CHƯƠNG 01
QUỐC ĐỘ PHẬT
Tôi nghe như
vậy.
Một thời,
Phật ở trong vườn Am-la[1] trong thành Tỳ-da-li[2] cùng với đại chúng gồm tám ngàn
Tỳ-kheo, ba mươi hai ngàn Bồ-tát, là những vị được mọi người biết đến, đã thành
tựu Đại trí và bản hạnh,[3]đã được xác lập bởi oai thần
của chư Phật, là thành trì hộ Pháp, thọ trì Chánh Pháp, có khả năng cất tiếng
rống của sư tử vang dội khắp mười phương, là những người bạn không đợi mời gọi
của mọi người, đem an lạc đến cho mọi người, kế thừa và làm rạng rỡ Tam bảo
không để đoạn tuyệt, hàng phục các ma oán, chế ngự các tà đạo; đã hoàn toàn
thanh tịnh; vĩnh viền lìa các cái và triền;[4] tâm thường an trụ nơi giải thoát vô
ngại; có niệm, định, tổng trì, biện tài không gián đoạn;[5] bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
định và tuệ,[6] cùng
năng lực của phương tiện,[7] tất cả đều được thành tựu; đạt đến
pháp nhẫn bất khởi vốn vô sở đắc.[8] Các ngài có thể tùy thuận mà quay bánh
xe không thối chuyển;[9] có năng lực giải thích mọi hiện tượng;[10] biết rõ
căn tính của mọi chúng sinh, bao trùm cả đại chúng[11] mà đắc pháp vô úy.[12] Các ngài tu dưỡng tâm bằng công đức và
trí tuệ, lấy đó điểm trang cho thân tướng thù thắng, vứt bỏ mọi thứ trang sức
trần gian. Thanh danh lồng lộng của các ngài cao hơn núi Tu-di.[13] Tín tâm
của các ngài thâm sâu[14] kiên cố như kim cương. Bảo vật chánh
Pháp của các ngài lấp lánh soi rọi, và tuôn xuống những trận mưa cam lộ.[15] Âm
thanh của các ngài vi diệu bậc nhất trong mọi thứ âm thanh. Các ngài thâm nhập
duyên khởi, đoạn trừ các tà kiến, hoàn toàn thoát ly mọi đối đãi nhị nguyên,
không còn tập khí tàn dư.[16] Các ngài tuyên dương chánh Pháp một
cách không sợ hãi như sư tử gầm rống; những điều được thuyết giảng vang dội như
sấm. Không thể đánh giá các ngài vì các ngài vượt ngoài mọi giá trị nhân gian.
Các ngài tích lũy kho tàng Chánh Pháp như những thuyền trưởng tài ba thu hoạch
ở biển cả. Các ngài tinh thông yếu nghĩa của các Pháp; hiểu rõ căn cảnh của
chúng sinh, chỗ đi và chỗ đến[17] của chúng cũng như các sở hành của tâm
tư của chúng. Các ngài đã đạt gần trí tuệ tự tại của chư Phật,[18] sở đắc
mười lực,[19] vô
úy,[20] và
mười tám bất cộng.[21] Tuy đã đóng chặt cánh cửa dẫn xuống
các cõi bất hạnh, các ngài vẫn hiện thân trong năm đường làm vị đại lương y để
điều trị các thứ bịnh, theo bịnh mà cho thuốc khiến cho bình phục; thành tựu vô
biên công đức, trang hoàng vô lượng cảnh giới chư Phật. Mỗi chúng sinh đều được
lợi ích lớn khi nhìn thấy và được nghe các ngài, vì hành vi của các ngài đều
không vô ích. Các ngài đã thành tựu đầy đủ công đức như vậy.
