CHƯƠNG 03
CHÚNG ĐỆ TỬ[1]
Lúc bấy giờ, Duy-ma-cật trong lòng suy nghĩ, «Nay ta nằm bệnh;
không lẽ đức Thế Tôn đại từ chẳng đoái tưởng đến?»
Phật biết ý tưởng đó, nói với Xá-lợi-phất:
«Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.»
Xá-lợi-phất đáp:
«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì
sao vậy? Con nhớ lại, có lần, con đang ngồi tĩnh niệm[2] dưới tàn cây trong rừng,[3] Duy-ma-cật đến đó, và bảo con rằng,[4]‹Kính
thưa[5] ngài Xá-lợi-phất, bất tất[6] ngồi như vậy mới là ngồi tĩnh niệm.
Hiện thân và ý[7] mà không ở
trong ba cõi, ấy mới là tĩnh tọa. Hiện các oai nghi[8] mà vẫn không xuất khỏi diệt tận định,[9]ấy
mới là tĩnh tọa. Hiện thân làm các việc phàm phu[10] mà không xả Đạo pháp,[11]ấy mới là
tĩnh tọa. Tâm không trụ trong, không trụ ngoài, ấy mới là tĩnh tọa. Tu hành ba
mươi bảy phẩm[12] mà không làm
dao động các kiến chấp,[13]ấy mới là tĩnh tọa. Nhập Niết bàn mà không đoạn trừ
phiền não,[14]ấy mới là tĩnh tọa. Ngồi được như vậy, thì mới được Phật ấn khả.›
«Bấy giờ, bạch đức Thế Tôn, khi nghe ông nói những lời này, con
ngồi im lặng, không trả lời được. Cho nên con chưa đủ năng lực để thăm viếng.»
Phật nói với Đại Mục-kiền-liên:
«Ông hãy đi thăm bệnh Duy-ma-cật.»
Mục-kiền-liên bạch Phật:
«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì
sao vậy? Con nhớ lại, có lần, khi con đang giảng Pháp cho hàng tục gia đệ tử
trên đường phố thành Tỳ-da-li, Duy-ma-cật đến bảo con rằng,[15]«Kính thưa ngài
Đại Mục-liên, giảng Pháp cho cư sĩ bạch y không phải như Nhân giả đang thuyết.
Thưa ngài, khi thuyết pháp, hãy như pháp mà thuyết. Pháp không chúng sinh, vì
xa lìa cáu bẩn của chúng sinh.[16] Pháp
không thọ mạng,[17] vì xa lìa
sinh tử. Pháp không có con người,[18] vì
tiền tế và hậu tế[19]đều cắt đứt. Pháp thường tịch nhiên, vì diệt các tướng.
Pháp lìa ngoài tướng, vì không sở duyên.[20] Pháp
không ngôn thuyết,[21] vì lìa
giác quán.[22] Pháp không hình
tướng, vì như hư không.[23] Pháp
không hý luận vì rốt ráo không. Pháp không ngã sở, vì lìa ngã sở. Pháp không
phân biệt, vì lìa các thức. Pháp không so sánh, vì không tương đãi.[24] Pháp không thuộc nhân vì không ở trong
duyên. Pháp đồng Pháp tánh, vì nhập vào các pháp.[25] Pháp tuỳ theo Như vì không có gì để
theo. Pháp trụ thực tế, vì không động các biên.[26] Pháp không động dao, vì không y sáu
trần. Pháp không đến đi vì thường không trụ. Pháp thuận với Không, tùy theo vô
tướng và ứng với vô tác.[27] Pháp
lìa đẹp xấu. Pháp không tăng giảm. Pháp không sinh diệt. Pháp không chỗ về.
Pháp vượt qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm.[28] Pháp không cao thấp; thường trụ, bất
động. Pháp lìa hết thảy quán hạnh.[29]
«‹Kính thưa ngài Mục-liên, tướng của Pháp như vậy, làm sao diễn
giảng? Thưa ngài, người thuyết pháp thì không diễn thuyết, không khai thị.
Người nghe thì không nghe, không sở đắc. Như con người huyễn[30] giảng pháp cho người huyễn nghe. Ngài
nên xác lập tâm ý này mà giảng Pháp. Cần phải hiểu rõ căn tánh nhạy bén hay u
mê của chúng sinh. Bằng tâm đại bi mà tán dương Đại thừa; vì nhớ nghĩ báo đáp
ân đức của Phật, không để Tam bảo đoạn tuyệt. Vì như vậy mà thuyết pháp.›
«Nghe Duy-ma-cật nói pháp này xong, tám trăm cư sĩ đã phát tâm cầu
giác ngộ tối thượng. Bạch Thế Tôn, con không có biện tài như vậy, nên không đủ
khả năng thăm bệnh.»
Phật nói với Ma-ha Ca-diếp:
«Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.»
Ma-ha Ca-diếp bạch Phật:
«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì
sao vậy? Nhớ lại, có lần con đang khất thực nơi xóm nghèo, Duy-ma-cật đến nói:
‹Kính thưa ngài Ma-ha Ca-diếp, có tâm từ bi mà không rộng khắp, nên ngài bỏ nhà
hào phú mà xin nhà bần hàn.
« Thưa ngài Ca-diếp,[31] an
trụ nơi pháp bình đẳng thì nên hành khất thực theo thứ lớp. Vì sự không ăn,[32] cho nên cần phải hành khất thực. Vì để
làm rã sự kết hợp[33] mà cầm lấy
đồ ăn vo nắm.[34] Vì không thọ
nhận[35] mà nhận lấy thực phẩm
của người kia. Bằng ấn tượng về xóm hoang[36] mà
đi vào xóm. Nhìn sắc mà cũng đồng như mù. Nghe âm thanh cũng đồng như tiếng
vọng. Ngửi mùi thơm cũng đồng như gió thoảng. Nếm thức ăn, mà không phân biệt.
