Thích Danh
Mỗi bộ kinh có tên riêng và tên chung. Tên riêng
thì chỉ đặc biệt bộ kinh ấy có; tên chung là tên
phổ thông kinh nào cũng có.
Tên riêng là gì? Như tên "Phật thuyết A Di
Đà" chính là tên riêng, chỉ có bộ kinh này được
gọi thôi, còn những kinh khác thì không. "Kinh" là
tên chung, tên chung này kinh nào cũng có. "Chung"
là chung của các kinh, "riêng" là chỉ riêng của
kinh này.
Không nên xem thường bộ kinh này, vì là kinh
thường tụng vào buổi chiều trong chùa. Nhất là
kinh này lại là của Phật nói ra.
Có năm hạng người có thể nói kinh: 1/ Phật;
2/ Đệ tử Phật; 3/ Chư Thiên; 4/ Tiên; 5/ Hóa Nhân,
tức là người do Phật hay chư Thiên biến hóa ra.
Trừ kinh của Phật nói ra, kinh điển của bốn
hạng người kia nói phải qua sự ấn chứng của Phật
mới được gọi là kinh, nếu không thì không thể gọi
là kinh được.
Kinh này là từ kim khẩu của Phật giảng nói
lý vi diệu, không cần phải thưa thỉnh. Các kinh
điển khác thì phải có người thưa hỏi Phật mới nói
ra. Chỉ riêng kinh A Di Đà này là không có ai thưa
hỏi, Phật tự nói ra. Tại sao thế? Vì nghĩa lý kinh
này rất huyền diệu, trí huệ của hàng Thanh văn
không thể đạt đến được, tất cả hàng Bồ tát cũng
không thể hiểu rõ, cho nên không có nhân duyên
người thưa hỏi về pháp môn Tịnh độ. Chỉ vì pháp
môn này đáng được nói ra, cho nên Đức Phật xem
thấy căn cơ thành thục bèn tự nói kinh này. Kinh
này vì thế rất trọng yếu trong Phật giáo.
Tại sao kinh này lại rất trọng yếu? Khi Phật
Pháp sắp diệt, diệt trước nhất là Kinh Lăng Nghiêm,
vì tất cả Ma vương đều rất sợ chú Lăng Nghiêm. Sau
khi Kinh Lăng Nghiêm diệt, các kinh khác lần lượt
diệt theo. Lúc bấy giờ dù có giấy đi nữa, nhưng
trên giấy không có chữ. Sau cùng chỉ còn Kinh A Di
Đà lưu lại thế gian một trăm năm để hóa độ vô
lượng vô biên chúng sanh mà thôi. Nhờ sáu chữ hồng
danh Nam Mô A Di Đà Phật mà rất nhiều người được
độ, có đến số vô lượng vô biên. Sau đó trong sáu
chữ hồng danh lại mất đi hai chữ "Nam mô", chỉ còn
"A Di Đà Phật" lưu lại một trăm năm nữa. Sau đó
Phật pháp mới diệt hẳn. Kinh này diệt sau cùng nên
là kinh rất trọng yếu trong Phật pháp.
Bây giờ giảng về tựa kinh. Tựa kinh này là "Phật
Thuyết A Di Đà Kinh."
"Phật" là gì? Phật là bậc đại giác, giác ngộ
tất cả pháp không có mảy may mê lầm. Phật là bậc
nghiệp hết tình không, nghiệp chướng đã hết, tình
cũng khô cạn. Phàm phu là kẻ nghiệp nặng tình mê,
đắm trước tình ái nên gọi là chúng sanh. Phật có
đủ ba giác ngộ nên là bậc đại giác. Ba giác ngộ là:
1. Bản giác: Vốn đã là giác ngộ.
2. Thỉ giác: Mới giác ngộ.
3. Cứu cánh giác: Giác ngộ đến cực điểm.
Ba giác ngộ này có thể nói là: Tự giác, Giác
tha, Giác hạnh viên mãn. Hàng phàm phu chúng ta là
bất giác, một ngày từ sáng đến tối tự cho là thông
minh, nhưng kỳ thực là kẻ ngu si không biết gì cả.
Cũng giống như người đánh bạc tự cho mình là thắng
bạc, nhưng sự thực là thua. Tại sao lại điên đảo
như thế? Tại vì quá mê lầm. Biết rõ việc ấy sai mà
vẫn cứ làm, đó là vì quá mê vậy. Càng mê càng lún
sâu, càng lún sâu càng mê thêm. Phải làm sao đây?
Cần phải giác ngộ mới được.
Phật cũng là một phần tử trong chúng sanh,
cũng là một chúng sanh, nhưng Ngài không mê. Ngài
giác ngộ, đó là tự giác. Người tự giác không giống
với phàm phu, cũng chính là người Nhị thừa: Thanh
văn, Duyên giác. Người Nhị thừa là bậc tự ngộ, tự
giác mà không giác tha, cho nên gọi là Thanh văn
thừa. Giác tha chính là Bồ tát. Bồ tát không phải
vì chính mình, không giống với hàng Nhị thừa là
bậc tự liễu ngộ, tự mình giác ngộ rồi không có
phát tâm làm cho người khác cũng giác ngộ. Bồ tát
phát tâm không giống như thế, Bồ tát phát tâm muốn
làm lợi ích cho tất cả chúng sanh mà không cần
chúng sanh làm lợi ích cho chính mình. Đó là dùng
phương pháp tự mình giác ngộ đem giáo hóa chúng
sanh, khiến cho tất cả chúng sanh cũng đều giác
ngộ không còn mê mờ nữa, đó là thực hành Bồ tát
đạo. Người Nhị thừa tu tứ diệu đế Khổ, Tập, Diệt,
Đạo và mười hai nhân duyên.
Thế nào là mười hai nhân duyên? Mười hai
nhân duyên là Vô minh duyên hành, Hành duyên
Thức,Thức duyên Danh Sắc, Danh sắc duyên Lục nhập,
Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên ái,
ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh
duyên Lão tử.
Mười hai nhân duyên này từ đâu mà có? Từ Vô
minh mà có. Nếu ta không có Vô minh thì mười hai
nhân duyên này không thể phát sinh tác dụng được.
Tại vì ta có Vô minh nên cái này kéo theo cái khác
mà có. Hàng Nhị thừa tu chính là những pháp này.
