Giới thiệu & Giảng giải kinh điển
Kinh A Di Đà Thiển Thích
Tuyên Hóa Thượng Nhân Giảng Thuật
Ban Phiên Dịch Vạn Phật Thánh Thành
18/11/2555 07:55 (GMT+7) Kích cỡ chữ:
Kinh A Di Đà là
lập thể chỉ cho theo người, là Kinh mà
Đức Phật không ai thưa thỉnh, tự nói ra,
lấy Thật tướng làm Thể, Thật tướng tức
Không tướng, nhưng lại không chỗ nào
chẳng có tướng. Nhơn không tướng cho nên
là Chơn không; lại không chỗ nào chẳng
có tướng, tức là Diệu hữu; tất cả tướng
đều Thật tướng, cho nên Thật tướng mới
là Vô tướng mà không chỗ nào chẳng có
tướng. Vô tướng cũng chính là không chỗ
nào chẳng có tướng, tức là không có một
tướng hoặc không có tướng, cả hai đều
không chấp trước. Kinh này lấy Thật
tướng làm bản thể. Thật tướng tức Chơn
như, cũng chính là Nhứt chơn pháp giới.
Kỳ thực, Như Lai tạng tánh cũng chính là
Chơn như thật tánh, chỉ có tên gọi khác
nhau mà thôi.
Tín, Nguyện, Hạnh là ba thứ tư lương của
người tu theo pháp môn Tịnh độ, như
người trước khi đi xa cần phải dự bị lộ
phí và lương thực. Bạn muốn đi sang thế
giới Cực Lạc cũng phải chuẩn bị ba thứ
tư lương; trước tiên phải có lòng tin,
nếu không thì sẽ không có duyên với thế
giới Cực Lạc. Trừ việc tự tin nơi chính
mình, cũng phải tin ở người khác, tin
nhơn, tin quả, tin sự, tin lý.
Thế nào là tin ở chính mình? Đó là tin ở
tự mình quyết định có thể vãng sanh về
thế giới Cực Lạc phương Tây, đừng nên
khinh thường tự ti mà nói: "Tôi tạo rất
nhiều tội, làm sao có thể sanh về thế
giới Cực Lạc ở phương Tây được?" Nghĩ
như thế tức là không tin ở chính mình.
Không luận là mình đã gây tạo ác nghiệp
như thế nào đi nữa, đều có thể có cơ hội
đới nghiệp vãng sanh về thế giới Cực Lạc
phương Tây, nhưng mà nghiệp mang theo là
nghiệp cũ chớ không phải nghiệp mới. Tội
nghiệp đời trước có thể mang đi, nhưng
chẳng thể mang đi ác nghiệp tương lai
được. Những ác nghiệp gây tạo trước đây
hiện tại đều cần phải sửa đổi; sau khi
cải ác hướng thiện mới có thể vãng sanh
về thế giới Cực Lạc phương Tây. Người
nào sau khi niệm Phật, lại không chịu
sửa lỗi, vẫn tiếp tục tạo nghiệp, chẳng
những không thể đới nghiệp vãng sanh, mà
ngay cả thế giới Cực Lạc phương Tây cũng
không đi được. Cho nên niệm Phật, lạy
Phật là gieo trồng nhơn lành để tương
lai có thể thành Phật, chẳng phải là nói
hiện đời mà được. Sở dĩ người tin theo
Phật, chẳng nên biết rồi mà cố phạm. Khi
chưa quy y Tam Bảo và tin Phật, đã lỡ
tạo ác nghiệp còn có thể tha thứ. Nhưng
sau khi tin Phật và quy y Tam Bảo rồi mà
còn gây tạo tội nghiệp thì tội ấy nặng
thêm một bực, là do biết mà còn phạm.
Cho nên phải tin nơi chính mình có khả
năng "cải hóa tự tân", thì chắc chắn sẽ
được vãng sanh thế giới Cực Lạc phương
Tây.
Tin người khác (tín tha) là tin theo lời
Phật nói, chắc chắn có thế giới Cực Lạc
ở phương Tây cách đây mười vạn ức cõi
nước Phật. Cõi nước Phật này là do
Tỳ-kheo Pháp Tạng thuở xưa (tức Phật A
Di Đà bây giờ) phát nguyện mà thành tựu.