Tiếp thọ các xúc như trí chứng.[37] Biết
vạn hữu đều như huyễn tướng, không có tự tánh, chẳng có tha tánh; từ xưa vốn
không bốc cháy thì nay không dập tắt.[38]
«Thưa ngài Ca-diếp, nếu có thể thành tựu tám pháp giải thoát mà
không cần lìa tám tà;[39] bằng tà
tướng mà nhập Chánh pháp; bằng một miếng ăn[40] mà bố thí tất cả; cùng chư Phật và
Hiền Thánh Tăng. Cho đến được vậy mới nên ăn. Ăn như vậy không phải có phiền não[41] cũng không lìa phiền não, không nhập
định ý[42] cũng không xuất định
ý; không phải trụ thế gian cũng không phải trụ Niết-bàn. Ai thí cho, công đức
không nhiều cũng không ít. Vật thí không tốt cũng không hại. Đó là cách chân
chánh đi vào Phật đạo, không nương dựa vào tiểu đạo của Thanh-văn. Thưa
Ca-diếp, ăn như vậy mới là không ăn suông của người bố thí.›
«Bạch Thế Tôn, khi nghe những lời này, được điều chưa từng có này,
trong con khởi niềm tôn kính sâu sắc hết thảy chư Bồ tát, và con nghĩ: ‹Con
người có gia đình mà có thể có trí tuệ biện tài như vậy, ai nghe mà không khởi
tâm cầu giác ngộ?› Từ đó con thôi không khuyên người bằng Thanh-văn hay
Bích-chi-phật. Vì vậy cho nên con biết mình không đủ năng lực đi thăm bệnh.»
Phật lại bảo Tu-bồ-đề:[43]
«Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.»
Tu-bồ-đề bạch Phật:
«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực để đi thăm bệnh ông ấy. Vì
sao vậy? Nhớ lại, có lần con đến nhà ông khất thực. Duy-ma-cật lấy bát[44] của con cho đầy cơm rồi bảo: ‹Thưa
ngài Tu-bồ-đề, nếu đối với sự ăn mà bình đẳng, thì đối với các pháp cũng bình
đẳng. Các pháp bình đẳng thì đối với sự ăn cũng bình đẳng. Hành khất thực như
vậy mới đáng nhận thức ăn.[45]
«Thưa ngài Tu-bồ-đề, nếu có thể không cần dứt đoạn dâm dục, sân
nộ, ngu si , mà cũng không câu hữu với chúng; không hoại nơi thân mà tùy nhất
tướng;[46] không diệt si và ái[47] mà đạt được minh và giải thoát;[48] bằng tướng của năm tội đại nghịch[49] mà được giải thoát nhưng cũng không
được cởi, không bị trói; không thấy bốn Thánh đế, cũng không phải không thấy
Thánh đế;[50]không phải đắc quả, không phải phàm phu, không phải lìa pháp phàm
phu; không phải Thánh nhân, không phải không là Thánh nhân; tuy thành tựu hết
thảy pháp mà vẫn xa lìa pháp tướng.[51] Có
như thế mới đáng nhận thức ăn.
«Thưa ngài Tu-bồ-đề, nếu không thấy Phật cũng không nghe Pháp;[52] sáu đại sư ngoại đạo kia, là
Phú-lan-na Ca-diệp, Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử, San-xà-dạ Tỳ-la-chi Tử, A-kỳ-đa
Sí-xá-khâm-bà-la , và Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử,[53] là Thầy của ngài; nhân họ mà ngài xuất
gia. Nếu các vị Thầy ấy đọa lạc thì ngài cũng đọa lạc theo. Như vậy ngài mới
nên nhận thức ăn.
«Nếu Tu-bồ-đề đi vào các tà kiến, không sang bờ bên kia;[54] trụ trong tám nạn chứ không thoát khỏi
tám nạn;[55]đồng với phiền não,[56] xa
rời pháp thanh tịnh; nếu ngài chứng đắc Vô tránh tam-muội[57] thì hết thảy chúng sinh cũng chứng đắc
định ấy; những ai bố thí ngài, không nói là gieo vào ruộng phước; những ai cúng
dường ngài sẽ rơi vào cõi dữ; ngài cùng bọn Ma năm tay nhau làm bạn lữ trong
trần lao;[58] ngài cùng với bọn
Ma và các trần lao giống nhau không khác;[59]đối với hết thảy chúng sinh mà có
tâm oán hận; báng bổ chư Phật, hủy hoại chanh pháp, không nhập tăng số, không
được diệt độ.[60] Nếu được như
vậy, ngài mới đáng nhận thức ăn.
«Bạch Thưa Thế Tôn, nghe những lời này mà con hoang mang; không
biết đó là ngôn ngữ gì; không biết phải trả lời thế nào. Con bèn bỏ lại bình
bát, định ra khỏi nhà. Duy-ma-cật kêu lại: ‹Thưa ngài Tu-bồ-đề, hãy nhận lấy
bình bát, chớ có sợ hãi. Ngài nghĩ sao, nếu Như Lai khiến một người hoá[61]đến
nạn vấn, khi ấy ngài có sợ chăng?› Con đáp, ‹Không sợ.› Duy-ma-cật tiếp, ‹Hết
thảy pháp đều là tướng như huyễn hoá.[62] Cho
nên ở đây ngài không nên sợ hãi. Vì sao? Vì văn tự và ngôn thuyết đều không xa
lìa tướng ấy. Cho đến, bậc trí không dính mắc văn tự và ngôn thuyết, vì vậy
chẳng có gì để sợ. Tại sao? Tại vì văn tự và ngôn thuyết không có tự tánh, đó
là giải thoát. Tướng của giải thoát, đó là các pháp.›
«Khi Duy-ma-cật nói xong Pháp này, hai trăm người con của chư
thiên chứng được sự minh tịnh của Pháp nhãn. Vì thế con biết mình chưa đủ năng
lực đến thăm ông.»
Phật lại bảo Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử:[63]
«Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.»