Còn Bồ tát thì vượt qua giai đoạn này, các Ngài tu
Lục độ vạn hạnh, như:
1. Bố thí độ tham lam: Nếu người muốn hết
tham lam thì phải bố thí, bỏ không được cũng phải
bỏ. Không bỏ chính là tham lam nên bỏ không được.
Cho nên nói bố thí độ tham lam.
2. Trì giới độ hủy phạm.
3. Nhẫn nhục độ giận dữ: Nếu tánh tình hay
giận, thì phải nên tu hạnh nhẫn nhục. Phàm gặp
việc phải nhẫn nại, không nên cả ngày giống như A
tu la, không nói được lời nào hòa nhã, nói ra thì
mắt trợn trừng giống như mắt bò. Đó đều là cảnh
giới A tu la.
4. Tinh tấn độ giải đãi: Nếu giải đãi cần
phải tu tinh tấn để đẩy lùi giải đãi đi.
5. Thiền định độ tán loạn: Nếu mình cứ vọng
tưởng lung tung thì phải tu Thiền định. Nếu không
có vọng tưởng thì tán loạn cũng không, điều cần
nhất là phải có trí huệ.
6. Trí huệ độ ngu si: Có trí huệ thì không
còn ngu si nữa, nếu ngu si thời không có trí huệ.
Trước không có trí huệ, mà nay có trí huệ, chính
là độ ngu si đấy, như ánh sáng đẩy lùi bóng tối
vậy. ánh sáng là trí huệ, bóng tối là ngu si.
Bồ tát tu Lục độ vạn hạnh, tự giác giác tha,
khác với hàng Nhị thừa là chỗ này.
Giác mãn chính là diệu giác, là Phật. Phật
tự giác, cũng giác tha, cho nên Phật là giác hạnh
viên mãn. Phật nếu nói đầy đủ là Phật-đà-gia, vì
người Trung Quốc thích nói gọn cho nên gọi tắt là
Phật. Người Tây phương nói Buddha cũng là nói tắt
của Phật-đà-da. Có người lại nói: Thầy giảng tới
giảng lui về Phật nhưng tôi vẫn không biết Phật là
ai? Tôi xin nói cho bạn biết: Bạn chính là Phật đó!
Hỏi: Sao tôi lại không biết?
- Bạn không biết đó chính là Phật. Nhưng
Phật của bạn không phải là Phật đã thành, mà là
Phật chưa thành.
Đến đây quý vị mới hiểu: A! Thì ra Phật là
người phàm tu mà thành, vậy ai ai cũng có thể tu
hành thành Phật được. Là người nếu giác ngộ thì
chính là Phật; trái lại thì là chúng sanh.
Phật còn có Ba Thân, Bốn Trí, Năm Nhãn, Sáu
Thông. Chúng ta là chúng sanh, dù có tánh Phật,
đều có thể thành Phật, mà vì chưa chứng được quả
Phật nên không có ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu
thông này. Phật là từ phàm phu tu hành đến quả vị
Phật mới có đầy đủ những thứ kể trên. Cho nên có
người nói: "Tôi đây chính là Phật", đó thiệt là si
mê quá mức! Chưa thành Phật mà lại nói ta đây là
Phật, rõ ràng là dối mình dối người. Thật là kẻ
đại si mê trên thế gian. Tuy mọi người đều có thể
thành Phật, nhưng ai nấy đều phải tu hành, có đủ
Ba Thân, Bốn Trí mới có thể thành Phật, chẳng phải
chỉ có Năm Nhãn hoặc một ít thần thông mà thành
Phật được.
Ba Thân là:
1/ Pháp thân
2/ Báo thân
3/ Hóa thân
Bốn Trí là:
1/ Đại viên cảnh trí;
2/ Diệu quan sát trí;
3/ Thành sở tác trí;
4/ Bình đẳng tánh trí.
Sáu thông là:
1. Thiên nhãn thông: Có thể thấy được tất cả
hành động của trời và người.
2. Thiên nhĩ thông: Có thể nghe được những
tiếng nói và thanh âm của người ở trên trời.
3. Tha tâm thông: Có thể biết được những ý
tưởng trong lòng người khác.
4. Túc mạng thông: Chẳng phải chỉ biết hiện
tại, mà cả đến quá khứ cũng biết nốt.
5. Thần túc thông: (Còn gọi : Thần cảnh
thông) Thứ thần thông này không thể nghĩ bàn, cảnh
giới rất vi diệu.
6. Lậu tận thông: Giống như là dưới đáy bình
nước có một lỗ hổng, nước đều từ lỗ hổng đó chảy
ra hết. Nay không còn chảy nữa, vì lỗ hổng ấy đã
bị bịt kín, nên gọi là lậu tận.
Những gì là lậu tận? Tức là không có tâm dâm
dục thì là không có lậu; không có tâm tham lam
cũng là không có lậu; không có tâm si cũng là
không có lậu. Tóm lại, tám vạn bốn ngàn những tập
khí, lỗi lầm đều không có, gọi là Vô lậu.
Năm nhãn là:
1/ Thiên nhãn
2/ Nhục nhãn
3/ Huệ nhãn
4/ Pháp nhãn
5/ Phật nhãn.
Có bài kệ nói về năm nhãn như thế này:
Thiên nhãn thông không ngại,
Nhục nhãn ngại không thông,
Pháp nhãn chỉ quán tục,
Huệ nhãn rõ chơn không,
Phật nhãn ngàn mặt nhật:
Chiếu khác, thể lại đồng.
1. "Thiên nhãn thông không ngại": Thiên nhãn
thông suốt không ngăn ngại, cho nên gọi là "thông
không ngại". Người ấy có thể nhìn thấy sự việc
trong tám vạn đại kiếp, nhưng không thể thấy được
ngoài tám vạn đại kiếp.
2. "Nhục nhãn ngại không thông": Nhục nhãn
có thể nhìn thấy cảnh tượng có chướng ngại. Trái
lại, Thiên nhãn có thể nhìn thấy cảnh tượng không
chướng ngại.
3. "Pháp nhãn chỉ quán tục": Pháp nhãn là
quán Tục đế, quán sát tất cả Tục đế ở thế gian,
đạo lý thế tục.
4. "Huệ nhãn rõ chơn không": Huệ nhãn còn
kêu là trí huệ, hay rõ rành Chơn không.
