưu loát và trong sáng, trong đó không thể không kể đến sự đóng góp không
nhỏ của Tăng Triệu. «Duy-ma-cật-sở thuyết kinh»[8] do La-thập dịch là một trong những
đóng góp rất sáng giá của Tăng Triệu. Ngoài nội dung vừa uyên áo, vừa bao la
hoằng vĩ, cùng với rất nhiều hình tượng văn học mang đầy tính chất lãng mạn,
Duy-ma-cật nhanh chóng chinh phục tình cảm của rất nhiều văn thi sỹ Trung quốc
qua nhiều thế hệ khác nhau.
Tuy nhiên, nếu đối chiếu
bản dịch của La thập và bản do Huyền Trang dịch lại sau này này, người đọc có
thể thấy không có hình thái ngôn ngữ nào có thể phu diễn tận cùng sâu thẳm nội
dung của Duy-ma-cật. Giới hạn cuối cùng của sự diễn đạt ngôn ngữ, là sự im
lặng. Sự im lặng này trở thành nguồn rung động bất tuyệt cho nhiều sáng tạo
nghệ thuật, từ thi ca cho đến hội họa.
Bản dịch Việt này chủ yếu
y trên bản Hán của La-thập. Nhưng đồng thời cũng có sự đối chiếu với bản của
Huyền Trang. Những dị biệt về dịch ngữ, cũng như về phong cách dịch, sẽ được
ghi ở phần cước chú.
Mặt khác, rất nhiều đoạn
cần phải tham khảo giải thích, hay bình chú của La-thập và Tăng Triệu, cũng như
sớ giải của Khuy Cơ. Chính yếu, đây là hai hệ tư tưởng khác nhau; tiếp thu nội
dung của Duy-ma-cật từ hai nhãn quang khác nhau. Những tham khảo này cũng được
ghi lại trong phần cước chú.
Ở đây cũng cần phải thừa
nhận rằng, có những nếp gấp của tư tưởng mà ngôn ngữ Hán, vốn rất dị ứng với
các ý tưởng siêu hình, không thể chuyển tải trung thực tiếng Phạn, là loại hình
ngôn ngữ giàu chất siêu hình và luận lý. Vì vậy, những khi cảm thấy cần thiết,
dịch giả chua thêm một vài từ ngữ Sanskrit. Tất nhiên, không có bản Sanskrit
nào hiện được lưu hành. Do đó, các từ gốc Sanskrit nơi phụ chú chỉ là những ức
đoán có tính cách gợi ý. Rất mong đọc giả không xem đó là nguyên ngữ tuyệt đối
chính xác của các Hán dịch.
Song song với bản dịch
này, là «Pháp thoại Duy-ma-cật», giới thiệu nội dung các chương của Duy-ma-cật,
sẽ được in thành tập sách riêng biệt. Tập Pháp thoại này chỉ có mục đích nêu
những điểm mà bản dịch không thể chuyển tải hết.
Người xưa đã nỗ lực rất
nhiều để đi sâu vào nguồn mạch tưởng của Duy-ma-cật, và từ đó cũng đã toả sáng
những ảnh tượng diệu kỳ của sự sống, của con người và thế giới sinh động của
con người.
Cho đến ngày nay, những
ảnh tượng ấy cũng còn là chất liệu sáng tạo nên những giá trị tuyệt vời của sự
sống. Thiên nữ tán hoa vẫn hiện diện ngay giữa trái tim rung động của mỗi chúng
sinh theo nhịp rung động của sự im lặng bao la, từ cõi tịch mặc vô ngôn của
thực tại.
Quảng Hương Già-lam,
Mùa An Cư, 2546
Tuệ Sỹ
Chú thích:
[1] Tăng Hựu, Xuất Tam tạng ký tập
(445-518), T55n2145 tr.6c14: «Duy-ma-cật kinh», 2 quyển, khuyết.
[2] Tăng Hựu, nt., T55n2145_p8c16: San
Duy-ma-kinh 1 quyển 刪維摩鞊經一卷 , Sa-môn Trúc Phấp Hộ 沙門竺法護.
[3] Tăng Hựu, nt.,T55n2145_p0009c12: Dị
Duy-ma-cật kinh, 3 quyển 異維摩詰經三卷, Trúc Thúc Lan竺叔蘭.
[4] Tăng Hựu, nt., T55n2145_p0010a11: Hiệp
Duy-ma-cật kinh, 5 quyển 合維摩詰經五卷, Sa môn Chi Mẫn Độ 沙門支敏度.
[5] Pháp Kinh, Chúng kinh mục lục (594),
T55n2146_p0119a09.
[6] Tăng
Hựu, nt., T55n2145_p0058b21.
[7] Tuệ Hạo, Cao tăng truyện, quyển 6,
T50n2059_p0357c13.
[8] Xem bài tựa của Tăng Triệu, ở cuối sách