Phú-lâu-na thưa với Phật:
«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Là vì,
một hôm, trong rừng Đại lâm,[64]con đang thuyết Pháp cho một nhóm tì kheo mới
thọ giới, Duy-ma-cật chợt đến và nói: ‹Thưa ngài Phú-lâu-na, trước tiên ngài
nên nhập định để thấu rõ tâm tánh người nghe rồi mới nên giảng Pháp. Chớ để đồ
ôi thiu trong chén quí. Ngài nên hiểu rõ tâm niệm[65] của các tỳ kheo này chứ đừng nhầm lẫn
pha lê với thủy tinh. Nếu ngài chưa rõ căn nguyên của chúng sinh thì đừng nên
phát khởi chúng bằng pháp Tiểu thừa. Kia chưa bị lở lói, chớ làm họ trầy xước.
Với người muốn đi trên đường, đừng chỉ họ lối hẹp. Đừng rót biển cả trong dấu
lõm chân trâu. Đừng ví ánh mặt trời với sắc màu đom đóm.[66]
«‹Phú-lâu-na, các tì kheo này đã phát tâm Đại thừa từ lâu nhưng
nửa chừng quên mất. Sao ngài lại hướng dẫn họ bằng pháp Tiểu thừa? Trí của Tiểu
thừa nông cạn, như người mù, không thể tỏ tường nguồn cội của chúng sinh.›
«Liền đó, Duy-ma-cật nhập đại định khiến các tì kheo nhớ lại kiếp
trước của họ đã từng gặp năm trăm vị Phật, đã gieo trồng bao phước đức để hồi
hướng cho phát nguyện cầu giác ngộ tối thượng của họ; khiến họ thức tỉnh và lập
tức phục hồi tâm nguyện trong quá khứ. Họ liền cúi đầu đảnh lễ Duy-ma-cật, nghe
ông thuyết giáo, và tiếp tục tầm cầu giác ngộ tối thượng, không còn thối chuyển.
«Con nghĩ hàng Thanh-văn chưa quán sát rõ căn tánh của người nghe
Pháp[67]thì không nên thuyết Pháp. Nên con thấy mình chưa đủ năng lực đến thăm
bịnh ông.»
Phật bảo Ma-ha Ca-chiên-diên:[68]
«Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.»
Ma-ha Ca-chiên-diên thưa:
«Bạch đức Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Vì
có lần, sau khi Phật giảng các yếu nghĩa của Pháp cho các tỳ kheo, con đã theo
đó giải thích cho các tì kheo nghĩa vô thường, nghĩa khổ, nghĩa không, nghĩa vô
ngã, và nghĩa tịch diệt.
«Bấy giờ Duy-ma-cật đi dến và bảo con rằng: ‹Thưa ngài Ma-ha
Ca-chiên-diên, đừng lấy tâm hành sinh diệt mà giải nghĩa pháp thật tướng. Ma-ha
Ca-chiên-diên, các pháp rốt ráo không sinh không diệt;[69]đó là nghĩa vô
thường. Ngũ thủ uẩn rỗng suốt, trống không, không có gì sinh khởi; là nghĩa của
khổ. Các pháp rốt ráo không, không có gì; là nghĩa của vô. Ngã và vô ngã không
hai; là nghĩa vô ngã. Các pháp nguyên lai không bùng cháy, nay chẳng có gì là
dập tắt; đó là nghĩa tịch diệt.»
«Duy-ma-cật nói xong, các tì kheo hiện diện tâm được giải thoát.
Cho nên con thấy mình chưa đủ năng lực đến thăm bịnh ông.»
Phật bèn nói với A-na-luật:[70]
«Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.»
A-na-luật thưa:
«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Vì có
lần con đang đi kinh hành,[71]một Phạm vương tên là Nghiêm Tịnh, cùng mười ngàn
chư thiên hào quang chiếu rọi, đến gặp con, cúi chào và hỏi: ‹Thiên nhãn của
ngài nhìn xa đến đâu?› Con đáp: ‹Thưa Nhân giả, tôi nhìn thấy ba nghìn đại
thiên quốc độ của Phật Thích-ca-mâu-ni như trái am-ma-lặc[72]trong lòng bàn
tay.› Khi ấy Duy-ma-cật xuất hiện, nói rằng: ‹Thưa ngài A-na-luật, cái thấy
bằng thiên nhãn của ngài là có tướng trạng hay không có tướng trạng?[73] Giả sử có tướng trạng, thì chẳng hơn
hàng ngoại đạo đã tập thành năm phép thần thông. Nếu không có tướng trạng, thì
đó là vô vi, không có sự thấy.›
«Bạch Thế Tôn, lúc ấy con lặng thinh không trả lời được. Các Phạm
thiên khi nghe những điều chưa từng nghe, liền làm lễ rồi cung kính hỏi: ‹Vậy
trên thế gian này ai có chân thiên nhãn?› Ông đáp: ‹Phật Thế Tôn có chân thiên
nhãn, vì thường trụ trong tam-muội,[74] nhìn
thấy hết thảy cõi Phật không do bởi hai tướng.›[75]
«Ngay lúc ấy, Phạm vương Nghiêm Tịnh và năm trăm chư thiên quyến
thuộc đã phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Họ cung kính đảnh lễ dưới
chân Duy-ma-cật rồi biến mất. Đó là lý do con nói mình chưa đủ năng lực để thăm
bịnh ông ta.»
Phật bảo Ưu-ba-li:[76]
«Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.»
Ưu-ba-li thưa:
«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao?
Con nhớ lại, xưa kia có hai tì kheo phạm giới, xấu hỗ không dám đến hỏi Phật,
đến nói với con: ‹Thưa ngài Ưu-ba-li, chúng tôi đã phạm luật và rất hỗ thẹn vì
tội này, không dám đến hỏi Phật, xin hỏi ông cách sám hối để giũ sạch tội lỗi.›
Con bèn theo như pháp mà giảng giải cho họ.
«Lúc ấy Duy-ma-cật đến nói với con: ‹Thưa ngài Ưu-ba-li, đừng làm
nặng thêm tội của hai tỳ kheo này mà hãy ngay thẳng trừ diệt. Chớ làm rối loạn
tâm của họ. Vì sao? Vì bản chất tội không ở trong không ở ngoài,[77] cũng không ở giữa. Như Phật đã dạy,
chúng sinh cáu bẩn vì tâm cáu bẩn; nếu tâm trong sạch, hết thảy đều trong sạch.