5. "Phật nhãn ngàn mặt nhật: Chiếu khác, thể
lại đồng": Phật nhãn không phải chỉ ở trên mặt Đức
Phật mới có, mà mỗi chúng ta đều có Phật nhãn, chỉ
có điều mở hay không mở mà thôi. Khi Phật nhãn mở
ra, khác nào ánh sáng ngàn mặt trời, có thể chiếu
soi vạn sự vạn vật, nhưng bản thể lại là đồng nhau.
Phật có đủ Ba Thân, Bốn Trí , Năm Nhãn, sáu
thông; nếu ta nói mình là Phật thì phải đủ những
thứ trên mới có thể nói là thành Phật được, bằng
không chỉ là phàm phu. Nếu muốn làm người tốt thì
không nên lừa người khác.
Phật Thích Ca Mâu Ni là Giáo chủ của thế
giới Ta Bà. Thế giới Cực Lạc mà Ngài nói đến có
Giáo chủ là Phật A Di Đà. Cõi nước ấy rất trang
nghiêm, mặt đất bằng vàng ròng.
Thế nào gọi là thế giới Ta Bà? Ta Bà là
tiếng „n Độ, dịch sang tiếng Trung Quốc là Kham
Nhẫn, có nghĩa là thế giới Ta Bà khổ như thế,
chúng sanh cũng kham nhẫn thọ những khổ ấy. Thế
giới Ta Bà chính là thế giới mà chúng ta đang ở,
có Đức Thích Ca Mâu Ni Phật làm Giáo chủ. Thích Ca
là họ của Phật, Mâu Ni là tên của Phật, đều là
tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung Quốc là Năng
Nhân? Năng Nhân là gì? Là hay dùng lòng nhân ái
thương người để giáo hóa chúng sanh, cũng chính là
lòng từ bi. Từ hay cho vui, Bi hay cứu khổ, dứt
trừ nỗi khổ của chúng sanh mà ban cho họ niềm an
lạc.
Bi có ba thứ:
1. Ái kiến bi: Lòng bi này phàm phu đều có
đủ, đó cũng là một thứ tâm đồng tình, gọi là Ái
kiến đồng tình. Sao gọi là Ái kiến bi? Những người
nào gần gũi mình thì mình yêu mến họ, thương xót
họ; khi họ xa mình hay là người xa lạ thì không
yêu mến, không thương xót họ nữa. Những bạn bè
thân thích mình đều có thể giúp đỡ họ, khi thấy họ
đau khổ thì hết sức giúp đỡ họ, đó gọi là Ái kiến
bi. Nhưng khi họ ở xa, hoặc không liên can gì đến
mình, khi họ đau khổ, mình cũng bỏ mặc. Tại sao
thế? Tại vì đối với họ mình không có lòng yêu mến
(Ái). Có yêu mến mới có thứ Bi này. Hơn nữa, họ
đồng loại với mình, mới có thứ Ái kiến bi này; nếu
không đồng loại sẽ không có lòng Bi ấy. Như đối
với súc sanh: bò, dê, gà, ngỗng... mình không
những không có Ái kiến bi, mà còn muốn ăn thịt nó,
cướp lấy sinh mạng nó để nuôi dưỡng sinh mạng của
chính mình, đó là vì không có Ái kiến bi. May mắn
nhân loại còn không đến nỗi ăn thịt đồng loại của
mình. Tuy ăn bò, dê, gà, ngỗng, cá... nhưng chưa
có thói người ăn thịt người, như vậy còn khá hơn
là hổ, báo, sói một tí. Nhưng hổ báo cũng không ăn
thịt đồng loại của nó. Nhân đó người không ăn thịt
người mà chỉ ăn thịt súc vật, chỉ vì đối với súc
vật không có lòng Ái kiến bi mà ra.
2. Pháp duyên bi: Lòng bi này của hàng Nhị
thừa. Hàng Nhị thừa không chỉ có Ái kiến bi mà còn
có Pháp duyên bi. Họ quán tất cả pháp đều là từ
nhân duyên sinh. Nhưng nhân không có tánh, đương
thể tức không, tức là ngay nơi bản thân của nhân
duyên không có tự tánh nên "đương thể tức không".
Hàng Nhị thừa quán pháp "Duyên không" mà sanh tâm
Bi cho nên họ giáo hóa chúng sanh mà không dính
mắc ở tướng chúng sanh, vì tất cả đều là không. Đó
là Pháp duyên bi của hàng Nhị thừa.
3. Đồng thể bi: Chư Phật, Bồ tát còn có một
thứ Bi nữa, tức là Đồng thể đại bi. Chư Phật, Bồ
tát cùng chúng sanh đồng thể, nhơn vì Pháp thân
của Phật cùng khắp tất cả, tâm tánh của Phật cũng
cùng khắp tất cả, nên chúng sanh đều bao gồm ở
trong tâm tánh của Phật. Chúng ta là chúng sanh
trong tâm Phật. Phật là Phật trong tâm chúng sanh.
Tâm chúng sanh cùng tâm Phật đều là "dọc cùng ba
tế, ngang khắp mười phương" như nhau. Vì thế giữa
Phật và chúng sanh là đồng thể, không có sai khác.
Đây là Đồng thể đại bi.
Năng Nhân của Phật Thích Ca Mâu Ni có đủ cả
ba thứ bi ở trên, nếu nói rộng ra thì là vô lượng
vô biên. Mâu Ni là tên của Phật. Đây cũng là tiếng
Phạn, Trung Quốc dịch là Tịch Mặc. Tịch là lặng lẽ
không lay động. Mặc là miệng không nói năng, chẳng
những miệng không nói mà tâm cũng không nghĩ, đó
là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Cho nên Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni dù là nói pháp, nhưng nói mà chưa
từng nói; dù chưa nói pháp, nhưng chưa nói mà đã
nói. "Nói mà không nói, không nói mà nói". Đó là
tịch mặc, dù lặng lẽ không động mà lại cảm thông;
cảm thông nhưng vẫn im lặng bất động. Đó là tên
riêng của đức Thích Ca Mâu Ni. Chỉ có Đức Phật này
có tên đó. Đức Phật khác thì không gọi tên này, vì
đây là tên riêng. Phật là tên chung. Hễ được thành
Phật thì đều gọi chung là Phật.