Tất cả chúng sanh ở mười phương nếu muốn
sanh về Tịnh độ này thì có thể vãng sanh
như ý nguyện, đã không phí việc, lại
không tốn tiền, chẳng hao sức, dễ dàng
lại đơn giản, phương tiện mà viên dung,
chỉ cần chuyên tâm niệm "Nam mô A Di Đà
Phật" mà thôi. Đây quả là một pháp môn
cao tột vô thượng. Tin như thế tức là
tin người khác.
Tin quả, tin nhơn (tín nhơn tín quả).
Chúng ta cũng cần phải tin vào chính
mình đã từng gieo trồng nhơn lành từ quá
khứ, nhờ có căn lành nên đời này mới gặp
pháp môn niệm Phật này. Ngoài ra, đời
này cần phải vun trồng Tín, Nguyện, Hạnh,
thì căn lành mới có thể thêm lớn mà
thành tựu quả vị. Cho nên tin có nhơn
quả là tự tin mình thuở xưa đã từng gieo
trồng nhơn Bồ-đề và ở tương lai nhất
định sẽ thành tựu quả Bồ-đề. Nhưng kết
quả đó muốn đạt được thì phải kinh qua
sự vun tưới và chăm sóc mới có thể thêm
lớn được. Có người nói: Tôi không biết
mình có căn lành gì?"
Bạn làm sao biết mình có hay không có
căn lành? Thường thường có người hỏi tôi:
"Thầy xem tôi có căn lành không?" Tôi
trả lời: "Bạn xem tôi có căn lành hay
không?" Người ấy nói: "Tôi không biết!"
Tôi nói: "Bạn không biết mình có căn
lành hay không thì làm sao tôi biết được?
Nhưng mà tôi có cách biết. Nếu bạn không
có căn lành thì đời này sẽ không thể nào
gặp được Phật, pháp, cho nên bạn phải tự
hiểu về đạo lý này".
Người không biết được Phật pháp, hoặc có
thể là không có căn lành, giả sử có gặp
được, cũng không thể có duyên. Chỉ vì
căn lành là phải được gieo trồng, nếu
không gieo trồng thì hoàn toàn không có
căn lành; cho nên có căn lành hay không
việc đó không quan trọng. Quan trọng
nhất là đời này mình phải nương theo
Phật pháp mà tu hành, vun bồi, chăm sóc
căn lành của chính mình. Chớ nói Phật
pháp dạy người không nên uống rượu mà
mình lại đi uống rượu bạt mạng, cho đến
phạm cả những tội sát sanh, trộm cắp, tà
dâm, nói dối nữa. Sau khi tin Phật rồi,
đã biết rõ mà cố phạm, cho đó là những
lỗi nhẹ không hề chi. Chính vì ý nghĩ "không
hề chi" đó mà người ta phải sa vào địa
ngục, làm ngạ quỷ, chuyển thân súc sanh.
Tất cả đều nhơn cái hại của câu nói "không
hề chi" này. Cho nên phải tin vào chính
mình đời nay gieo trồng căn lành, đời
sau mới có quả lành.
Tin lý, tin sự. Tin rằng Đức Phật A Di
Đà cùng chúng ta có nhơn duyên lớn,
tương lai nhất định có thể tiếp dẫn
chúng ta thành Phật. Đây tức là Sự. Tại
sao nói Đức Phật A Di Đà có nhơn duyên
lớn đối với chúng ta? Nếu không có nhơn
duyên thì đời nay chúng ta đâu gặp được
pháp môn Tịnh độ. Tất cả chúng sanh tức
là Phật A Di Đà, Phật A Di Đà tức là tất
cả chúng sanh. Phật A Di Đà nhơn niệm
Phật mà thành, tất cả chúng sanh nếu hay
niệm Phật, cũng có thể thành Phật, đây
tức là Lý. Người nương Sự Lý mà tu hành
như tông Hoa Nghiêm đã lập, tức "Sự vô
ngại pháp giới, Lý vô ngại pháp giới, Lý
Sự vô ngại pháp giới, Sự sự vô ngại pháp
giới".
"Lý sự vô ngại pháp giới" chúng ta cùng
Tự tánh Phật A Di Đà căn bản là một. Cho
nên chúng sanh đều có tư cách thành Phật.
Sao gọi là Sự lý? - Xin đưa ra một việc
dễ hiểu, phàm sự tướng đều có sự biểu
hiện của nó, như cây gỗ có thể làm nhà,
đây tức là Lý; làm thành phòng nhà rồi,
tức là Sự; đó là nghĩa Sự Lý. Chúng ta
hiện tại có Lý thành Phật này, mà cũng
có Sự thành Phật nữa. Chúng ta nếu có:
Tín, Nguyện, Hạnh, Trì danh, thì tương
lai sẽ đạt đến sự thành Phật.