Danh xưng của
các ngài là: Đẳng Quán Bồ tát, Bất Đẳng Quán Bồ tát, Đẳng Bất Đẳng Quán Bồ tát,
Định Tự Tại Vương Bồ tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ tát, Pháp Tướng Bồ tát, Quang
Tướng Bồ tát, Quang Nghiêm Bồ tát, Đại Nghiêm Bồ tát, Bảo Tích Bồ tát, Biện
Tích Bồ tát, Bảo Thủ Bồ tát, Bảo Ấn Thủ Bồ tát, Thường Cử Thủ Bồ tát, Thường Hạ
Thủ Bồ tát, Thường Thảm Bồ tát, Hỷ Căn Bồ tát, Hỷ Vương Bồ tát, Biện Âm Bồ tát,
Hư Không Tạng Bồ tát, Chấp Bảo Cự Bồ tát, Bảo Dõng Bồ tát, Bảo Kiến Bồ tát, Đế
Võng Bồ tát, Minh Võng Bồ tát, Vô Duyên Quán Bồ tát, Huệ Tích Bồ tát, Bảo Thắng
Bồ tát, Thiên Vương Bồ tát, Hoại Ma Bồ tát, Điện Đức Bồ tát, Tự Tại Vương Bồ
tát, Công Đức Tướng Nghiêm Bồ tát, Sư Tử Hống Bồ tát, Lôi Âm Bồ tát, Sơn Tướng
Kích Âm Bồ tát, Hương Tượng Bồ tát, Bạch Hương Tượng Bồ tát, Thường Tinh Tấn Bồ
tát, Bất Hưu Tức Bồ tát, Diệu Sanh Bồ tát, Hoa Nghiêm Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ
tát, Đắc Đại Thế Bồ tát, Phạm Võng Bồ tát, Bảo Trượng Bồ tát, Vô Thắng Bồ tát,
Nghiêm Độ Bồ tát, Kim Kế Bồ tát, Châu Kế Bồ tát, Di-lặc Bồ tát, Văn-thù-sư-lợi
Pháp vương Tử Bồ tát. Cả thảy là ba mươi hai ngàn vị như vậy.
Ngoài ra còn
có mười ngàn Phạm thiên, như Đại Phạm thiên Thi-khí, từ bốn thiên hạ về chỗ
Phật để nghe Pháp.
Có mười hai
ngàn Thiên đế khắp bốn phương về dự hội.
Và chư quỷ
thần đại-oai-lực, long thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la,
Khẩn-na-la và Ma-hầu-la-già cũng về dự.
Về dự hội còn
có nhiều tì kheo, tì kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.
Bấy giờ Phật
nói pháp cho vô lượng trăm nghìn đại chúng đang cung kính vây quanh Ngài. Như
ngọn núi Tu-di nổi lên giữa đại dương, Phật ngồi ung dung trên bảo tòa sư tử,
chói lọi che trùm tất cả các đại chúng đang đến.
Luc bấy giờ
con trai của một vị trưởng giả, tên Bảo Tích,[22] cùng với năm trăm người con của các
trưởng giả khác, cầm năm trăm tàn lọng được trang hoàng bằng bảy loại ngọc quí,
đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ sát chân Phật, rồi dâng tất cả tàn lọng ấy cúng
dường Phật. Phật đã dùng thần lực siêu việt gom hết số tàn lọng đó làm thành
một cái duy nhất che rợp cả ba nghìn đại thiên thế giới. Chiều kích dài rộng
của các thế giới này thảy đều ánh hiện trong đó. Và trong ba nghìn đại thiên
thế giới này, hết thảy núi Tu-di, núi Tuyết, núi Mục-chân-lân-dà, núi
Ma-ha-mục-chân-lân-đà, Hương sơn, Bảo sơn, Hắc sơn, núi Thiết vi, núi Đại Thiết
vi, cùng với biển, sông, suối, mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, cung điện
chư thiên, cung điện các rồng, tất cả đều ánh hiện trong lọng báu. Và khắp
trong mười phương chư Phật, và chư Phật đang thuyết pháp, cũng thảy đều ánh
hiện trong đó.
Khi đại chúng
được chứng kiến thần lực của Phật, đều tán dương sự kiện hy hữu chưa từng thấy,
cùng chắp tay lễ Phật và chiêm ngưỡng tôn nhan không rời mắt.
Rồi thì, Bảo
Tích, con trai của trưởng giả, đến trước Phật, đọc bài kệ ca ngợi:
Con kính đảnh lễ Ngài,[23]
Vị
dẫn đạo chúng sinh bằng con đường tịch tĩnh.[24]
Mắt
trong vắt, dài rộng như sen xanh;
Tâm tịnh, đã vượt các thiền định;[25]
Lâu
dài tích chứa nghiệp tịnh,
Danh xưng không thể lường;[26]
Đã
thấy Đại Thánh, bằng thần biến,[27]
Hiện
khắp mười phương vô lượng cõi;
Trong đó, chư Phật diễn nói Pháp;
Hết thảy hội chúng đều thấy nghe.
Pháp lực của đấng Pháp vương vượt thắng hết.
Thường đem tài sản Pháp[28] ban cho tất cả;
Khéo hay phân biệt các pháp tướng,
Mà đệ nhất nghĩa chẳng dao động.[29]
Đã
được tự tại trong các pháp
Nên con đảnh lễ Pháp vương này.
Không nói pháp hữu, cũng không phi hiện hữu;
Bởi do nhân duyên các pháp sanh.
Vô ngã, không tạo tác, không người thọ báo.
Nhưng nghiệp thiện ác không hề mất.