Tâm cũng không ở trong không ở ngoài, không ở giữa. Tâm như nhiên, tội cũng như
nhiên. Các pháp cũng như nhiên, không vượt ngoài Như. Như ngài Ưu-ba-li, nếu
tâm tướng[78]đã giải thoát, còn có gì cáu bẩn chăng?› Con đáp: ‹Không còn.› Ông
ấy nói: ‹Cũng vậy, tâm tướng của chúng sinh thảy đều vô cấu, cùng như vậy. Thưa
ngài Ưu-ba-li, vọng tưởng là cáu bẩn; không vọng tưởng là thanh tịnh.[79]Điên
đảo là cáu bẩn; không còn điên đảo là thanh tịnh. Chấp ngã là cáu bẩn; không
chấp ngã là thanh tịnh. Ưu-ba-li, hết thảy pháp khởi và diệt không đình trú,
như ảo ảnh như tia chớp. Các pháp không đối đãi nhau,[80]không đình trú trong
mỗi tâm niệm. Chúng đến từ những quan niệm sai lầm, như chiêm bao, như quáng
nắng, như trăng trong đáy nước, như bóng trong gương, vì chúng sinh ra từ vọng
tưởng. Hiểu được như vậy là người phụng trì giới luật. Hiểu như vậy là hiểu
biêt thiện xảo.[81]›
«Ngay lúc ấy, hai vị tì kheo thán phục: ‹Siêu việt thay trí tuệ,
mà ngài Ưu-ba-li không thể sánh bằng. Tuy là bậc trì luật đệ nhất cũng không
thể nói được như vậy› Con mới nói: ‹[82]Duy trừ Phật ra, chưa từng có một
Thanh-văn hay Bồ tát nào vượt hơn biện tài vô ngại[83] của người này vì trí tuệ minh đạt của
ông thù thắng như vây.›
«Hai vị tì kheo nhờ đó đã dứt đoạn nghi tình và hối hận, phát tâm
cầu giác ngộ tối thượng và lập nguyện cho hết thảy chúng sinh đều được biện tài
như vậy. Cho nên con đủ khả năng đến thăm bịnh ông ấy.»
Phật bèn nói với La-hầu-la:[84]
«Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.»
La-hầu-la thưa:
«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm ông ấy. Vì nhớ lại,
có lần con trai nhà trưởng giả thành Tỳ-da-li[85]đến
gặp con, cúi chào và hỏi: ‹La-hầu-la, ông là con của Phật, đã bỏ ngôi vị Chuyển
luân vương mà xuất gia học đạo. Xuất gia như vậy được lợi ích gì?› Con bèn như
pháp mà nói các lợi ích của công đức xuất gia, Duy-ma-cật bỗng đến, nói: ‹Thưa
ngài La-hầu-la, ông chớ nên nói về các lợi ích+ lợi ích của công đức xuất gia.
Vì sao? Vì không lợi ích, không công đức; đó là xuất gia. Chỉ pháp hữu vi mới
nói đến lợi ích và công đức. Xuất gia là pháp vô vi. Trong pháp vô vi, không có
lợi ích, không có công đức. La-hầu-la, xuất gia là vượt khỏi cái sự chỗ này,
chỗ kia, hay ở giữa; là vượt khỏi sáu mươi hai kiến chấp,[86] an
trú Niết-bàn,[87] được
người trí lãnh thọ, là lối đi của bậc Thánh thực, hàng phục các ma, thoát ngoài
năm đạo, thanh tịnh năm con mắt, thành tựu năm lực, tạo lập năm căn, không gây
não hại cho đời, xa lìa mọi điều xấu, đẩy lui Ngoại đạo, siêu việt giả danh tự,
ra khỏi vũng sình,[88] không
bị ràng buộc, không ngã sở; không có gì để chấp thủ, không bị nhiễu loạn, nội
tâm hoan hỷ, hộ trì tâm ý kẻ khác,[89] tùy
thuận thiền định,[90] và
thoát khỏi mọi sai lầm. Làm được như vậy mới là đích thực xuất gia.›
«Đoạn, Duy-ma-cật nói với những người con của các trưởng giả: ‹Các
chú nên xuất gia trong Chánh Pháp. Vì sao? Vì không dễ gì được sống cùng thời
với Phật.› Các người này nói: ‹Thưa Cư sĩ tôn kính, chúng tôi có nghe Phật dạy,
nếu cha mẹ chưa cho phép thì con không được xuất gia.› Duy-ma-cật bảo: ‹Đúng
vậy. Nhưng khi phát tâm cầu giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác, là các
chú đã xuất gia.›
«Bấy giờ, ba mươi hai người con của các trưởng giả đã phát tâm vô
thượng chánh đẳng chánh giác. Vì vậy con chưa đủ năng lực đến thăm bịnh ông ấy.»
Phật bèn bảo A-nan:
«Ông hãy đi thăm bịnh Duy-ma-cật.»
A-nan nói:
«Bạch Thế Tôn, con không đủ năng lực đến thăm bịnh ông ấy. Vì nhớ
lại, có lần khi thân Thế Tôn có chút bịnh, cần sữa bò, con lấy bát đến đứng
trước cửa nhà người Bà-la-môn. Khi ấy Duy-ma-cật đi đến, bảo con rằng: ‹Thưa
ngài A-nan, có chuyện gì mà cầm bát đứng đây sớm thế?› Con đáp: ‹Cư sỹ, đức Thế
Tôn thân có chút bịnh, cần sữa bò, vì vậy tôi mới đứng đây.› Duy-ma-cật chặn
lại: ‹Thôi im đi, ngài A-nan. Chớ nói những lời như vậy. Thân Như Lai là thể
kim cương. Mọi điều xấu đã bị đoạn trừ; mọi điều thiên hội đủ. Làm gì có bệnh?