Phật A Di Đà là Phật A Di Đà trong tâm
chúng sanh, chúng sanh cũng là chúng
sanh trong tâm Phật A Di Đà, sự quan hệ
này cũng có sự và lý, nhưng đạo lý này
cần phải có lòng tin và sự thực hành
không được biếng trễ. Ví như niệm Phật
phải mỗi ngày một tăng lên, không nên
mỗi ngày một ít đi. Khi chúng ta niệm
"Nam mô A Di Đà Phật", thì trong nước
Bát công đức của ao thất bảo nơi thế
giới Cực Lạc phương Tây sẽ mọc lên một
hoa sen. Niệm Phật càng nhiều thêm thì
hoa sen càng lớn dần, nhưng vẫn chưa nở.
Đợi đến lúc chúng ta mạng chung thì
đương nhiên chúng ta sẽ sanh vào trong
hoa sen ở thế giới Cực Lạc. Sở dĩ chúng
ta muốn biết phẩm vị của mình cao hay
thấp, là Thượng phẩm thượng sanh, Trung
phẩm trung sanh hay hạ sanh, thì phải
xem công phu niệm Phật của chúng ta
nhiều hay ít. Mình càng niệm Phật nhiều
thì hoa sen càng nở lớn ra. Mình niệm
Phật ít đi thì hoa sen nở nhỏ lại. Nếu
không niệm, hoặc có lúc niệm rồi không
niệm nữa, thì hoa sen kia sẽ khô rụi đi.
Cho nên điều cần thiết là bạn phải tự
tranh thủ lấy quả vị của chính mình:
Niệm Phật càng nhiều, trì danh, tin sâu
không dời đổi, nguyện thiết tha, thực
hành mãi không biếng lười. Không nên nói
ngày nay ngủ nhiều một tí, ngày mai sẽ
tu tiếp. Việc này không thể nào chấp
nhận được. Tu hành thì không thể biếng
lười, mà phải siêng năng tinh tấn thì
mới có thể thành công.
Thế nào gọi là Nguyện? - Nguyện là ý
nguyện, tức là chỗ ý hướng đến, tâm nghĩ
điều gì đó rồi phát ra lời nguyện.
Nguyện có bốn thứ tức là:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Chư Phật cùng Bồ tát thuở quá khứ, chư
Phật, Bồ tát ở hiện tại; chư Phật, Bồ
tát trong tương lai cũng đều y theo bốn
hoằng thệ nguyện này mà tu hành chứng
quả. Bốn hoằng thệ nguyện này là y theo
bốn đế mà phát ra. Bốn Đế là: Khổ Đế,
Diệt Đế, Tập Đế và Đạo Đế.
Y theo Khổ đế thì phát ra lời nguyện: "Chúng
sanh vô biên thệ nguyện độ"; y theo Tập
đế thì phát lời nguyện "Phiền não vô tận
thệ nguyện đoạn"; y theo Đạo đế thì phát
ra lời nguyện "Pháp môn vô lượng thệ
nguyện học"; y theo Diệt đế thì phát ra
lời nguyện "Phật đạo vô thượng thệ
nguyện thành." Hơn nữa, bốn hoằng thệ
nguyện cũng là chiếu theo ba khổ: Khổ
khổ, Hành khổ, Hoại khổ của chúng sanh
mà phát ra. Khổ khổ chính là những nghèo
cùng khốn khổ của chúng sanh. Hoại khổ
chính là chúng sanh dù được giàu sang,
nhưng sự giàu sang đó hư hoại đi. Hành
khổ chính là đã không phải bị khổ sở vì
nghèo thiếu, cũng không phải là giàu
sang bị hư hoại, mà là hành khổ của vô
thường biến đổi. Từ nhỏ đến lớn, từ lớn
đến già, từ già đến chết, suốt cả một
đời niệm niệm đổi dời, cho nên có ba khổ.