Dưới cội bồ-đề bắt[30]đầu đánh bại Ma,
Được cam lộ diệt,[31] thành
giác đạo.[32]
Đã
không tâm ý, không thọ hành,[33]
Mà
lại chiết phục các ngoại đạo.[34]
Ba
lần chuyển luân trong Đại thiên;
Pháp luân bản lai thường thanh tịnh,
Trời, người đắc đạo, do đây chứng;
Tam bảo do đó hiện thế gian.
Bằng Pháp mầu này cứu chúng sinh;
Đã thọ, không thối, thường tịch nhiên.
Là bậc đại y vương diệt trừ lão, bịnh, tử.
Con đảnh lễ công đức vô biên của biển Pháp.
Chê, khen chẳng động,[35] như Tu-di;
Lòng từ trải rộng cho người hiền lẫn kẻ ác.
Tâm hành bình đẳng như hư không,
Ai nghe mà không kính phục con người cao quý[36] này?
Nay dâng Thế Tôn lọng hèn mọn,
Trong đó, ánh hiện cho con Tam thiên giới;
Với cung điện Trời, rồng, quỷ thần,
Càn-thát-bà lẫn của Dạ-xoa;
Và hết thảy mọi vật trên thế gian.
Đấng Mười lực từ tâm hiện biến hoá;
Đại chúng thấy việc hy hữu, tán thán Phật.
Nay con đảnh lễ đấng Chí tôn trong ba cõi.
Đại chúng quy ngưỡng Đại Pháp vương,
Tâm tịnh, quán Phật, ai cũng vui.
Mỗi người tự thấy Phật trước mặt;
Ấy do thần lực pháp bất cộng.
Phật bằng một âm diễn thuyết Pháp;
Chúng sinh tùy loại đều hiểu được;
Đều nói Thế Tôn cùng tiếng của mình;
Ấy do thần lực pháp bất cộng.
Phật bằng một âm diễn thuyết Pháp;
Chúng sinh mỗi mỗi theo chỗ hiểu,
Đều được thọ hành, đại lợi ích;[37]
Ấy
do thần lực pháp bất cộng.
Phật bằng một âm diễn thuyết Pháp;
Có kẻ nghe sợ, có kẻ vui,
Có kẻ chán bỏ, kẻ hết nghi;
Ấy do thần lực pháp bất cộng.
Cúi lạy đấng Mười lực, Đại tinh tấn;
Cúi lạy đấng đã đạt vô sở uý;
Đảnh lễ bậc trụ pháp Bất cộng;
Đảnh lễ Đại đạo sư của tất cả;
Đảnh lễ đấng dứt mọi trói buộc;
Đảnh lễ đấng đến bờ bên kia;
Đảnh lễ đấng cứu độ thế gian;
Đảnh lễ đấng thoát vòng sinh tử.
Biết lẽ đến, đi của chúng sinh,
Thâm nhập vạn pháp, được giải thoát,
Không vướng thế gian, như hoa sen,
Thường khéo thâm nhập hạnh không tịch,
Thấu đạt pháp tướng không trở ngại;
Cúi lạy đáng vô sở y như hư không.
Đọc kệ xong,
Bảo Tích thưa với Phật:
«Bạch Thế
Tôn, năm trăm người con của các trưởng giả[38] này đã phát tâm tầm cầu giác ngộ tối
thượng chánh đẳng chánh giác[39], nguyện được nghe sự
thanh tịnh của quốc độ Phật. Xin Thế Tôn chỉ dạy chúng con những việc làm của
Bồ tát dẫn đến quốc độ thanh tịnh.»[40]
Phật bảo:
«Lành thay,
Bảo Tích! Con đã vì chư Bồ-tát hỏi những việc làm vì quốc độ thanh tịnh của Như
lai. Hãy lắng nghe và suy nghĩ. Ta sẽ nói cho con nghe.»
Bảo Tích và
năm trăm thanh niên trưởng giả chăm chú nghe. Phật dạy:
«Bảo Tích,
loại của chúng sinh là quốc độ Phật của Bồ tát.[41] Vì sao như vậy? Vì Bồ tát tùy theo
loại chúng sinh được giáo hoá[42] mà tiếp nhận quốc độ Phật; tuỳ theo
loại chúng sinh được điều phục[43] mà tiếp nhận quốc độ Phật; tuỳ theo
loại quốc độ nào thích hợp để chúng sinh thâm nhập trí của Phật mà tiếp nhận
quốc độ Phật; tuỳ theo loại quốc độ nào thích hợp để chúng sinh làm chỗi dậy
căn tính của Bồ tát[44] mà tiếp nhận quốc độ Phật. Là vì sao?