Làm gì có não? Ngài hãy im lặng mà đi. Chớ phỉ báng Như Lai. Đừng để người khác
nghe được lời thô tháo đó. Chớ để chư thiên có uy đức và Bồ tát đến từ các quốc
độ thanh tịnh nghe thấy. Thưa ngài A-nan, Chuyển luân thánh vương mới chỉ tích
góp vài công đức nhỏ đã không còn bịnh não. Huống chi Như Lai đã hội đủ vô
lượng phước đức thù thắng đức lại còn bịnh sao? Hãy đi đi, thưa ngài A-nan,
đừng làm xấu hết cả chúng tôi. Nếu người Bà-la-môn ngoại đạo nghe lời này, họ
sẽ nghĩ: ‹Sao đáng gọi là Tôn Sư? Người này cứu được ai khi ông chưa cứu nổi
thân mình?› Hãy âm thầm mà đi nhanh đi, đừng để ai nghe lời ngài nói. A-nan,
nên biết, thân Như Lai là Pháp thân, không đến từ tâm tưởng và dục vọng. Phật
là đức Thế Tôn, thân Ngài vượt ngoài ba cõi. Thân Phật là vô lậu, vì các lậu đã
dứt sạch. Thân Phật là vô vi, không thể gọi tên.[91] Thân
như vậy làm sao có bịnh?›
«Bạch Thế Tôn, nghe ông nói, con ngập tràn hỗ thẹn, tự hỏi phải
chăng con tuy gần Phật nhưng đã nghe nhầm chăng? Nhưng lúc ấy, con nghe một
tiếng nói từ không trung vọng xuống: ‹A-nan, Cư sĩ nói đúng, nhưng vì Phật hiện
thân trong đời năm trược ác, hiện hành pháp này để cứu độ chúng sinh. A-nan, cứ
đi xin sữa, chớ hỗ thẹn.›
«Bạch Thế Tôn, trí tuệ và tài biện thuyết của Duy-ma-cật như vậy,
con quả thật không đủ khả năng đến thăm bịnh ông.»
Như vậy năm trăm đại đệ tử
của Phật đều kể lại những cuộc gặp bất ngờ của họ với Duy-ma-cật, đều nói không
đủ khả năng đến thăm bịnh ông.
Chú thích:
[1] CDM.,T38n1775,tr.
0343c14; VCX., T14n0476,tr. 0561b06, Phẩm Thanh văn 聲聞品, Skt. Śrāvaka-parivartaḥ .
[2] Yến
tọa 宴坐, Skt. pratisaṃlayana (Pali. paṭisallāna), độc cư tĩnh tọa, ẩn dật tư
duy, thiền tứ. VCS nói ‹yến tọa› ở đây chỉ ‹diệt tận định.› Không đúng, mặc dù
trong đối đáp tiếp theo có nói đến diệt tận định.
[3] VCX,
«trong Đại lâm 大林.» Khu rừng Mahāvana ở gần Tì-da-li
(Vaiśalya /Vesāli) , chạy dài đến Himālaya.
[4] VCX.:
«Sau khi cúi đầu lễ dưới chân con, rồi nói rằng…» Chỗ này, Khuy Cơ (T38n1782,
tr. 1041b9) chỉ trích La-thập vì nể nang Dao chúa, nên tránh chi tiết
Duy-ma-cật cúi lạy dưới chân ngài Xá-lợi-phất, lược bỏ chi tiết này trong
nguyên bản tiéng Phạn. Khuy Cơ nói, «Vô Cấu (Duy-ma-cật), đức vọng tuy cao
nhưng hình nghi là thế tục, tất phải ở dưới hàng Thanh văn.»
[5] Hán:
duy 唯, kính thưa; VCS (T38n1782, tr. 1041b14) nhấn
mạnh đặc biệt từ này để nói đến thái độ tôn kính của Duy-ma-cật đối với ngài
Xá-lợi-phất.
[6] VCS:
bất tất, chỉ ý vừa tán thành, vừa bác bỏ.
[7] DMC:
thân và ý. VCX: thân và tâm.
[8] Oai
nghi, chỉ bốn cử chỉ đi, đứng, nằm, ngồi (Skt. īryā-patha). CDM và VCS đều giải
là «phương tiện diệu dụng.»
[9] Diệt
định 滅定 hay diệt tận định 滅盡定, Skt.: nirodha-samāpatti. Hay nói đủ: diệt thọ tưởng định 滅受想定, tưởng thọ (tri) diệt tận định 想受(知)滅盡定, Skt. saṃjñā-vedita-nỉrodha-samāpatti. Giải thoát thứ tám , Cf. Saṅgīti-suttanta (D.iii. 262), aṭṭha vimokkhā…
sabbaso nevasaññānāsaññāyatanaṃ samatikkamma saññā-vedayita-nirodhaṃ upasampajja viharati, sau khi hoàn toàn vượt qua phi tưởng phi
phi tưởng xứ, vị ấy thành tựu rồi an trú với trạng thái diệt của tưởng và thọ (cái được
giác tri). Hoặc, thứ chín trong 9 thứ đệ trú (Pali. nava anupubba-vihārā,
op.cit., D.iii. 265), hay thứ đệ diệt (Pali. nava anupubba-nơrodhā, op.cit.,
D.iii.266). Phẩm loại túc luận 1 (T.26, tr. 694a19): «Thế nào là Diệt định? Đã
xả ly sự đắm nhiễm nơi Vô sở hữu xứ (Skt. ākiñcanyāyatana); trước hết, khởi lên
tác ý đình chỉ các tưởng (saṃjñā), tâm và tâm sở đều diệt.» Vị
A-la-hán chứng diệt tận định được nói là có «câu (phần) giải thoát » (Skt.
ubhayatobhāga-vimukta). Vị A-na-hàm chứng diệt tận định được gọi «Thân chứng (Skt.
kāya-sākṣin)». Phàm phu và các Thánh giả thấp hơn không thể chứng được định
này.
[10] DMC:
phàm phu sự 凡夫事. VCX: dị sanh chư pháp 異生諸法 (Skt. pṛthagjana-dharmā).
[11] VCX.:
«Hiện hành các pháp của hết thảy dị sanh (phàm phu) mà không xả những gì đã
chứng.»