Tám khổ: Sanh, già, bệnh, chết, ái biệt
ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí
thạnh. Sanh là khổ, già là khổ, có bệnh
là khổ, lúc chết lại càng khổ, sanh già
bệnh chết đều là khổ; Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni nhơn nhìn thấy khổ sanh già bệnh
chết liền phát tâm xuất gia, tu hành. Ái
biệt ly khổ là nỗi khổ đối với người
mình yêu thích mà vì hoàn cảnh nào phải
xa lìa. Yêu mà phải xa lìa là một thứ
khổ, mà không yêu lại thường hội tụ ở
một chỗ cũng là một thứ khổ, đó gọi là
Oán Tắng hội khổ. Ví dụ: Mình không
thích người ấy, ở một nơi nào đó lại
chạm mặt với người ấy và cùng làm việc
chung với họ, nỗi ấy gọi là Oán tắng hội
khổ. Lại có một thứ gọi là Cầu bất đắc
khổ, nghĩa là không toại lòng mong muốn,
mong muốn được mà không thể được. Khi
chưa được thì lo lắng cho được, khi đã
được rồi thì sợ mất mát. Nhưng cái thứ
khổ lo được lo mất không kể gì lợi hại,
chính là Ngũ ấm xí thạnh khổ. Ngũ ấm là
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Năm thứ này
giống như là ngọn lửa cháy bừng bừng.
Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, năm ấm này
giờ giờ khắc khắc đều đi theo trên thân
thể chúng ta gây nên vô vàn sự thống khổ.
Ngoài tám khổ ra còn có vô lượng vô biên
khổ nữa. Tại sao có quá nhiều khổ như
vậy? Đó là vì chúng ta trong đời quá khứ
gieo trồng quá nhiều nhơn khổ, cùng làm
bạn bè với chúng mà không muốn xa lìa,
vì thế gieo trồng nhơn duyên của khổ này
mà nhận lấy khổ quả.
Muốn biết nhơn đời trước, hãy xem đời
nay nhận quả gì.
Muốn biết quả đời sau, hãy xem đời này
gieo nhơn gì.
Vì thế gieo trồng nhơn lành thì sẽ hưởng
kết quả lành, gieo trồng nhơn ác thì sẽ
nhận kết quả ác, lúc quả thành thục thì
lòng rất sợ hãi. Bồ tát thì sợ nhơn chớ
không sợ quả; còn chúng sanh thì sợ quả
chớ không sợ nhơn. Sợ tức là sợ hãi. Bồ
tát thì sợ nhơn chớ không sợ quả, cho
nên cẩn thận, dè dặt, không trồng nhơn
khổ, vì thế các Ngài không có quả khổ. —
thời quá khứ, khi chưa rõ đạo lý, các
Ngài cũng gieo trồng nhơn khổ; hiện tại
quả khổ đến, các Ngài vui vẻ tiếp nhận,
vì hiểu rõ rằng thọ khổ thì hết khổ,
hưởng phước thì hết phước. Nhưng chúng
sanh sợ quả mà không sợ nhơn, khi gieo
trồng nhơn bất kể là nhơn tốt hay xấu,
nhơn thiện hay ác, cứ cho là việc nhỏ
không ăn thua gì, cho nên mặc tình gây
tạo, không để tâm cẩn thận một tí nào.
Nhơn gì cũng gieo, nên khi họ khổ thì
thọ hoài không hết, rồi than van rằng:
"Sao mà gặp cái thứ hoàn cảnh trớ trêu
như vậy?" Đã sợ nhận lấy quả khổ, thế
thì trước kia đừng gieo trồng nhơn khổ
có hơn không? Sanh về thế giới Cực Lạc ở
phương Tây thì không có nổi khổ, chỉ thọ
các điều vui. Không có một chút khổ nào
là vì người ở đó đều thanh tịnh, không
có tâm tranh đua, tham dục, si mê và ba
ác đạo. Vì không có ba độc tham sân si
cho nên không có ba thứ ác đạo. Ba ác
đạo là do ba độc biến hiện ra.
Phật độ tất cả chúng sanh mà không thấy
một chúng sanh nào được diệt độ, đó
chính là phát tâm khiến cho tất cả người
tu Bồ tát đạo, khiến tất cả người lìa
khổ được vui, khiến tất cả người đều
được thành Chánh giác. Dầu độ chúng sanh
nhưng không có tướng độ chúng sanh. Độ
sanh lìa tướng, lìa tướng độ sanh, không
dính mắc vào tướng mà nói: "Chúng sanh
này là của tôi độ, chúng sanh kia cũng
của tôi độ, độ một người, cho đến mười
người, tôi độ được mười chúng sanh". Độ
chúng sanh phải là không tính số, có
tính số thì có chấp trước, không tính số
thì không chấp trước. Độ mà không độ,
không độ mà độ, đó mới thiệt là độ chúng
sanh. Chúng sanh bên ngoài dĩ nhiên là
đáng độ. Chúng sanh trong tự tánh cũng
phải đáng độ. Trong tự tánh có tám mươi
bốn ngàn chúng sanh, càng cần phải độ
cho nó tu hành thành Phật, nhập Niết bàn.