Vì Bồ tát tiếp nhận quốc độ thanh tịnh chỉ vì lợi ích của chúng sinh. Ví như
một người có thể xây dựng đền đài nhà cửa trên khoảng đất trống, tuỳ ý không
trở ngại; nhưng không thể xây dựng như vậy ở giữa hư không. Cũng vậy, Bồ tát vì
muốn thành tựu chúng sinh mà ước nguyện tiếp nhận quốc độ Phật. Ước nguyện tiếp
nhận quốc độ Phật không thể tìm thấy giữa hư không.
«Bảo Tích,
con nên biết, trực tâm[45] là tịnh độ của Bồ tát.[46] Khi Bồ
tát thành Phật, chúng sinh không dua vạy sẽ tái sanh vào đó.
«Thâm tâm là
tịnh độ của Bồ tát.[47] Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào
có đủ đầy công đức sẽ tái sanh vào đó.
«Bồ-đề tâm là
tịnh độ của Bồ tát.[48] Khi Bồ tát thành Phật, hết thảy chúng
sinh tầm cầu Đại thừa sẽ tái sinh vào cõi đó.
«Bố thí là
tịnh độ của Bồ tát.[49] Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào
có thể ban phát sẽ tái sinh vào đó.
«Trì giới là
tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh tu hành mãn nguyện mười
thiện nghiệp đạo sẽ tái sanh vào đó.
«Nhẫn nhục là
tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào trang nghiêm bằng ba
mươi hai tướng tốt sẽ tái sanh vào đó.
«Tinh tấn là
tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào cần mẫn thực hiện mọi
công đức sẽ tái sinh vào đó.
«Thiền định
là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào nhiếp tâm không
tán loạn sẽ tái sinh vào đó.
«Trí tuệ là
tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh chánh định[50] sẽ tái
sinh vào đó.
«Bốn vô lượng
tâm là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào thành tựu từ,
bi, hỷ, xả sẽ tái sinh vào đó.
«Bốn nhiếp
pháp[51] là
tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào được nhiếp phục bởi
giải thoát sẽ tái sinh vào đó.
«Phương tiện
là tịnh độ của Bồ tát.[52] Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào
biết diệu dụng phương tiện một cách vô ngại đối với hết thảy các pháp sẽ tái
sinh vào đó.
«Ba mươi bảy
đạo phẩm[53] là
tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh có đủ niệm xứ, chánh cần,
thần túc, căn, giác chi, và chánh đạo, sẽ tái sinh vào đó.
«Tâm hồi
hướng là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, quốc độ sẽ trang nghiêm đầy
đủ công đức cao quí.
«Diễn thuyết
để diệt trừ tám nạn[54] là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát
thành Phật, quốc độ sẽ không ba ác, tám nạn.
«Tự mình giữ
giới, không phê bình người phá giới là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành
Phật, quốc độ không nghe danh từ phạm cấm.
«Mười thiện
là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, sẽ không yểu mạng, sẽ giàu có,
cuộc sống phạm hạnh, nói lời chân xác, ngôn ngữ dịu dàng, quyến thuộc không ly
tán vì khéo hòa giải tranh chấp; lời nói tất lợi lạc cho người, không đố kỵ,
sân hận, giữ gìn chánh kiến, sẽ tái sanh vào đó.
«Như vậy, Bảo
Tích, tùy theo trực tâm ấy mà Bồ tát mới có thể phát khởi hành. Tùy theo sự
phát khởi hành mà được thâm tâm. Tùy theo thâm tâm mà ý được điều phục. Tùy
theo sự điều phục ý mà hành được như thuyết. Tùy theo hành như thuyết mà có thể
hồi hướng. Tùy theo hồi hướng như vậy mà có thể diệu dụng các phương tiện. Tùy
theo phương tiện thích hợp thành tựu chúng sinh. Tùy theo sự thành tựu chúng
sinh mà quốc độ Phật thanh tịnh. Tùy theo sự thanh tịnh của quốc độ mà thuyết
Pháp thanh tịnh. Tuỳ theo sự thuyết pháp thanh tịnh mà trí tuệ thanh tịnh. Tùy
theo trí tuệ thanh tịnh mà tâm thanh tịnh. Tùy theo tâm thanh tịnh mà hết thảy
công đức đều thanh tịnh.
«Cho nên, Bảo
Tích, nếu Bồ tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy
theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh.»
Bấy giờ,
nương theo oai thần của Phật, Xá-lợi-phất chợt nghĩ: «Khi tâm của Bồ tát thanh
tịnh thì quốc độ Phật thanh tịnh. Vậy há tâm của đức Thế Tôn không thanh tịnh
hay sao mà quốc độ Phật này chẳng hề thanh tịnh?»
Phật biết ý
nghĩ ấy, nói với Xá-lợi-phất:
«Ý ngươi nghĩ
sao, mặt trời, mặt trăng há không tịnh chăng khi người mù chẳng thấy chúng
sáng?»