Bây giờ giảng về chữ "Thuyết". Thế nào gọi
là thuyết? Vì sao cần phải thuyết? Về chiết tự,
chữ "Thuyết" là chữ Ngôn nằm bên chữ Đoái có hai
chấm trên là chữ nhơn nghĩa là người, chữ Khẩu ở
giữa nghĩa là miệng, còn chữ nhơn ở dưới là người
khác: Có nghĩa là một người nói chuyện với một
người khác. Nói những chuyện gì? Nói những lời
mình muốn nói, những điều vui thích trong lòng,
cũng chính là nói được những điều muốn nói mình sẽ
vui thích. Trái lại, nếu nói không được thì sẽ
không vui thích. Cũng chính là vui thích vì được
nói ra những điều mà mình đã từng ôm ấp trong lòng
vậy.
Phật Thích Ca Mâu Ni cùng mười phương chư
Phật đều đã thành Phật, cho nên gọi các Ngài là
bậc Tiên giác, tức là những vị đã tỉnh thức trước
trong một giấc mộng dài. Người phàm phu thì còn
ngủ say trong giấc mộng. Đức Phật chẳng những đã
giác ngộ mà còn là bậc Đại giác ngộ nữa; vì thế
đối với Phật không điều gì là chẳng biết, không
điều gì là chẳng thấy; do Phật biết cho nên biết
tất cả, do Phật thấy cho nên thấy tất cả. Đức Phật
giác ngộ là do tự mình tu hành mà được Chánh quả,
là người đã đi qua con đường ấy, rồi đem phương
pháp tu hành để chứng được quả vị mà dạy lại cho
tất cả chúng sanh khiến họ cũng chứng được Phật
quả Bồ đề hoàn toàn rốt ráo như Ngài. Do đó Phật
mới cần nói pháp cho chúng sanh nghe. Đức Phật nói
gì? Bây giờ Ngài đang nói về Phật A Di Đà, tức là
đang giảng Kinh A Di Đà.
"A Di Đà" là tiếng „n Độ, Trung Quốc dịch là
Vô Lượng Thọ, hoặc Vô Lượng Quang. Sao gọi là Vô
Lượng Thọ? Trong Kinh A Di Đà nói: "Đức Phật kia
thành Phật đến nay đã mười kiếp". Mười kiếp là có
số mực rõ ràng, vì sao lại nói là Vô Lượng Thọ? Vô
Lượng Thọ là phước đức của Ngài, do phước mà được
sống lâu (Thọ), phước đức ấy vô lượng nên thọ cũng
vô lượng.
Sao gọi là Vô Lượng Quang?
Ánh sáng (Quang) này là ánh sáng của trí huệ.
Ánh sáng trí huệ của Ngài vô lượng nên gọi Ngài là
Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang.
Đức Phật không phải chỉ có phước đức vô
lượng, mà thần thông biện tài, tướng hảo, đạo tâm
tất cả đều vô lượng; nói vô lượng tức là không có
bờ không có mé để tính được. Nói vô lượng tức là
vô biên, tức là không ở chỗ nào mà chỗ nào cũng có.
Vô lượng là từ "một" mà có, nên nói "Một là vô
lượng, vô lượng là một".
Có một vị giáo sư viết một quyển sách về số
mục: "Như thêm một vòng tròn vào sau số mục thì số
ấy liền thêm lớn, càng thêm nhiều vòng tròn thì số
càng lớn gấp nhiều lần. Nếu thêm vòng tròn khắp cả
thiên hạ thì số mục sẽ lớn hơn không biết bao
nhiêu." Cho nên số mục là vô cùng vô tận vậy.
Thọ mạng, công đức, trí huệ, pháp lực của
Phật A Di Đà đều vô lượng vô biên, dù có thể vẽ
không biết bao nhiêu vòng tròn vào sau số mục thì
số ấy liền thêm lớn, càng thêm nhiều vòng tròn thì
số càng lớn gấp nhiều lần. Nếu thêm vòng tròn khắp
cả thiên hạ thì số mục sẽ lớn hơn không biết bao
nhiêu". Cho nên số mục là vô cùng vô tận vậy.
Thọ mạng, công đức, trí huệ, pháp lực của
Phật A Di Đà đều vô lượng vô biên, dù có thể vẽ
không biết bao nhiêu vòng tròn cũng không thể tính
được. Vì là vô lượng nên không có số lượng, về số
học nó là không thể cùng tận (vô cực); ngay nơi
thái không, trong thái không còn có thái không nữa,
nên số mục vẫn là vô tận. Phước đức, trí huệ của
Phật A Di Đà đều vô lượng nên gọi là Phật A Di Đà.
Phật A Di Đà cùng Phật Thích Ca Mâu Ni đều là từ
con người tu hành mà thành Phật chớ không phải là
từ trên trời rơi xuống hoặc từ dưới đất vọt lên.
Vì thế kinh A Di Đà chiếu theo sự phân loại của
kinh Phật thì được liệt vào loại "quả nhân". Vì
Phật A Di Đà là từ con người (nhân) tu hành chứng
thành (quả) Phật, cho nên xếp kinh này vào loại "quả
nhân".
Bây giờ đến chữ "Kinh". Tên chung, Kinh là
Khế kinh. Sao gọi là Khế kinh? "Khế" có nghĩa là
hợp, tức là trên thì khế hợp với lý nhiệm mầu của
chư Phật, dưới thì khế hợp với căn cơ của chúng
sanh, đó gọi là Kinh. Kinh có năm nghĩa:
1. Kinh là bản ý của pháp, là căn bổn của
pháp, nên nói Kinh là gốc của mọi pháp. Phật thông
đạt cội nguồn mọi pháp nên Ngài thuyết giáo. Do
vậy giáo là căn bổn của pháp, dùng phương pháp "Tứ
tất-đàn" để diễn đạt căn bổn của pháp. "Tất" là
cùng khắp, "Đàn" là bố thí, tức là bố thí cùng
khắp đến tất cả chúng sanh. Bốn thứ Tất-đàn là:
Thế gian tất-đàn: Nói pháp thế gian.
Đối trị tất-đàn: Đối trị, sửa đổi lỗi lầm
của chúng sanh.
Vị nhơn tất-đàn: Vì chúng sanh mà thuyết
pháp.