Độ chúng sanh, có độ là độ phiền não của
chúng sanh, không độ thì chúng sanh vẫn
còn phiền não, mà phiền não có tám mươi
bốn ngàn thứ. Hàng Nhị thừa dứt được
Kiến hoặc và Tư hoặc, nhưng vẫn còn Trần
sa hoặc. Bồ tát có Vô minh hoặc. Vô minh
là thứ nặng nề nhứt. Chúng sanh trừ được
Kiến tư hoặc, Trần sa hoặc, nhưng vẫn
còn Vô minh hoặc. Bồ tát Đẳng giác dứt
được Trần sa hoặc, khi sắp thành Phật,
hãy còn một phần Sanh tướng vô minh rốt
sau, cũng giống như tám mươi bốn ngàn
sợi lông chỉ còn thừa lại một sợi, chỉ
cần nhổ được sợi lông đó là xong. Bồ tát
Đẳng giác dứt được Sanh tướng vô minh,
liền chứng Diệu giác, tức thành Phật.
Sao gọi là Kiến hoặc? - Kiến là đối cảnh
khởi tâm tham ái. Đối cảnh giới khởi tâm
tham cùng tâm ái, không thấy rõ cảnh
giới này mà nhận rằng tất cả là thật có.
Vì nhận cho là thật nên ăn cơm cũng là
thật, ngủ nghỉ cũng là thật, không có
bạn bè cũng cho là thật, đó chính là
không rõ ràng. Thấy (kiến), cho là tốt
đẹp, rồi sanh ra tham ái vô cùng vô tận,
không bao giờ biết đủ biết chán, đó
chính là Kiến hoặc, đối cảnh khởi tâm
tham ái.
Sao gọi là Tư hoặc? - Tư hoặc chính là
mê lý khởi tâm phân biệt, đối lý không
thấu suốt mà khởi ra phân biệt. Không
biết vị Pháp sư đó giảng có đúng không?
Có chỗ nào hay không? Có lợi ích gì cho
mình không? Không lợi ích thì không muốn
làm. Việc mình làm nhất định phải có lợi
ích, chỉ thấy trước mặt ba tấc, mà chẳng
thấy được trước mặt bốn tấc. Chỉ thấy
cảnh trước mắt mà chẳng thấy được nơi
chốn xa xôi kia. Đó đều là Tư hoặc.
Tư hoặc chính là những tư tưởng không rõ
ràng, mơ mơ hồ hồ. Không đúng cho là
đúng. Vừa rồi tôi nói nhận cho ăn cơm là
thật, mặc áo cũng là thật, nếu không bạn
xem phải là giả thì cái gì là thật chớ?
Mặc áo, ăn cơm, ngủ nghỉ đều là quá
trình của đời người. Bạn không cần chấp
trước phải nhận chân là thế nào. Nếu bạn
không chấp trước thì có thể nhẹ nhàng tự
tại. Còn nếu chấp trước thì sẽ bị thống
khổ. Nếu cho là tất cả đều không thật,
thì sẽ không có tham ái, giống như trong
chiêm bao làm những việc lung tung. Nghĩ
ra như thế bạn sẽ buông bỏ hết, mọi sự
tình rồi sẽ qua đi. Nếu bạn bỏ không
được thì có chấp trước, mọi sự tình sẽ
không qua được. Đó là Kiến hoặc. Có tám
mươi tám phẩm Kiến hoặc và tám mươi mốt
phẩm Tư hoặc. Phá được Kiến hoặc trong
ba cõi thì chứng được Sơ quả A-la-hán.
Kiến hoặc không phá được thì không thể
nào chứng quả được. Đối với tất cả cảnh
giới bạn có tâm ái không? Có tâm tham
không? Đối với cảnh có khởi tâm tham ái
không? Đối với cảnh giới vừa lòng có
khởi tâm tham ái không? Đối với cảnh
giới không vừa lòng có khởi tâm giận
ghét không? Bạn có thể trừ bỏ được tâm
tham ái không? Nếu bạn thiệt không có,
thì rốt cuộc nó sẽ không còn tồn tại.