Xá-lợi-phất
đáp:
«Bạch Thế
Tôn, đó là tại lỗi của người mù chứ không phải tại mặt trời mặt trăng không
sáng.»
Phật nói:
«Này
Xá-lợi-phất, do bởi tội của chúng sinh nên không thấy vẻ trang nghiêm thanh
tịnh của quốc độ Phật; đó không phải do lỗi của Như lai. Xá-lợi-phất, cõi đất
này của Ta thanh tịnh nhưng ngươi không nhận thấy đó thôi.»
Khi ấy, Phạm
thiên Loa Kế[55] nói
với Xá-lợi-phất:
«Chớ nghĩ
rằng quốc độ này không thanh tịnh. Vì sao? Vì tôi thấy quốc độ Phật Thích-ca
thanh tịnh, chẳng khác gì cung điện của trời Tự tại.[56]»
Xá-lợi-phất
bảo:
«Tôi thấy cõi
này nào là gò nỗng, hầm hố, chông gai, toàn đất và đá; cái gì cũng nhơ bẩn.»
Phạm thiên
bảo:
«Là vì tâm
của nhân giả có thấp có cao, chưa y theo tuệ của Phật, nên thấy cõi đất này bất
tịnh. Xá-lợi-phất, vì Bồ tát bình đẳng với hết thảy chúng sinh, thâm tâm thanh
tịnh, nương theo trí tuệ của Phật, nên có thể nhìn thấy cõi Phật này thanh
tịnh.»
Bấy giờ, Phật
ấn ngón chân của Ngài xuống đất. Ba nghìn đại thiên thế giới bỗng hóa rực rỡ
với muôn vàn châu báu quí hiếm, trang nghiêm như cõi tịnh độ của Phật Bảo Trang
Nghiêm,[57]được trang hoàng bằng vô lượng công đức mà
hội chúng ca ngợi là chưa từng thấy. Hơn nữa, mọi người đều thấy mình được ngồi
trên một tòa sen lộng lẫy.
Phật nói với
Xá-lợi-phất:
«Hãy quán sát
vẻ thuần tịnh trang nghiêm của quốc độ này.»
Xá-lợi-phất
thưa:
«Bạch Thế
Tôn, con chưa từng thấy và nghe về đất Phật thanh tịnh trang nghiêm như vầy.»
Phật nói:
«Cõi Phật này
của Ta thường thanh tịnh như vậy. Nhưng hiển hiện các thứ xấu xa uế tạp là để
dẫn dắt những người căn trí thấp kém. Cũng giống như thức ăn của chư thiên có
muôn màu hiển hiện tùy theo công đức của người ăn. Cho nên, Xá-lợi-phất, người
có tâm thanh tịnh sẽ thấy đất này thanh tịnh.»
Khi Phật hiển
hiện toàn vẻ trang nghiêm thanh tịnh của quốc độ này, năm trăm người con của
các trưởng giả cùng đi với Bảo Tích chứng vô sanh pháp nhẫn,[58] và tám mươi bốn ngàn người phát tâm
cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phật thâu lại
thần túc, tức thì thế giới trở về hiện trạng cũ. Ba mươi hai ngàn chư thiên và
người từng mong cầu quả vị Thanh-văn, thấy rõ tính vô thường của các pháp hữu
vi, dứt lìa những cáu bẩn trần lao, được sự minh tịnh của con mắt pháp. Tám
ngàn tì kheo không còn chấp thủ[59] các pháp, dứt sạch các lậu, được giải
thoát.[60]
Chú
thích:
[1] Am-la thọ viên 菴羅樹園. VCX. Am-la-vệ lâm 菴羅衛林. Skt.
Āmrapāli-vana.
[2] Tì-da-li 毘耶離. VCX. Quảng nghiêm thành廣嚴城. Skt.
Vaiśālī.
[3] VCX.: đại
thần thông nghiệp tu dĩ thành biện 大神通業修已成辦 , đã hoàn thành sự nghiệp đại thần thông CDM.: Bản Phạn nói,
‹thần thông trí tuệ bản sự dĩ tác 神通智慧本事已作 › đã hoàn thành bản sự của thần thông trí tuệ. Cf. Sukhavyūha: abhijñānābhijñātaiḥ.
[4] CDM.
Triệu: cái 蓋, chỉ năm cái (5 thứ che lấp tuệ:
tham dục, sân, hối-miên, điệu cử, nghi; Skt. pañca āvaraṇāni: rāga, pratigha, tyāna-middha, uddhatya-kaukṛtya) và triền 纏, chỉ mười triền
phược (10 thứ quấn chặt, tức 10 tùy phiền não). VCX.: chưóng và cái triền;
VCS.: chướng có hai: phiền não và sở tri; cái có 5 (như trên); triền có 8 (vô
tàm, vô quý, hôn trầm, thuỵ miên, điệu cử, ố tác, tật, xan).