[12] Phẩm
品, chỉ Đạo phẩm. VCX,: bồ-đề phần pháp 菩提分法, chỉ các pháp hỗ trợ tuệ trí, Skt. bodhipākṣika-dharma .
[13] Chư kiến 諸見 ; CDM, Triệu
nói: đó là chỉ 62 vọng kiến. VCX.: nhất thiết kiến thú 一切見趣 (Skt. sarva-dṛṣṭi-gata), đây chỉ 5 kiến chấp: thân
kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến, tà kiến.
[14] VCX:
«Không xả sinh tử mà không còn phiền não. Tuy chứng Niết-bàn mà vô sở trụ.»
[15] Xem
chth. 4 trên.
[16] DMC:
chúng sinh cấu 眾生垢, Thập nói: «Tức là hai mươi thân
kiến (Skt. satkāyadṛṣṭi: tát-ca-da tà kiến = hữu thân
kiến). VCX: ngã cấu 我垢. VCS: cáu bẩn do ngã chấp hay của
ngã chấp
[17] DMC:
thọ mạng 壽命; VCX: mạng giả 命者, Skt. jīva, một khái niệm khác về ātman (ngã chấp, tự ngã hay
linh hồn) trong một số học thuyết; tự ngã như là chủ thể của thọ mạng hay sinh tồn.
[18] DMC:
nhân 人. VCX: bổ-đặc-già-la 補特伽羅, Skt. pudgala (nhân cách, nhân vị, cá thể ngã), một khái niệm về
ātman của một số học thuyết; Hán dịch là số thủ thú 數取趣, chỉ chủ thể của luân hồi, tự ngã như là chủ thể trong luân
chuyển tái sinh. Từ trên, bản của Huyền Trang đề cập bốn hình thái của ngã chấp
(ātma-graha) hay khái niệm về tự ngã (ātma-dṛṣṭi): ngã (ātman),
hữu tình
(= chúng sinh, Skt. sattva), sinh mạng (jīva) và nhân vị hay nhân cách
(pudgala). Bản La-thập chỉ kể có ba: chúng sinh, thọ mạng và con người.
[19] Tiền
tế 前際, hay bản tế 本際 (Skt. pūrvakoṭi), biên tế tối sơ; hậu tế 後際 (Skt. paścima-koṭi), biên tế tối hâu. Chỉ giới hạn
khởi điểm và tận cùng của thời gian.
[20] VCX:
«Pháp lìa tham trước (chấp), vì không sở duyên.» Sở duyên 所緣, Skt. ālambana, cái mà chủ thể (thức) bám vào để sinh khởi và
hoạt động.
[21] VCX:
«Pháp không văn tự, vì ngôn ngữ bị cắt đứt.»
[22] Giác
quán 覺觀, Triệu nói: «Nhị Thiền trở lên không
còn giác và quán, nên nói là sự im lặng của Hiền Thánh.» Theo đó, giác quán là
hai thiền chi đầu của sơ thiền; cũng là hai trong bốn tâm sở bất định của Duy
thức; Skt. vitarka-vicāra, tầm và tứ 尋伺.
[23] VCX:
«Pháp không thí thuyết (thí dụ và ngôn thuyết) vì xa lìa hết thảy tư duy sóng
cuộn (ba lãng tư 波浪思, Skt. taraṅga-cintā?). Pháp phổ biến tất cả vì như hư không. Pháp không hiển hiện,
không tướng, không hình, vì xa lìa hết thảy hành động sự.» Bản La-thập lược một
số chi tiết.
[24] Tương
đãi 相待: quan hệ hỗ tương.
[25] VCX:
«Pháp đồng pháp giới, vì thể nhập hết thảy chân pháp giới.»
[26] VCX:
tất cánh bất động , Skt.. atyantācala (rốt ráo hay tuyệt đối không dao động),
bản La-thập đọc là antācala.
[27] Ba
giải thoát môn: Không, Vô tướng, Vô tác (=Vô nguyện). Skt., trayo vimokṣāḥ, śūnyatā animittaḥ apraṇihitaḥ. VCX: «Pháp
thuận Không, tùy Vô tướng, ứng Vô nguyện, vì xa lìa hết thảy tư duy tăng giảm.»
[28] VCX:
«Pháp không chấp tàng (Skt. nir-ālaya, phi a-lại-da), vì lìa hết thảy con đường
của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.»
[29] VCX:
«Pháp lìa hết thảy sở hành của phân biệt, vì hết thảy hý luận đều bị rốt ráo
đoạn trừ.»
[30] Huyễn
sĩ 幻士, Skt. māya-puruṣa.
[31] VCX:
Tôn giả Ca-diếp-ba.
[32] Bất
thực 不食; Triệu nói: đây chỉ Niết-bàn. Cf.
Trường A-hàm 8, kinh Chúng tập (T.1, tr. 49c19), «Hết thảy chúng sinh đều do
thức ăn mà tồn tại.» Cf. Saṅgīti, D.iii. 211: sabbe sattā
āhāra-tiṭṭhitikā.
[33] DMC:
hoại hoà hiệp tướng 壞和合相.
[34] DMC:
đoàn thực 揣食, thức ăn được vò thành viên, tức thực phẩm vật
chất; Skt. kavalīkāra āhāra. CDM, Triệu nói: «Vo tròn (đoàn) là vật được hoà
hiêp. Hoại hoà hiệp, tức phá hoại sự hoà hiệp của năm uẩn. Sự phá hoại năm uẩn
tức là Niết-bàn.» VCX: «Vì để hoại thực chấp 食執 của người kia nên hành khất thực.» VCS: «Bản dịch cũ nói hoà hiệp
tướng, tức chỉ thực chấp.»
[35] Bất
thọ 不受;Triệu nói: «Bất thọ, tức là pháp
Niết-bàn.»
[36] DMC:
không tụ tưởng 空聚想. VCX: không tụ tướng 空聚相。
[37] Trí
chứng 智證, La-thập: «Bằng trí mà xúc thật
tướng.» Đạo Sinh nói: «Trong tiếng Phạn, xúc và trí chứng đối nghĩa nhau.»