Làm sao biết "bạn không có tham ái?" Bởi
vì bạn còn biết mình không có cho nên
bạn nói tôi không tham không ái, nhưng
đó là còn có cái "Tôi." Vì chưa chứng Sơ
quả nên chưa phá được. Việc đó không
phải nói không là không một cách dễ dàng.
Ngũ lợi sử là: Thân kiến, Biên kiến, Tà
kiến, Kiến thủ kiến, Giới cấm thủ kiến.
Sao gọi là Lợi? -Lợi là đến nhanh chóng,
trái với Độn là đến chậm chạp.
1. Thân kiến: Chấp trước đây là thân thể
của ta. Thân thể của ta gầy đi, cảm thấy
ăn không ngon, mặc không vừa ý, ở không
thoải mái. Thân thể ta như thế thì làm
sao an toàn được? Suốt ngày từ sáng tới
tối cứ lo nghĩ về mình.
2. Biên kiến: Chính là chấp đoạn chấp
thường. Chấp đoạn thì cho rằng người ta
chết đi trở về với hư không, không còn
gì nữa, như dầu hết đèn tắt. Chấp thường
thì cho là con người chết đi, thì sao?
Vẫn làm người nữa; chó mãi mãi làm chó,
mèo cứ làm mèo hoài; người luôn luôn làm
người, chớ không đổi làm chó mèo được.
Những kiến chấp như trên lạc vào nhị
biên nên gọi là Biên kiến, không hợp với
Trung đạo. Đời này làm người, đời sau
vẫn làm người. Cỏ vẫn là cỏ, cây vẫn là
cây, người không thể làm súc sanh, cũng
không thể làm quỷ. Đó chính là Biên kiến.
3. Tà kiến là thế nào? - Tà kiến là cho
rằng làm lành không có quả báo lành, làm
ác cũng không có quả báo ác. Họ bác
không nhơn quả, hoàn toàn không nhơn
không quả. Họ không tin làm lành được
phước, làm ác phải tội.
4. Giới cấm thủ kiến: Dạy người giữ giới
bò, giới chó. Giữ giới bò là bắt chước
theo bò ăn cỏ. Tại sao thế? Nhơn vì họ
thấy biết sai lầm, thấy bò được sanh lên
trời cho nên bắt chước theo bò, thấy chó
được sanh lên trời cho nên bắt chước
theo chó.
Giới kiến: Không phải nhơn chấp là nhơn,
cũng là giới thủ. Người xuất gia giữ
giới có tâm chấp trước này, họ chấp rằng
ta hay giữ giới, giới này là giới của ta
giữ, có một thứ tâm hay giữ giới và
những giới được giữ. Họ không biết rằng
bản thể của giới xưa này vốn là rỗng
không, không nên chấp trước. Hễ có chấp
trước thì biến thành Giới thủ.
5. Kiến thủ kiến: Không phải quả chấp là
quả. Không phải là quả rốt ráo, họ cho
đó là quả rốt ráo. Họ cho Tứ Thiền Thiên
và Tứ Không Xứ là Niết bàn, đó gọi là
"không phải quả chấp là quả".
Tứ Thiền: Sơ thiền thiên, Nhị thiền
thiên, Tam thiền thiên, Tứ thiền thiên.
Người tọa thiền lên đến cảnh giới Sơ
thiền có thể không còn thở nữa, không có
sự hô hấp. — cảnh giới này tuy không còn
hô hấp nhưng vẫn có một niệm động, một
khi phát sanh niệm động này thì hô hấp
sẽ trở lại. Đó là Sơ thiền.
Nhị thiền là mạch ngừng lại, khi hô hấp
không còn nữa thì mạch cũng ngừng luôn,
giống như người chết. Tuy mạch ngừng đập
nhưng không phải chết. Đó là cảnh giới
của Nhị thiền.
Tam thiền là ngồi cho đến ý niệm cũng
ngừng bặt. — Sơ thiền, Nhị thiền không
còn hô hấp nữa, mạch cũng ngừng đập,
nhưng lại còn ý niệm, đến Tam thiền thì
ý niệm đó cũng không còn nữa vì thường ở
trong định.
Đến Tứ thiền thì chỉ còn thức mà thôị
Tam thiền không có ý niệm là không có ý
niệm thô, nhưng ý niệm tế vẫn còn; đến
Tứ thiền cả ý niệm tế cũng dứt luôn.