[5] CDM.:
chánh niệm, chánh định, tổng trì (= đà-la-ni, Skt. dhāraṇnī), và 7 biện tài (1. tiệp tật, ứng đối nhanh, 2. lợi, nhạy bén, 3.
bất tận, không cùng tận, 4. bất khả đoạn, không bị cắt đứt, 5, tùy ứng, thích
ứng hoàn cảnh, 6. nghĩa, dẫn đến mục đích, 7. thế gian tối thượng).
[6] Sáu
ba-la-mật 波羅密; Skt. saṭ pāramitāḥ: dāna, śīla, kṣānti, vīrya, dhyāna, prajñā.
[7] VCX., nêu
10 ba-la-mật. 6 ba-la-mật, như trên, thêm 4: phương tiện (Skt. upāya), nguyện
(praṇidhi/praṇidhāna), lực (bala), và trí (jñāna).
[8] Bất khởi
pháp nhẫn 不起法忍, cũng nói là vô sanh pháp nhẫn (Skt.
anutpattikeṣu dharmeṣu kṣāntī pratilabdhā,
chứng đắc vô sanh pháp nhẫn). CDM.: «Triệu nói, ... có khả năng lãnh thọ thật
tướng, nên nói là nhẫn.» VCS., dẫn Thanh Biện: «Theo thế tục, nói là hữu; theo thắng nghĩa, nói
là không. Không, cho nên không có gì để nắm bắt (=vô sở đắc). Quán sát, pháp
vốn là không, thì đâu có sự sinh khởi. Quán sát sự không sinh khởi này mà phát
khởi quán trí để chấp nhận (= quán trí nhẫn); do đó, nói là vô sở đắc bất khởi
pháp nhẫn.»
[9] Bất thối
luân 不退輪; DMCh. a-duy-việt trí pháp luân 阿惟越智法輪 ; Skt. avivarti-cakra=avaivartya-dharmacakrānupravartaka 隨轉不退 法輪 .
[10] Thiện
giải pháp tướng 善解法相; VCX.: đắc vô tướng diệu ấn 得無相妙印 ; VCS.: có hai loại diệu ấn, 1. có sai biệt, chỉ ba pháp ấn,
chung cả Đại & Tiểu thừa: các hành vô thường, Niết-bàn tịch tĩnh, các pháp
vô ngã; 2. diệu ấn không sai biêt: dấu ấn của các pháp là lý vô tướng.
[11] Cái chư
đại chúng 蓋諸大眾 ; CDM., Thập nói: theo bản Phạn, đọc
là chúng bất năng cái 眾不能蓋 , đại chúng không thể che lấp. VCX.:
nhất thiết đại chúng sở bất năng phục 一切 大眾所不能伏 , không thể bị khuất phục bởi bất cứ chúng hội nào
[12] vô sở
uý 無所畏, Skt. vaiśāradya, sự không bối rối
và sợ hãi trước đám đông, sự trầm tĩnh, tự tin trước đám đông. Có 4 vô sở uý
của Bồ-tát (bodhisattvānāṃ catvāri vaiśāradyāni), và 4 vô sở uý của Phật
(catvāri tathāgatasya vaiśrādyāni) khác nhau.
[13] VCX.:
vượt trên cả Đế Thích (Skt. Śakradevānām Indra, Chúa tể các thiên thần).
[14] Thâm
tín 深信. VCX.: ý lạc 意樂. Skt. āśaya, ý hướng cao thượng, xu hướng tinh thần/tâm linh cao
thượng.
[15] Cam lộ vũ 甘露雨. Skt. amṛta-varṣa, cơn mưa những hạt sương bất tử.
[16] VCX.:
«cắt đứt dòng tương tục của tập khí kiến chấp nhị biên.»
[17] Vãng
lai sở thú 往來所趣. VCX.: Hữu thú vô thú ý lạc sở quy 有趣無趣意樂所歸, chỗ quay về của ý lạc hữu thú và vô thú. VCS.: «Thanh Biện giải,
theo thế tục đế thì hữu; theo thắng nghĩa đế thì là vô. Chỗ quay về rốt ráo của hai nẽo thú
(hướng) này chính là lý chân không.»
[18] VCX.:
hoạch vô đẳng đẳng Phật trí quán đỉnh 獲無等等佛智灌頂 , được đăng quang lên địa vị Phật trí tối thượng siêu việt.
[19] Mười
lực, 10 năng lực siêu việt của Phật, Skt. tathāgata-daśabalāni 如來十力.