[38] DMC:
bản bất nhiên 本不然. CDM, Triệu nói: «Như lửa, không
cháy thì không tắt.» VCX: vô xí nhiên , vô tịch diệt 無熾燃無寂滅.
[39] Tám
tà, tức tám tà đạo, đối nghịch với tám chánh đạo.
[40] DMC:
nhất thực 一食. VCX: nhất đoàn thực 一揣食 (một nắm thức ăn)
[41] VCX:
tạp nhiễm 雜染, Skt. saṃkleśa. Khuy Cơ nói, cựu dịch «phiền não» không chính xác.
[42] DMC:
định ý 定意; VCX: tĩnh định 靜定.
[43] DMC:
Tu-bồ-đề 須菩提. VCX: Đại Thiện Hiện 大善現. VCS: Ma-ha Tô-bổ-để , đây nói là Đại Thiện Hiện 摩訶蘇補底此云大善現. Skt. (Mahā)Subhūti.
[44] VCX:
«Sau khi lễ, rồi đón lấy bình bát.»
[45] VCX:
«Nếu, có thể bằng tính bình đẳng từ nơi sự ăn, mà thể nhập tính bình đẳng của
hết thảy pháp; bằng tính bình đẳng của hết thảy pháp mà thể nhập tính bình đẳng
của hết thảy chư Phật. Được như vậy mới đáng nhận thức ăn.»
[46] VCX:
«Không hoại tát-ca-da kiến mà nhập nhất thú đạo.» Khuy Cơ giải: Tát-ca-da kiến 薩迦耶見 (Skt. satkāya-dṛṣṭi) là ngụy thân kiến (chấp thân hư
nguỵ này
là thực hữu). Lý vô ngã được nói là nhất thú 一趣 (Skt. ekagati: định hướng duy nhất; hoặc ekayāna, lối đi độc
nhất). Vì đó là đích quay về của hành giả trong cả ba thừa.
[47] DMC:
si và ái 癡愛. VCX: vô minh và hữu ái 無明有愛, Skt.. avidyā và bhava-tṛṣṇā.
[48] DMC:
minh thoát 明脫. VCX: tuệ minh và giải thoát. Minh, chỉ ba
minh (tisro vidyāḥ). Giải thoát, chỉ tám giải thoát (aṣṭau vimokṣāḥ).
[49] DMC:
ngũ nghịch 五逆, năm tội đại nghịch, hay vô gián
nghiệp. Skt. pañca ānantarya-karmāṇi. VCX: vô gián
bình đẳng pháp tính 無間平等 法性 (Skt.
anantarya-samadharmatā). Khuy Cơ giải: vô gián ở đây chỉ địa ngục vô gián, nêu
chỗ cực khổ để đối nghịch đại lạc là Niết-bàn.
[50] Kiến
đế 見諦 (Skt. satya-darśana), đây chỉ sự
chứng đắc Thánh quả, đặc biệt Sơ quả.
[51] DMC:
pháp tướng . Skt. dharma-lakṣaṇa. VCX. pháp
tưởng . Skt. dharma-saṃjñā.
[52] VCX:
thêm: «không phụng sự Tăng.»
[53] DMC:
lục sư ngoại đạo 外道六師: Phú-lan-na Ca-diệp 富蘭那迦葉, Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử 末伽梨拘賒梨子, San-xà-dạ Tỳ-la-chi Tử 刪闍夜毘 羅胝子, A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la 阿 耆 多 翅 舍 欽 婆 羅 , Ca-la-cu-đà Ca-chiên-diên 迦羅鳩馱迦旃延 và Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử 尼犍陀若提子. VCX, Ngoại đạo lục sư 外道六師: Mãn
Ca-diếp-ba
滿迦葉波, Mạt-tát-yết-li Cù-xá-li Tử 末薩羯離瞿舍離子, Tưởng Phệ-đa Tử 想吠多子, Vô Thắng Phát
Hạt 無勝髮褐, Phong Ca-diễn-na 犎迦衍那, Ly hệ thânTử 離繫親子. Skt.. Pūraṇa-Kāśyapa, Maskarī-Gosālīputra, Sañjayī-Vairaṭīputra, Ajita-Keśakambala, Kakuda-Kātyāyana,
Nirgrantha-Jñātiputra. Pali, Cf. Sāmañña-phala-sutta, D.i. 47tt.
[54] VCX:
«Rơi vào các kiến thú (Skt. dṛṣṭigati: xu hướng kiến chấp tà vạy) mà
không đi đến trung biên (Skt. madhyānta: trung đạo và hai biên chấp hay cực đoan).
[55] VCX:
bát vô hạ 八無暇 , tám hoàn cảnh không thuận lợi cho
sự tu tập chánh pháp. Skt. aṣṭāv akǎaṇāḥ; Cf. Pali, Saṅgīti, D.iii. 287, aṭṭh’ akkhaṇā asamayā brahmacariya-vāsāya.
[56] DMC:
phiền não 煩惱; VCX: tạp nhiễm 雜染, Skt. saṃkleśa.
[57] Vô
tránh tam-muội/định, Skt. araṇā-samādhi; cf. Câu-xá 27 (T.29,
tr.141c24): «Nói vô tránh tam muôi, nghĩa là, A-la-hán quán sát sự khổ của
chúng sinh do bởi phiên não. Tự biết thân của mình là ruộng phước bậc nhất, nhưng
ngại rằng phiền não của người khác lấy thân của A-la-hán làm đối tượng để sinh
khởi, cho nên ngài dẫn phát tướng trí như vậy. Do phương tiện này khiến cho các
chúng sinh khác không lấy thân của A-la-hán làm đối tượng để sinh khởi tham,
sân, các thứ….» Cf. Vajracchedikā §9: aham asmi bhagavaṃs tathāgatenārhatā samyaksaṃbuddhena araṇāvihāriṇām agrayo nirdiṣṭaḥ, Thế Tôn, con được Như Lai xác nhận
là đệ nhất trong các vị sống với hạnh vô tránh. Cf. Pali, A.i. 24: etad aggaṃ bhikkhave mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ araṇavihārīnaṃ yadidaṃ subhūti… dakkhineyyānaṃ yadidaṃ subhūti, «Trong các Tỳ-kheo đệ tử
của ta, đệ nhất trong những vị sông vô tránh là Subhūti; đệ nhất trong những vị
đáng cúng dường là Subhūti.»