Đệ nhất nghĩa tất-đàn: Ban truyền giáo lý
rốt ráo (đệ nhất nghĩa) cho tất cả chúng sanh.
Nói cho cùng, thì pháp vốn không thể diễn
bày, nhưng vì hành Bốn Loại Bố Thí Pháp bốn
Tất-đàn ghi trên nên Đức Phật có thể diễn đạt pháp.
Vì vậy, chữ Kinh có nghĩa là Căn Bản Pháp
2. Kinh là nghĩa pháp vi diệu: Pháp vi diệu
là pháp rất vi tế, vì tất cả đạo lý huyền diệu sâu
xa đều ở trong Kinh. Nếu không nói ra thì không ai
biết. Cho nên Kinh là phát huy đạo lý vi diệu.
3. Kinh có nghĩa là suối nguồn: Như nước
suối từ trong đất tuôn vọt lên khỏi mặt đất không
ngớt, những giáo lý từ các Kinh bản tuôn trào như
nước suối. Cho nên ví Kinh dụ như suối nguồn.
4. Kinh có nghĩa là chừng mực: Xưa nay thợ
mộc hoặc thợ đá, lấy dây mực làm chuẩn. Từ trong
hộp mực kéo ra sợi dây mực rồi khảy dây mực một
cái, mực trên dây in lên gỗ hoặc đá, liền có một
đường thẳng hiện ra. Kinh giống như vậy và cũng
tương tự như com-pa và thước vuông dùng để hướng
dẫn người.
5. Kinh có nghĩa là kết tràng: Các thứ hoa
kết thành một tràng hoa. Giáo lý được liên kết với
nhau trong Kinh điển cũng như vậy.
Ngoài ra Kinh còn có nghĩa là "Quán xuyến"
hay xâu kết với nhau, tức là bao nhiêu ý nghĩa chủ
yếu Phật dạy được xâu kết lại trong Kinh. Lại có
nghĩa "Nhiếp trì", tức Kinh điển nhiếp trì chúng
sanh được giáo hóa. Lại nữa, Kinh là "phương pháp";
từ xưa đến nay ai nấy đều dùng phương pháp này để
tu hành, cho nên gọi Kinh là một thứ phương pháp.
Kinh còn có nghĩa là "thường" vì Kinh là thường
hằng không biến đổi, một chữ cũng không thể bớt đi
hay thêm vào được, thiên ma ngoại đạo cũng không
thể phá hoại được. Kinh là thẳng tắt, là con đường
của người tu hành, bất cứ ai đi bất cứ đâu đều
phải nương theo đường ấy mà đi; ví như muốn đến
New York cần phải đi về hướng Đông, nếu đi thẳng
qua hướng Tây thì không thể nào đến được. Đồng với
lý này, muốn thành Phật ắt phải tiến theo con
đuờng thành Phật, nếu không thì dù đi tới đi lui
cũng không cách gì đến quả vị Phật được. Kinh là
một thứ điển tịch, sách vở, cẩm nang tiêu chuẩn để
dựa vào mà tu hành. Có Kinh giải thích pháp thế
gian (thế sự). Kinh là một bộ đại tự điển, bất cứ
đạo lý nào cũng đều có thể tìm thấy trong bộ Đại
tự điển này, bất cứ chữ nào không hiểu rõ cũng có
thể tìm thấy ở đây. Kinh còn là hơi thở chân chánh
cần thiết của mỗi con người; nếu người không thở
nữa, tức gần đến cõi chết. Kinh là không khí chơn
chánh trong hư không, học kinh tức là hớp một hơi
không khí tươi mát, không ai có thể tách rời không
khí tươi mát được. "Tôi không học Phật pháp và
kinh Phật, thì sẽ thở không được không khí này ư?"
-Nếu như không khí thường có trong hư không, mình
học hoặc không học thì không khí vẫn thường có đó.
Vả lại, giữa người và người thường có sự giao lưu
trao đổi không khí với nhau. Người học Phật hít
vào không khí tươi mát mà cùng với người khác có
sự quan hệ liên đới lẫn nhau, khiến cho người kia
cũng gián tiếp nhận được ảnh hưởng. Ngoài ra, Kinh
cũng là món ăn tinh thần, lúc đương sầu muộn hoặc
có điều không vừa ý, tụng một biến Kinh thì tinh
thần sẽ sảng khoái ngay, sầu muộn tiêu tan cả, mà
tâm tình thơ thới, thông đạt vô ngại.
Kinh là tên chung. A Di Đà là tên riêng. Tên
riêng là tên chỉ Kinh này có, mà kinh khác thì
không. Kinh Phật là tài sản của Phật để lại nhiều
vô lượng vô biên, nhưng nói chung không ngoài bảy
loại. Kinh cũng là một loại tên.
Như Ấn Độ có bốn loại giai cấp không đồng,
mỗi loại đều có tên gọi đặc biệt, như các giòng họ
Bà la môn, Sát đế lợi, Thủ đà la, Chiên đà la;
nhân loại cũng có nhiều giống: vàng, trắng, đỏ,
đen... Kinh có thể chia làm bảy loại lập đề như
sau:
1. Chỉ lập đề theo người: Chỉ lấy người làm
tên Kinh, như "Phật thuyết A Di Đà Kinh". Phật là
người, A Di Đà cũng là người, người chứng quả nói
về người chứng quả. Cho nên xếp vào loại chỉ nói
về người. Đây là dùng hai vị chứng quả làm tên
Kinh.
2. Chỉ lập đề theo pháp: Chỉ lấy pháp làm
tên Kinh, như "Niết Bàn Kinh". Niết bàn là pháp
bất sanh bất diệt, dùng pháp này để biểu thị cho
tên Kinh.
3. Chỉ lập đề theo dụ: Chỉ dùng tỷ dụ để
thuyết minh chơn lý vi diệu của Kinh. Nếu nói
thẳng thì không cách gì để hiểu rõ bèn dùng tỷ dụ
để thuyết minh thì mới hiểu được, như "Phạm Võng
Kinh". Phạm võng là màng lưới của Đại Phạm Thiên
Vương. Lưới dệt bằng thứ vật chất rất quý trọng.
Chỗ đặc biệt của mạng lưới này là trên mỗi mắt
lưới đều có kết một hạt bảo châu. Những hạt bảo
châu ấy đều là Dạ minh châu sáng chói hơn đèn điện.