[20] Vô sở
uý , đây chỉ bốn vô sở uý của Phật, Skt. catvāri tathāgatasya vaiśāradyāni 如來四無所畏.
[21] Chỉ 18
pháp đặc hữu, bất cộng, của Phật; Skt. aṣṭādaśa āveṇikā buddha-dharmāḥ 十八不箍共佛法.
[22] Trưởng
giả tử danh viết Bảo Tích 長者子名曰寶積 (Skt.
Ratnaraśi-gṛhapati);VCX.: Li-thiếp-tì chủng danh viết Bảo
Tính 離呫毘種名曰寶性(Licchaviputra-Ratnaprakṛta?); DMC.: trưởng giả tử danh La-lân-na-kiệt 羅鄰那竭, Hán dịch Bảo Sự 寶事, Skt. Ratnakṛta ? CDM.: «Triệu nói, Bảo Tính cũng là Pháp thân Đại sỹ, thường
cùng Tịnh Danh (Duy-ma-cật) đến chỗ Như lai, cùng hoằng truyền đạo giáo.»
[23] VCX.:
«cúi lạy đấng Đại Sa-môn.»
[24] Đạo
chúng dĩ tịch 導眾以寂 ; CDM., «Thập nói: theo Phạn bản,
gọi là tịch đạo 寂道 (Skt. śānta-mārga), tức bát chánh
đạo. Triệu nói: Tịch, chỉ cho đạo vô vi tịch diệt.» VCX.: hi di tịch lộ, «đạo
lộ tịch
tĩnh (tức an bình), bằng phẳng.»
[25] VCX.:
«đã chứng đệ nhất tịnh ý lạc, và thắng sa-ma-đà đã đến bờ bên kia.» DMC. nói
«tâm tịnh» tức nói «đệ nhất tịnh ý lac.» Ý lạc (Skt. āśaya), hay tâm tư hướng
đến chúng sinh, thuần tịnh bậc nhất; tức là, tâm tư Phật chỉ hướng đến một đối tượng
thuần nhất, là sự lợi lạc của chúnh sinh. Sa-ma-đà 沙摩陀, Hán cũng thường âm là xa-ma-tha (Skt. śamatha), dịch là chỉ 止, sự lắng đọng, đình chỉ tạp niệm; thường tu tập với tì-bát-sa-na
(Skt. vipaśyanā), Hán gọi là tu tập chỉ quán.
[26] Xứng vô
lượng 稱無量. VCX.: hoạch đắc quảng đại thắng danh văn 獲得廣大勝名聞 , «Có được danh tiếng rộng lớn.»
[27] Thần
biến 神變, tức thần thông biến hoá. (Skt. ṛddhi-prātihārya)
[28] Pháp
tài 法財, tài sản là Chánh pháp.
[29] VCX.:
«Quán sát đệ nhất nghĩa mà đánh bại các oán địch.»
[30] Nguyên
Hán: Phật thọ 佛樹.
31 Cam lộ diệt 甘露滅; CDM., «Thập nói: theo Phạn bản, nói là tịch diệt cam lộ (Skt.
śāntyāmṛta), tức thật tướng pháp.» VCS.: «Diệt, chỉ Niết-bàn. Giống như
thuốc cam-lộ, uống vào thì được bất tử.»
[32] Giác
đạo thành 覺道成 , thành tựu đạo giác ngộ, thành
Phật. VCX.: (đắc) thắng bồ-đề 得菩提. VCS.: «Chứng
đắc chân trí vượt quá hàng Nhị thừa nên nói là thắng Bồ đề.»
[33] Vô thọ
hành 無受行; CHD., «Thập nói: không có thọ,
tưởng, hành...Triệu nói: thọ, đây chỉ ba thọ.» VCS., «Thọ, tức sự lãnh nạp
(=cảm nghiệm). Hành, tức sự duyên lự (=tư duy về đối tượng).» CDM.: «Bằng không tâm
ý mà hiện hành.»
[34] VCX.¨«Ngoại
đạo, tà sư không thể thăm dò.» VCS., dẫn Thanh Biện: «Cam
lộ tịch diệt mà Phật chứng vốn là không, vô sở hữu, không phải cảnh vực của tâm
ý, nên các ngoại đạo không thể thăm dò ước lượng nỗi.»
[35] VCX.:
«tám pháp không làm lay động.» Đây chỉ 8 thế gian pháp 八世法(aṣṭau lokadharmāḥ) đắc, thất, danh dự, thất sủng, vinh quang, sỉ nhục, khổ, lạc.
[36] Nguyên
Hán: nhân bảo 人 寶, bảo vật
cho loài người. VCX.: «vị Năng nhân này.»