Cảnh giới này chỉ là con đường cần phải
kinh qua của người tu Thiền, chớ không
phải là quả chứng. Không chỉ nói Tứ
thiền, mà ngay cả Tứ không xứ: Không vô
biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ,
Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng chẳng
qua chỉ là một thứ định, chớ không phải
là quả chứng; nếu có chấp lấy (Kiến thủ)
thì có thể cho cảnh giới này là Niết bàn
và cho là chứng đắc quả A-la-hán thứ tư.
Như Vô Văn Tỳ-kheo cho Tứ thiền là Tứ
quả, đó là vì y không thông hiểu. Những
Kiến hoặc...ở trên là Ngũ lợi sử.
Tư hoặc... là Ngũ độn sử. Độn tức là đến
chậm chạp. Ngũ độn sử là tham, sân, si,
mạn, nghi. Tại sao người ta có phiền
não? - Đó là vì có vô minh. Sau khi Vô
minh sanh ra thì có Trần sa hoặc. Trần
sa hoặc còn gọi là Vô minh hoặc, tức là
không có hiểu biết đứng đắn. Tư hoặc
cũng có thể gọi là Vô kiến hoặc, tại vì
sau khi Vô minh sanh ra bèn có tham,
nghĩ rằng phải có được cái gì đó, bèn
sanh ra tâm tham, rồi sanh ra các thứ
phiền não; phiền não một khi sanh ra, sẽ
sanh ra tâm Sân; tâm Sân một khi sanh ra
thì chỉ biết về mình mà chẳng biết có
người khác. Vì chỉ biết có mình, cho nên
khi tâm sân hận sanh ra thì muốn hạ thấp
giá trị của người khác. Có thứ tâm này
chính là ngu si, không phân biệt được
phải quấy trắng đen, bất kể tất cả.
Nguyên do chính là không biết đạo lý,
ngay đến ngu si, phải quấy, cong ngay,
đen trắng đều không nhận ra. Vì ngu si
mới sanh ra tâm kiêu mạn. Vì có tâm kiêu
mạn nên lại sanh ra nghi ngờ, không tin
đạo lý do bất cứ ai giảng giải. Thiệt
cũng không tin, giả càng không tin nữa.
Sanh ra mọi thứ hoài nghi, đó chính là
Tư hoặc. Do Kiến hoặc, Tư hoặc, Trần sa
hoặc mà thành các thứ Vô minh phiền não.
Cho nên các thứ phiền não vô cùng vô tận
không có lúc nào hết. Trước tình hình
này người tu hành phải nương vào Tứ đế
mà phát lời thệ nguyện: "Phiền não vô
tận thệ dứt trừ".
"Pháp môn vô lượng thệ nguyện học",
nghĩa là người tu hành cần phải hiểu rõ
các thứ pháp môn. Các thứ pháp môn nhiều
vô lượng vô biên, cũng chính là một thứ
pháp môn để tu hành. Nếu không rõ biết
phương pháp thì không thể tu hành được,
vì muốn tu hành thì phải hiểu rõ phương
pháp. Phương pháp này rất nhiều, nhiều
đến vô lượng vô biên, cho nên phải nương
theo Đạo đế mà phát nguyện lực: "Pháp
môn vô lượng thệ nguyện học".
Sao gọi là pháp môn vô lượng? Vô lượng
pháp môn từ đâu mà có? - „y là: Phật nói
tất cả pháp nhơn vì tất cả tâm của chúng
sanh. Nếu không tất cả tâm, thì cần gì
tất cả pháp? Tất cả pháp đều do tâm
chúng sanh mà có, vì tâm chúng sanh có
ngàn sai muôn khác, các thứ không giống
nhau, tâm của mỗi con người đều không
giống nhau, cho nên pháp môn cũng có
nhiều thứ không đồng. Tóm tắt lại pháp
có ba thứ: Phật pháp, tâm pháp và chúng
sanh pháp. Ba pháp này sanh ra Tứ đế,
Lục độ, mười hai nhơn duyên, ba mươi bảy
phẩm Trợ đạo... Cho nên nói: "Pháp môn
vô lượng thệ nguyện học".
Pháp môn có rất nhiều, giống như chúng
ta giảng bộ kinh này xong lại giảng đến
bộ kinh khác, đó không phải là do vô
lượng hay sao? Chúng ta hiện tại giảng
kinh cũng như một giọt nước trong biển
cả mà thôi! Chớ không là tất cả nước
trong biển cả đều được hết. Chúng ta học
Phật pháp để làm gì? Tại sao phải học
Phật pháp? Nhơn vì học Phật pháp chính
là muốn được thành Phật.