Mỗi hạt bảo châu lại chiếu soi một hạt bảo châu
khác, mỗi ánh sáng chiếu vào nhau, mỗi mắt lưới
thông nhau, ánh sáng chói lẫn nhau nhưng không
xung đột nhau. Ánh sáng ấy không ganh ghét một ánh
sáng cùng chiếu như mình. Không phải là chỉ cho tự
mình phát sáng mà không cho người khác phát sáng.
Giữa người với người, có lúc có thể bất đồng ý
kiến; nhưng giữa ánh sáng và ánh sáng thì không có
xung đột và đối nghịch nhau. Kinh này dùng lưới
Phạm thiên làm tỷ dụ. Mỗi điều giới luật trong
Kinh cũng như một hạt bảo châu phát ra ánh sáng
vậy. Người xuất gia quy y Tam Bảo giữ giới thanh
tịnh, đối cảnh không động tâm, có thể vượt ngoài
sự vật mà được thanh tịnh, giống như lưới báu của
Đại Phạm Thiên Vương vậy.
4. Lập đề theo người và pháp: Như "Văn Thù
Vấn Bát Nhã Kinh". Ngài Văn Thù là bậc đại trí,
người thông minh nhất trong hàng Bồ tát. Chỉ có vị
Bồ tát thông minh nhất mới có thể hỏi được pháp
Bát Nhã trí huệ to lớn nhất mà thôi.
5. Lập đề theo người và dụ: Như "Như Lai Sư
Tử Hống Kinh". Như Lai nói pháp như Sư tử rống. Sư
tử là vua trong loài thú, một khi nó rống lên thì
trăm thú đều sợ hãi, cho nên nói rằng:
Sư tử rống lên, nói vô úy
Trăm thú nghe đến đều nát óc
Hương tượng chạy trốn mất uy phong
Trời rồng lắng nghe sanh mừng rỡ.
Hương tượng dù thuộc loài thú lớn, nhưng
nghe Pháp vương nói pháp cũng phải cụp đuôi trốn
chạy, mất cả uy phong thường nhật. Trời rồng bát
bộ nghe pháp này lặng yên, hoan hỷ tán thán, sanh
tâm mừng vui.
6. Lập đề theo pháp và dụ: Như "Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh". Diệu pháp là pháp, Liên hoa là tỷ
dụ, cho nên nói là theo pháp và dụ.
7. Lập đề với đủ cả người, pháp và dụ: Như "Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh". Đại phương
quảng là diệu pháp để thành Phật, Phật là người
chứng quả, Hoa Nghiêm là tỷ dụ: Có Nhân hoa vạn
hạnh, tức có quả đức vô thượng trang nghiêm. Tên
kinh này đầy đủ cả người, pháp và dụ.
Phật thuyết A Di Đà Kinh, Phật tức là Phật
Thích Ca Mâu Ni, mà Kinh A Di Đà là Kinh được Phật
nói ra. Nhưng vì chúng sanh không biết có Phật A
Di Đà phát nguyện nhiếp thọ chúng sanh, cho nên
kim khẩu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra là không
thưa thỉnh mà tự nói (vô vấn tự thuyết).
Toàn bộ Kinh tạng của Phật giáo cộng chung
có mười hai bộ:
1. Bộ Trường hàng: Giữa một bản Kinh không
có ngắt đoạn cho nên gọi là Trường hàng.
2. Bộ Trùng Tụng: Lập lại ý nghĩa đã nói
trong Kinh; nói lập lại văn Kinh Trường hàng để dễ
ghi nhớ.
3. Bộ thọ ký: Trong Kinh điển đề cập đến
việc Đức Phật trước thọ ký cho Đức Phật sau, ví
như nói: "Ông ở kiếp nào đó sẽ được thành Phật tên
là gì? Thọ mạng bao lâu? Chúng sanh giáo hóa được
nhiều ít? — trước quốc độ nào?..." đều là dự báo
trước, đó gọi là Thọ ký.
4. Độ nhơn duyên: Do các thứ nhơn duyên mà
nói các thứ pháp.
5. Bộ Thí dụ: Dùng một sự vật nào đó, tỷ dụ
cho một sự vật nào đó để thuyết minh chỗ nhiệm mầu
của Phật Pháp.
6. Bộ Bổn sự: Hoặc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
tự thuật việc tiền thân, hoặc thuật lại những sự
tích tiền thân của một vị Phật hay một vị Bồ tát
nào đó.
7. Bộ Bổn sanh: Nói về sự tích đời này của
Phật Thích Ca Mâu Ni, hoặc việc đời này của một vị
Bồ tát nào đó.
8. Bộ Phương quảng: Phương là bốn phương,
Quảng là rộng khắp, biểu thị pháp được nói ra rất
tinh vi rộng lớn.
9. Bộ Vị tằng hữu: Những điều này là từ
trước đến nay chưa từng nói ra hay bây giờ mới
nói.
10. Bộ Bất vấn tự thuyết: Như Kinh A-Di-Đà,
do vì bộ Kinh này rất trọng yếu, tất cả hàng Thanh
văn không thể hiểu được, cho đến các vị Bồ tát
cũng chưa có thể đạt đến cảnh giới này, nhơn đó
Đức Phật tự phóng ra ánh sáng chấn động cõi nước
để nói ra bộ Kinh này.
Thông thường người ta cho rằng pháp môn Niệm
Phật là của mấy bà già, người có trí thì không cần
đến, đây là ý nghĩ rất sai lầm. Nếu mình không
Niệm Phật thì mình luôn luôn vọng tưởng, hết tưởng
Đông tưởng Tây đến tưởng Nam tưởng Bắc, tạp niệm
lăng xăng, dục niệm khởi lung tung, có dùng được
gì đâu? Niệm Phật có thể trừ được những vọng tưởng
này. Có một khắc niệm Phật thì có một khắc không
vọng tưởng, cho đến từ sáng đến tối niệm niệm
không lìa Phật, thì ngày ấy không vọng tưởng. Vọng
tưởng không nổi lên tức là Diệu pháp, cho nên niệm
Phật có thể đối trị được các thứ bịnh như vọng
tưởng, tán loạn, tham sân si...
Một câu Di Đà: vạn pháp vương
Năm thời, tám giáo phán tinh tường
Hành nhơn chỉ việc chuyên trì niệm
Sẽ nhập Tịch Quang bất động thường.