[37] CDM.,
Triệu nói: «tùy theo sở thích mà thọ lãnh; tuỳ theo chỗ thọ lãnh mà thực hành;
tuỳ theo sự thực hành mà được lợi ích.»
[38] VCX.:
đồng tử Bồ-tát 童子菩薩, tức Bồ tát niên thiếu, Skt. kumāra-bodhisattva.
[39] VCX.:
«Họ thường hỏi con về cách làm cho cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh.»
[40] Bồ tát
tịnh độ chi hành 菩薩淨土之行 ; CDM, «Biệt bản nói, ‹Phật quốc
thanh tịnh chi hành.› Thập nói, ‹Bản Phạn nói là thanh tịnh chi tướng (viśuddha-lakṣaṇa).›» VCX.: tịnh Phật độ tướng 淨佛土相, hình thái (hay yếu tính, đặc tính) của cõi Phật thanh tịnh.
[41] VCX.:
«Quốc độ của hữu tình, là quốc độ Phật trang nghiêm thanh tịnh của Bồ tát.»
[42] CDM.,
Thập nói,..., bản Phạn nói là ‹tùy theo chúng sinh được giáo hóa nhiều ít.›
Nghĩa là quốc độ rộng hay hẹp tùy theo số lượng chúng sinh đã được giáo hoá.
[43] Điều
phục 調伏; CDM., Thập nói: «bản Phạn nói là
tì-ni (vinaya), nghĩa là khéo léo sửa trị; tức khéo sửa trị khiến chúng sinh
dứt ác, hành thiện.»
[44] VCX.:
khởi Thánh căn hành 起聖根行 . VCS.: «Thánh căn, chỉ bồ-đề tâm. Hoặc
chỉ 5 căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ). Thánh hành, chỉ muôn vạn hành vi của
Thánh.»
[45] VCX.:
thuần ý lạc độ 純意樂土, Skt. viśuddhāśaya-kṣetra.
[46] Từ đây
trở xuống, bản La-thập nói ba tâm; bản Huyền Trang nói bốn quốc độ. Thiện gia
hành độ 善加行土 trong bản Huyền Trang không có tương
đương trong bản La-thập.
[47] VCX.:
thượng ý lạc độ , Skt. adhyāśaya-kṣetra.
[48] Thứ
nhất trong bản Huyền Trang: quốc độ của sự phát khởi Bồ đề tâm , Skt.
bodhicittotpāda-kṣetra.
[49] Từ đây
trở xuống là 6 ba-la-mật. VCS., tổng hợp gọi tên là chỉ tức 止息, đình chỉ và dập tắt các chướng ngại (bằng vào tu tập sáu
ba-la-mật).
[50] Chánh
định, CDM., tức chánh định tụ 正定聚, một trong ba tụ
(tà định tụ, chánh định tụ, bất định tụ). Đạt được chánh trí tuệ nhận thức pháp
tướng một
cách quyết định. VCX.: nhập chánh định; VCS.: chứng nhập chánh định tụ, tức
chứng nhập kiến đạo (thấy pháp Chân như).
[51] VCX.:
quốc độ bởi bốn nhiếp sự 四攝事土, Skt. saṁgraha-kṣetra.
[52] VCX.
xảo phương tiện độ 巧方便土, Skt. upāya-kauśalya-kṣetra.
[53] Đạo
phẩm 道品; VCX.: Bồ đề phần 菩提分, Skt. bodhi-pākṣikā.
[54] Trừ bát
nạn 除八難(đọc đúng là nan). VCX.: tức bát vô
hạ 息八無暇; 8 trường hợp khó gặp Phật, khó nghe
Pháp, không thể tu tập Phạm hạnh, Skt. aṣṭāv akṣaṇāḥ.
[55] Loa Kế
Phạm vương 螺髻梵王; VCX.: Trì Kế Phạm vương 持髻梵王
[56] Tự tại
thiên 自在天; VCX.: Tha hoá tự tại thiên 他化自在天, Skt. Paranirmitavaśavartin
[57] VCX.:
Công Đức Bảo Trang Nghiêm Phật 功德寶莊嚴佛.
[58] Vô sinh
pháp nhẫn 無生法忍, Skt. anutpattika-dharma-kṣānti Đoạn trên nói là bất khởi pháp nhẫn.
[59] Bất thọ
chư pháp 不受諸法. CDM.: đạo không dính mắc, đối với
pháp, không thọ, không nhiễm. VCS.: không cháp thủ ngã và ngã sở, vì không còn
tiếp thọ quả của sinh tử.
[60] VCX.:
tâm hoàn toàn được giải thoát 心善解脫 , Skt.
suvimukta-citta.
Kinh
Duy-ma-cật sở thuyết, bản Việt dịch Tuệ Sỹ, PL.2546 - Nhâm ngọ, tr.1-18.