[58] DMC:
lao lữ 勞侶. VCX: bạn lữ 伴侶. VCS: «Cựu dịch là lao lữ; ý nói, làm bầu bạn để đưa nhau vào
chốn khổ nhọc của sinh tử.»
[59] VCX
thêm: «Tự tính của hết thảy phiền não cũng chính là tự tính của Tôn giả.»
[60] VCX;
«Rốt ráo không có Bát-niết-bàn.»
[61] Hoá
nhân 化人, Skt. nirmitaka, người hay vật được
biên hoá ra
do pháp thuật hay ảo thuật.
[62] VCX:
«Tánh tướng của các pháp đều như huyễn hoá (Skt. māyā-nirmita-sadśṭa).
[63] DMC:
Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử 富樓那彌多羅尼子; VCX: Mãn Từ Tử 滿慈子. Skt., Pūrṇa-Maitrāyaṇi-putra.
[64] Xem
chth. 3 ở trên.
[65] DMC:
tâm chi sở niệm. VCX: ý lạc, xu hướng và sở thích; Skt. āśaya.
[66] VCX
thêm: «Đừng nhét Diệu cao (núi Tu-di) vào trong hạt cải. Đừng nhầm tiếng gầm
của sư tử với tiếng tru của chó sói.»
[67] VCX
thêm¨«Vì họ không thưòng xuyên tại định như Phật.»
[68] Ma-ha
Ca-chiên-diên 摩訶迦旃延. VCX: Ma-ha Ca-đa-diễn-na 摩訶迦多衍那. VCS: Hán dịch là Đại Tiễn Thế Nam 大剪剃男 (Con trai người thợ cạo). Skt. Mahā-Kātyāyana.
[69] VCX:
«không phải đã sinh, đang sinh, sẽ sinh; không phải đã diệt, đang diệt, sẽ
diệt.»
[70] DMC:
A-na-luật 阿那律; VCX: Đại Vô Diệt 大無滅. Skt. Aniruddha.
[71] VCX:
«trong Đại lâm.»
[72] Am-ma-lặc
quả 菴摩勒果; VCX: a-ma-lạc quả 阿摩洛果 . Triệu (Đại 38, tr.354c20) nói: «… hình dáng như quả cau. Ăn
vào, trừ phong lãnh.» Skt. āmalaka, dịch là dư cam tử 餘甘子 (Mahāvyutpatti).
[73] DMC:
tác tướng 作相; VCX: hành tướng 行相 Skt. ākāra (hình trạng, biểu hiện).
[74] VCX:
không xả tịch định 不捨寂定
[75] VCX:
nhị tướng 二相, chủng chủng tướng 種種相; hình thái nhị nguyên đối đãi, và hình thái đa thù sai biệt. Skt.
dvayākāra, nānākāra.
[76] CDM,
Triệu nói, «Ưu-ba-li 優波離, tiên Tần nói là Thượng Thủ 上首. Trì luật đệ nhất trong các đệ tử Phật.» VCS: «Ưu-ba-li, đây nói
là Cận Chấp
近執 . Khi Phật còn là Thái tử, …Ông là quan giữ kho.»
[77] VCX:
«không an trụ bên trong, cũng không xuất hiện ra ngoài.»
[78] DMC:
tâm tướng 心相, VCX: tâm bản tịnh 心本淨.
[79] VCX:
«Có phân biệt, có dị phân biệt, là phiền não.»
[80] DMC:
tương đãi 相待 ; VCX: tương cố đãi 相顧待, quan hệ, chiếu cố lẫn nhau. Skt. āpekṣika.
[81] DMC:
thiện giải 善解; (Skt. suvimukta). VCX: thiện điều
phục 善調伏 (khéo tự chế ngự); Skt. suvinita.
[82] VCX
có thêm: «Các Thầy chớ nghĩ tưởng vị này là Cư sỹ.»
[83] Nhạo
thuyết biện tài 樂說之辯, khả năng biện luận lưu loát. Skt.
pratibhāna-pratisaṃvid.
[84] DM: La-hầu-la 羅睺羅; VCX:
La-hỗ-la 羅怙羅. Skt. (=Pali) Rāhula.
[85] DMC: Tì-da-li chư trưởng giả tử 毘耶離諸長者子 ; VCX: Các công tử dòng họ Licchavī 諸童子離呫毘種.
[86] DMC: lục thập nhị kiến 六十二見, Xem
Trường A-hàm 14, kinh Phạm động (Đại 1, tr. 88), Cf. D.1 Brahmajāla. VCS (Đại
38, tr.1055a17): «Các kiến chấp, ở đây bao gồm cả năm kiến, trong khi Cựu dịch
nêu 62 kiến chỉ thuộc biên kiến, nghĩa rất hạn hẹp.»
[87] VCX: «(xuất gia) là con đường Niết-bàn.»
[88] VCX: «vũng sình dục vọng.»
[89] CDM, Thập nói: «tùy thuận chúng sinh, không trái nghịch
tâm tư của chúng.»
[90] VCX: «tùy thuận tịch chỉ, cần tu thắng quán.» Tức tu chỉ
và quán (Skt. śamatha-vipaśyana).
[91] DMC: bất đoạ chư số 不墮諸數. Skt. na
saṃkhyāṃ gacchati VCX: «Thân Phật là vô vi,
lìa các hữu vi; vượt qua các số, vì các số vĩnh viễn tĩnh lặng.» CDM (Đại 38,
tr.360a15): Triệu nói, «…số, tức hữu số 有數 (số loại hữu vi).» VCS (Đại 38,
tr.1056c17): «… số, tức sinh số 生數 (= số
loại thọ sinh).»
Kinh Duy-ma-cật sở thuyết, bản Việt dịch Tuệ
Sỹ, PL.2546 - Nhâm ngọ, tr.25-46.