Bài kệ này tôi viết hồi năm mười bảy tuổi.
Niệm Phật có thể dứt hết cuồng tâm, cho nên Kinh
này là cảnh giới cao nhất, Bồ tát đều không thể
thưa hỏi được, vì họ không biết được chỗ vi diệu
của niệm Phật cho nên Đức Phật không đợi thưa hỏi
mà tự nói ra pháp môn vi diệu này. Thế thì tự hỏi
mà nói có phải là pháp môn vi diệu hay không? -Đúng
thế, đều là pháp môn vi diệu thậm thâm cả!
11. Bộ Cô khởi: Cũng gọi là Phúng tụng.
Trong một bộ Kinh, đó là những bài kệ đứng riêng
một mình, không liên quan gì đến kinh văn trước
hay sau cả, hoặc nói ra riêng rẽ về đạo lý, như
Kinh Kim Cang.
12. Bộ Luận nghị: Nghiên cứu luận nghị về
nghĩa lý của một loại Phật pháp.
Có bài kệ về mười hai bộ trên như sau:
Trường hàng, Trùng tụng và Thọ ký,
Cô khởi, Vô vấn mà tự thuyết,
Nhơn duyên, Thí dụ với Bổn sự,
Bổn sanh, Phương quảng, Vị tằng hữu,
Luận nghị cộng thành mười hai bộ.
Bổn ý Kinh này là dạy người ta niệm Phật A
Di Đà. Tại sao phải niệm Phật A Di Đà? Tại vì Đức
Phật A Di Đà có nhơn duyên rất lớn đối với tất cả
chúng sanh trong mười phương. Phật A Di Đà khi còn
ở địa vị hành giả (trước lúc thành Phật, khi ở
nhơn địa tu hành, Ngài tên là Tỳ-kheo Pháp Tạng),
Ngài từng phát bốn mươi tám lời nguyện lớn, mỗi
một nguyện đều muốn độ chúng sanh thành Phật, và
phát nguyện lớn như thế này: "Tất cả chúng sanh
trong mười phương, sau khi tôi thành Phật, nếu ai
thường niệm danh hiệu tôi thì đều có thể thành
Phật. Những người ấy nếu không thành Phật đạo thì
tôi cũng không thành Phật". Như Bồ tát Quán Thế Âm
đã nói trong Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni: "Bạch Thế
Tôn! Nếu các chúng sanh trì tụng thần chú Đại Bi
mà rơi vào ba đường ác thì con thề không thành
Chánh giác. Người trì tụng thần chú Đại Bi, nếu
không được vô lượng Tam-muội biện tài thì con thề
không thành Chánh giác. Người trì tụng thần chú
Đại Bi mà ở trong đời hiện tại tất cả những điều
mong cầu nếu không toại nguyện thì không phải là
Đại Bi Tâm Đà La Ni vậy".
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại
nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết
tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi
nước Tịnh độ của Ngài, nếu một chúng sanh nào chưa
được nhiếp thọ thì Phật A Di Đà cũng nguyện không
thành Phật. Pháp môn niệm Phật là: "Ba căn khắp độ,
lợi độn gồm thâu". Hễ ai xưng niệm danh hiệu của
Phật thì đều có thể thành Phật. Ba căn là chỉ ba
thiện căn thượng, trung và hạ. Không luận là người
thiện căn lanh lợi, bình thường, cho đến ngu si,
chỉ cần thường niệm Phật đều có thể vãng sanh về
thế giới Cực Lạc ở phương Tây, hóa sanh trong hoa
sen, không có các khổ, chỉ thọ những điều vui, ở
trong hoa sen thác sanh làm người, chớ chẳng phải
như ở nhơn gian từ thai mẹ mà sanh ra.
Có người nói: "Niệm Phật chắc có thể thành
Phật hay không? Tôi không tin. Làm sao mà dễ dàng
như vậy?" Niệm Phật mà có thể thành Phật là do nhờ
sức đại nguyện của Phật A Di Đà mà được, chớ nói
rằng không tin. Phật A Di Đà trước kia đã đoan
chắc rằng: "Sau khi ta thành Phật, chỉ cần các vị
niệm danh hiệu của ta các vị cũng thành Phật". Cho
nên người niệm Phật đều có thể thành Phật. Niệm
Phật cũng là trồng thiện căn đấy.
Truớc đây có một ông già khoảng chừng hơn
chín mươi tuổi, già đến độ đi không muốn nổi,
không biết ngày nào sẽ chết, cho nên muốn xuất gia
sớm một tí, vì cho rằng xuất gia rất dễ dàng, hễ
muốn xuất gia là xuất gia được ngay. Khi ông đến
tịnh xá Kỳ Hoàn, thì nhằm lúc Phật đi phó trai
vắng. Lúc ấy, đệ tử Phật có rất nhiều vị đã chứng
quả A-la-hán, bèn dùng Thiên nhãn quan sát nhơn
duyên của ông lão này thì biết rằng ông ta trong
tám vạn đại kiếp chưa từng gieo trồng chút căn
lành nào cả, nên không cho ông xuất gia. Vì thế có
câu:
Chớ bảo xuất gia là dễ được,
Phải do nhiều kiếp trồng căn lành.
Chớ cho xuất gia là rất dễ dàng, vì việc ấy
không đơn giản đâu. Ông lão ấy xin xuất gia, bị cự
tuyệt, trong lòng không vui: "Tôi cho xuất gia rất
dễ dàng, té ra lại khó thế ư?" Vì thế tâm ý buồn
bực, muốn nhảy xuống sông Hằng chết quách, may nhờ
Đức Phật ở xa níu lại và hỏi nguyên do. Ông lão
đáp:
-Tôi sống cũng không ích gì, Phật không có ở
nhà, đệ tử Phật lại không cho tôi xuất gia, muốn
đi làm mướn cũng không ai kêu, chi bằng chết quách
cho xong! (Bấy giờ nhứt định là không có trợ cấp
dưỡng lão, nếu có chắc ông lão này không muốn tự
sát đâu).
Phật nói an ủi ông rằng: "Ông không cần phải
nhảy xuống sông làm chi, ta sẽ thâu ông làm đồ đệ".
Ông lão hỏi: "Ông là ai mà có quyền ấy?"