Nhưng thành Phật có phải là vọng tưởng
không?
-Thành Phật không phải là vọng tưởng
đâu, tại vì vị Phật là quả vị xưa nay
sẵn có của chúng ta, mọi người đều có
thể thành Phật, vì thế chúng ta phải
nhanh một bước để sớm thành quả Phật, và
y theo Diệt đế mà phát lời nguyện: "Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành".
Diệt đế chính là đạt đến Niết bàn, đạt
đến quả vị rốt ráo thanh tịnh bất sanh
bất diệt, cho nên nói là "Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành". Chúng ta đối
với sự kiện thành Phật không cần phải
hoài nghi nữa; nhưng nếu có hoài nghi,
cũng có thể thành Phật, duy có điều chậm
một chút mà thôi. Nếu không có tâm hoài
nghi thì sẽ thành Phật sớm hơn. Tất cả
chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể
làm Phật, nhưng không thể nói: "Tất cả
chúng sanh đều là Phật". Nếu chịu tu
hành thì mới có thể thành Phật, nếu
không chịu tu hành thì tất cả chúng sanh
vẫn chỉ là chúng sanh mà thôi, không thể
thành Phật được. Làm Phật là lý, nhưng
cũng có một cái "Đạo thành Phật", với
điều kiện là phải nương theo pháp tu
hành. Nếu không nương theo pháp tu hành
thì các tâm tham, sân, si, mạn, nghi đều
không từ bỏ được, không thể nào mau
thành Phật được. Vì thế nên phải phát
bốn hoằng thệ nguyện. Chúng ta bất luận
là làm việc gì cũng cần phải phát lời
nguyện trước, rồi sau mới theo lời
nguyện mà thực hành. Có thế mới đạt đến
mục đích, hy vọng mới có thể thành tựu
được.
Nói đến đây, tôi nhớ lại một công án: Có
một lần Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mang
theo rất nhiều đệ tử đến một nước nọ để
giáo hóa chúng sanh. Người trong nước
này thấy Phật đến liền đóng cửa lại,
không có ai chịu bố thí, cũng không ai
đến cung kính chào hỏi. Phật đã đến nước
ấy rồi, không có ai ra đón rước, vì
không có duyên với các đại thần và nhơn
dân ở đó. Nhưng khi ngài Mục Kiền Liên
đến thì cả quốc vương, đại thần và nhơn
dân đều hướng về Ngài cung kính đảnh lễ,
tranh nhau đến cúng dường. Các đệ tử
Phật thấy thế, nhưng không biết tại sao,
bèn hỏi Phật: "Tại sao Phật đến nước này
không ai chịu cúng dường cả, mà Ma Ha
Mục Kiền Liên, đệ tử Phật, đi đến đây
lại được mọi người tranh nhau cúng
dường?" Phật đáp: "Đó là do nhơn duyên
đời trước".
Từ vô lượng kiếp về trước, Mục Kiền Liên
cùng Phật ở chung một chỗ, Mục Kiền Liên
lên núi đốn củi, còn Đức Phật xuống dưới
núi sửa đường và rất ghét bầy ong, mà
Mục Kiền Liên lại rất thích chúng. Đức
Phật Thích Ca lúc ấy, khi còn tu nhơn,
thường lấy khói hun đốt chúng, mà Mục
Kiền Liên lại bị chúng đốt đau nhức. Tuy
bị đau nhức, nhưng Mục Kiền Liên không
dùng lửa để hun đốt, trái lại còn phát
nguyện: "Về sau tôi đắc đạo sẽ độ trước
bầy ong có nhiều tánh A-Tu-la này". Đời
đời kiếp kiếp về sau, bày ong này biến
thành ra người trong một nước. Ong chúa
là vua, các ong thợ là dân. Ngày xưa
Phật Thích Ca nhơn vì ghét chúng, từng
dùng khói hun đốt chúng, nên bây giờ đến
nước ấy không có ai ra đón tiếp, quốc
vương, đại thần, nhơn dân cũng không
chịu cúng dường Ngài. Trái lại, Ngài Mục
Kiền Liên đã có phát nguyện sau khi đắc
đạo sẽ độ bầy ong này, cho nên đời này
gặp lại nhau thì quốc vương và nhơn dân
nước ấy tranh nhau đến cúng dường. Do
đây chúng ta biết rằng nhơn quả rất
trọng yếu, vì thế nhất định phải phát
nguyện.
|