-Ta là Phật Thích Ca Mâu Ni đây, ta thâu ông
làm đồ đệ, đệ tử của ta sẽ không phản đối đâu.
Ông lão nghe nói bèn gạt lệ vui mừng theo
Phật trở về và xuống tóc thọ giới. Sau khi nghe
Phật khai thị, ông liền chứng được Sơ quả.
Tại sao ông có thể chứng được Sơ quả? - Tại
vì trước kia ông muốn chết mà bây giờ cái chết ấy
được khắc phục. Do lúc đầu chưa thỏa ý nguyện xuất
gia mà khởi lên ý niệm nhảy xuống sông tự sát, còn
bây giờ ông ta được xuất gia, không cần phải nhảy
xuống sông nữa, cũng kể như là mình đã chết rồi
thì còn có cái gì bỏ không được nữa? Ngay lúc đó
được đại tự tại mà chứng Sơ quả. Điều này làm cho
các vị đại A-la-hán nghi ngờ: "Không có thiện căn
làm sao có thể chứng quả được?" Các Ngài bèn đảnh
lễ chân Phật thưa hỏi về lý do này. Phật nói:
"A-la-hán các ông chỉ có thể thấy được trong vòng
tám vạn đại kiếp ông lão này không có thiện căn,
nhưng những việc ngoài tám vạn đại kiếp các ông
không thấy được. Ông lão này trước tám vạn đại
kiếp là một vị tiều phu, một hôm lên núi đốn củi,
gặp một con cọp, bèn lật đật trèo lên cây trốn,
con cọp này chạy rất nhanh, nhưng ông ta leo lên
cây cũng không đến nỗi chậm, tưởng rằng sau khi
trèo lên cây sẽ thoát nạn. Nào ngờ con cọp này rất
thông minh, nó bắt đầu lấy hàm răng cạp lên thân
cây, thân cây dầu lớn, nhưng cọp ta có hàm răng
rất sắc, cạp bên này một miếng, cạp bên kia một
miếng, chẳng mấy chốc cạp đến một nữa thân cây.
Người tiều phu ấy sợ mất cả hồn vía, thấy tánh
mạng mình như ngàn cân treo sợi tóc, đột nhiên nhớ
đến Phật, bèn cất tiếng niệm lớn: "Nam mô Phật!"
Tiếng niệm Phật lớn ấy làm cho cọp ta sợ quá cúp
đuôi chạy mất. Nhưng người tiều phu ấy qua việc đó
rồi không còn nhớ đến niệm Phật nữa, trong tám vạn
đại kiếp lại cũng không có gieo trồng căn lành nào,
nhưng nhơn lành đã gieo trồng từ trước đến nay đã
thành thục, cho nên được gặp Phật mà có thể xuất
gia thành đạo quả.
Đây chính là nhơn duyên xuất gia của ông lão
này, do đó có thể biết xuất gia không phải là việc
tùy tiện. Có một số người thường nói: "Tôi muốn
xuất gia!" Nhưng những người nói lời này vẫn còn
tại gia, đó chính là căn lành của họ chưa thành
thục. Hôm nay có một Tỳ-kheo ni đến đây, cô ta
xuất gia ở Malaka (Mã Lai), lại thọ giới ở Nhật
Bản, cứ nghe cô ta nói là thọ mười sáu giới, mười
tám giới. Nhưng tôi cũng không biết đó là giới gì?
Về sau cô ta thâu nhận hơn một trăm nam đồ đệ.
Theo quy củ của Đại tòng lâm ở Trung Quốc thì nam
phái chỉ quy y với nam sư phụ, chớ không thể kính
nữ phái làm thầy. Hiện tại tôi có năm vị Tỳ-kheo
và Tỳ-kheo ni quốc tịch Mỹ sắp thọ giới Cụ túc,
nhưng tôi chưa quan sát được trong tám vạn đại
kiếp họ có căn lành hay không? Sau khi qua một
phen khảo sát, tôi mới cho họ thọ giới Cụ túc. Tôi
chỉ thấy họ đã sửa đổi rất nhiều tập khí vặt vãnh,
họ không còn hút thuốc, uống rượu, dùng thuốc kích
thích; tuy nhiên, sau khi quy y, họ vẫn phạm giới
hút thuốc, rồi lại sửa đổi, cho nên tạm thời cho
họ có một cơ hội cải hóa. Thời hạn ít nhất phải là
một năm để theo dõi. Xưa nay vị Thầy thâu nhận đệ
tử phải theo dõi đệ tử mình ba năm, đệ tử phải học
hỏi với Thầy ba năm, cộng tất cả là sáu năm, rồi
mới cho là hợp cách xuất gia. Nhưng bây giờ là
thời đại nguyên tử, một năm cũng đủ rồi.
Có người hỏi: "Năm vị xuất gia này trong tám
vạn đại kiếp có gieo trồng căn lành hay không?" -
Bọn họ trong một năm tụng chú Đại Bi, niệm Phật,
bái sám... đã gieo trồng rất nhiều căn lành rồi,
là nhơn thành Phật trong tương lai, nên hứa cho họ
xuất gia. Sở dĩ người đã gieo trồng căn lành cần
phải trân trọng giữ gìn cho thật kỹ, chớ cho mất
mát. Đừng nên giống như hành vi không đúng pháp
của vị Tỳ-kheo ni đã nói ở trên.
Sau đây xin nói về năm lớp huyền nghĩa của
tông Thiên Thai:
1. Thích danh: Biết được tên mới có thể theo
tên nghĩ đến nghĩa, rồi theo đó mà hiểu rõ về đạo
lý của nó. Cho nên học Kinh, trước hết phải biết
tên của Kinh. Như người ta đều phải có tên, nhơn
đó người ta mới có tên gọi khác nhau, có người kêu
là Trương Tam, có người kê Lý Tứ ...
2. Hiển thể: Sau khi biết tên, lại cần phải
biết thân hình người ấy ra sao, gầy béo cao thấp
thế nào ? Nếu không nhận biết thì khác nào biết
được tên người và hình dáng, mà chỉ thấy lưng chớ
không thấy được mặt của người ấy, cho nên trước
phải hiển bày về Thể.
3. Minh tông: Rõ được bản thể thì phải rõ về
tông tích. Nếu không rõ về tông tích thì không thể
rõ nghĩa lý, như người có chức nghiệp gì.
4. Luận dụng: Dụng là lợi dụng.